SỬ THI VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẤP THIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN(1)
Phan Đăng Nhật*
Bản sử thi Việt Nam được công bố đầu tiên là Đăm Xăn, của dân tộc Êđê,
do Léopold Sabatier sưu tầm dòch ra tiếng Pháp và xuất bản ở Paris. Tác phẩm
này do Pierre Pasquier đề tựa ghi tháng 5-1929 và Roland Dorgelès viết giới
thiệu(2). Lúc bấy giờ, các soạn giả tin là người Tây Nguyên không thể có một sử
thi thứ hai nữa, nên đã viết: “Nhưng mỉa mai cay đắng thay, bằng chứng đầu tiên
này về văn chương của người Mọi (tên gọi miệt thò người Tây Nguyên hiện nay
không thích hợp nữa) cũng là cái cuối cùng” (Mais quelle amère dérision que ce
premier témoignage littéraire des Mois soit aussi le dernier”(3).
Bảy mươi lăm năm qua, nhiều dân tộc được phát hiện có sử thi: Mường, Thái,
Chăm. Đặc biệt sau khi thực hiện Chương trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên cấp
Nhà nước, một danh mục hàng trăm sử thi được đưa ra.
Như vậy, tình hình đã khác hẳn. Nhiều vấn đề cần đặt ra về lý luận và thực
tiễn. Bài này sẽ nêu lên một số trong các vấn đề đó.
I. TÓM TẮT ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA SỬ THI VIỆT NAM
Theo chúng tôi, Việt Nam có 2 tiểu loại sử thi: sử thi sáng thế và sử thi thiết
chế xã hội (các thuật ngữ này đang cần được thảo luận). Hai tiểu loại đó có
những điểm khác nhau, chủ yếu là về nội dung phản ánh. Tuy nhiên, chúng đều
có những đặc điểm chung:
1. Xét về mặt cơ sở xã hội ra đời, hầu hết là sử thi cổ sơ (archaic epic) và chưa có
sử thi cổ đại (antique epic)(4)
Hầu hết sử thi đều ra đời vào thời kỳ mà các dân tộc chủ nhân
chưa hình thành nhà nước. Điều này khiến cho sử thi Việt Nam khác với các sử
thi cổ đại của một số quốc gia khác như Iliade, Odisée, Mahabharata, Ramayana.
2. Xét về mặt sáng tạo và lưu truyền, sử thi Việt Nam là sử thi sống(5)
Ở nhiều vùng trên đất nước, nhân dân Việt Nam đang xướng mo, khắp
chương, kể khan, kể h’mon.
Có loại sinh hoạt sử thi không gắn với nghi lễ, như khan h’mon, hri,
otnrong.... Mo Đẻ đất đẻ nước và Ẳm ẹt luông lại được xướng trong lễ tang. Bố
* Giáo sư, Tiến só, Viện Nghiên cứu Văn hóa. Việt Nam.
11
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
mo mặc lễ phục, đội mũ cúng, tay cầm quạt lông công và chuông nhỏ. Mo được
hát kể kèm theo tiếng cồng chiêng và kèn đám ma, lời kể có chuông nhỏ giữ
nhòp. Tất cả chan hòa trong không khí linh thiêng và xúc động của lễ tang, trong
lúc quan tài với thi hài người thân mới qua đời đang đặt giữa nhà, con cháu mặc
tang phục đang khóc lóc kể lể(6).
3. Xét về đòa bàn lưu truyền và tồn tại, sử thi Việt Nam đã hình thành vùng thể
loại, tiêu biểu là vùng sử thi Tây Nguyên(7)
Ở đây có một khối lượng lớn sử thi, tồn tại với một mật độ khá dày đặc,
với những đặc điểm chung về môi trường diễn xướng và nội dung đề tài.
Môi trường diễn xướng của sử thi Tây Nguyên là môi trường văn hóa nghệ
thuật, không phải môi trường tôn giáo tín ngưỡng. Sử thi Tây Nguyên là một
hệ thống với ba đề tài chính: lấy vợ, làm lụng và đánh giặc. Trong đó trung
tâm là đánh giặc.
Những đề tài được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên chính là những thực
tế lòch sử - xã hội của các dân tộc Tây Nguyên được nghệ thuật hoá với tính hào
hùng và kỳ vó, thuộc phạm trù thẩm mỹ “cái hùng”.
Phạm trù thẩm mỹ này, lại chính là bắt nguồn từ đời sống tinh thần của người
Tây Nguyên, là niềm tin về một hiện thực huyền ảo được gọi là yang và tinh
thần hòa hợp đoàn kết, thân ái, tương trợ trong các cộng đồng người Tây Nguyên.
Tóm lại, vùng đất, con người Tây Nguyên và lòch sử Tây Nguyên đã chỉ ra
hướng giải quyết vấn đề cho đề tài sử thi Tây Nguyên; Đồng thời đã thổi vào
đây linh hồn của sử thi tính hào hùng kỳ vó. Và như vậy hình thành một vùng
sử thi Tây Nguyên có những nét riêng biệt so với sử thi vùng miền khác(8).
3. Xét về mặt cấu tạo tác phẩm, có một số sử thi phổ hệ(9)
Sử thi phổ hệ (genealogical epic, épopée généalogique) là một thuật ngữ quốc
tế dùng để chỉ những sử thi kể về nhiều thế hệ nhân vật anh hùng. Tiêu biểu
cho loại sử thi này là Manas của người Kirghis, dài hơn 1 triệu câu thơ kể về 3
thế hệ: Manas, con và cháu của ông.
Cho đến nay, có thể kết luận rằng sử thi Khinh Dú (Êđê), sử thi otnrong
(Mơnông), sử thi Đăm Duông (Xêđăng) và sử thi nrong (Stiêng) là sử thi phổ hệ
(có người gọi là sử thi liên hoàn).
Các sử thi trên lúc đầu thường được sưu tầm và coi như một sử thi đơn thể
là một tác phẩm hoàn chỉnh. Ví dụ như sử thi Mơnông được liệt kê 139 tác phẩm,
số 1 là Tiăng sinh ra, số 2: Tiăng chết,... số 139: Đại hồng thuỷ. Về sau các nhà
khoa học dần dần nhận thức ra có nhiều sử thi liên kết với nhau thành một bộ
sử thi thống nhất. Hàng trăm sử thi Mơnông có một hệ thống nhân vật thống
nhất. Từng nhân vật có đặc điểm, lòch sử và công trạng nhất quán trong toàn bộ
hàng trăm sử thi đơn thể. Họ là Lêng Kon Rung, Mbong Kon Tiăng, Sơm Kon
Phan, Sơ Kon Phan, Yang Kon Rung... Tất cả đều phục tùng người anh hùng số
12
SỬ THI VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1 là Tiăng Kon Rong. Các thần linh cũng là những nhân vật nhất quán. Lết, Mai
là thần hộ mệnh của Tiăng Kon Rong; Grông, Grăng là thần hộ mệnh của Yang;
Ôt, Ang là thần của Ndu; Nkur, Klot là của Mbong,...
Trung tâm của toàn bộ các sử thi là Bon Tiăng. Các đòa danh chung thường
gặp là: sông Rlai (Mê Kông), sông Rmứt (Cửu Long), Bon Drôn, Bon Srai (vùng
Campuchia), Bon Nhuăn (vùng Kinh),...
Tóm lại, với một hệ thống nhân vật chung, do một anh hùng đứng đầu, một
trung tâm hoạt động chung và nhiều đòa bàn chung, hàng trăm sử thi otnrong đơn
thể là cùng thuộc về một tác phẩm sử thi phổ hệ lớn của người Mơnông(10), (11).
Sử thi Đăm Duông của người Xê Đăng bước đầu phát hiện 30 tác phẩm đơn
thể, được chứng minh là thuộc về một bộ sử thi lớn cùng tên(12).
Tuy với khối lượng không lớn lắm, sử thi Khinh Dú (Êđê) là một sử thi phổ
hệ, kể về 3 thế hệ anh hùng: Khinh Dú, Trong Đăn và Đăm Thí.
Theo chúng tôi, ngoài những sử thi trên, sử thi Bana có thể cùng là một bộ
sử thi phổ hệ lấy nhân vật Diông làm trung tâm và có tên là Diông; sử thi nrong
của người Stiêng cũng có thể như vậy.
Tóm lại, sử thi phổ hệ không phải là một hiện tượng đơn lẻ và trở thành một
đặc điểm của sử thi Việt Nam, cụ thể là sử thi Tây Nguyên. Đặc điểm này liên
quan đến vấn đề được đề cập ở mục II sắp tới: Vấn đề số lượng sử thi.
II. SỐ LƯNG SỬ THI - GIẢI ĐÁP VÀ ỨNG XỬ
Ngày 14-3-2001, Chính phủ cho phép tiến hành thực hiện Dự án điều tra, sưu
tầm, bảo quản, biên dòch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên, với kinh phí
dự kiến khoảng trên 20 tỷ VND.
Năm 2002, sau khi thực hiện Dự án được một năm, Ban Điều hành ra Thông
báo báo chí về kết quả sưu tầm bước đầu là 191 tác phẩm sử thi.
Từ đó, dư luận thắc mắc về số lượng sử thi, liệu có thực là nhiều như vậy
không? Báo Lao động đăng bài của Đặng Bá Tiến “Sử thi đâu phải là củ mì”(13).
Báo Văn nghệ Công an số tháng 3 - 2004, bài của Nguyệt Hà “Chuyện của những
người đi tìm sử thi”, viết: “Con số trường ca tìm thấy trên cao nguyên được cho là
sử thi này khiến nhiều người quan tâm bò bất ngờ: 400 sử thi! Ban đầu, khi lập dự
án, số lượng dự kiến là khoảng 150, nhiều người đã kêu lên “Ở đâu ra mà nhiều
thế? Các nhà nghiên cứu cho rằng, vẫn còn khoảng 100 sử thi nữa. Con số này
khiến nhiều người đặt câu hỏi, trữ lượng sử thi Tây Nguyên liệu có nhiều đến thế?”.
Các bài báo trên đặt ra những vấn đề cần giải đáp mà sau đây là ý kiến của
chúng tôi:
1. Cảm nghó đầu tiên của một số người là có thể việc sưu tầm chưa chặt chẽ,
thu thập cả những sản phẩm không phải sử thi.
Điều này cũng có thể xảy ra. Trong thực tế, những ấn phẩm đã công bố rộng
rãi đã từng có sự lẫn lộn này. Y Ban trong tập Trường ca Tây Nguyên do Y Điêng,
13
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Y Yung, Kơxo Blêu, Ngọc Anh dòch, Nxb Văn Học, 1963 là một trường hợp tiêu
biểu. Tác phẩm này là một truyện kể về tội ác của đòa chủ đối với nông dân ở
miền xuôi được đưa lên Tây Nguyên và viết dưới dạng sử thi.
Nàng Hơbia Đơrang, Nxb Văn hóa Dân Tộc, 1987 có phụ đề là sử thi Giarai.
Thực ra đây là dạng truyện cổ có môtíp người trần lấy vợ tiên.
Đăm kteh Mlan, trường ca Êđê, Nxb Văn hóa, 1983, có hình thức ngôn từ và diễn
xướng của sử thi. Nhưng thực chất là một bản thơ ca nói về bi kòch của tình yêu chò
em con dì, mà người Êđê cho là loạn luân. Đăm kteh Mlan không phải là sử thi mặc
dầu đã gây xúc động thương tâm mạnh cho người nghe.
Sở dó có sự lẫn lộn trên là do thời gian trước đây chưa xây dựng tiêu chí của
sử thi. Trên cơ sở một nhận thức đầy đủ về thuộc tính cơ bản của sử thi, tôi đề
nghò có hội thảo về vấn đề này.
Một nhà báo đã viết: “Nội tình những người tham gia Dự án này cũng “còn
những điểm vênh nhau”. Nếu những người chủ trì Dự án không có biện pháp
nâng cao chất lượng, trình độ cho đội ngũ cán bộ tham gia sưu tầm (nhất là ở
các tỉnh), không thống nhất được những tiêu chí cụ thể trong khi làm việc thì
rồi chất lượng thực hiện Dự án sẽ không cao, sẽ xảy ra tốn kém, lãng phí tiền
bạc của Nhà nước”(14).
