VIỆT NAM HỌC
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP:
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
14-16.7.2004
TẬP
III
Bộ sách được xuất bản nhờ sự hỗ trợ một phần của Quỹ Ford.
Tập
III
VIỆT NAM HỌC
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP:
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 14-16.7.2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
© Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Bản tiếng Việt
Xuất bản lần thứ nhất, Nhà xuất bản Thế Giới, 2006
VN - TG - 8199 - 0
MỤC LỤC
CHỦ ĐỀ
V - NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA, VĂN MINH
Dấu vết người Chăm và văn hóa Chăm Pa ở bắc Việt Nam
— Trần Quốc Vượng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .11
Những biến đổi trong hành lễ của một bà đồng gọi hồn
ở vùng cao phía Bắc Việt Nam — Phan Đăng Nhật, Oscar Salemink . .29
Suy nghó về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
quá trình giao lưu, hội nhập — Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong . . . .55
Sự tiến triển của tiếu tượng Hindu giáo ở
Đồng bằng Sông Cửu Long trước thế kỷ X — Lê Thò Liên . . . . . . . . . .62
Góp phần tìm hiểu tính đa dạng trong tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam — Trần Hồng Liên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .79
Sự thờ cúng đức thánh Trần Hưng Đạo ở thành phố Hồ Chí Minh
— Trần Mạnh Tiến . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .91
Kiến trúc Hà Nội: Một vài quan sát của một người dân đòa phương
và một khách du lòch — Đinh Quốc Phương và Derham Groves . . . . .97
Tôn giáo và xã hội ở Việt Nam hiện nay — Đỗ Quang Hưng . . . . . . .108
Văn hóa kinh doanh Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập
— Nguyễn Hoàng Ánh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .121
Nhìn qua nội dung tuồng Việt Nam và hí khúc Trung Quốc
— Vương Gia . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .137
Bảo tồn di sản văn hóa qua ba lần tu bổ di hài các vò thiền sư
ở chùa Đậu (Hà Tây), chùa phật tích và chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh)
— Nguyễn Lân Cường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .145
Đa dạng văn hóa thể hiện trong mối quan hệ giữa tộc người đa số
và các tộc người thiểu số ở Việt Nam — Tô Ngọc Thanh . . . . . . . . . .157
Văn bia Việt Nam và việc nghiên cứu tư tưởng chính trò xã hội thời kỳ
phong kiến (thế kỷ X - cuối thế kỷ XIX) — Trònh Khắc Mạnh . . . . . . .166
Bia hậu ở Việt Nam — Trần Thò Kim Anh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .178
Vai trò của kiến trúc trong tiến trình đô thò mới
ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam: Thiết kế không gian nhà ở
và kiến trúc — D. Khoa. D. Do . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .189
Một vài đóng góp của Phật giáo cho văn hóa Việt Nam
— Lê Đức Hạnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .203
Người Việt ở Thái Lan: cầu nối văn hóa trong quan hệ Thái-Việt
— Thanyathip Sripana . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .215
5
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Bảo tồn, phát huy khu phố cổ hội an trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay — Nguyễn Sự, Trần Ánh . . . . . .231
Xứ Nghệ, một vùng văn hóa đa dạng — Ninh Viết Giao . . . . . . . . . .245
Văn hóa Việt Nam, Những vấn đề cấp bách của sự phát triển
hiện đại — Sokolov Anatoli . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .260
Sử thi Tây nguyên, phát hiện và các vấn đề — Ngô Đức Thònh . . . . .268
Những mâu thuẫn của văn hóa nông thôn đô thò ở thành phố Hồ Chí Minh và vai trò tự điều chỉnh văn hóa
— Huỳnh Thò Ngọc Thu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .283
Kỹ nghệ đá cũ miền đông Nam Bộ (Việt Nam) - tư liệu mới
và những giải trình tương thích — Phạm Đức Mạnh . . . . . . . . . . . . .291
Dấu ấn Nho giáo trong hương ước cổ làng xã Việt Nam
— Vũ Duy Mền . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .307
Dự án bảo tồn nhà kiểu truyền thống dân gian của Việt Nam —
Mark Chang, Tomoda Hiromichi, Yamada Yukimasa, Đặng Văn Bái,
Trần Khang, Nguyễn Bá Đảng, Masuda Senjiro, Nagumo Ichiro . . . . . .319
Hát đối đáp dân ca Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa
— Lê Thò Hồng Minh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .325
Di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam, từ chính sách đến thực tiễn
— Nguyễn Chí Bền . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .341
Giá trò đạo đức của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại
— Hoàng Thò Thơ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .353
Vài nét về phong tục tập quán của Việt Nam
(qua một số sách cổ Trung Quốc) — Đinh Nguyễn . . . . . . . . . . . . . .365
Bảo tồn và cách tân - tạo ra một mô hình nhà ở mới
cho khu vực phố cổ — Shoichi Ota . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .371
Bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể qua việc giữ gìn và phát huy
trò chơi dân gian ở thành phố Hồ Chí Minh — Lê Thò Dung . . . . . . . .379
Bàn về đặc trưng nhân bản của văn hóa dân tộc Việt Nam
— Lê Văn Quang . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .385
Nghiên cứu về việc bảo tồn xã Đường Lâm, tỉnh Hà Tây
— Nagumo Ichino . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .397
Sự hội nhập của cộng đồng người Việt vào xã hội Nga
về phương diện văn hóa — Nguyễn Huy Hoàng . . . . . . . . . . . . . . . .401
Vài suy nghó về vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
ở Việt Nam — Trònh Thò Hòa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .407
Đổi mới và tái hiện các hoạt động ”truyền thống” của xã hội:
nghiên cứu về làng xã ở Sơn Tây, thuộc Đồng bằng Sông Hồng
— Ogawa Yuko . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .415
Về trình độ và sự hội nhập của Việt Nam trong ba làn sóng
văn minh thế giới — Lê Vinh Quốc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .423
Một vài tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam với sự phồn vinh
của thế giới đương đại — Khlot Thida . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .431
6
MỤC LỤC
Những vết tích Malayu trong văn hóa của tộc người Việt (Kinh) qua tư liệu nghiên cứu điền dã về các cộng đồng thủy cư
ở Việt Nam — Nguyễn Duy Thiệu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Hội An
qua sự phân bố các di tích — Kikuchi Seichi . . . . . . . . . . . . . . . .
Lễ hội truyền thống với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc — Đặng Thò Bích Phượng . . . . . . . . . . .
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình hội nhập — Nguyễn Xuân Tảo . . . . . . . . . . . . . . .
Ai được thờ trong các “Am” (một loại đền thờ nhỏ ngoài trời)
ở Việt Nam? — Michio Suenari . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nghi lễ cầu siêu – cầu an trong cộng đồng các dân tộc tại Nam Bộ
— Phan Thò Yến Tuyết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Khai thác và bảo tồn các giá trò văn hóa trong hoạt động du lòch
ở Việt Nam — Đinh Trung Kiên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Những khía cạnh văn hóa trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới — Hoàng Chí Bảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hội nhập văn hóa: mấy vấn đề đặt ra với Việt Nam đầu thế kỷ XXI
— Trần Trọng Đăng Đàn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
CHỦ ĐỀ
. .444
. .455
. .473
. .480
. .488
. .494
. .509
. .517
. .527
VI - NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC, CON NGƯỜI VÀ NGUỒN NHÂN LỰC
Vấn đề nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI
— Phạm Minh Hạc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tính cách người Việt, văn hóa Việt Nam: xưa và nay
— Cao Xuân Phổ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Những người Việt ở Palawan, Philipin:
Một nghiên cứu về sự hòa nhập đòa phương
— Oscar - Susan Evangelista . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình hội nhập kinh tế và giao lưu văn hóa
— Nguyễn Thế Nghóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam: đào tạo phải xuất phát
từ nhu cầu của thò trường — Trần Hùng Phi . . . . . . . . . . . . . .
Đònh hướng giá trò của sinh viên về gia đình hạnh
— Phùng Bích Thủy, Văn Thò Kim Cúc . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Sự chuyển dòch lao động ở nông thôn trong điều kiện phát triển
các khu công nghiệp (1991 - 2003) — Đinh Thò Thu Cúc . . . . .
Giáo dục và nghèo đói ở Việt Nam — Nolven Henaff, IRD . . . .
Chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của Việt Nam
trên đường phát triển và hội nhập — Song Thành . . . . . . . . . .
