VIỆT NAM HỌC
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP:
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
14-16.7.2004
TẬP
II
Bộ sách được xuất bản nhờ sự hỗ trợ một phần của Quỹ Ford.
Tập
II
VIỆT NAM HỌC
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP:
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 14-16.7.2004
THẾ GIỚI
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
© Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Bản tiếng Việt
Xuất bản lần thứ nhất, Nhà xuất bản Thế Giới, 2006
VN - TG - 8199 - 0
MỤC LỤC
CHỦ ĐỀ
III - NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ
Thử tìm hiểu mối quan hệ của người Phùng Nguyên với những cư dân
cùng thời ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc
— Hán Văn Khẩn......... . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .11
z Phong tục chôn cất bằng chum gốm trong văn hóa Sa Huỳnh
ở Việt Nam — Trònh Sinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .21
z Nghiên cứu trống đồng Đông Sơn bằng phương pháp xác đònh
đồng vò chì thường — Diệp Đình Hoa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .29
z Giao thoa, hội nhập văn hóa và sức sống của văn hóa Việt Nam
thời Bắc thuộc — Lê Đình Sỹ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .40
z Về tên gọi Lâm Ấp - Hoàn Vương Chiêm Thành và Cham-pa
— Lê Xuân Diệm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .46
z Một trăm mẫu ruộng của bà Thiềm - hoàng gia Chăm
và dự án tưới Phan Rí - Phan Thiết — Shine Toshihiko. . . . . . . . . . . . . . .57
z Việt Nam thế kỷ X - thời cơ, thách thức và phát triển vượt bậc
— Nguyễn Danh Phiệt . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .62
z Tác động của chế độ quân chủ quý tộc và quân chủ quan liêu đối với
xã hội thời Trần thế kỷ XIII - XIV — Nguyễn Thò Phương Chi . . . . . . . . . .69
z Công tác hòa giải ở nông thôn Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ
nghiên cứu văn hóa cộng đồng làng xã: trường hợp của
xã Thạch Châu, tỉnh Hà Tónh — Kato Atsufumi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .77
z Lệ bầu hậu của người Việt qua tư liệu văn bia
— Phạm Thò Thùy Vinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .83
z Mấy nét khái quát về các hình thức truyền tin cổ truyền
trong lòch sử Việt Nam — Vũ Trường Giang . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .91
z Khảo cứu lại về sự thành lập nhà Lê Trung hưng — Hasuda Takashi . . . . .103
z Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài, 1637-1700: tư liệu và
những vấn đề nghiên cứu đặt ra — Hoàng Anh Tuấn . . . . . . . . . . . . . . .107
z Lưu dân người Việt trên đất Đồng Nai - Gia Đònh và việc thành lập
các đơn vò hành chính ở Nam Bộä thời các chúa Nguyễn
— Nguyễn Đình Tư . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .119
z Bàn về chế độ quan lại Đạo giáo của thời Hậu Lê Việt Nam
(thế kỷ XVIII) — Onishi Kazuhiko . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .133
z Tổ chức chính quyền thời các chúa Nguyễn trong quá trình
mở rộng đất đai về phương Nam — Trần Thò Vinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .143
z Tìm hiểu nguồn gốc đô thò Huế từ việc khảo sát hệ thống thủ phủ
thời Chúa Nguyễn — Phan Thanh Hải . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .157
z
5
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
6
Quá trình phát triển hệ thống sông đào ở Việt Nam
(từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX) — Hà Mạnh Khoa . . . . . . . . . . . .173
Nghó lại về thời đại Tây Sơn — George Dutton . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .185
“Vấn đề nghi lễ” và chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn
— Nguyễn Quang Hưng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .195
Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Đònh: nhìn nhận
và đánh giá lại trên cơ sở tư liệu đòa bạ — Phan Phương Thảo . . . . . . . .206
Triều Nguyễn với việc điều chỉnh giá lương thực
nửa đầu thế kỷ XIX — Trương Thò Yến . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .216
Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn đối với các dân tộc ít người
ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX — Phạm Thò Ái Phương . . . . . . . . . .225
Các nhà khoa bảng trong bộ máy nhà nước triều Nguyễn
— Nguyễn Ngọc Quỳnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .237
Một vài suy nghó rút ra từ việc nghiên cứu tài liệu về quy hoạch
thành phố Hà Nội thời kỳ thuộc đòa (1888 - 1945) — Đào Thò Diến . . . . .244
Giới thiệu về điền bạ như những tư liệu lòch sử
về làng xã ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ cai trò
của hải quân Pháp thế kỷ XIX — Ono Mikiko . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .250
Đất Quảng với phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX
— Bùi Văn Tiểng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .256
Đông kinh nghóa thục và phong trào nghóa thục ở Việt Nam
— Chương Thâu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .265
Tầm quan trọng về kinh tế và văn hóa của các hội tương tế
ở miền Bắc Việt Nam thời Pháp thuộc (1920-1945) — Nguyễn-Marshall . . . . .277
Nhà Nguyễn trong lòch sử dân tộc — Văn Tạo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .287
Từ góc độ lòch sử góp vào việc quản lý và khai thác đất đai
— Tạ Thò Thúy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .292
Hành trình đi tới Mátxcơva: về chuyến đi thăm Liên Xô của
Chủ tòch Hồ Chí Minh vào tháng 2 năm 1950 — Kurihara Hirohide . . . . .303
Tìm hiểu thêm về quá trình từ Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc
(qua khai thác các tài liệu mới về nhóm yêu nước người Việt tại Pháp
đầu thế kỷ XX) — Lê Thò Kinh (tức Phan Thò Minh) . . . . . . . . . . . . . . . . . .309
Đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945
— Đặng Thò Vân Chi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .318
Phương pháp giảng dạy lòch sử Việt Nam bằng công nghệ vi tính tại
khoa phương Đông trường Đại học Tổng hợp Quốc gia St. Petersburg
— Vladimir N. Kolotov . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .330
Chính sách kinh tế của Việt Nam trong những năm đầu kháng chiến
chống Pháp và sự tác động của chính sách đó đến
đời sống nhân dân vùng kháng chiến — Đinh Quang Hải . . . . . . . . . . . .335
Nghiên cứu về một hợp lưu di cư ở Đồng bằng sông Cửu Long
trong thời kỳ thuộc đòa (1929-1945): những bước đầu tiên
hướng tới lòch sử làng Sóc Sơn và Thổ Sơn
(huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) — Pascal Bourdeaux . . . . . . . . . . . . .342
MỤC LỤC
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
Bước vào thế kỷ XXI, nước Việt Nam vững vàng trên con đường
phát triển và hội nhập — Trần Đức Cường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Con đường phát triển của Iran và Việt Nam:
một nghiên cứu so sánh — M. Tavakol . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng ở vùng Tây Bắc trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp — Nguyễn Văn Nhật . . . . . . . . . . . .