Kinh nghiệm là khi làm một việc lớn như Dự án sử thi Tây Nguyên, việc
thống nhất khái niệm cần đi trước một bước. Việc này ở Việt Nam đã có làm
(hội nghò Đà Lạt), nhưng chưa đi đến thống nhất. Nay cần phải tiếp tục, có thể
tiến hành nhiều lần.
Gần đây, để phục vụ cho công cuộc mở rộng sưu tầm nghiên cứu sử thi,
chúng tôi đã mạnh dạn tổng hợp sử thi trong nước và thế giới viết nên bài Thuộc
tính cơ bản của sử thi(15) và tiêu chí hóa nội dung trên, vận dụng kinh nghiệm
đã trải qua để viết bài Kinh nghiệm nhận diện sử thi(16). Mong các bài đó được
đóng góp cho công việc chung.
2. Trên đây là một biện pháp để xác đònh số lượng và cũng chính là nâng cao
chất lượng sưu tầm sử thi, biện pháp hành động. Tiếp theo là biện pháp nhận thức.
Phần trên đã nói, sử thi phổ hệ là một đặc điểm của sử thi Việt Nam, đặc
biệt là Tây Nguyên. Không ít nhà khoa học đã thống nhất ý kiến trên:
- TS. Đỗ Hồng Kỳ: “Qua điều tra khảo sát, sưu tầm hiện nay chúng ta được
biết sử thi Mơnông có khoảng trên 100 tác phẩm... Những tác phẩm này ít nhiều
liên kết với nhau theo kiểu liên hoàn”(17).
- PGS. TS. Võ Quang Trọng: “Cho đến nay, qua việc điều tra, sưu tầm, chúng
tôi đã thống kê, lập danh sách trên 30 tác phẩm sử thi của người Xê Đăng, nhóm
Tơđrá... Đó là những tác phẩm sử thi độc lập, có chủ đề riêng nhưng đều liên quan
đến nhân vật Duông. Có thể coi các sử thi tồn tại độc lập này nằm trong một bộ
sử thi lớn, sử thi liên hoàn của người Xê Đăng”(18).
- Ths. Tô Đông Hải: “Chúng tôi đã có thể khẳng đònh, Nrong là bộ sử thi liên
hoàn có khối lượng vào loại hàng đầu trong số các sử thi đã được phát hiện trên
thế giới”(19). (Theo thiển ý, chưa nên xếp vào loại hàng đầu thế giới - PĐN).
14
SỬ THI VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Người viết bài này hoàn toàn nhất trí với các đồng nghiệp và năm 1998 đã
viết bài: “Otnrong, một bộ sử thi phổ hệ đồ sộ mới được phát hiện”. Chúng tôi chỉ
khác nhau thuật ngữ: phổ hệ và liên hoàn. Điều này không lớn lắm, xin được trao
đổi sau. Từ sự thống nhất này đề nghò một cách quan niệm. Nên coi sử thi phổ
hệ (hoặc liên hoàn) gồm một tác phẩm tổng thể, một bộ sử thi, trong đó bao gồm
rất nhiều sử thi đơn thể. Như vậy, cho đến nay chúng ta có: một bộ sử thi Otnrong
- Mơnông, một bộ sử thi Đăm Duông - Xê Đăng; có thể có một bộ sử thi Dyong
- Bana. Điều này phù hợp với quan niệm thế giới về sử thi phổ hệ Manas - Kirghis.
Tóm lại, với hai cách giải quyết trên đây, chúng ta sẽ cố gắng sưu tầm được
sử thi đích thực và với số lượng hợp lý.
III. ĐƯA LẠI SỬ THI VỀ CHO CÁC DÂN TỘC GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY TRONG
ĐỜI SỐNG, TRONG SINH HOẠT(20)
Rồi đây, khi công việc của Dự án sử thi Tây Nguyên hoàn thành, chúng ta
sẽ thu thập bỏ kho lưu trữ một khối lượng khổng lồ tư liệu sử thi dưới dạng văn
bản, băng ghi âm, ghi hình, CD-ROOM, ảnh,... Chúng ta sẽ nghiên cứu, hội thảo
khoa học, xuất bản, nhân bản... trong và ngoài nước. Tất cả những công việc
trên đây đều rất cần thiết và có ý nghóa về các mặt khoa học, văn hóa, chính
trò, kinh tế, công ăn việc làm... Tuy nhiên, sẽ không trọn vẹn nếu chúng ta không
nghó đến nhân dân các dân tộc, vùng xa xôi hẻo lánh, sau khi chúng ta đã hoàn
tất việc sưu tầm khai thác vốn sử thi của họ.
Chục năm qua, hoàn cảnh có thể thay đổi, nhưng tấm lòng, ngưỡng vọng của
các dân tộc đối với sử thi của mình chưa thể đổi thay. Nhân dân sẽ sung sướng
hoan hỷ, biết ơn Đảng và Chính quyền xiết bao nếu như đồng thời với việc sưu
tầm đem đi nghiên cứu, chúng ta còn biết cách trao lại cho nhân dân kho tàng
sử thi mà từ ông bà xưa đã bao đời gìn giữ; và hơn nữa còn khơi dòng chảy sử
thi tiếp nối với thời “ông bà của ta xưa”.
Vả lại, gửi cho nhân dân gìn giữ kho báu sử thi của họ cũng có sự vững
chắc và an toàn riêng, so với một số cách bảo quản khác, và quan trọng hơn
là chúng ta đã thổi thêm sức sống cho nguồn sử thi vô tận của nhân dân.
Tóm lại, bên cạnh việc sưu tầm, bảo quản trên mặt giấy và trong kho lưu trữ,
chúng ta cần tổ chức lập lại cuộc sống thực của sử thi trong môi trường sinh hoạt
văn hoá dân gian của nhân dân(21).
Để thực hiện chủ trương trên đây, chúng tôi xin gợi ý một số biện pháp chính:
- Tặng lại nghệ nhân băng ghi âm và tư liệu thành văn về tác phẩm sử thi
mà họ đã cung cấp. Chúng tôi đã từng làm việc này, không những gia đình mà
cả cộng đồng đều rất trân trọng sản phẩm trên, hơn cả các quà tặng khác. Và
chính nó đã tạo điều kiện cho con cháu và láng giềng nghệ nhân kế truyền sử
thi, khi người thân quen của mình không còn nữa.
- Khuyến khích việc bồi dưỡng trao truyền sử thi cho thế hệ trẻ, tạo nên 3 thế
hệ biết sử thi trong một gia đình. Như vậy sử thi sẽ tồn tại và phát triển lâu dài.
Có thể lấy Quan họ (Bắc Ninh) làm điển hình. Trong lúc nhiều vùng dân ca khác
15
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
bò mai một thì Quan họ luôn phát triển và còn phát huy trên toàn quốc và thế
giới. Một trong những nguyên nhân giúp cho Quan họ phát triển lâu dài là, trong
cả vùng Quan họ, các thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu đều say sưa truyền dạy
và học tập Quan họ.
Đối với những sử thi như Khun Chương (Thái), có cả hình thức chữ viết cổ,
hát Chương, múa Chương và khóc Chương, thì việc truyền dạy cần thực hiện đầy
đủ 4 hình thức trên.
- Tổ chức thi trình diễn sử thi hằng năm vào ngày hội văn hóa của các đòa
phương, các vùng, có động viên khen thưởng. Chúng ta đã có kinh nghiệm về
việc thi cồng chiêng Tây Nguyên, có thể áp dụng cho sử thi. Tuy nhiên cần phải
phân biệt đặc điểm của 2 thể loại để có những biện pháp thích hợp.
- Lập hồ sơ khoa học cho sử thi. Kỳ họp khóa 9 lần thứ X đã thông qua Luật
di sản văn hóa, trong đó di sản văn hóa phi vật thể được quan tâm đúng mức.
Đặc biệt việc quy đònh lập hồ sơ khoa học là một chủ trương quan trọng, là một
cơ sở pháp lý tạo nên tính hiệu lực cao cho việc bảo vệ và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể mà ở đây chúng ta đang bàn đến là sử thi.
- Đăng ký kiệt tác của nhân loại về di sản truyền miệng và phi vật thể. Tại
các cuộc họp vào các năm 1997, 1998, UNESCO đã ban hành, tuyên bố và hướng
dẫn việc đăng ký kiệt tác của nhân loại về di sản truyền miệng và phi vật thể.
Sử thi của các dân tộc nước ta xứng đáng được đưa vào danh sách các kiệt tác
trên. Chúng ta cần kòp thời tiến hành các thủ tục đăng ký(22).
IV. PHỐI HP VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á SƯU TẦM NGHIÊN CỨU
SỬ THI(23)
Ở Việt Nam có dân tộc Việt và 53 tộc người thiểu số. Họ thuộc các ngữ hệ
Việt - Mường, Tày - Thái, Tạng Miến, Nam Á, Nam Đảo. Với các ngữ hệ khác
nhau trên đây, người Việt Nam có mối quan hệ về văn hóa rộng rãi đến nhiều
dân tộc trên thế giới. Sử thi là một sản phẩm tinh thần quan trọng của các nền
văn hóa. Do đó, sử thi các dân tộc Việt Nam cũng có mối quan hệ vượt ra ngoài
biên giới của quốc gia.
Cho đến nay, chúng ta đã biết có những mối quan hệ sau:
1. Quan hệt Việt - Ấn
Cách đây khoảng 5 thế kỷ, sử thi Ấn Độ Ramayana được các nhà nho ghi
tóm tắt vào cuốn sách sưu tập truyện thần kỳ ở Việt Nam. Sách này có tên là
Lónh Nam chích quái (lượm lặt những truyện thần kỳ ở đất Lónh Nam). Trong sách
có Truyện Dạ Thoa vương hoặc là Truyện Chiêm Thành chính là Ramayana được
thu gọn.
Từ Chiêm Thành (bây giờ là Chăm), Ramayana được truyền sang Việt Nam
với bản tóm tắt có tên Truyện Dạ Thoa vương kể trên. Đây là một hiện tượng
đẹp chứng tỏ sự giao lưu văn hóa lâu đời giữa Việt Nam và Ấn Độ(24).
16
SỬ THI VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2. Quan hệ Việt Nam - Malayxia
“Đêwa Mưnô đã được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, luôn luôn
được đánh giá cao và được người Chăm liên tục chép lại”(25).
“Người Chăm say Đêwa Mưnô, nói Đêwa Mưnô, phân tích Đêwa Mưnô và
ngâm Đêwa Mưnô với một giọng ngâm đặc chất Đêwa Mưnô”(26). Tác phẩm này
ban đầu không xuất hiện ở đất nước Champa mà vốn sinh ra từ Malayxia rồi lưu
truyền đến vùng Champa vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII (theo G.Moussay).
Nhà nghiên cứu này đã làm một sự so sánh khá tỉ mỉ giữa văn bản Đêwa Mưnô
ở Champa và văn bản Dêwa Mandu ở Malayxia để rút ra kết luận trên(27).
3. Quan hệ Việt - Lào, Việt - Thái Lan
Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam có sử thi nổi tiếng Chương Han(28).
Ở Lào và Thái Lan có bản sử thi Thạo Hùng - Thạo Chương có nội dung gần
với Chương Han. Thạo Hùng - Thạo Chương gần gũi với Chương Han về nhiều mặt:
Các nhân vật chính: Chương Han và Thạo Hùng - Thạo Chương, Eng Ka, Phạ
Huồn, Ngọm Muôn là những tên cùng có trong hai tác phẩm; Tao Quạ - Thạo
Quà, An Khái - Am Khai, Hun Văng - Hun Băng, Ải Quang - Ải Khoàng, Ngân
Giang - Ngơn Nhang, Tum Hoàng - Tum Vàng là cùng một nhân vật mà tên phát
âm chệch đi do sự biến âm của tiếng Thái ở các đòa phương khác nhau.