Thanh niên với việc chọn nghề làm công nhân:
vấn đề và thực trạng — Cao Văn Biền . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . .535
. . . .547
. . . .565
. . . .579
. . . .585
. . . .592
. . . .599
. . . .604
. . . .623
. . . .630
7
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Sách gia huấn và vấn đề giáo dục gia đình theo quan niệm
của các nhà Nho Việt Nam — Đỗ Thò Hảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .639
Vấn đề và và giải pháp áp dụng cách tiếp cận
quản lý nguồn nhân lực vào Việt Nam — Phạm Thành Nghò . . . . . . .646
Bất bình đẳng về cơ hội học hành và trình độ học vấn
đạt được ở Việt Nam — Nguyễn Lan Phương . . . . . . . . . . . . . . . . . .657
Nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, bảo đảm sự bền vững của
trung tâm học tập cộng đồng là góp phần đẩy mạnh
xã hội hóa giáo dục, xây dựng một xã hội học tập,
thực hiện dân chủ hóa giáo dục và hướng tới nền giáo dục
cho mọi người — Trần Mạnh Cung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .679
Thái độ của sinh viên Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
đối với lối sống hiện nay — Đoàn Văn Điều . . . . . . . . . . . . . . . . . . .691
Nghiên cứu kinh nghiệm giáo dục phổ thông và hướng nghiệp,
vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
— Hoàng Thò Anh - Nguyễn Văn Lê . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .698
Tìm hiểu mức độ kỳ vọng của bố mẹ và sự đánh giá
bản thân của trẻ — Văn Thò Kim Cúc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .705
Bất bình đẳng về giáo dục ở Việt Nam hiện nay
— Đỗ Thiên Kính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .711
Khuyến khích tính tích cực nghề nghiệp của người lao động một khía cạnh quản lý nguồn nhân lực cần được quan tâm
— Lê Hương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .721
Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đến phụ nữ
thành thò Việt Nam đầu thế kỷ XX — Trần Viết Nghóa . . . . . . . . . . .728
Một số đặc điểm trong sinh hoạt văn hóa của
lưu học sinh Việt Nam tại Liên bang Nga
trong quá trình hội nhập hiện nay — Nguyễn Huy Mỹ . . . . . . . . . . .739
Nhu cầu học tập của sinh viên Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh — Hoàng Thò Thu Hà . . . . . . . . . . . . . . . . .744
Đào tạo pháp luật thương mại quốc tế ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế:
thực trạng và một số giải pháp — Trần Văn Nam . . . . . . . . . . . . . .751
Di dân và sự biến đổi văn hóa — Lương Hồng Quang . . . . . . . . . . .763
8
CHỦ ĐỀ
V
NHỮNG VẤN ĐỀ
VĂN HÓA, VĂN MINH
9
10
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA
CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
Trần Quốc Vượng*
I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tham gia và theo dõi các cuộc khai quật khảo cổ thời sơ kỳ kim
khí (early metallic age) ở vùng ven biển Trung và Nam Trung Bộ niên
đại khoảng 3.000 Tr. CN đến đầu CN (Common Era) trong suốt 15 năm
qua (1989 - 2004) từ Quảng Bình, Quảng Trò, Thừa Thiên - Huế đến
Quảng Nam, Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm, Quảng Ngãi, Bình Đònh, Phú
Yên, Khánh Hòa, Hòn Tre, Bích Đầm, Ninh Thuận, Bình Thuận và xa hơn
nữa về phía Nam tới Bà Ròa - Vũng Tàu, Côn Đảo ngày nay(1), liên hệ
với các cuộc khai quật khảo cổ cũng về các di tích sơ kỳ kim khí ở các
bán đảo doi đất (lagunes) ở trong vònh Hạ Long - Bái Tử Long, ở Hong
Kong và miền duyên hải Đông Nam Trung Quốc (Quảng Đông - Phúc
Kiến) ngược sang Taiwan và lên đến Okinawa (Hara), tôi nhận thấy đấy
là một đa phức hệ (multiplese) các nền văn hóa tiền - sơ sử (preprotohistoric) có nhiều tương đồng và dò biệt và có sự giao lưu, tiếp xúc,
đan xen văn hóa (contacts, acculturation) với nhau mà nổi bật là việc sử
dụng ốc biển mặt trăng và ốc tai tượng làm công cụ và dụng cụ. Ốc tai
tượng (Turbo) - ngư dân biển Nam Trung Bộ Việt Nam còn gọi là ốc bồ
(tượng » bồ » elephant) là một đặc sản của miền biển nhiệt đới Nam Thái
Bình Dương(2).
2. Người Chăm trong cộng đồng mandala Chăm pa, cùng với các ethnic
groups Raglai, Rhaday, Gia Rai,... từ ven biển tỏa lan sinh sống ở trên Tây
Nguyên Highland là những cư dân nói tiếng Nam Đảo (austronesian,
malayo-polynesian, indonesian, melayu). Cho đến rất gần đây ở vùng Cửa
Cồn, Cửa Lò, Cửa Hội... vẫn có những nhóm ngư dân mà người Kinh Việt
gọi là người Bồ Lô (Poulo » Đảo nhân), Sử cũ (Đại Việt Sử ký Toàn thư) ở
thế kỷ 10 gọi họ là Bà Lỗ man (ở vùng Diễn Châu, Nghệ An) cũng như ở
ven biển Nam Trung Bộ từ vùng đảo Cù Lao Ré (Lý Sơn, Quảng Ngãi) đến
* Giáo sư, Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam.
11
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
vùng Bích Đầm, Nha Trang, Khánh Hòa cho đến đảo Phú Quý (Phan Thiết,
Bình Thuận) bên người Kinh Việt - Chăm vẫn có những nhóm người Hẹ
mà có khi bò gọi là “mọi biển” (maritime barbareous) để phân biệt với
người Thượng ở Tây Nguyên có lúc bò gọi là “mọi núi” (montagnards,
mountain barbareous). Ở trong vònh Hạ Long, vào thập kỷ 60 của thế kỷ
XX vẫn có những nhóm người Thán sín mà Sử cũ gọi là người Đãn (Đãn
man) mà người lập nên vương triều Mạc ở thế kỷ XVI (1527-1592) là thuộc
cộng đồng này (Xem Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng và John Whitmore
bài viết về Mạc Đăng Phong)(3).
Ở đảo Hải Nam (Hai Nan), thì ngoài một cộng đồng Chăm - có lẽ là di
cư từ Chăm pa ra theo các thư tòch thời Đường - Tống (Tang, Sung), ta còn
thấy một cộng đồng thiểu số mà thư tòch Trung Quốc gọi là người Lê mà
truyền thuyết khởi nguyên luận của họ cho là có dính dáng đến vùng Giao
Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam, qua Ha Long Bay), theo tên gọi của họ là người Dai
hay Đài-ao mà nhà ngôn ngữ học Mỹ Karl Paul Benedict gọi là Kadai và
xếp nhóm ngôn ngữ này là cái gạch nối giữa ngôn ngữ Thái - Tày và ngôn
ngữ Indonesian(4).
Ở Taiwan, thì ngoài các nhóm người Hoa di cư từ miền ven biển Phúc
Kiến - Quảng Đông ra, vẫn có những cộng đồng bản đòa vốn cư trú ở ven
biển nhưng đã bò áp lực di cư của người Hoa dồn lên ở miền núi cao và
nay người Hoa gọi họ là Cao Sơn (Kao san) tộc. Họ nói một thứ phương
ngữ (dialect) melayu.
Okinawa được sáp nhập vào Nhật Bản vào thời Meiji 1879. Nửa cuối
thập niên 90 thế kỷ trước khi tôi sang Okinawa thăm thú khảo cổ - nhân
học, tôi mới biết giữa Okinawa và Trung bộ Việt Nam có quan hệ lâu đời,
từ thời Chăm pa đến thời Đàng Trong (Nguyễn Cochichina - thế kỷ XVIXVIII). Các học giả ở Đại học Quốc tế Okinawa (International University of
Okinawa) cung cấp cho tôi nhiều tài liệu bổ ích và họ nói với tôi rằng: “Về
chính trò, Okinawa là Nhật Bản (a prefecture), còn về ngôn ngữ - văn hóa,
Okinawa là Okinawa và có quan hệ khá chặt chẽ và nhiều tương đồng
(similarities) với Đông Nam Á”(5).