Chủ đề và nội dung chính đều là những cuộc chiến tranh của các nhân vật
anh hùng. Trận đòa được diễn ra ở trần gian. Ở đây, Chương Han - Thạo Chương
đánh thắng gần hết các kẻ thù, cuối cùng bò thua Ma Mèn một mắt và lên trời
chiến thắng rồi ngự trò ở mường Trời(29).
Có thể nói, Chương Han và Thạo Hùng - Thạo Chương là hai sử thi cùng
có một nguồn gốc và cùng ra đời từ một nền văn hoá: nền văn hoá Thái. Võ
Quang Nhơn có nhận xét tương tự như vậy: “Truyện Chương Han vốn là một
truyền thuyết lòch sử đã được các nghệ nhân Lào và Thái tiếp thu”(30).
4. Quan hệ Việt - Trung
Các sử thi lưu truyền ở các dân tộc thiểu số miền Nam Trung Quốc như Lang
Chính bắn mặt trời, Đặc Lộc bắn mặt trời, Đính Lạc, Mật lạc đà, Khai thiên lập
đòa ca... có liên quan chặt chẽ với sử thi Đẻ đất đẻ nước (Mường - Việt) và Ẳm
ệt luông (Thái).
Các sử thi này được lưu truyền ở đòa bàn mà xưa kia thuộc về vùng văn hóa
Bách Việt(31).
Tóm lại, sử thi với giá trò là tác phẩm hàng đầu của văn hoá dân gian, vừa
là giá trò tiêu biểu của nền văn hoá các quốc gia, vừa là mối dây liên kết chặt
chẽ các nền văn hoá này. Mối quan hệ trên có được là do cùng cội nguồn hoặc
có sự giao lưu văn hoá lâu đời giữa các dân tộc. Rất cần có sự phối hợp sưu tầm,
nghiên cứu sử thi giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á(32).
17
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
CHÚ THÍCH
1. Trong Hội thảo này, tôi có đóng góp vào hai báo cáo khoa học:
- Bài “Ritual transformations around a spirit medium in the northern highlands of Vietnam”. Bài này PGS.
TS. Oscar Salemink là chủ.
- Bài “Sử thi Việt Nam - một số vấn đề cấp thiết về lý luận và thực tiễn”. Bài này tôi là chủ.
2. La chanson de Dam San, Légende radé du XVIe siècle, receuillie et transcrite en Français par M. Léopold
Sabatier, Le Blanc et Trautman, édilèurs, Paris, 1927.
3. Bài tựa: Bài ca cuối cùng của người Mọi, của Roland Dorgelès, trong sách La chanson de Dam San, vừa
dẫn tr. 9.
4. Xem: Phan Đăng Nhật, Sử thi Êđê, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
5. Xem: Phan Đăng Nhật:
+ Sử thi Việt Nam trong mối quan hệ với sử thi nước ngoài, Việt Nam học, Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ
nhất, Hà Nội, 1998, tập 2. Nxb Thế giới, 2000, tr.356.
+ Des épopées toujours vivantes, Oscas Salemink, Directeur de la publicationDiversité culturelle au Vietnam,
Edilions UNESCO, 2001.
6. Xem: Ngô Đức Thònh, Sử thi Tây Nguyên phát hiện và các vấn đề, Tạp chí Văn hoá Dân gian số 4, 2002, tr.13.
7. Xem: Phan Đăng Nhật, Đề tài cấp Bộ Vùng sử thi Tây Nguyên, bắt đầu tháng 8 năm 1995, kết thúc tháng
8 năm 1998, sách Vùng sử thi Tây Nguyên ra đời 1999, Nxb Khoa học Xã hội.
8. Xem: Ngô Đức Thònh, Sử thi Tây Nguyên, phát hiện và các vấn đề, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4,
2002, tr.13.
9. Phan Đăng Nhật, Otnrong, một bộ sử thi phổ hệ Mơnông đồ sộ mới được phát hiện, Tạp chí Văn hoá Dân
gian, số 3, 1998.
10. Xem thêm: Đỗ Hồng Kỳ, Sử thi của người Mơnông, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002, tr.19.
11. Tô Đông Hải. Những phát hiện mới xung quanh sử thi Nrong, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002, tr.
12. Võ Quang Trọng. “Đăm Duông” - bộ sử thi liên hoàn của người Xê Đăng, Tạp chí Văn hoá Dân gian,
số 4, 2002.
13. Đặng Bá Tiến. Sử thi đâu phải củ mì, Báo Lao động, số 206, ngày 10-5-2003.
14. Đặng Bá Tiến. Bài đã dẫn.
15. Phan Đăng Nhật. Thuộc tính cơ bản của sử thi, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 5, 2003, tr.3-23.
16. Phan Đăng Nhật, Báo cáo tại hội nghò tổng kết dự án sử thi Tây Nguyên, năm 2003, tại Pleiku.
17. Đỗ Hồng Kỳ, Sử thi của người Mơnông, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002, tr.19.
18. Võ Quang Trọng, “Đăm Duông” - bộ sử thi liên hoàn của người Xê Đăng, Tạp chí Văn hoá Dân gian,
số 4, 2003, tr.17.
19. Tô Đông Hải, Những phát hiện mới xung quanh sử thi Nrong, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002.
20. Phan Đăng Nhật:
+ Sử thi Việt Nam, một giá trò văn hoá đặc sắc. Tạp chí Cộng sản, số 8 năm 1999, tr.39-43.
+ Cần lập lại sinh hoạt văn hoá phi vật thể trong sử thi. Tạp chí Di sản Văn hoá, số 5, 2003.
21. Ngô Đức Thònh, Sử thi Tây Nguyên - phát hiện và các vấn đề, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002.
22. Phan Đăng Nhật, Des épopées toujours vivantes, Diversité culturelle au Vietnam, Oscar Salemenk,
Directeur de la publication, Editions UNESCO, 2001.
23. Phan Đăng Nhật, Sử thi Việt Nam trong mối quan hệ với sử thi nước ngoài, Việt Nam học, Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, 1998, Nxb Thế giới, 2000, tr.356.
24. Xem: Phan Đăng Nhật, Sử thi Ramayana có ở Việt Nam cách đây khoảng 5 thế kỷ, Tạp chí Khoa học,
Tp. Hồ Chí Minh, số 32 quý II, 1997, tr.62, 63.
25. G.Moussay, Akayet Dêwa Mưnô. Trường Viễn Đông bác cổ Pháp, Kuala, 1989, tr.25 (tiếng Pháp).
26. Inrasara, Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển, tập I. Nxb Văn hoá Dân tộc, 1994, tr.114.
27. G.Moussay, sách đã dẫn.
28. Phan Đăng Nhật, Nguyễn Ngọc Tuấn (đồng chủ biên). Chương Han - sử thi Thái, Nxb Khoa học Xã
hội, H, 2003.
29. Phan Đăng Nhật, Mối quan hệ giữa sử thi Chương Han và sử thi Thạo Hùng - Thạo Chương. Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 2003.
30. Võ Quang Nhơn, Văn hoá dân gian các dân tộc ít người Việt Nam. Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, 1983, tr.373.
31. Nông Quán Phẩm, Luận tập văn hoá dân tộc, Nxb Giáo dục Quảng Tây, 1993.
32. Ngô Đức Thònh, Sử thi Tây Nguyên - phát hiện và các vấn đề, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 4, 2002.
18
VỀ CẤU TRÚC – TỔNG THỂ
CỦA LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
Nguyễn Đình Chú*
I. Đây là vấn đề cơ bản và có ý nghóa phương pháp luận, bởi nhận thức bất
cứ sự vật, hiện tượng nào, trước hết vẫn phải bắt đầu từ nhận thức cấu trúc tổng
thể để từ đó đi dần vào việc nhận thức các bộ phân của nó. Tựa như khi đến
một thành phố mới lạ thì điều cần thiết nhất là phải có một bản đồ để biết
những đại lộ trước khi đi vào các khu phố. Công tác văn học sử cũng vậy,dù
là phải tiến hành song song hai yêu cầu nhận thức, khám phá vừa về bộ phận
vừa về cấu trúc – tổng thể, nhưng vẫn phải lấy nhận thức cấu trúc tổng thể để
chỉ đạo việc nhận thức bộ phận. Riêng với người tiếp nhận thì lại cần bắt đầu
từ việc nhận thức cấu trúc tổng thể mà đi đến nhận thức bộ phận. Việc các
công trình văn học sử đều bắt đầu bằng bài Đại cương hoặc khái quát về lòch
sử văn học chính là nhằm đáp ứng yêu cầu đó của người tiếp nhận. Chỉ có điều
là cách viết đại cương trong đó có việc nhìn nhận cấu trúc tổng thể nhìn chung
còn quá đơn giản, chưa đủ hình dung được độ phong phú bề thế của kho tàng
văn học dân tộc.
II. Cần có một cách nhìn mới về cấu trúc tổng thể của lòch sử văn học Việt
Nam. Cách nhìn cũ bò han chế là bởi nó chỉ nhìn trên một bình diện là phương
thức tồn tại của văn học bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian truyền miệng
và văn học viết mà với hầu hết các công trình văn học sử ra đời trong một thời
gian khá dài lại đã chỉ nói về văn học người Kinh. Cách nhìn mới là cách nhìn,
ngoài phương thức tồn tại (truyền miệng và thành văn) còn là như sau:
1. Lòch sử văn học Việt Nam là sản phẩm của một quốc gia gồm 54 dân tộc
cùng chung sống trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số. Do đó, trong cấu trúc
- tổng thể của lòch sử văn học Việt Nam, ngoài văn học của người Kinh đáng
được coi là chủ thể, còn có văn học của các dân tộc ít người.
Văn học dân tộc ít người được nói ở đây chủ yếu là thuộc văn học truyền
miệng truyền thống. Không phải dân tộc ít người nào cũng có thành tưụ văn
học lớn. Nhưng có một số dân tộc đã có những thành tựu rất qui mô và độc
đáo. Ví như: các dân tộc Tây nguyên có thể loại trường ca sử thi, theo con số
được công bố gần đây trên vô tuyến truyền hình Việt Nam là tới 500 bản, ngoài
các tác phẩm đã được dòch phổ biến trước đây như Đăm săn, Xinh nhã... sắp
tới sẽ dòch in 27 tác phẩm nữa. Đó là một hiện tượng hiếm có trong khu vực
* Giáo sư, Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Việt Nam.
19
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
đã đành mà còn là trên thế giới. Dân tộc Mường ở Thanh Hóa và Hòa Bình có
thể loại mo trước đây do quan niệm ấu tró chỉ coi đó là văn nghi lễ, không phải
là văn học, nay với quan niệm đúng đắn thì chính đó là một thể loại phôncờlo ra đời trên cơ sở hợp lưu giữa tín ngưỡng dân gian với văn học dân gian.
Tiêu biểu là mo Đẻ đất đẻ nước, bản đươc ghi nhiều nhất gồm 8503 câu. Các
dân tộc ít người ở Tây Bắc và Việt Bắc có thể loại truyện thơ, tiểu biểu như:
Xóng chụ xôn xao (Tiễn dặn người yêu), Ăm ệt luông, Vượt biển, Tiếng hát làm
dâu, Nam kim - Thi đan....
Sức hấp dẫn của những tác phẩm vừa kể trên đây thuộc văn học dân tộc ít
người là xuất phát từ một kiểu tư duy có phẩm chất nghệ thuật cao siêu trong
đó bao gồm một khả năng tưởng tượng và môt khả năng liên tưởng phi thường,
từ đó mà có những hình tượng nghệ thuật hoành tráng mang tính chất huyền
thoại ít thấy trong văn học người Kinh. Cứ so sánh hình tượng mặt trời trong văn
học người Kinh với hình tượng mặt trời trong trường ca Đăm săn đã thành nữ
thần để Đăm săn đi bắt làm vợ, với hình tượng mặt trời trong Tiễn dặn người
yêu; cứ so sánh hình tượng cơn mưa trong thơ Lưu Trọng Lư, thơ Tố Hữu... với
hình tượng cơn mưa trong mo Đẻ đất đẻ nước; chúng ta thấy rõ sự khác nhau về
hình tượng cũng là sự khác nhau về tư duy nghệ thuật.
Để hiểu rõ hơn giá trò nghệ thuật độc đáo của văn học dân tộc ít người, cần
nhận thức hai qui luật quan trọng sau đây:
a) Qui luật phát triển không đồng đều giữa kinh tế xã hội văn hoá văn minh
với văn học nghệ thuật. Các dân tộc ít người rõ ràng về đời sống kinh tế xã
hội văn hóa văn minh thấp hơn nhiều lần so với người dân ở các đô thò miền
xuôi nhưng họ có những sản phẩm văn học độc đáo, có dân ca hấp dẫn mà ở
các đô thò miền xuôi không có. Tất nhiên không thể tuyệt đối hoá qui luât này.
b) Qui luật về cơ sở kết tinh của nghệ thuật: có nhiều cơ sở cho sự kết tinh nghệ
thuật ví như lý tưởng xã hội cao đẹp, lòng nhân ái bao la, quan điểm nghệ thuật
chân chính, tài năng trác lạc... nhưng không thể quên sự hồn nhiên của người
nghệ só, điều mà Karl Mark đã nói đến trong khi bàn về nguồn gốc giá trò của
thần thoại Hy Lạp: sự hồn nhiên trong tuổi thơ một đi không trở lại của nhân
loại. Rõ ràng các dân tộc thiểu số, xét trên nhiều phương diện của cuộc sống
đều thấp hơn nhiều so với dân tộc Kinh, nhưng riêng về độ hồn nhiên của tâm
hồn nhờ có cuộc sống gần gũi với đất trời sông núi, với cây cỏ, chim muông, thì
chắc chắn là dân tộc Kinh khó bằng. Nói văn học dân tộc ít người kết tinh từ
sự hồn nhiên để có kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo dẫn đến thành tựu văn học
hấp dẫn chính là căn cứ vào qui luật đó.
2. Trên bình diện chữ viết (văn tự): theo các công trình văn học sử hiện có
thì lòch sử văn học Việt Nam cho đến nay đã được viết bằng ba hình thức văn
tự: chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Nhưng còn phải nói thêm một số vấn đề
như sau:
a) Ở Việt Nam, trước khi có chữ Hán đã có hình thức chữ viết nào khác chưa?
Nếu đã có thì có một thứ văn học nào gắn với hình thức chữ viết đó không? Quả
là trong cuốn Thanh Hóa quan phong của Vương Duy Trinh in năm 1905, tác giả
20
VỀ CẤU TRÚC - TỔNG THỂ CỦA LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
có công bố một văn bản chữ viết sưu tầm được ở thượng du tỉnh Thanh và cho
là chữ viết của người Việt cổ. Sau đó, đến năm 1942, trong sách Việt nam cổ văn
học sử, Nguyễn Đổng Chi cũng cho đó là chữ viết cổ nhất của dân tộc. Tiếp nữa,
vào khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ XX, hai ông Bùi Văn Nguyên, Lê Trọng
Khánh cũng nói đến chữ viết thời Hùng Vương. Có thể nói những tìm tòi trên đây
chưa đủ cho một kết luận rằng dân tộc đã có chữ viết thực sự trước khi sử dụng
chữ Hán của Trung Hoa để sáng tác văn học. Hoặc giả cứ cho đó là chữ viết của
dân tộc đi thì vẫn chưa có văn học nào của thứ chữ viết đó.
b) Vấn đề đáng nói là ngoài văn học được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và
chữ Quốc ngữ, còn có văn học viết bằng chữ Pháp, chữ Anh của người Việt
Nam hoặc ở trong nước hoặc ở ngoài nước. Ví như về tiếng Pháp, đã có những
tên tuổi như Nguyễn Văn Vónh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến
Lãng, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Đức Bính, Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc
Viện, Phạm Văn Ký... đặc biệt Nguyễn Ái Quốc với những tác phẩm sáng giá
đã được khoa văn học sử đón nhận nồng nhiệt. Nhưng vấn đề đặt ra là với
những trường hợp khác thì sao? Quả đây còn là món nợ mà khoa văn học sử
Việt Nam còn phải trả. Cần thấy thêm rằng đây là hiện tượng văn học thuộc
sản phẩm của thời hiện đại một khi qui luật giao lưu văn hóa mang tính chất
toàn cầu đã là hiện thực. Cứ xem tình hình văn học của nhiều nước trong khu
vực sẽ thấy đa ngữ là hiện tượng mang tính qui luật phổ biến. Đã đến lúc khoa
văn học sử Việt Nam không thể để ra ngoài loại văn học của người Việt viết
bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh dù ở trong nước hay ở ngoài nước miễn là thể
hiện phẩm chất, tâm hồn Việt Nam và có giá trò nghệ thuật. Cần nói thêm: qui
luật của văn hóa trong đó có văn học liên quan đến qui luật của đòa lý chính
trò nhưng không đồng nhất với chúng. Cách chúng ta đã đối xử với văn học chữ
Hán cũng là vậy chứ khác gì.
3. Những bộ phận văn học chưa được khám phá đầy đủ hoặc còn bò bỏ ngoài
đối tượng nghiên cứu. Đó là:
a) Những mầm mống văn học viết ở thời Bắc thuộc: Nguyễn Đổng Chi trong
Việt Nam cổ văn học sử đã nói đến văn học từ thời Só Nhiếp (?-226). Nghiêm
Toản trong Việt nam văn học sử trích yếu cũng cho rằng văn học Việt Nam có từ
thế kỷ II. Nhưng cả hai ông chưa có tư liệu gì đáng kể về văn học thời Bắc thuộc
đó. Có lẽ vì thế mà các công trình văn học sử về sau đều cho rằng văn học viết
Việt Nam chỉ ra đời từ thế kỷ XIII, hoặc XI, hoặc X. Trong khi đó thì một số nhà
nghiên cứu lòch sử Phật giáo Việt Nam đã nói đến Phật giáo Việt Nam ở thời Bắc
thuộc từ thế kỷ thứ II trở đi trên cơ sở nhiều tư liệu văn học Phật giáo mà họ
phát hiện được. Đọc một số công trình của nhà nghiên cứu Phât học Lê Mạnh
Thát như: Sơ thảo lòch sử Phật giáo Việt Nam tập I (in ronéo, tu thư Phật học Vạn
Hạnh,thành phố HCM,1976), Nghiên cứu về Mâu tử (tâp I, II, tu thư Phật học Vạn
Hạnh, 1982), Khương Tăng Hội toàn tập (I và II, tu thư Phật học Vạn Hạnh,
1994), chúng ta sẽ được cung cấp một lượng thư tòch so vơí trước phong phú hơn
rõ rệt. Mà ở đây nói văn học Phật giáo cũng là nói văn học Việt Nam. Trong
công cuộc tìm kiếm lại những mầm mống văn học thời Bắc thuộc, cần ghi thêm
công của nhà nghiên cứu Trần Nghóa qua hai bài viết “Một số tác phẩm mới phát
21
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
hiện có liên quan tới dòng văn học viết bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc
thuộc” (Tạp chí Văn học số 4-1975), “Sáu bức thư hay cuộc tranh luận sôi nổi
giữa Đạo Cao Pháp Minh với Lý Miễu về việc không thấy chân hình của Phật”
(Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1995). Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật
giáo thời Lý Trần: diện mạo và đặc điểm (Nhà xuất bản ĐHQG thành phố HCM,
2003) qua tiểu mục “Vài nét về diễn trình và đặc điểm của văn học Phật giáo ở
Giao Châu trước thời đại Lý Trần” cũng đã cho người đọc thấy khá đầy đủ hệ
thống thư tòch thuộc văn học Phật giáo và như đã nói cũng là văn học Việt Nam
thời Bắc thuộc. Hy vọng trong công trình văn học sử mà viện Văn Học đang trên
đường tổ chức biên soạn sẽ quan tâm tới bộ phận mầm mống này để người đọc
thấy rõ thêm diện mạo cấu trúc - tổng thể của lòch sử văn học dân tộc.
b) Nền văn học chữ Hán của chúng ta quả thật là rất phong phú. Từ đầu thế
kỷ XX, đặc biệt từ hạ bán thế kỷ XX đến nay, công tác sưu tầm dòch thuật đã
có những thành tựu rất đáng kể.Tuy nhiên so với những gì nó có thì vẫn là một
khoảng cách không nhỏ. Còn rất nhiều tác gia tác phẩm chữ Hán vẫn nằm yên
trong thư viện Hán Nôm, đặc biệt là với các tác gia triều Nguyễn. Nhìn lại những
gì đã đươc dòch đối với văn thơ Cao Bá Quát, Miên Thẩm Tùng Thiện vương,
Tuy Lý vương, Nguyễn Văn Siêu, Mai Am nữ só, Huệ Phố nữ só... mấy vò vua Minh
Mạng, Thiệu Trò, Tự Đức và nhiều tác giả khác nữa, hẳn là chúng ta không khỏi
sốt ruột. Đúng là công tác nghiên cứu văn học nói chung, khoa văn học sử nói
riêng đang còn nợ nhiều với bộ phận văn học chữ Hán mà xem ra khả năng
thanh toán còn quá chậm chạp.
c) Với văn học ở miền Nam sau 1954 trước 1975: không ai có thể chối cãi
được rằng ở miền Nam, đặc biệt ở một số thành phố, nhất là Sài Gòn trong
thời gian này đã tồn tại một nền văn học. Chưa nói về chất lượng của nó là
gì. Riêng về số lượng, chắc gì nó đã thua nền văn học miền Bắc. Vậy mà công
việc nghiên cứu đã có với nó như thế nào? Quả là trong thời chống Mỹ, xuất
phát từ yêu cầu chống lại nền văn hóa thực dân mới, chúng ta đã tổ chức việc
nghiên cứu văn học đô thò miền Nam. Đó là việc làm cần thiết nhưng về cơ
bản chưa phải là việc làm của nhà văn học sử.
Thiết tưởng đã đến lúc phải đặt vấn đề nghiên cứu bộ phận văn học này
một cách công phu, thấu đáo, khách quan, công bằng để với những gì là rác
rưởi thì quét sạch nó đi nhưng những gì là nhân bản, là văn học đích thực
thì phải sớm thu gom về cho kho tàng văn học dân tộc. Chúng ta tin rằng
trong thế giới văn chương ở miền Nam sau 1954 trước 1975, không phải cái
gì cũng thuộc văn hóa thực dân mới. Quá trình và cũng là kinh nghiệm đánh
giá văn học công khai hợp pháp thời kỳ trước 1945 hẳn sẽ giúp các nhà
nghiên cứu nhiều điều bổ ích. Đất nước đang thiết tha củng cố khối đoàn kết
toàn dân phất cao ngọn cờ hòa hợp dân tộc. Khẩn trương nghiên cứu đánh
giá chính xác công bằng đối với nền văn học miền Nam thời kỳ 1954-I975 sẽ
góp phần tích cực thực hiện mục tiêu chính trò xã hội đó. Cần ghi thêm một
sự thật: trên thò trường sách báo gần đây, không ít sách của miền Nam thời
kỳ 1954-1975 đã được tái bản và có độc giả. Chả nhẽ các nhà văn học sử lại
thờ ơ trước sự thật đó sao?