3. Liên kết các tư liệu khảo cổ (nhân học văn hóa) với các tư liệu dân
tộc học (nhân học tộc người) tôi đã đi tới một luận điểm, được công bố
trên Tạp chí Đông Nam Á của Viện Đông Nam Á của Việt Nam: Có một
dải văn hóa Nam đảo ven bờ biển Đông - Nam Thái Bình Dương từ thời tiền
- sơ sử.
Đấy là thời mà người Pháp gọi là pré-malais, proto-malais mà ở riêng
vùng Trung và Nam Trung Bộ ta có thể gọi là pré-Chăm.
12
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
II. CÓ MỘT DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA LIÊN TỤC TỪ TIỀN - SƠ SỬ
QUA SA HUỲNH ĐẾN CHĂM PA ?
(Những đóng góp mới của các nhà khảo cổ - văn hóa học Việt Nam).
Trước hết là về lý thuyết văn hóa học và giao lưu văn hóa, giao thoa
văn hóa, phải đến một phần tư (1/4) cuối cùng của thế kỷ XX, về cơ bản,
các học giả Việt Nam mới có được ít nhất hai thu hoạch sau đây:
1. Sự từ bỏ lý thuyết Tiến hóa luận đơn tuyến (Monolinear Evolutionism)
để chuyển qua Tiến hóa luận đa tuyến (Polylinear) và tiếp tục chuyển qua
lý thuyết Mạng (Net Theory). Ví dụ ở thập kỷ 60 - 70, người ta vẫn vẽ ra
một mô hình tiến hóa này ở châu thổ Bắc Bộ thời tiền - sơ sử:
Phùng Nguyên ⇒ Đồng Đậu ⇒ Gò Mun ⇒ Đông Sơn
Ở Trung Bộ:
Bàu Trám ⇒ Bình Châu ⇒ Sa Huỳnh
Chỉ ở một bình tuyến đồng đại nào đó, người ta đã thấy cái quan hệ
“mạng” (synchronic) chằng chòt
Dian (Điền)
(Vân Nam)
Ban Chiang
(Thái Lan)
Óc Eo
(NamViệt Nam)
Đông Sơn
(Bắc Việt Nam)
Sa Huỳnh
(Trung Việt Nam)
(Và mạng hình sao 5 cánh này này cũng lại chỉ là một sơ đồ (schema)
mà thôi !)
2. Sự chấp nhận một “thực tiễn” mới: Bất kể một thực thể văn hóa nào
cũng là kết quả tác động qua lại (interaction) giữa các nhân tố nội sinh
(endogenous elements) và các nhân tố ngoại sinh (exogenous elements).
Đề cập đến sự ra đời của Văn minh - Văn hóa Chăm pa, tôi đã phải “lăng
13
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
xê” (lance) đâm ra khái niệm “cú hích ngoại sinh” (exogenous kick), không
phải chỉ từ phía Ấn Độ và đời sống tâm linh sivaist với khái niệm “Ấn hóa”
(Hondouisation, Indianisation) của người Pháp chẳng hạn của G. Coedès(6)
mà còn từ phía Nam Trung Hoa với chất chồng chứng cứ vật thể tangible,
đồ gốm sứ gạch ngói Hán - Đường (Han - Tang thế kỷ X) với khái niệm
“Hoa hóa” (chẳng hạn Sinisation và Le Monde sinisé của Léon
Vendermersch, PUF, Paris, 1986) nhưng rồi cũng có khái niệm Bản đòa hóa
(Localisation) của O.W. Wolters(7) hay hẹp hơn, khái niệm Vietnamisation
của P. Richard Féray ở Đại học Nice(8).
3. Tôi đã đọc O. W. Wolters, đọc Claude Jacques..., viết nhiều về Lý
thuyết Đòa - Văn hóa áp dụng vào nghiên cứu Việt Nam, nhất là miền
Trung(9) và tôi xác tín rằng Chăm pa không hề là một vương quốc thống
nhất à la chinoise như các học giả Pháp ở nửa đầu thế kỷ XX quan niệm
(như G.Maspéro, Le royaume de Champa; G. Coedès, Le Etats indouisés en
Indochine, 1960). Cùng lắm, ta chỉ có thể quan niệm Chăm pa như một
Liên hiệp các tiểu quốc (confederation of small kingdoms) hay, để cho có
vẻ mùi hơn, thì nên gọi là Mandala Chămpa.
Để phục vụ cho Hội thảo này, tôi đã đề nghò một bạn đồng nghiệp và
cộng tác thân thiết, TS. Lâm Mỹ Dung diễn tả tư duy của Trung tâm nghiên
cứu liên văn hóa (Centre for Intercultural Studies) chúng tôi về Sa Huỳnh Chăm pa(10). Tóm tắt như sau:
Giai đoạn những thế kỷ trước sau Common Era là giai đoạn bản lề
trong diễn biến văn hóa ở miền Trung Việt Nam nói riêng và Đông Nam
Á nói chung. Tài liệu khảo cổ học phát hiện trong những năm gần đây
cho thấy nó (Sa Huỳnh) thuộc thời đại đồ sắt (early Iron age), hội tụ nhiều
dòng chảy văn hóa trước đó, rồi kết tinh và có những thay đổi nhanh, đột
ngột, những tiếp xúc văn hóa ồ ạt đã xảy ra (với Hoa Nam, với Đông Sơn,
với Ấn Độ) trên đòa bàn này ứng với sự hình thành và phát triển của các
local chieftains and chiefdoms. Nhưng cũng từ 111 BC (trước CN), nhà Tây
Hán đã xóa sổ thực thể quốc gia Nam Việt, trung tâm Phiên Ngung trở
thành Quảng Châu, vốn từ thời Triệu Đà (Tchao To - 180 BC) đã là một
nơi đô hội nay trở thành cảng thò lớn nhất của đế chế Hán. Thương lái
Trung Hoa từ đây đi thuyền, đem vàng, lụa, đồ gốm sứ, gương đồng vào
biển Đông - Nam buôn bán “phần nhiều trở nên giàu có” (Tiền Hán thư,
q. 28) (ở nhiều mộ vò (jar-tumbs) Sa Huỳnh muộn tại Hội An và nhiều nơi
khác của Quảng Nam (Trà Kiệu, Trà My...) đã tìm thấy gương đồng, tiền
đồng Hán, gốm hoa văn in hình học (xem các bài viết của Lâm Mỹ Dung,
Nguyễn Chiều, Yamagata Mariko)). Nhà Hán cũng phủ lên trên cái thực
thể Âu Lạc ở Bắc Bộ và các chiefdoms miền Trung một thứ thể chế “quận
- huyện” nào đó. Từ Đèo Ngang trở vào Nam đèo Hải Vân là quận Nhật
Nam (Je Nan) với các huyện Tây Quyển, Tỉ ảnh, Lô Dung (Thọ Linh), Chu
Ngô, Tượng Lâm.
14
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
Dựa vào các thực thể “Tây nam Di” (Vân Nam), Giao Chỉ, Cửu Chân
(xem Sử ký, Hán thư) từ lâu tôi đã đoán đònh rằng, về đại thể mỗi huyện
thời Hán là tựa vào chiefdom của một local chieftain.
Về sự thành lập nước Lin Yi (Lâm Ấn), ta chỉ thấy 01 sách chép. Đó là
Thủy kinh chú (của Lòch Đạo Nguyên thế kỷ VI). Sách ấy chép (quyển 36)
“Lâm Ấn dựng nước bắt đầu từ cuối đời nhà Hán. Trong cuộc loạn đời Sơ
Bình (190 - 193), lòng người mang mối nghó khác. Viên công tào huyện
Tượng Lâm họ Khu, có con tên là Liên, đánh huyện, giết quan lệnh, tự
xưng làm vua. Gặp lúc loạn li, nước Lâm Ấn bèn lập”.
Cũng Thủy kinh chú chép “Lâm Ấn tức là huyện Tượng Lâm... sau bỏ
chữ “Tượng” (Elephant) chỉ gọi là Lâm ấp”(11).
“Lệnh” là Huyện lệnh, người đứng đầu một huyện lớn, thường là người
Hán. Giúp việc cho “Lệnh” là “trưởng lại” (như phòng tổ chức - cán bộ),
và các “tào” (phòng, ban) như Công tào phụ trách xây dựng, Bạc tào phụ
trách tài chính, thu thuế... Đứng đầu các “tào” có thể là người bản đòa.
Vậy đại thể nước Lin Yi xuất hiện trên trường lòch sử từ thế kỷ II, trên
nền tảng văn hóa vật chất là Sa Huỳnh muộn - Chăm sớm(12) văn hóa Trà
Kiệu, tầng dưới. Không gian Chăm sớm thường là trùng với không gian Sa
Huỳnh trước đó. Trà Kiệu - Hậu Xá I - di chỉ, Trảng Sỏi... là những di chỉ
điển hình từ đầu đến giữa thiên niên kỷ I. Các di chỉ Chăm muộn (thế kỷ
IX-X) khi các tên Hoàn vương (756) rồi Chiêm Thành (Champapura, 875
đã xuất hiện) - mà chúng tôi trực tiếp tham gia khai quật là các di chỉ Nam
Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), Bãi Làng (ngoài Cù Lao Chàm).
Gốm Chăm sớm, đồ gia dụng có chất liệu thô, bình vò, bình hình trứng,
bếp; các kendi vò văn in, ấm, cốc chân cao, vật liệu và trang trí kiến trúc
có chất liệu mòn, độ nung vừa phải, màu đỏ nhạt, vàng, trắng xám. Gốm
văn in trình học có hai loại Hán và à la Han (in mờ, không phủ hết bề
mặt, độ nung vừa phải không cứng như sành Hán).
Ở giai đoạn sau (Chăm muộn thế kỷ VIII, IX, X) có nhiều gốm có
men, đồ bán sứ, sành nhập ngoại từ Hoa Nam, Ấn Độ, Trung Cận Đông
(gốm Islam).
Có rất nhiều loại hạt chuỗi bằng mã não (amber) thủy tinh, carnelian,
vàng, hổ phách...
Theo Cao Xuân Phổ(13), liên minh các tiểu quốc Chăm pa gồm 5
công quốc:
1. Indrapura (Quảng Bình - Hải Vân)
2. Amaravati (Quảng Nam - Quảng Ngãi)
3. Vijaya (Bình Đònh, Phú Yên)
15
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
4. Kauthara (Khánh Hòa)
5. Panduranga (Ninh Thuận - Bình Thuận)
Tôi nghó có lẽ còn nhiều hơn, kiểu các tiểu quốc Mạo (Lâm Đồng). Tây
Nguyên - theo thư tòch Trung Hoa thời Tống Nguyên là châu Thượng
nguyên của Chiêm Thành. Ngay ở châu thổ, thì theo bi ký Chàm ở dưới
chân núi Nhạn Tháp - Tuy Hòa, Phú Yên nay không thuộc Vijaya mà là
vùng Lingaparvata ! (chính là vùng “núi Đá Bia”). Tôi chưa kể đến những
Bà Lò quốc (Bà Ròa - Vũng Tàu), Xương Tinh quốc (Stiêng) ở vùng Đông
Nam Bộ (xem Phương Đình đòa dư chí). Có điều này các học giả trong
ngoài nước đều nhất trí(14): Thành phần tộc người trong Mandala Chăm pa
là khác biệt nhau. Tôi chỉ xin dẫn hai tư liệu trên điền dã : Miền ký ức
huyền kỳ của người B’ru - Vân Kiều còn nhớ “cây tre cụt Cửa Tùng (Quảng
Trò)” và của người K’tu còn nhớ “khu núi Ngũ Hành ven biển Quảng Nam”.
Luôn luôn là sự đa dạng về ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo... - Đa dạng
văn hóa!
Điều cuối cùng đáng lưu ý là tại những nơi cư trú, hiện vật không nhiều
chủng loại về chất liệu, chủ yếu vẫn chỉ là đồ đất nung. Điều này cho thấy
đúng như ghi chép trong thư tòch cổ, đời sống cư dân Chăm bình thường
rất đơn sơ, giản dò.
Với cái nhìn hướng biển và chọn lựa những chiến lược thích ứng tuyệt
vời với điều kiện tự nhiên sinh thái, người Chăm đã tạo dựng được một cơ
cấu kinh tế đa dạng, kết hợp nhiều ngành nghề mà sau này người Việt đã
phần nào thừa kế và phát huy(15).
III. NHỮNG ẢNH HƯỞNG VĂN HÓA CHĂM PA DỘI NGƯC TRỞ LẠI
VĂN HÓA ĐẠI VIỆT (THẾ KỶ X-XVI)
1. Lâu nay, người ta thường chỉ nói đến “Quá trình Nam tiến của dân
tộc Việt (Nam)” (Le Marche vers le Sud, Long March towards the South) rất
đậm chất chính trò - quân sự, hay là sự “bành trướng canh nông” - trồng
lúa về phương Nam dọc bờ biển Đông của người Việt (Expansion agricole)
để đối sánh với “bành trướng quân sự - chính trò (Expansion politico militaire)” của người Hoa và “bành trướng tôn giáo (religious Expansion)”
của người n ở vùng Đông Á - Đông Nam Á - Nam Á này.
2. Hoặc có nói đến giao lưu văn hóa và tộc người Việt - Chăm thì
người ta thường dẫn ra cuộc hôn nhân đầy bi kòch vua Chế Mân cựu
hoàng tử trẻ Harijit - cùng vua cha già chỉ huy cuộc chiến và thắng Mông
Nguyên đứng đầu là Toa Đô (Togetu) 1282 - công chúa Huyền Trân: Sau
chiến thắng lần thứ ba chống Nguyên, Trần Nhân Tông - sau này là Phật
- hoàng, Tổ thứ nhất thiền phái Trúc Lâm, đi sang chơi Chiêm Thành,
khen ngợi Chế Mân và hứa gả cho một nàng công chúa. Năm 1301, Chế
Mân cử một đoàn sứ giả sang Thăng Long dâng lễ vật xin cưới. Lúc này,
16
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
Nhân Tông đã mất, vua trẻ Anh Tông lên nối ngôi, bàn bạc việc đó với
triều đình Đại Việt. Ý chung của hoàng gia và các đại thần là không
muốn gả, nhưng lại ngại rằng Đấng Tiên Hoàng đã hứa, chả nhẽ nuốt
lời nên nhùng nhằng đòi vua Chiêm dâng hai châu Ô, Lý và mãi đến
năm 1306, hôn lễ mới diễn ra, sau khi châu Ô đã đổi tên Việt là châu
Thuận (Nam Quảng Trò nay) và châu Lý đã đổi thành châu Hóa - vùng
Thừa Thiên - Huế và bắc Quảng Nam (Đã Nẵng - Hòa Vang nay). Chỉ
sau hơn một năm, vua Chế Mân mất. Triều đình Thăng Long sai Đỗ Khắc
Chung, sau được ban “quốc tính” (họ vua) là Trần Khắc Chung đem đoàn
thuyền sang kinh đô Chiêm Thành (Bình Đònh Vijaya ? hay Phú Yên
Thành Hồ ? hay một nơi nào khác, Trà Kiệu (Ea Keo) Quảng Nam ?) giả
thác là điếu tang, đón Huyền Trân ra bờ biển rồi đưa lên thuyền dong
về Bắc, cả năm mới về tới nơi(16).
Tôi và Đoàn khảo cổ Đại học Quốc gia Hà Nội đã tới Triệu Phong, chợ
Thuận, Quảng Trò và đã tìm thấy một cái thành, nửa Chăm nửa Việt (2 loại
gạch) mở ra một con hói - nhánh sông Cửa Việt và bờ bên kia là chợ
Thuận. Quanh thành và quanh chợ Thuận tìm được nhiều giếng Chăm
(Cham wells) xây bằng gạch Chăm, hình vuông, hình tròn, nước giếng nay
còn trong vắt, dân Việt vẫn sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là di
tích thành Thuận Châu.
Ở lưu vực sông Bồ gần ngã ba Sinh, huyện Hương Trà, Thừa Thiên
- Huế còn lại di tích một tòa thành, đó là thành Hóa châu, đào khảo
cổ học đã tìm thấy nhiều tượng đá điêu khắc Chăm và đồ gốm sứ niên
đại Trần.
Và sau bao năm tìm kiếm ngu ngơ, tôi mới thấy ngôi chùa trên núi Hổ
ở Vụ Bản, Nam Đònh nơi Huyền Trân sau khi ở Chăm pa về tới đó, đi tu
cùng công chúa Thụy Bảo vợ góa Bảo quốc vương Trần Bình Trọng, người
anh hùng đã lẫm liệt hy sinh trong trận chiến Mông - Nguyên trên sông
Thiên Mạc (Duy Tiên - Hà Nam nay) năm 1284.