22
VỀ CẤU TRÚC - TỔNG THỂ CỦA LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
d) Với văn học hải ngoại: cũng có một sự thật là từ giữa thế kỷ XX, đặc
biệt từ sau 1975, vì hoàn cảnh này nọ, có nhiều người Việt phải ra sinh sống
ở nước ngoài và trong số đó, không ít người vẫn không rời bỏ nghiệp văn
chương thơ phú. Do đó mà có thứ văn học từng được đặt tên là văn học hải
ngoại. Vậy mà chúng ta đã đối xử với nó như thế nào? Xin được nói thật là
chưa thoả đáng. Hình như đâu đó đã có khuynh hướng cho rằng cái gọi là văn
học hải ngoại chỉ là thứ quái thai mượn văn chương để chống phá tổ quốc của
những thế lực phản động sau 1975 trốn ra nước ngoài mà không chòu từ bỏ
hận thù với cách mạng. Quả có thứ quái thai đó mà những người chân chính
không ai không công phẫn. Mà phải nói ngay rằng cái thứ đó không đáng gọi
là văn chương. Nhưng vấn đề là trong cái gọi là văn chương hải ngoại, đâu chỉ
có thứ quái thai. Không chừng phần lớn lại thuộc về những tiếng nói đáng q,
đáng thương, đáng trân trọng, đáng thu gom về cho kho tàng văn học dân tộc.
Đó là những trang văn trang thơ cất lên từ nỗi nhớ nước nhớ nhà nhớ quê cha
đất tổ, nhớ tình xưa nghóa cũ nơi chôn rau cắt rốn, nơi mô mả tổ tiên ông bà
mình còn đó... gọi chung là nỗi đau xa xứ, nỗi đau ly hương. Và bên cạnh cái
chủ đề gần như là chính đó còn có bao nhiều điều thuộc về đời sống tinh thần,
tình cảm của những người xa xứ. Chúng ta những người được hưởng hạnh phúc
sống trên đất nước quê hương nỡ lòng nào quên những người xa nước. Mà cái
gọi là văn học hải ngoại đâu chỉ là chuyện của đời nay. Chỉ nói tới mấy chút
văn phẩm của Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ từ thời Bắc thuộc một khi
các vò đó cũng rời đất nước sang học hành làm quan bên nước Tàu và làm thơ
mà ngày nay nhiều công trình văn học sử vẫn nhắc đến. Rồi cả văn thơ của
Phan Bội Châu cũng như các chí só cách mạng đầu thế kỷ XX viết trên đất
Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan cũng như của Nguyễn Ái Quốc viết trên đất
Pháp thực tế cũng là văn học hải ngoại mà chúng ta đã đón nhận nồng nhiệt
thì không lý do gì lại để ra ngoài những trường hợp khác. Vấn đề là có giá trò
hay không thôi. Chính sách Việt kiều của nhà nước ta đang được ngày một
kiện toàn. Đặc biệt chỉ thò của Bộ chính trò của Đảng Cộng sản Việt Nam gần
đây về công tác Việt kiều đã thể hiện một tinh thần rất cởi mở hẳn sẽ tạo
thuận lợi cho việc nghiên cứu văn học hải ngoại. Nếu làm tốt được việc này
sẽ có nhiều điều lợi trong đó có sự làm giàu thêm kho tàng văn học Việt Nam.
*
*
*
Dân tộc Việt Nam có một kho tàng văn học nghệ thuật lâu đời bao gồm âm
nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc... và văn học. Nhưng phải nói rằng trước thời
đại cách mạng, văn học vẫn là hình thức nghệ thuật có thành tựu nổi trội hơn
hẳn so với các ngành nghệ thuật khác. Điều này hoàn toàn có thể giải thích
được. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao để tái hiện làm sống lại đầy đủ
kho báu văn học đó. Vấn đề cấu trúc - tổng thể được nêu lên như trên chính là
góp phần tạo thêm cơ sở cho việc nhận thức đầy đủ hơn về kho báu đó.
23
THƠ NÔM CHÚA TRỊNH VÀ VĂN HÓA
XÃ HỘI THỜI LÊ TRỊNH XVII - XVIII
Đinh Khắc Thuân*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nói đến chúa Trònh là nói đến thời kỳ nhà Trònh lập ra phủ chúa bên cạnh
triều đình nhà Lê để cai quản đất nước. Thời kỳ đó được gọi là thời Lê Trònh thế
kỷ XVII-XVIII, đặc biệt là dưới thời chúa Trònh Căn (1682-1709) và Trònh Cương
(1709-1729), thời kỳ hưng trò nhất của nhà Trònh. Thời gian này tương đương niên
hiệu Chính Hòa (1680-1705) của vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vónh Thònh (17051719) và Bảo Thái (1720-1729) của vua Lê Dụ Tông.
Lòch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII là thời kỳ phát
triển rực rỡ nhất về nghệ thuật và văn học dân gian, trong đó có sự đóng góp đáng
kể của những sáng tác văn học bằng chữ Nôm. Chính Trònh Căn và Trònh Cương
là những vò chúa tài hoa thích thơ phú, từng sáng tác rất nhiều thơ Nôm. Tuy nhiên,
những sáng tác của các chúa Trònh hầu như chưa được giới thiệu, nghiên cứu; nếu
có thì thường được gán cho vua Lê, bởi phần lớn lạc khoản của các bài thơ đó đều
mang niên hiệu nhà Lê. Mặt khác, nội dung những tác phẩm Nôm này phản ánh
nhiều mặt về xã hội thời Lê Trònh cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, mà cụ thể là
những nét đặc sắc về cuộc sống thăng bình, thònh trò của đất nước; qua đó cho
thấy vai trò của chúa Trònh trong việc phát triển văn hóa dân tộc.
II. NGUỒN TƯ LIỆU
Nguồn tư liệu về các tác phẩm thơ Nôm chúa Trònh, mà trước hết là của Trònh
Căn và Trònh Cương, hiện nằm trong một số sách gia phả họ Trònh và các đại
tộc khác, ở sưu tập sách Hán Nôm và đặc biệt là được lưu lại trên bia đá, biển
gỗ ở các danh tích. Chúng tôi giới thiệu một số sáng tác chữ Nôm của Trònh Căn
và Trònh Cương hiện thấy khắc trên biển gỗ và được chép chung trong một số
sách Hán Nôm khác.
1. Thơ Nôm chúa Trònh được khắc trên biển gỗ
Hiện biết 2 bài thơ Nôm của Trònh Căn khắc trên biển gỗ (một bài khắc trên
biển gỗ treo tại nhà Thái học Văn miếu Hà Nội đề năm Ất Hợi quý đông, một
bài khắc trên biển gỗ chùa Đậu, tức chùa Pháp Vũ, xã Gia Phúc, huyện Thường
Tín, tỉnh Hà Tây có ghi niên đại là Chính Hòa Mậu Dần 1698); và 2 bài của
* Tiến só, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Việt Nam.
24
THƠ NÔM CHÚ TRỊNH VÀ VĂN HÓA XÃ HỘI THỜI LÊ TRỊNH XVII - XVIII
Trònh Cương (một bài cũng khắc trên chùa Pháp Vũ, xã Gia Phúc, huyện Thường
Tín, tỉnh Hà Tây có niên đại là Vónh Thònh 14: 1718(1), một bài khác khắc trên
biển gỗ chùa Nhạc Lâm, xã Tiên Lữ, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây có niên đại
là Vónh Thònh 13: 1717)(2).
Các bài thơ trên không ghi tên tác giả, mà chỉ ghi niên đại. Các niên đại này
đều thuộc vào đời vua Lê Hy Tông (1676-1680) và Lê Dụ Tông (1705-1729) cùng
thời với chúa Trònh Căn và Trònh Cương. Bài thơ ở chùa Đậu đề năm Vónh Thònh
14 (1718) được ghi rõ là thơ Ngự đề. Chữ Ngự đề thời Lê Trònh không chỉ dùng
riêng cho vua Lê mà cả cho chúa Trònh nữa. Thực tế không thấy tài liệu thư tòch
ghi chép về việc vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông làm thơ Nôm, trong khi đó lại
có không ít tư liệu thư tòch cho biết chúa Trònh Căn và Trònh Cương đã làm khá
nhiều thơ Nôm và từng được người đời khâm phục, ngợi khen. Hơn nữa, bài thơ
đề năm Vónh Thònh 14 (1718) không thể là thơ của vua Lê Dụ Tông được bởi
năm này nhà Lê làm lễ đại tường (lễ giỗ hết) cho vua cha là Lê Hy Tông, nên
khó có chuyện nhà vua đi du ngoạn đề thơ.
Tài liệu thư tòch cho biết Trònh Cương không chỉ thường làm thơ Nôm đề tặng
ở các danh tích, mà còn để thù tạc, như 2 bài thơ Nôm thù tạc khác cũng đề tặng
năm 1718 được chép trong Lòch triều tạp kỷ: một bài tặng sứ thần là Bồi tụng
Nguyễn Công Hãng (1680-1730) và Phụng Thiên phủ doãn Nguyễn Bá Tông (?) đi
sứ nhà Thanh về, một bài khác tặng Đặng Đình Tướng (1649-1736) khi viên quan
họ Đặng này xin trí só(3). Do vậy, hai bài thơ Nôm đề ở chùa Đậu và chùa Nhạc
Lâm nêu trên hoàn toàn là của Trònh Cương, chứ không phải của vua Lê Dụ Tông.
Bài thơ đề ở Văn miếu cũng thấy chép trong tập thơ Nôm chúa Trònh Khâm
đònh thăng bình bách vònh tập. Tài liệu thư tòch cho biết “tháng 10 mùa đông năm
Giáp Tuất (1694) Trònh Căn đến nhà Thái học, làm lễ bái yết Tiên Thánh, chính
nhà Chúa làm bài thơ ca tụng đạo đức của Thánh nhân, khắc vào bia dựng ở nhà
Thái học”(4). Bài thơ Nôm ở nhà Thái học hiện nay có lời tựa viết bằng chữ Hán
cũng có ý như vậy. Do đó, bài thơ khắc trên biển gỗ ở nhà Thái học hiện nay là
của Trònh Căn và được khắc lại về sau, bởi trước đó vốn được khắc trên bia đá. Cho
nên, năm Ất Hợi được ghi ở đây có thể là được khắc lại vào năm sau - năm 1695,
hoặc là năm Ất Hợi khác sau này, cũng có thể là do khắc lầm từ “mùa đông năm
Giáp Tuất” (1694), thành “mùa đông năm Ất Hợi”, trong lần khắc lại lên gỗ về sau.
Bài thơ khác khắc trên biển gỗ chùa Đậu năm Chính Hoà Mậu Dần (1698)
cũng thấy chép trong sách Khâm đònh thăng bình bách vònh tập, tập thơ quốc
âm của chúa Trònh. Do vậy, đây chính là bài thơ của Trònh Căn làm khi đến
thăm ngôi chùa này, ngôi chùa được suy tôn là danh lam bậc nhất trong nước
(hiện còn 2 tượng nhà sư ướp xác).
2. Thơ Nôm chúa Trònh được chép trong các sưu tập thơ Nôm khác, tiêu biểu
là trong Khâm đònh thăng bình bách vònh tập và Lê triều ngự chế quốc âm thi.
Sách Khâm đònh thăng bình bách vònh tập hiện ở Thư viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm kí hiệu AB. 587, được Thư mục đề yếu giới thiệu là tập thơ gồm 90 bài
của Trònh Tùng đề vònh về đền chùa, danh lam thắng cảnh, thiên văn, đòa lí, thời
tiết...”(5). Sở dó Thư mục đề yếu giới thiệu tập sách này là của Trònh Tùng (157025
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
1622) bởi lẽ ở cuối sách có dòng chữ “Lê triều Đại nguyên súy tổng quốc chính
Thái sư Thượng phụ Bình An Vương ngự đề”, nghóa là vò “Đại nguyên súy tổng
quốc chính Thái sư Thượng phụ Bình An Vương triều Lê đề thơ”. Tuy nhiên, cũng
ở dòng chữ Hán trong sách này, bên cạnh chữ An (Bình An vương) được sửa thành
chữ Đònh tức Đònh vương Trònh Căn. Do vậy, rất có thể đã có một số bài thơ Nôm
của Trònh Tùng, nhưng không thể tất cả là sưu tập thơ Nôm của Trònh Tùng được.
Một thực tế nữa là 2 bài thơ khắc gỗ nêu trên của Trònh Căn cũng được chép trong
sách Khâm đònh thăng bình bách vònh tập này. Rõ ràng là nếu tập sách này không
phải hoàn toàn của Trònh Căn thì cũng có khá nhiều bài của Trònh Căn.