3. Cũng nói về giao lưu văn hóa và tộc người Chăm - Việt, người ta
còn biết các dòng họ Việt gốc Chăm Ông, Ma, Trà, Chế ở xứ Huế, xứ
Quảng Nam, Bình Đònh và mấy làng Việt gốc Chăm biệt cứ (isolat) ở
xứ Huế (vùng cầu ngói Thanh Toàn, vùng Túy Loan) làng Nại Hiên ở
ngay cảng Đà Nẵng giáp bán đảo Sơn Trà, làng ngay dưới chân thánh
đòa Phật giáo Đồng Dương, Bình Đònh với phong cách nghệ thuật cuối
thế kỷ IX - đầu thế kỷ X. (Một cán bộ văn hóa Đà Nẵng đã tìm được
một bản gia phả (viết 1806) mà tổ tiên là “bố Chăm mẹ Việt” (từ thế
kỷ XIV) và đã báo cáo ở Hội thảo quốc tế về Việt Nam học ở Hà Nội
lần thứ nhất, 7 - 1998).
Nhiều người Việt gốc Chăm đã trở thành những nhà yêu nước lớn cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX như Ông Ích Khiêm, những cán bộ cao cấp
17
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
của chế độ Dân chủ cộng hòa, Xã hội chủ nghóa, như Đại tướng Văn Tiến
Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Chế Viết Tấn, họa só tài danh Văn Dương
Thành, nhạc só Văn Thu Bích, v.v...
Nhưng theo gợi ý của GS. Momoki Shiro - nhà Việt Nam học - Chăm pa
học ở Đại học Osaka (Nhật Bản) thì tôi nên nói nhiều hơn về những ảnh
hưởng văn hóa Chăm pa ở Bắc Việt Nam (Bắc bộ và Bắc phần Trung bộ
(Thanh - Nghệ - Tónh)).
4. Ai cũng biết, đến đầu thế kỷ X, sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc
(Chinese domination 111 BC - 905 A.D.) thì người Việt đã giành lại được
quyền tự chủ (Autonomy) và độc lập dân tộc (National Independence) dưới
các triều đại – Khúc Dương (905 - 937), Ngô - Ngô Quyền và chiến thắng
Bạch Đằng giang chống quân Nam Hán (938), Đinh với quốc hiệu Đại Cồ
Việt (968 - 979) - Tiền Lê (980 - 1009), Lý với quốc hiệu Đại Việt (1010 1226), Trần (1226 - 1400), Hồ (1400 - 1407) - một thời gian ngắn Minh
thuộc (Ming domination) và sự tái Hoa hóa (Resinisation) (1407 - 1427) triều Lê (1427 - 1527), Mạc (1527 - 1592) - Lê trung hưng [Lê restaured or
Lê - Trònh with the temporary divisition between Đàng Ngoài (Lê - Trònh
Tonkin) and Đàng Trong (Nguyen Cochinchina)] - không gian ngăn cách là
sông Gianh, tả ngạn là Bắc Bố chính thuộc Đàng Ngoài, hữu ngạn là Nam
Bố chính thuộc Đàng Trong. Không gian ngăn cách ấy đã lấn một chút về
phía Nam so với biên giới Đại Việt - Chăm pa ở thế kỷ X là dải Hoành
Sơn - Đèo Ngang, về cơ bản là ranh giới giữa hai tỉnh Hà Tónh và Quảng
Bình ngày nay.
5.a. Cố nhiên, tôi hiểu rằng, mọi ranh giới đều mơ hồ hơn là ta
tưởng. Theo Thư tòch Trung Hoa (Thủy kinh chú) ở đầu thế kỷ III, ranh
giới phía bắc của Lâm ấp (Lin Yi) là sông Thọ Linh (tức sông Gianh).
Theo Tấn thư, ở giữa thế kỷ IV, ranh giới bắc của Lin Yi là dãy Hoành
Sơn. Sách Đại Nam nhất thống trí (tỉnh Quảng Bình) có nhắc đến Lâm
ấp thế lũy ở Hoành Sơn. Năm 1998, đi điền dã dọc Hoành Sơn, tôi và
TS. Đông Hà đã “phát hiện lại cái gọi là “Lâm ấp thế lũy”: Thì ra đó là
một dải đồi đất thấp ở bên dưới đường đỉnh Hoành Sơn về phía Nam,
được người Lin Yi đắp nối lại với nhau tạo nên một lũy trường thành.
Rải rác, có tìm thấy gạch Chàm. Dải lũy này hiện chạy dài hai bên
Hoành Sơn quan (được xây, cửa mở phía Quảng Bình, từ thời Nguyễn
Minh Mạng, 1820 - 1840).
5.b. Về di tích Chăm pa ở Thanh - Nghệ - Tónh, theo thư tòch - chính
sử Trung Hoa, dưới thời Bắc thuộc, Lin Yi - Chăm pa vẫn thường mang
quân ra đánh phá vùng Đức Châu (Cửu Đức, Hà Tónh nay), Hoan Châu,
Diễn Châu (Nghệ An nay). Lần đánh chiếm xa về phía Bắc nhất và chiếm
giữ lâu nhất của Hoàn vương là từ (Ái Châu - Thanh Hóa) năm 803 đến
năm 809 (Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Đường Hội yếu).
18
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
Ở Hà Tónh có cửa Sót, tên chữ trên bản đồ ghi là cửa Nam giới : Cho
đến thế kỷ X, đấy là giới hạn phía Nam về phía biển của Việt. Trên bờ phía
tả ngạn là Kẻ Mỏm, tên chữ là Mai phụ, gò đất của họ Mai, chuyên làm
nghề Muối. Nơi ấy đã sinh ra Mai Thúc Loan - hay Đường thư gọi là Mai
Huyền Thành, người đen, lãnh đạo cuộc khởi nghóa chống đô hộ Đường
năm 722, xưng vua, gọi là Mai Hắc Đế (vua Đen họ Mai) : Mai là họ mẹ,
không thấy chép gì về (họ) bố cả. Tác giả Le vieux An Tinh (Nghệ An - Hà
Tónh cổ) đã ngờ ông là gốc Chàm. Năm 1999, tôi đi điền dã đến Kẻ Mỏm
và đã phát hiện ra mấy giếng Chàm, thành giếng kè đá cuội, nước rất trong
và sâu, cấu trúc y như các giếng ở ven biển từ cửa sông Gianh - cửa Tùng,
cửa Việt... cho đến Phú Yên, Khánh Hòa... mà người Việt hiện nay vẫn gọi
là giếng Hời (Chàm) và vẫn đang tái sử dụng. Mở rộng điền dã nhân học
xã hội từ miền ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng cho tới dọc ven biển miền
Trung, nơi nơi đều thấy các chi họ Mai. Ở ven biển Hải Hậu, Nam Đònh có
di tích cồn Chăm với các mảnh gốm cổ Chăm y như gốm cổ ở bãi cồn Chăm
bờ sông Trường Giang của Duy Xuyên, Quảng Nam. Điển hình họ Mai với
Mai An Tiêm và sự tích Dưa hấu tên chữ là Tây qua (watermelon)để đối
lập với Đông qua là quả bí (gourd, pumpkin), được sách vở đời Trần (Lónh
Nam chích quái, chỉnh sửa đầu thời Lê) đẩy lên tới thời đại các vua Hùng,
nửa legendary nửa historic.
Tôi cũng thấy Sử chính thống (Toàn Thư) chép: Để trừng phạt chú họ
là Trần Di Ái - do triều đình cử sang sứ nhà Nguyên đã nhận tước An Nam
quốc vương bù nhìn, vua Trần bắt đổi sang họ Mai (hèn kém hơn). Từ đó
tôi có giả thuyết rằng: Phần lớn, nếu không phải là tất cả các chi họ Mai
ở vùng ven biển đều có gốc austronesian, melayu, gần gũi với người Chăm.