Còn sách Lê triều ngự chế quốc âm thi, kí hiệu A.8, Thư mục đề yếu ghi: “1
bản viết, 72 tr., gồm 40 bài ca Nôm và 46 bài thơ Nôm của vua Lê vònh phong
cảnh và danh thắng trong lúc đi tuần du các đòa phương: Cảnh Bồ Đề, chùa Tháp
Nhạn, Bến Lai Triều, chùa Thiên Phúc, núi Dục Thuý...”(6). Sách này được sao
chép về sau và đầu đề sách do người sưu tập đặt ra, nhưng lại là hợp các thơ,
khúc của Trònh Cương với tiêu đề là Tuần tỉnh ký trình khúc.
III. NỘI DUNG VĂN BẢN
Chúng tôi giới thiệu ở đây 2 sưu tập thơ Nôm của Trònh Căn và Trònh
Cương với sự nghiên cứu bước đầu về văn bản học, cũng như nội dung văn
bản của chúng.
1. Về thơ Nôm của Trònh Căn
Trònh Căn có 2 bài thơ Nôm khắc trên biển gỗ và cũng được chép trong Khâm
đònh thăng bình bách vònh tập. Đối chiếu văn bản hai bài thơ này giữa bản khắc
gỗ và bản chép trong sách, thấy không có nhiều khác biệt. Tuy chỉ có chút ít khác
biệt, song lại hết sức quan trọng. Đó là sự khác biệt về tự dạng một số chữ Nôm.
Chẳng hạn trong bài thơ ở nhà Thái học, chữ “gấp” trong bản khắc gỗ dùng
chữ “cấp”, còn trong sách thì cũng dùng chữ “cấp”, song bên cạnh có thêm dấu
“cá” để phân biệt âm; chữ “mẽ” trong bản khắc mượn âm chữ “mỹ”, còn trong
sách thì thêm dấu “cá” bên cạnh chữ “mỹ”. Trong bài thơ chùa Pháp Vũ, chữ
“vẹn” trong bản khắc mượn chữ “viện”, còn trong sách thì cũng dùng chữ “viện”,
nhưng có thêm dấu “cá”; chữ “lanh’ trong bản khắc là chữ “linh” còn trong sách
cũng thêm dấu “cá”. Có nghóa là văn bản trong sách được chép muộn hơn mà
cụ thể là vào thời Nguyễn, nên hầu hết những chữ đọc chệch âm, đều có thêm
dấu “cá” để phân biệt âm đọc, trái lại văn bản khắc gỗ là văn bản đích thực thời
Lê thế kỉ XVII, chưa có đầy đủ bộ phận chỉ âm và chỉ nghóa.
26
âm Nôm
mã chữ trên biển gỗ
mã chữ trong sách
gấp
cấp
cấp + cá
mẽ
mó
mó + cá
vẹn
viện
viện + cá
lanh
linh
linh + cá
THƠ NÔM CHÚ TRỊNH VÀ VĂN HÓA XÃ HỘI THỜI LÊ TRỊNH XVII - XVIII
Sách Khâm đònh thăng bình bách vònh tập, gồm cả thảy 89 bài thơ chữ Nôm
(và 1 bài thơ chữ Hán), trong đó tuyệt đại đa số bài thơ này có thêm lời tựa.
Phần lớn trong số bài thơ trên có liên quan đến sinh hoạt của các bậc đế vương
và nơi cung cấm như những bài vònh cung miếu, văn miếu, vònh cảnh thái bình,
lầu vua, kiệu hoa, kiệu rồng, xe loan, võng đào, tán che, cờ, ngựa, voi, thuyền,
súng, nỏ, cung, kiếm, quản giáp, đào nương, ô để, đàn tranh,... Số khác vònh trời
đất, bốn mùa, 12 tháng trong năm cùng cây cảnh biểu trưng mà bậc quân tử
thường dùng như tùng, trúc, mai... Một số lớn khác là thơ đề vònh các danh tích
trong dân gian như chùa Khán Sơn, chùa Phật Tích, núi Yên Tử, chùa Pháp Vũ,
chùa Phổ Lại, chùa Thanh Mai, quán Chân (Trấn) Vũ...
Thơ Trònh Căn đậm triết lí phương Đông, ca tụng Thiên - Đòa - Nhân (trờiđất-người) đề cao công đức thánh hiền, vònh cảnh trí thiên nhiên; ngợi ca cuộc
sống thái bình, khen nghệ só đàn hát, tụng ca công trình kiến trúc, bình phẩm
bút nghiên, cung, kiếm, cờ quạt, voi, ngựa toát lên khẩu khí bậc vương giả. Bài
thơ “Thiên” (trời) có thể xem như một ví dụ tiêu biểu:
Nghiệm trước hồn nhiên nẻo triệu thành
Nhưng nhưng gồm được khí khinh thanh
Ngàn trùng xa thẳm hằng chư phú
Tám tiết xoay vần vốn kiện hành
Đức cả gội nhuần nhuần vạn vật
Ơn nhiều dường khắp khắp quần sinh.
Bài thơ viết về trời, cũng là về đế vương, về thời thònh trò với quan niệm trời
che chở cho vạn vật được sinh trưởng phát triển, muôn loài được nuôi dưỡng,
trưởng thành, vạn dân được nhuần ban ân huệ mà từ đó phát sinh tình cảm, thái
độ tôn trọng cung kính. Những ý thơ như ở bài này, nhất là ở 2 câu cuối, gặp
nhiều trong thơ Nôm của Trònh Căn, tuy cũng là khuôn sáo, song chỉ trong khung
cảnh đất nước hưng thònh thái bình mới có được những ý thơ như vậy. Đó chính
là tư tưởng chủ đạo trong tập thơ Thăng bình bách vònh này.
2. Về tác phẩm Nôm của Trònh Cương
Ngoài 2 bài thơ đề tặng cùng trong năm 1718 như đã nêu ở trên, các sáng
tác của Trònh Cương được tập hợp trong sách Lê triều ngự chế quốc âm thi. Ngay
sau tên sách có dòng “Tiên triều ngự chế quốc âm khúc ký thi quyển”, tức là
“Sách về khúc, kí, thơ quốc âm của vua triều trước”. Rõ ràng đây là văn bản được
sưu tập vào thời Nguyễn, mà cụ thể là vào niên hiệu Tự Đức vì trong sách có
chữ Hoa (trang 21) được viết theo lối kiêng huý mẹ vua Thiệu Trò được ban bố
vào năm Tự Đức 14 (1861)(7). Vì lẽ đó mà người sưu tập mới ghi là vua triều
trước, lại có chữ “ngự đề” nên người sưu tập ghi là của vua Lê (Lê triều). Đó là
điều nhầm lẫn dễ hiểu, bởi dưới con mắt của các nhà Nho triều Nguyễn, thì chỉ
có duy nhất triều đình nhà Lê, còn nhà Trònh là bề tôi lộng quyền đáng bò lên
án. Song lẽ thực tế đây lại là một sưu tập về tác phẩm Nôm của Trònh Cương.
Trònh Cương có rất nhiều tác phẩm được sáng tác bằng chữ Nôm, song hầu như
27
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
không được sưu tập đầy đủ. Và như vậy tập Lê triều ngự chế quốc âm thi này là
một sưu tập quý về tác phẩm Nôm của Trònh Cương còn lại.
Tiếp theo tên sách là tên tác phẩm được ghi là “Tuần tỉnh ký trình khúc, Giáp
Ngọ niên thất nguyệt nhật” tức là “Khúc ca ghi việc đi tuần tỉnh, được làm tháng
7 năm Giáp Ngọ”. Tuần tỉnh là việc của đế vương đi thăm thú thiên hạ để ban
bố quyết sách. Do vậy năm Giáp Ngọ có thể là năm 1714, năm mà Trònh Cương
vừa được phong làm Đại nguyên súy tổng đốc chính Thượng sư An vương(8). Có
chức vò này, Trònh Cương trở thành người thực quyền điều hành bộ máy của triều
đình Lê - Trònh, nên mới có thể ghi lại việc đi tuần tỉnh của mình được. Chính
khổ thứ hai trong khúc tuần tỉnh này cũng đã cho biết khá rõ điều này:
“Tuân Tiên vương giữ lề tuần tỉnh
Mặc tiện đường phát chính thi nhân
Dung bình vừa tiết thượng tuần
Hoàng long muôn đội mới nhân tiến trình”.
Có nghóa là “Noi theo bậc Tiên đế mà giữ lấy lệ đi tuần tỉnh, để mở đường
ban hành chính sách nhân đức. Nhân tiết thượng tuần mùa thu được ban áo rồng
(chỉ phong vương) nên khởi hành tuần tỉnh”.
Chúng ta biết rằng, “khúc” là một thể loại thơ ca dân gian làm theo thể Song
thất lục bát, tức là hai câu 7 và câu 6, 8. Tác phẩm song thất lục bát sớm nhất
ở Việt Nam thường được cho là tác phẩm Nghó hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào
(khoảng cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI) được soạn để hát cửa đình làng Đông
Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội)(9), tiếp đó là Tứ thời khúc của Hoàng Só Khải (khoảng
cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII). Sang thế kỉ XVII, nhất là từ nửa cuối thế kỉ
XVII trở đi, và đầu thế kỉ XVIII, thể loại Song thất lục bát phát triển rực rỡ với
hàng loạt tác phẩm nổi danh như Thiên Nam minh giám, Chinh phụ ngâm khúc,
Cung oán ngâm khúc,... Tuy vậy, tác phẩm Tuần tỉnh khúc của Trònh Cương làm
vào đầu thế kỉ XVII có thể xem như một trong số ít tác phẩm thể loại Song thất
lục bát hiện còn ở Việt Nam và là cầu nối giữa những tác phẩm ít ỏi ở giai đoạn
khởi đầu của thể loại thơ ca này (thế kỉ XV-XVI) với giai đoạn nở rộ ở giai đoạn
sau XVIII.
Tuần tỉnh khúc của Trònh Cương bao gồm 37 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 2 câu
thất, 1 câu lục và 1 câu bát. Cấu trúc âm luật theo quy cách sau:
1
3
4
5
6
7
Câu thất trên
B
B
T
Câu thất dưới
B
T
B
Câu lục
B
T
B
Câu bát
B
T
B
Câu thất trên (khổ sau)
28
2
B
B
8
B
T
THƠ NÔM CHÚ TRỊNH VÀ VĂN HÓA XÃ HỘI THỜI LÊ TRỊNH XVII - XVIII
Những ô không ghi là tiếng tự do, chỗ ghi bắt buộc và mũi tên chỉ phải hiệp
vận(10). Ví dụ 4 khổ đầu bài khúc như sau:
I
Vận trùng quang đương dương đỉnh thònh
Phủ trò lành quốc chính dân an
Vạn cơ trong thû dư nhàn
Muốn cho phương thổ giang san chu tường
II
Tuân Tiên vương giữ lề tuần tỉnh
Mặc tiện đường phát chính thi nhân
Dung bình vừa tiết thượng tuần
Hoàng long muôn đội mới nhân tiến trình...
Xen giữa các khổ thơ này là 15 bài thơ bát cú cũng bằng chữ Nôm đều là
thơ đề vònh phong cảnh và thù tạc, như vònh thắng cảnh chùa Bồ Đề, thơ đề
chùa Nhạn Tháp, chùa Tiên Tích, chùa Phúc Long, chùa Phả Lại, chùa Hưng
Long, thơ đề vạn Lai Triều, thơ vònh Lã Côi, vònh Như Kinh, Đáp hoài vọng thi,...
Nội dung của Tuần tỉnh khúc này như một nhật ký ghi lại việc tuần du
thăm thú đất nước, vãn cảnh thiên nhiên, danh thắng. Qua đó như vẽ lên bức
tranh sinh động về đất nước trong buổi thanh bình, hưng thònh “Vui thay nhân
quảng ân thi, Nhu hoài vốn những vỗ về gần xa” (khổ 27), nghóa là: “Vui thay
nhiều người được ban ân huệ, nhờ chính sách mềm dẻo mà vỗ về khắp chúng
dân xa gần”...