5.c. Ở Nghệ An (huyện Nam Đàn, xã Hồng Long) còn có một ngôi tháp
Phật giáo xây gạch, gọi là Nhạn tháp, niên đại thuộc thế kỷ VII-IX (thời thuộc
Đường) (cho đến thời cận - hiện đại, nó chỉ còn nền tháp). Đó là ngôi tháp
- chùa (stupa) xây gạch cổ nhất còn lại ở Bắc Việt Nam (Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ (Thanh - Nghệ - Tónh - không gian văn hóa - xã hội cổ kính của người
Việt) và hình như cũng là ngôi tháp gạch duy nhất còn được biết đến trước
thế kỷ X ở Bắc Việt Nam).
Viện Khảo cổ học đã khai quật nền tháp này. TS. Lê Thò Liên đã đề
cập đến nó ít dòng trong bản báo cáo về nghệ thuật tiếu tượng Phật giáo
ở Việt Nam trước thế kỷ X, đọc tại Hội thảo khoa học quốc tế tại Tokyo
University, 5-2003(17). Nền tháp 9,6 m x 9 m dày 2,3 m, xây giật cấp trên
một quả đồi gò, cách bờ sông Lam 400 m. Ở đây, các TS. Lê Thò Liên, TS.
Tống Trung Tín... đều thấy sự hỗn dung ảnh hưởng của Đường (Trung
Hoa, Ấn qua Chàm) và đã có sự bản đòa hóa.
5.d. Ở Nam Đònh, một tỉnh ven biển ở tây nam châu thổ sông Hồng,
người ta cũng tìm thấy một pho tượng đá, trôi nổi ở Bến Củi, không rõ nơi
xuất xứ.
19
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Vẫn theo TS. Lê Thò Liên, pho tượng này có niên đại vào khoảng thế kỷ
V-VI AD(18) và có phong cách Đông Nam Á, chòu ảnh hưởng mạnh của
phong cách nghệ thuật Gupta, phát triển ở khu vực cao nguyên Deccan,
cũng khá gần gũi với tượng Paryankasana ngồi trên tòa sen tìm thấy ở Trà
Vinh, Nam Bộ. TS. Lê Thò Liên cho rằng, ở vào khoảng thế kỷ V-VI, Bến
Củi ở hạ lưu châu thổ sông Hồng, gần cửa Ba Lạt và cửa Đáy chắc chắn có
quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa qua đường biển với phương Nam, với
Chăm pa, với Phù Nam (Fou Nan) - Chân Lạp (Chen La) và qua đó với thế
giới Thiên - Trúc (Hindu).
Như vậy, cho đến trước thế kỷ X, ta ghi nhận:
Đã có một dải văn hóa và ngữ hệ Nam đảo ven bờ biển Đông Nam
Thái Bình Dương, khi tỏ lúc mờ.
Ở nam Đèo Ngang, cư dân ven biển là chủ thể đã dựng lập nhiều
tiểu quốc, có buôn bán với Trung Hoa nhưng đời sống tôn giáo
- tâm linh thì ảnh hưởng mạnh Hindu giáo và Phật giáo tuy vẫn
giữ tín ngưỡng dân gian cơ bản về “Người Mẹ xứ sở” và thể chế
mẫu hệ.
Ở châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung Bộ là thời Bắc thuộc kéo dài,
ảnh hưởng văn hóa Hoa mạnh về nhiều mặt. Hình thành người
Kinh - Việt.
Có chiến tranh mà cũng có giao lưu văn hóa qua lại Nam - Bắc Đèo
Ngang, qua lại biển Đông. Tất cả tạo điều kiện tiền đề cho những
mối quan hệ Chăm - Việt về nhiều mặt từ thế kỷ X.
6. Thế kỷ X, khi kinh đô Đại (Cồ) Việt thời Đinh Lê còn đóng ở Hoa
Lư (Ninh Bình), trong quan hệ Chăm - Việt có xảy ra hai việc:
Nghe tin Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bò giết (979) vua Chiêm thân
mang hơn nghìn chiến thuyền sang đánh Đại Việt, đến hai cửa biển
Đại Ác (Đại An - Nam Đònh) và Tiểu Khang (cửa Càn, Yên Mô - Ninh
Bình) qua một đêm, gặp cơn bão lớn, chiến thuyền Chiêm bò lật chìm
gần hết, chỉ có thuyền vua Chiêm thoát được về nước.
Lê Hoàn lên thay nhà Đinh (980) cử sứ sang Chiêm thành, đều bò
bắt giữ. Năm 982 Lê Hoàn phát quân đánh Chiêm thành, bắt rất
nhiều tù binh, bắt vài trăm ca kỹ trong cung vua Chiêm (Đại Việt sử
lược quyển I). Đây là sự khởi đầu của cả một quá trình dài âm nhạc
và múa Chăm, điêu khắc - kiến trúc được hội nhập vào văn hóa
cung đình rồi lan tỏa ra văn hóa dân gian Đại Việt.
7.a. Đầu thế kỷ XI (thời Lý đã dời đô ra Thăng Long (Hà Nội nay)),
Chiêm thành có nội loạn. Năm 1039 con vua Chiêm chạy sang Đại Việt cư
trú chính trò.
20
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
7.b. Năm 1040, hàng trăm người Chiêm ở nam Đèo Ngang chạy sang
Đại Việt.
7.c. Năm 1044 Lý Thái Tông đem quân đánh kinh đô Vijaya, giết vua
Chiêm, bắt hơn 5.000 tù binh, nhiều cung nữ Chiêm biết ca múa khúc Tây
Thiên đưa về Thăng Long xây cung riêng cho ở (Toàn thư quyển II).
Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép tiếp: “Vua - tức Lý Thái Tông từ
Chiêm thành về... ngày hôm ấy, bề tôi dâng hơn 5.000 chiến tù... Xuống
chiếu cho các chiến tù đều ghép theo bộ thuộc cho ở từ trấn Vónh Khang
thẳng đến châu Đăng, đặt hương ấp, phỏng theo danh hiệu cũ của
Chiêm thành”.
Từ 1992, tôi đã giải thích: “Vónh Khang, theo Thiền uyển tập anh (tác
phẩm thời Trần) chép nhiều lần là miền Từ Liêm - Hoài Đức nay và Đăng
Châu là vùng Quốc Oai - Quảng Oai, Tam Nông, Hưng Hóa ngày nay”. Tôi
đã đi đi lại lại điền dã vùng này để tìm vết tích văn hóa Chăm, tuy bây
giờ đã là không gian văn hóa Việt. Tôi nhận thấy:
Vùng này được gọi là Yên Sở - Đắc Sở - “Sở” là khu vực ruộng công
(public land) của nhà nước quân chủ ngày xưa.
Vùng này còn lại rất nhiều giếng cổ kiểu Chăm (như đã nói ở trên).
Vùng này không trồng Tre như những làng Việt cổ truyền miền Bắc
mà trồng rất nhiều Dừa, nên có tên gọi là làng Giá - Dừa. Suy đoán
ra, các tù binh Chăm bò bắt ở thời Lý đều tự nhận thuộc thò tộc Dừa
(bắc Chăm pa; nam Chăm pa thuộc thò tộc Cau (mùa điền dã 2002,
tôi và đồng nghiệp đã tìm thấy rất nhiều nương vườn trồng cau đại
trà và giếng kiểu Chăm (à la chame) ở Phú Yên - Khánh Hòa)). Đến
nơi ở mới, họ đã trồng dừa để nhớ lại, hoài niệm về quê hương cũ
và an ủi tâm linh, cũng là để kiếm ăn nữa (trước năm 1954, nhà ai
có 1 cây dừa coi như có 1 sào (360 m2) ruộng lúa, có 10 cây dừa coi
như có 1 mẫu ruộng). Làng Dừa, là một điển hình “isolat” Chăm trong
biển làng Việt.
7.d. Năm 1069 Lý Thánh Tông và nguyên soái Lý Thường Kiệt đánh
Chiêm thành, bắt nhiều tù binh và cả vua Chiêm. Vua Chiêm phải cắt ba
châu Bố chánh, Đòa lý, Ma linh (Quảng Bình và Bắc Quảng Trò nay để được
tha về nước).
Thuyền chiến thắng về nước, ngược sông Đáy, tương truyền dừng lại ở
Quyển Sơn, non xanh nước biếc, mấy ngày hát múa tiệc tùng và để lại đó
cho đến nay điệu Múa - Hát dậm - nhiều chất Chăm và liền đó (Đinh Xá)
là chùa Bà Banh (tượng đá nữ khỏa thân - điêu khắc Chăm).
7.e. Thời đại Lý Thánh Tông - Ỷ Lan là thời đại xây dựng rất nhiều
kiến trúc cung điện, tháp - chùa. Rất nhiều nơi chùa Phật Tích, hoàng
21
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
thành Thăng Long, tháp Tường Long (Đồ Sơn), tháp Chương Sơn (Nam
Đònh) đã tìm thấy những viên gạch có in những dòng chữ Hán “Lý gia đệ
tam đế Long thụy thái bình tứ niên tạo” (1057). Mới đây (2003) ở công
trường khảo cổ hoàng thành Thăng Long đã tìm thấy mấy viên gạch khắc
chữ Chàm. An nam chí lược của Lê Trắc đời Trần (1333) chép rõ “Tháp
Báo Thiên” ở Thăng Long (xây dựng năm 1057 bên bờ hồ Lục Thủy - tức
Hồ Gươm hiện nay, đòa điểm khoảng nhà thờ lớn Hà Nội hiện nay, do cố
đạo Puginier xây dựng trên nền chùa Báo Ân - với tháp Báo Thiên cũ TQV chú) là do tù binh Chiêm thành xây, trên đỉnh tháp có ba chữ Hán
(Đạo lỵ (lợi) thiên - tức Trâyqstrinscas chữ sanscrit, là cõi trời thứ nhì ở
chót núi Tu-di, nơi Indra (Đế Thích) ở - TQV chú). Trong chiến tranh
chống Mỹ (1966) một giáo dân ở số 10 Nhà Chung cạnh nhà thờ lớn đào
hầm ở sân sau nhà để trú bom, đã tìm thấy một tượng Simha bằng đá
giống như Simha Chăm Trà Kiệu (Quảng Nam). Đã từ lâu, nhận thấy ảnh
hưởng Chăm rất rõ nét trên nghệ thuật trang trí trên đá, trên gốm Lý Trần, chúng tôi đã đặt giả thiết rằng, triều đại Đại Việt điều tù binh Chăm
giỏi xây dựng, dưới sự đốc công của người Việt, đi xây dựng các chùa lớn
- tháp lớn mà có nhà nghiên cứu Phật học Việt Nam gọi là chùa - hành
cung. Theo Thiền uyển tập anh và Đại Việt sử lược vua Lý (và các vua
Trần, Lê sau này cũng thế) còn “phân phối” nhiều tù binh Chiêm thành
cho các quý tộc, đại thần, sư sãi cao cấp... để làm nô tì (domestic slaves).
Một trong những người đó vốn là một nhà sư gốc Hoa (thời Lê Hoàn (982)
thì bắt được một nhà “sư Thiên Trúc” - chắc là một vò brahmane) bò bắt
ở kinh đô Vijaya, về Thăng Long làm nô cho vò Tăng lục (nhân vật số 2
của Phật giáo Đại Việt thời Lý) sau khi ngồi trông phơi sách đã chữa nhiều
chữ sai trong sách của Tăng lục, được phát hiện, được vua giải phóng khỏi
thân phận nô tì, trở thành tổ sư của thiền phái Thảo Đường, trụ trì ở chùa
Diên Hựu (chùa Một Cột) Thăng Long mà Lý Thánh Tông tự nguyện làm
đệ tử thế hệ thứ nhất. Giữa thời Lý ở Thăng Long có những chùa Vua, thờ
Đế Thích (Indra), chùa “Tứ Thiên vương” (cũng Indra)...
Cuối thời Lý, sử chép ở đàng sau các thế lực cát cứ đòa phương lớn
đều có người tâm phúc gốc Chăm, như Đoàn Thượng ở Hải Đông có
Đoàn Ma - Lôi (Ma - Lôi = M’lôi = Lồi = Chàm), Nguyên Nộn ở chùa Phù
Đổng xứ Bắc có “Phan Ma - Lôi”, cưỡi ngựa nhanh như thần, chùa lại thờ
Thiên vương Đế Thích - Indra. Trong một bài viết ở Cornell University(19)
tôi đã cho đấy là proto-type của Ông Dóng - Phù Đổng thiên vương, một
vò thánh được sùng bái từ thời Lý có dấu ấn Chăm.
8. Thời Trần (1226-1400) vẫn rất sùng Phật, chùa chiền xây dựng rất
nhiều. Ta lấy một ví dụ: Năm 1313 “xây lại chùa Báo Ân ở Siêu Loại, trong
việc này, bao nhiêu thợ gỗ - đá đều do triều đình (quan) cấp (rất nhiều thợ
gốc tù binh Chăm), nhà vua ba bốn lần đến chùa” (Tam tổ thực lục). Chùa
này xây bảy năm sau đám cưới Chế Mân Huyền Trân khi biên giới Việt Chiêm đã ở bên kia đèo Hải Vân.
22
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
9. Thời Lê - năm 1471, Lê Thánh Tông phát quân đánh Chiêm thành,
lập đạo Quảng Nam biên giới Việt Chiêm khoảng đèo Cù Mông. Trong
chiến dòch này đã bắt hơn 30.000 tù binh, cả 2 anh em vua Chiêm Trà
Toàn, Trà Toại cùng vợ con. Sau đó, thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong,
khoảng 1611 thì lập đạo Phú Yên, 1653 thì lập dinh Thái Khang (Khánh
Hòa). Nhưng những lúc này do sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài và
các nguyên nhân khác nữa (ảnh hưởng Minh - Thanh ngày càng mạnh)
nên ảnh hưởng Chăm dội lại Thăng Long và châu thổ Bắc Bộ cứ yếu
dần đi...
9.a. Trong cuộc đại loạn cuối thời Lê sơ, đằng sau Trần Cảo (1516) tự
xưng Đế Thích ở xứ Đông là “Phan Ất” một gia nô gốc Chăm của Trònh
Duy Đại bạn bè thân của Trònh Kiểm là bốn cha con người Việt gốc Chăm.
Chính họ dạy Trònh Kiểm cưỡi ngựa và xem tướng ngựa hay, để Trònh bắt
trộm ngựa chạy lên thượng du Thanh Hóa(20).
9.b. Ở một loạt các Chùa - Đền ở châu thổ Bắc Bộ, người ta thấy các
tượng đá, tượng gỗ hình dáng người đóng khố - chít khăn ở tư thế q mà
người Việt gọi là tượng “Ông Phỗng” có bộ mặt và trang phục rất Chàm
mà các nhà nghiên cứu nghệ thuật Việt người Pháp (như Louis Bezacier(21))
gọi là “Les princes Cham” (những vương tử Chàm). Thật ra đó là hình ảnh
những tù binh Chàm bò nhà vua cúng cho các Chùa - Đền làm nô tì hầu
hạ, như đã nói ở trên.
9.c. Cũng như ở Chămpa, có sự song hành và đan xen thờ phụng Hindu
giáo (Hinduism - Sivaism) và Phật giáo (thánh đòa Mỹ Sơn - Quảng Nam
(nghiêng về phía Sivaism), thánh đòa Đông Dương - Quảng Nam (nghiêng
về Phật giáo), thánh đòa vùng Nhạn Tháp thò xã Tuy Hòa - Phú Yên, thánh
đòa Cát Tiên - Lâm Đồng... đan xen Sivaist va Buddhist) và cả đan xen với
tục thờ Mẫu (học giả Nguyễn Thế Anh (xem SEAP Cornell University 1995)
cho rằng tục thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy có ảnh hưởng của tín ngưỡng
“Mẹ xứ sở” Yang Po Inưi Negara của Chàm - một vài học giả Việt Nam
khác (như PGS. TS. Trần Lâm Biền) cũng nghó như vậy); nhiều chùa ở Bắc
Việt Nam cũng có sự đan xen tôn giáo như vậy. Xin kể vài ví dụ:
Chùa Pháp Vân (chùa Bà Dâu - Thuận Thành - Bắc Ninh). Thượng
điện thờ Phật Mahayana. Chính điện thờ Bà Dâu Tantrist. Hạ điện thờ “đức
Thạch Quang” (Stone Light). Tôi là một người hiếm hoi được sư trụ trì cho
“ngó” (admire) đức Thạch Quang : Thì ra đó là một pho tượng đá Linga.
Chùa Một Cột thời Lý (thế kỷ XI) với biểu tượng Bông Sen cũng là một
biến tướng của Linga - Ioni và ở những thế kỷ sau thì biến tướng của Linga
là những cái gọi là “Thiên đài trụ” (Celestial Column) thường được “cắm”
ở phía trước sân Chùa Đền.