* Cũng như Trònh Căn, Trònh Cương thường đi tuần du, thăm thú cảnh vật
thiên nhiên, vãn cảnh chùa, mến mộ đạo Phật. Chính các thành viên trong
gia đình chúa Trònh đã bỏ nhiều tiền của, công sức tu sửa, xây dựng chùa
Phật. Hiện có khá nhiều tư liệu văn bia ghi lại các hoạt động này của gia đình
họ Trònh. Thực tế đã có khá nhiều chùa, quán thế kỉ XVII, XVIII được xây
dựng và tu bổ với sự đóng góp to lớn của các vò trong phủ Chúa, như gia đình
chúa Trònh, các quận chúa, cung tần..., như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) do
Quận chúa Trònh Thò Ngọc Trúc xây dựng vào thế kỉ XVII, chùa Tây Phương
do Trònh Tráng tu sửa năm 1660, đền Quán Thánh do chúa Trònh Tạc dựng
và đúc pho tượng đồng lớn năm 1677, ...
* Tiếp theo Trònh Căn, Trònh Cương là người có khiếu làm thơ chữ Nôm, nhất
là Trònh Cương từng chủ trương cho thi bằng chữ Nôm. Ngay tờ dụ của triều
đình ban hành năm 1720 cũng được chúa Trònh Cương dòch ra quốc âm rồi cho
gọi quần thần vào răn dạy. Mặt khác, hai vò hay làm thơ thù tạc, vì thế mà tạo
ra đội ngũ sáng tác thơ Nôm ngày một đông đảo, mở ra thế kỷ phát triển rực
rỡ nhất sáng tác văn học bằng chữ Nôm- thế kỉ XVIII. Trong các sáng tác bằng
chữ Nôm ở thời chúa Trònh có một mốc hết sức quan trọng là xuất hiện lần đầu
29
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
tiên một cuốn từ điển song ngữ Chỉ Nam ngọc âm giải nghóa, được in lại vào
năm Cảnh Hưng 22 (1761). Hàng loạt truyện Nôm khuyết danh ra đời ở thời kỳ
này, trong đó có tập diễn Nôm sự tích Nguyên phi Ỷ Lan theo thể lục bát có
tới 606 câu, tương truyền là tác phẩm của bà Trương Thò Ngọc Trong, phi của
An vương Trònh Cương. Đây là sự đóng góp vào quá trình hoàn thiện thể truyện
thơ lục bát mà đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du ở cuối thể kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Tóm lại, Trònh Căn và Trònh Cương là hai vò chúa có vai trò hết sức to lớn
góp phần hưng thònh đất nước trong nhiều lónh vực, nhất là văn hóa. Đây cũng
là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất nghệ thuật điêu khắc dân gian, với hàng loạt
ngôi đình, chùa làng được dựng lên đồ sộ, lộng lẫy như những lâu đài kiến
trúc dân gian đặc sắc nhất của làng quê người Việt. Đây cũng là thời kỳ phát
triển của văn học dân gian, nhất là văn học chữ Nôm. Chính hai vò chúa này
đã đặt móng xây nền cho sự nở rộ tác phẩm Nôm vào giai đoạn nửa cuối thế
kỷ XVIII. Tuy nhiên, sự sưu tập và nghiên cứu về sáng tác thơ văn bằng chữ
Nôm của hai ông hiện còn nhiều hạn chế. Bài viết này xem như sự đặt vấn
đề cho việc nghiên cứu và đánh giá lại vò thế của hai vò chúa này trong văn
học chữ Nôm thời Lê - Trònh.
CHÚ THÍCH
1. Xem Đinh Khắc Thuân, “Hai bài thơ Nôm ở chùa Đậu”, Nghiên cứu Hán Nôm, số 2/1986,
tr. 80-84.
2. Trương Đức Quả, “Về một số bài văn bia Nôm mới được sưu tầm trong những năm gần đây”, Tạp chí
Hán Nôm, 3/1996, tr. 77-81.
3. Lòch triều tạp kỷ, (bản dòch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 245, 268.
4. Lòch triều tạp kỷ, Sđd. tr. 130.
5. Trần Nghóa-Francois Gros, Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu, t. 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993,
tr.23.
6. Di sản Hán Nôm..., Sđd, tr. 156.
7. Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1997, tr. 156.
8. Lòch triều tạp kỉ, Sđd, tr. 192.
9. Nguyễn Xuân Diện, Góp phần tìm hiểu lòch sử ca trù, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.133.
10. Lã Minh Hằng, “Trònh Cương với khúc ca ghi việc đi tuần tỉnh”, Tạp chí Hán Nôm, 2/2003, tr. 25-32.
30
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
MỘT NỀN QUỐC VĂN MỚI Ở VIỆT NAM
VÀO NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Phong Lê*
Chuyển sang thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ trở thành đối tượng quan tâm hàng
đầu cho các cuộc vận động canh tân - yêu nước, và được vận dụng trên các
hoạt động báo chí, xuất bản liên tục ngay từ thập niên đầu thế kỷ.
Cố nhiên, việc sáng tác văn thơ bằng chữ Quốc ngữ - để thay cho chữ Hán
và chữ Nôm - còn phải trải ngót 20 năm trong các thử nghiệm cả về hai phía:
người viết và người đọc. Hàng nghìn năm nền văn hóa cổ truyền đã tạo nên một
mô hình ổn đònh cho sáng tác và tiếp nhận, trong đó cả chữ Hán và chữ Nôm
đều đã có đời sống riêng gần như không mấy thay đổi. Thế mà không đầy hai
thập niên đầu thế kỷ XX, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn
chương - học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác - mô hình
Quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí,
xuất bản, bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bao giờ
có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền.
Lớp người đảm lónh trách nhiệm đón nhận và chuyển tải, phổ biến này
vẫn là một thế hệ các nhà Nho, tiếp ngay sau thế hệ các chí só yêu nước trong
phong trào Cần Vương, đứng đầu là hai cụ Phan - Phan Bội Châu (1867-1940)
và Phan Chu Trinh (1872-1926), và những người sáng lập Đông Kinh Nghóa
Thục. Một thế hệ chủ yếu vẫn thuộc lớp người được đào tạo trong nền Hán
học, nhưng đã sớm giác ngộ sự cần thiết phải có cái vốn Tây học, để tiếp
xúc với văn minh Phương Tây; mong qua sự tiếp xúc ấy mà tìm ra lời giải và
cách thức giải quyết các vấn đề bức xúc của dân tộc, về mặt văn hoá, tinh
thần. Họ là lớp người chưa kòp tham gia hoặc tránh được sự đàn áp của chính
quyền thực dân vào những năm Mậu Thân, năm Kỷ Dậu (1908-1909), rồi có
hoàn cảnh tiếp nhận cái vốn học thuật Phương Tây - hoặc qua Tân Thư của
Trung Hoa, hoặc trực tiếp qua nền giáo dục Pháp - Việt. Lớp người này đã
góp phần quan trọng tạo nên diện mạo văn chương - học thuật trong một cuộc
chuyển giao từ văn hóa cổ truyền sang nền học thuật mới, trong hai thập niên
đầu thế kỷ XX.
Đây là thời kỳ nền kinh tế thuộc đòa và đời sống đô thò dần dần được hình
thành; nền văn hóa Pháp bước đầu thâm nhập; nền giáo dục Hán - Việt còn
* Giáo sư, Viện Văn học. Việt Nam.
31
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
song song tồn tại cho đến năm 1919 là năm khoa thi chữ Hán cuối cùng bò bãi
bỏ. Một thời kì giao thoa giữa hai nền học cũ - mới diễn ra vừa êm thấm vừa
gay gắt, vừa có mặt cưỡng chế vừa có phần tự nguyện.
Trách nhiệm tạo thật sự những chuyển động và đưa lên đường ray hiện đại một
nền Quốc văn mới, rồi sẽ đặt lên vai một thế hệ người viết xuất hiện vào những
năm 20, với Tản Đà (1889-1939) - người tiền trạm của Phong trào Thơ mới, với
Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) - tác giả Tố Tâm, người khai sinh nền tiểu thuyết
mới và trào lưu lãng mạn trong văn xuôi... Thế nhưng, công việc chuẩn bò cho sự
nghiệp sáng tác nằm trong các hoạt động sưu tầm, biên khảo, dòch thuật thì đã
được chuẩn bò sớm hơn - kể từ Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Đỗ Mục (1866?), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941), Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Can Mộng
(1875-1953), Hoàng Tăng Bí (1883-1939), Phạm Duy Tốn (1883-1927), Nguyễn
Trọng Thuật (1883-1940), Hồ Biểu Chánh (1885-1958), Nguyễn Tử Siêu (1887-1965),
Trần Trọng Kim (1887-1953), Phan Khôi (1887-1959), Bùi Kỷ (1887-1960), Nguyễn
Văn Tố (1889-1947), Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942), Phạm Quỳnh (1890-1945), Lê
Thước (1891-1975), Ngô Tất Tố (1894-1951), Dương Quảng Hàm (1898-1947)...
Đây là lớp người có vốn kiến thức sâu về văn hóa Phương Đông, nhưng cũng
không hoàn toàn xa lạ với văn hoá Phương Tây. Phan Kế Bính, tác giả Việt Hán
văn khảo và Việt Nam phong tục, chuyên giữ mục Hán văn cho Đông Dương tạp
chí, nhưng theo Vũ Ngọc Phan, người đọc vẫn cứ nghó ông là nhà Tây học kiêm
Hán học.
Công việc sưu tầm, biên khảo, dòch thuật ở buổi đầu tiếp xúc văn hóa Đông
- Tây đã được đặt lên vai thế hệ các nhà Nho có ít nhiều vốn Tây học này, bắt
đầu từ trong và sau Thế chiến I, chủ yếu chung quanh hai tờ Đông Dương tạp
chí (1913-1917) và Nam Phong tạp chí (1917-1934).
Hoạt động của hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí, trong hiệu
quả khách quan của nó, đã góp phần giới thiệu di sản văn hóa cổ, bao gồm vốn
văn hóa dân gian và văn học cổ điển dân tộc; đồng thời qua dòch thuật và giới
thiệu cũng góp phần thúc đẩy quá trình tiếp xúc với văn học Phương Tây, giúp
hướng tới và đẩy nhanh con đường hiện đại hóa văn học dân tộc(1).
Trong thế hệ các nhà Nho - học giả này có nhiều tên tuổi rất đáng kính nể.
Nguyễn Văn Tố (1889-1947) - phụ trách Trường Viễn Đông Bác Cổ, người luôn
luôn mặc quốc phục, đầu để búi tó, đối tượng chế riễu của nhóm Phong hóa, là
người am hiểu sâu cả hai nền văn hóa Đông - Tây. Theo Hoàng Ngọc Phách,
ông là nhà “bác học Việt Nam”, là người còn giỏi Pháp văn hơn cả nhiều thầy
Tây ở trường Bưởi. Bùi Kỷ (1887-1960) đậu Cử nhân, rồi Phó bảng, có mấy năm
du học ở Pháp, theo Đặng Thai Mai, được người đương thời xem là “Hán - Pháp
tinh thông”... “Cụ Bùi hồi này, cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà
trí thức cỡ lớn ở thủ đô”(2). Ở tư cách nhà giáo - học giả, lớp thầy học của thế
hệ Đặng Thai Mai, ngoài Bùi Kỷ, còn phải nhắc đến Võ Liêm Sơn (1888-1949),
tác giả Hài văn và Cô lâu mộng có cả bằng Thành chung Tây học và Cử nhân
Hán học trong hai năm 1911 và 1912; và Lê Thước (1891-1975), người mẫu mực
về cả hai phương diện: tri thức Đông - Tây và khoa sư phạm...
32
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MỘT NỀN QUỐC VĂN MỚI Ở VIỆT NAM...