Ở nhiều ngôi chùa khác mà tôi đã đến “thăm” như chùa bà Đanh
(Banh) ở Phả Lại (Bắc Ninh), ở Dương Đanh (Dương Xá - Gia Lâm - Hà
23
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Nội), ở Đinh Xá (Hà Nam), ở Tứ Liên, ở Sù Gạ (quận Tây Hồ), ở chùa
Chài Võng La (Đông Anh - Hà Nội) v.v... tôi đều thấy điêu khắc đá “bà
Banh” thấm đẫm ảnh hưởng điêu khắc Chăm, một hóa thân của “Bà mẹ
Xứ sở” (Thiên Ya-na) hay Lashmi hóa thân (vợ) của thần Siva.
Tôi đặc biệt dừng lại ở chùa bà Banh/Đanh (đọc trạnh) ở Thụy
Khuê bên Hồ Tây - Hà Nội. Chùa này vốn trước ở bán đảo ngay bờ
Hồ Tây (Western Lake); chùa có tên chữ Hán là “Châu Lâm tử” tức là
chùa của người Lâm ấp châu (Chiêm thành). Chùa có pho tượng đá
“Nữ thần Xứ sở” của người Chăm bán lõa lồ (mi-nude) mà đến thế kỷ
XVIII còn có một nhà Nho Việt Nam (Trạng Quỳnh) nhà ở gần đấy đã
làm thơ chế giễu.
Sau gần 30 năm vua Trà Toại và vợ con bò an trí ở cửa thành Bảo
Khánh, đầu thế kỷ XVI (Cảnh Thống 1501) Trà Phúc đem hài cốt của cha
trốn về nước, “đến đây các nô người Chiêm của các nhà thế gia công thần
và ở các điền trang đều trốn về nước” (Toàn thư tập IV). Chùa Châu Lâm
trở nên vắng vẻ (có câu thành ngữ “Vắng như chùa bà Đanh”). Chùa đổ
nát dần, cuối thế kỷ XIX, dân giỡ phần còn lại vào ngõ Thụy Khuê sáp
nhập với một chùa Việt khác. Một bi ký trong chùa hiện nay nói rõ điều
đó. Đất nền chùa cũ, người Pháp cho xây trường Trung học Bảo hộ (Lycée
Protectorat), nổi danh ở Hà Nội vì nhiều học giả, nhà lãnh đạo nổi tiếng
đã từng học và dạy ở đó. Từ sau Cách mạng 1945 đến nay, đấy là trường
Trung học Chu Văn An.
Ở nhiều chùa, đặc biệt là các chùa dọc lưu vực sông Đáy và các chi
lưu, nơi an tháp (lưu đày - exile) nhiều người Chiêm, các nhà khảo cổ mỹ thuật học (aesthetic - archeologist) đã phát hiện được rất nhiều bệ đá
- như bàn, giường hình chữ nhật, nhiều cái có niên hiệu phần lớn cuối
Trần (Xương Phù 1371 - 72) bốn góc đều có hình người Chăm hay hình
linh điểu Garuda (vật cưỡi của thần Siva) giơ tay/cánh đỡ bàn thờ Phật.
Đấy là một chứng tích vật thể (tangible document) của sự đan xen văn
hóa Việt - Chàm.
10. Để kết thúc bài tham luận đã dài, tôi xin nhấn mạnh về ảnh hưởng
ca - múa nhạc Chiêm Thành đến nền ca múa nhạc cung đình Đại Việt cho
tới trước khi nhà Lê đầu thế kỷ XV chọn Nhã nhạc kiểu Minh Hoa làm nền
ca nhạc chính của triều Lê.
a. Chăm pa chòu ảnh hưởng văn hóa Hindu nói chung và ca - múa
nhạc Ấn Độ nói riêng. Ai cũng biết Ca Vũ đạo của Ấn Độ rất phát triển,
truyền lan đến Chăm pa và được bản đòa hóa. Thời Đường (Tang) Trung
Hoa thiết lập Nhạc phủ chuyên sưu tập - nghiên cứu về âm nhạc, trong
đó có bộ phận riêng chuyên chú tìm hiểu Chiêm thành âm. Nhật Bản hiện
nay vẫn còn lưu giữ được một bài vũ nhạc Chiêm thành có tên là “Vũ
khúc mùa thu”.
24
DẤU VẾT NGƯỜI CHĂM VÀ VĂN HÓA CHĂM PA Ở BẮC VIỆT NAM
b. Như trên đã nói từ 982, Lê Hoàn đã bắt nhiều ca kỹ Chàm đưa về
kinh đô Hoa Lư.
Lý Thái Tông bắt nhiều cung nữ Chiêm biết ca múa khúc Tây
Thiên về Thăng Long xây cung riêng cho ở. Lý Thái Tông thích và
giỏi âm nhạc.
Năm 1060, vua Thánh Tông thân phiên dòch nhạc khúc và tiết cổ âm
(tiết tấu bộ gõ) của Chiêm thành, sai nhạc công tập luyện ca hát, tấu
khúc thức (Đại Việt sử lược q.2). Sử khen là vua “sành âm luật”.
d. Lý Nhân Tông ngay từ nhỏ đã được học nhạc, nhạc Việt, nhạc Hoa,
nhạc Chàm và xem cung nữ Việt Chàm múa hát. Bài văn bia chùa Đọi,
Duy Tiên - Hà Nam, niên đại 1121 viết: “Vua ta: Tứ thơ thâu tóm thiên biến
vạn hóa của Trời Đất, nhạc phổ hòa hợp âm thanh của Đường và của Phạn
(Chăm Ấn)”, “Vua ta tinh tường âm nhạc nước ngoài, chuyển nắm được đầu
mối cốt yếu của mọi nghệ thuật (trong đó có nghệ thuật vũ đạo)” sau đó
vua mới hòa hợp các luồng âm nhạc và vũ đạo mà sáng tác các khúc điệu
mới tân kỳ, cả ca, cả múa, cả nhạc: Khúc Giáng vân Tiên tử (Tiên cưỡi
mây xuống trần), Tiên dời cõi trăng sao, Phật dời đài sen báu cùng xuống
trần “nhập thế” vui chung với dân chúng ở cõi nhân gian “dồn hòa vui của
thiên hạ, đêm trở thành ngày, thỏa tấm lòng, con mắt của thế gian, già nay
trẻ lại” (Văn bia chùa Đọi).
e. Ở chùa Phật Tích (Tiên Du - Bắc Ninh) người ta đã tìm thấy bệ
đá kê chân cột Lý, mặt bên có phù điêu diễn tả hai đoàn nhạc công
múa hát bên cây bồ đề - tượng trưng cho Phật - Bức phù điêu rất đẹp,
các vũ công múa uốn nghiêng mình giống như điệu múa tribanga của
Chiêm - Ấn. Phân tích từng nhạc cụ trong dàn nhạc, GS. TS. nhạc só Trần
Văn Khê (xem La musique vietnamienne traditionelle, Paris - Sorbone,
1967) đã thấy nhạc Việt thời Lý chòu ảnh hưởng nhạc Chiêm - Ấn hơn
nhạc Hoa.
g. Lý Cao Tông “đêm nào cũng sai nhạc công gảy đàn Bà-lỗ, hát khúc
hát theo điệu Chiêm thành, tiếng nghe ai oán thảm thiết, tả hữu nghe đều
rơi nước mắt” (Đại Việt sử lược q.3). Chắc chắn các điệu Nam Ai - Nam
Bình của nền nhạc Huế hôm nay là có ảnh hưởng ca nhạc Chàm.
h. Lê Khắc trong An nam chí lược (q.1) đã viết về nhạc cụ và khúc hát
đời Trần như sau : “Về nhạc, thì có trống cơm gốc ở Chiêm thành, hình trống
tròn dài, nghiền cơm đắp vào giữa hai mặt trống rồi đánh, tiếng nghe trong
trẻo rõ ràng. Trống ấy hòa với tiêu, sáo, tiểu bạt (chiêng), đại cốc (mõ) gọi
là đại nhạc, nhạc ấy chỉ có quốc vương dùng còn tông thất và quý quan nếu
không phải là tế lễ thì không được dùng nhạc ấy. Đàn cầm, đàn tranh, đàn
tì bà, đàn thất huyền, đàn song huyền, sáo và tiêu các thứ, gọi là tiểu nhạc,
thì quý tiện đều dùng được cảm...”.
25