Sau thế hệ những tên tuổi đã kể trên là một lớp trí thức trẻ hơn được đào
tạo ở các bậc Trung học và Cao học Pháp - Việt. Nền thi cử bằng chữ Hán bò
bãi bỏ từ năm 1919, nên vốn Hán học ở lớp người này có mỏng dần đi, mỏng
đi nhưng họ vẫn còn có. Có thể nói, họ là lớp Tây học đầu tiên có ít nhiều vốn
Nho học. Hướng hẳn về phía Tây học, họ tìm đến chủ nghóa cá nhân và con
đường giải phóng cá nhân trong Chủ nghóa Lãng mạn Pháp thế kỷ XIX, gồm cả
Lamartin và Victor Hugo, cùng các học thuyết triết học của Aristote, Socrate,
Platon... Kể từ thế hệ này, sự lập thân và tu dưỡng nghề nghiệp của họ vừa dựa
trên các kết quả hạn chế ở học đường, vừa là sự ráo riết mở rộng cái vốn đọc
và học văn hóa Phương Tây - qua Pháp ngữ. Cũng cần nói thêm, từ đầu những
năm 20, nền giáo dục ở học đường Pháp - Việt là hoàn toàn chuyên dành cho
ngôn ngữ Pháp và văn học Pháp. Lớp sinh viên Cao đẳng Sư phạm, bằng con
đường vừa học ở trường, vừa tự học, kể từ Hoàng Ngọc Phách, Đặng Trần Phất,
Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Nam
Xương, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Nguyễn Mạnh Tường, Thiếu Sơn, Hoài
Thanh, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khắc Viện... sẽ qua tiếng
Pháp mà trực tiếp đến với lòch sử văn hóa và văn học Pháp, kể từ thế kỷ XVII
cho đến đầu thế kỷ XX. Chữ Quốc ngữ sau hai thập niên vận động đã có thể
tạo được một lớp công chúng thành thò cho văn học, lúc này đã có một đời sống
thò trường khá nhộn nhòp ở Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bông, Tràng Tiền,
không kể thò trường Sài Gòn đã có sớm hơn; thứ chữ Quốc ngữ đó giờ đây chỉ
còn co lại một vò trí rất ít ỏi trong ba năm đầu Chương trình Tiểu học; còn chữ
Hán chỉ được một giờ trong tuần ở Chương trình Cao đẳng.
Giáo dục học đường là như vậy, nhưng đời sống văn hóa tinh thần trong kết
quả của cuộc vận động phổ biến chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nơi số
đông công chúng thành thò thì chắc chắn còn được mở rộng hơn, ngoài ý muốn
của chính quyền thực dân.
Cố nhiên, mục tiêu và khả năng trang bò của nền giáo dục Pháp - Việt là
nhằm đào tạo những người thừa hành trong bộ máy hành chính của chế độ thuộc
đòa. Nhưng có sự thực là bên cạnh số ít ỏi những “ông Tây An Nam”, rất nhiều
trí thức đều có tinh thần dân tộc và có ý thức tự học, tự lập rất cao để trở thành
không phải trí thức thuộc đòa như chính quyền thực dân mong muốn, mà là trí
thức dân tộc với các tên tuổi thuộc các thế hệ như đã kể trên. Số lớn trong họ
đều hướng về những nghề tương đối tự do như làm thầy giáo, làm báo, hoạt
động khoa học, kó thuật hoặc nghiên cứu học thuật, viết văn... Đó là những nghề
không nhằm vào sự giàu sang, vinh thân phì gia; càng không chòu thân phận
công chức nô lệ. Cái đònh hướng chọn loại nghề tự do này cũng nói lên phần
nào ý thức dân tộc, lòng tự trọng, niềm mong muốn tự do của người trí thức Việt
Nam; và mặt khác cũng chứng minh sự nhạy cảm của các thế hệ trí thức trước
nhu cầu canh tân, đổi mới đất nước. Họ đã không thể đi con đường của các văn
thân - só phu trước đó hoặc của những người cộng sản đồng thời - là con đường
đầy chông gai và nguy hiểm; không thể hoặc phải tránh những con đường đó,
họ phải chọn con đường xây dựng nền văn hóa dân tộc theo xu thế hiện đại,
để cho kòp người và bằng người.
33
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Vậy là, qua hoạt động khá liên tục của mấy thế hệ học giả, mà hai phương
diện của văn chương - học thuật là di sản dân gian và cổ điển của dân tộc và
tinh hoa của văn hóa nước ngoài để phổ cập cho công chúng rộng rãi đã được
sưu tầm, phát hiện, tuyển chọn, phiên âm, phiên dòch, chú giải, giới thiệu, trong
suốt hai thập niên đầu thế kỷ XX, ở tư cách cá nhân, hoặc thông qua các nhóm,
chung quanh một tờ báo, một văn đoàn, một ông chủ xuất bản.
Cố nhiên, sự chuẩn bò và những khởi động đầu tiên cho công việc này đã
được tiến hành vào nửa sau thế kỷ XIX ở Nam Kỳ - do là đất thuộc đòa nên chữ
Quốc ngữ có điều kiện và cần được phổ cập sớm hơn. Và người có công đầu
tiên trên lónh vực này là Trương Vónh Ký (1837-1898) - nhà bác học biết rất nhiều
thứ tiếng, nhưng vẫn dành phần tâm huyết cho việc phiên âm các văn bản văn
chương cổ điển và biên soạn văn học dân gian bằng Quốc ngữ như Kim Vân
Kiều của Nguyễn Du (1875), Đại Nam Quốc sử diễn ca (1887), Lục súc tranh công
(1889), Phan Trần truyện (1889), Lục Vân Tiên truyện (in lần đầu 1889, lần thứ
tư 1897)...
*
*
*
Một nhận thức tổng quan về lòch sử văn chương - học thuật dân tộc là rất
cần cho việc xây dựng một nền sáng tác đương đại. Hiểu tình hình trên để
thấy công việc sưu tầm, phiên âm, phiên dòch di sản cổ nơi nguyên bản Hán
Nôm ra văn bản Quốc ngữ, trong hoạt động âm thầm của mấy thế hệ trí thức,
vào những năm mười, rồi hai mươi, để thông qua các phương tiện in ấn mà
phổ cập cho công chúng rộng rãi những người có chữ và ham học, ham đọc
là một bước ngoặt rất quyết đònh cho kho tàng văn học cổ trở thành món ăn
tinh thần của nhân dân, và khiến cho văn học cổ tham gia được vào đời sống
văn học đương đại.
Đó là các văn bản Truyện Kiều bằng Quốc ngữ của Trương Vónh Ký và
Nguyễn Văn Vónh trên cơ sở hai bản Phường và Kinh; rồi văn bản Truyện Thúy
Kiều của Trần Trọng Kim.
Đó là Chinh phụ ngâm mà vấn đề tác giả là Đoàn Thò Điểm hoặc Phan Huy
Ích đã được đặt ra.
Là việc phiên âm, phiên dòch và giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu trong
vốn cổ dân tộc kể từ thời Lý - Trần. Trên Đông Dương tạp chí, Phan Kế Bính
trích dòch Lê Quý Đôn, dòch Đại Nam nhất thống chí; Nguyễn Đỗ Mục biên tập
Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải... Trên Nam Phong tạp chí, Nguyễn Hữu Tiến dòch
Vũ trung tùy bút, Lónh Nam dật sử, lược dòch Đại Nam liệt truyện, biên dòch Giai
nhân di mặc, biên tập thơ cổ trong Cổ súy nguyên âm rồi Nam âm thi văn khảo
biện, soạn Việt văn hợp tuyển giảng nghóa, và tuồng Đông A song phụng; Nguyễn
Trọng Thuật dòch Thượng Kinh kí sự và viết tiểu thuyết Quả dưa đỏ.
Ưu Thiên Bùi Kỷ nghiên cứu các lối văn và thể văn dân tộc trong Quốc văn
cụ thể, biên khảo Trê Cóc và Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim. Sở Cuồng
34
CHỮ QUỐC NGỮ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MỘT NỀN QUỐC VĂN MỚI Ở VIỆT NAM...
Lê Dư soạn Nam quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử, Bạch Vân am thi văn tập, Vò
Xuyên thi văn tập, Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập.
Một loạt các truyện Nôm được phiên âm ra Quốc ngữ và bày bán rẻ trên các
vỉa hè, đường phố Hàng Đào, Hàng Gai như Phan Trần, Phạm Tải Ngọc Hoa,
Phạm Công Cúc Hoa, Nhò độ mai, Thạch Sanh, Hoàng Trừu...
Và về kho tàng văn học dân gian, trên hai thể loại tiêu biểu là truyện cổ và
ca dao, với công khai phá đầu tiên của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, là người, chỉ
trong khoảng thời gian dưới 10 năm, từ 1927 - 1936, đã biên soạn và cho ấn hành
khoảng 10 bộ sách gồm Đông Tây ngụ ngôn - 2 quyển, Nhi đồng lạc viên, Truyện
cổ nước Nam - 2 quyển, Câu đối, Đào nương ca, Cổ học tinh hoa, Tục ngữ phong
dao, Để mua vui...
Những khai phá ban đầu này rất đáng trân trọng, bởi đó chính là sự hưởng
ứng và bổ sung cho nhau trong ý thức hoàn thiện diện mạo văn học dân tộc,
và trên một nhận thức khoa học về đối tượng - do người tiến hành là các thế
hệ tác giả nhận được ít nhiều ảnh hưởng lối tư duy Thái Tây, của văn hóa
Phương Tây.
Các hoạt động đó, theo tôi nghó, không phải ngẫu nhiên. Nó nằm trong ý
thức về sự phục hưng văn hóa dân tộc. Có thể nói đến một cuộc phục hưng văn
hóa như thế, có phần âm thầm nhưng không ít sôi nổi bên trong; và cố nhiên,
khác với mọi cuộc phục hưng có quy mô rộng lớn, và có tầm nhân loại như thời
kỳ Phục hưng (Renaissance) của Phương Tây, đây là cuộc phục hưng dưới sự
kiểm soát của chính quyền thực dân và trong khuôn khổ chế độ thuộc đòa. Một
cuộc phục hưng trên cơ sở của ý thức dân tộc, trên mong muốn gây một niềm
tự tôn: Việt Nam có một nền văn hóa riêng, không những lâu đời mà còn mang
đặc trưng riêng, qua các tác gia thành văn và qua một nền văn chương bình dân,
được xây dựng chính trên tiếng nói dân tộc và một tâm thức rất giàu bản sắc
dân tộc. Nền văn học đó quả có chòu ảnh hưởng sâu văn hóa Trung Hoa trong
một bộ phận viết bằng chữ Hán; nhưng ở bộ phận chữ Nôm và loại hình văn
hóa dân gian lại là nơi bảo lưu rất rõ cốt tính dân tộc.
Sau việc sưu tập, phiên âm, phiên dòch, biên soạn là việc phân tích, khảo sát,
đánh giá vốn di sản văn chương học thuật dân tộc. Câu chuyện này sẽ được đặt
ra vào những năm 20 và 30, chung quanh câu hỏi: Chúng ta đã có một nền Quốc
học chưa trong so sánh với văn minh Trung Hoa? giữa những người tham gia là
Ngô Đức Kế, Trònh Đình Rư, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Lê Dư, Huỳnh Thúc
Kháng, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh... Đây là vấn đề có tầm học thuật khá rộng,
chúng tôi xin được bàn vào một dòp khác.
Nhân vấn đề chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mà vấn đề ngôn ngữ dân tộc nói
chung cũng được quan tâm. Do tiếp xúc với một ngôn ngữ sáng sủa, khoa học
như ngôn ngữ Pháp nên yêu cầu khoa học hóa tiếng Việt, để nhanh chóng nâng
cao hiệu quả sử dụng và phổ cập của nó cũng sớm được đặt ra, kể từ Việt văn
tinh nghóa (1928) của Nguyễn Trọng Thuật đến Việt Nam văn phạm (1943) của
Trần Trọng Kim. Cố nhiên, ở khu vực này thì giới nghiên cứu ngôn ngữ hôm nay
của chúng ta đã có thể tiến rất xa. Nhưng trong những khởi động ban đầu ấy,
35