Hiệp đònh Giơnevơ 1954 - một nấc thang trên tiến trình
giải phóng dân tộc — Vũ Dương Ninh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hiệp đònh Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam và Hiệp đònh Pari năm 1973:
Ngoại giao và thắng lợi của cách mạng Việt Nam — Pierre Asselin . . . . .
Bài học về vấn đề dựa vào dân, nhà nước và nhân dân cùng làm trong
xây dựng và phát triển giáo dục ở Việt Nam thời kỳ kháng chiến
chống Pháp (9-1945 đến 7-1954) — Đỗ Thò Nguyệt Quang . . . . . . . . . . .
Tiến hành song song đồng thời hai chiến lược cách mạng - một sáng tạo
mới trên con đường phát triển của Việt Nam — Nguyễn Thò Đảm . . . . .
Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 với cuộc đảo chính
lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm (01-11-1963) — Lê Cung . . . . . . . . . . . . . .
Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam: động cơ và bối cảnh
— Song Jeong Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vấn đề chuyển dòch sử dụng đất nông nghiệp trong khu vực
đô thò hóa ở thành phố Hồ Chí Minh và những tác động của nó
tới đời sống cư dân đô thò mới — Trần Thò Thu Lương . . . . . . . . . . . . .
Tiểu - thủ công nghiệp gia đình ở Việt Nam: truyền thống và hiện tại
— Lưu Thò Tuyết Vân . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Quá trình đổi mới đường lối đối ngoại của Việt Nam (1986-2000)
— Võ Kim Cương . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Khu di tích Cát Tiên: tư liệu và nhận thức mới — Bùi Chí Hoàng . . . . . .
CHỦ ĐỀ
z
z
z
z
z
z
z
.358
.364
.374
.381
.386
.397
.411
.421
.427
.441
.453
.461
.477
IV - MỘT SỐ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
Đối diện trước thời đại, các tộc người thiểu số miền núi cần gì?
— Đặng Nghiêm Vạn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .487
Suy nghó về một nguyên tắc mới - nguyên tắc phát triển trong đường lối
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa — Nguyễn Xuân Hồng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .497
Sự tiếp nhận các giá trò mới và sự thay đổi các phong tục tập quán
của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay — Vũ Dũng . . . . . . . . .502
Quá trình hình thành nhóm cộng đồng người Mạ
ở huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng — Honda Mamoru . . . . . . . . . . . . . . . .511
Người Chăm và tôn giáo — Phan An . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .519
Truyền giáo trong vùng dân tộc thiểu số ở giáo phận Kon Tum
nhìn từ góc độ tín ngưỡng - văn hóa - xã hội — Nguyễn Hồng Dương . . . . . .523
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên
trong thời kỳ công nghiệp hóa - vấn đề đặt ra và giải pháp
— Trương Minh Dục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .531
7
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
z
8
Di dân từ nông thôn ra thành thò ở Việt Nam:
câu chuyện của hai miền — Lương Văn Hy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .548
Sự thay đổi tôn giáo và bản sắc của người H’mông ở Việt Nam
— Nguyễn Văn Thắng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .567
Thay đổi trong đời sống gia đình “người Tây Nguyên” hiện nay
— Nguyễn Thò Hòa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .575
Di cư vào Hà Nội và sự dòch chuyển trong nội thành
— Hans Schenk . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .585
Người Hoa Hẹ (Hakka) ở Việt Nam — Nguyễn Duy Bính . . . . . . . . . . . . .593
Biến chuyển xã hội ở Tây Nguyên trong những năm cuối thế kỷ XX
- đầu thế kỷ XXI — Nguyễn Tuấn Triết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .605
Văn hóa Thái và xu hướng phát triển văn hóa các dân tộc ở Tây bắc
— Trần Bình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .612
Kinh nghiệm nhập cư: trường hợp người Việt Nam sống ở Nhật Bản
— Kawagoe Michiko . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .626
Vấn đề bảo tồn văn hóa của người Bih — Lương Thanh Sơn . . . . . . . . . .633
Dân số và nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa — Nguyễn Thế Huệ . . . . . . . . . . . . . . . .638
Đi tìm những giải pháp cho sự phát triển bền vững
của người Khmer Nam Bộ — Nguyễn Mạnh Cường - Nguyễn Minh Ngọc . . . . .646
Cơ cấu di cư nông thôn - nông thôn của người Tày - Nùng:
mạng lưới các dân tộc thiểu số trong lãnh thổ Việt Nam — Ito Masako . . . . . .661
Chính sách phát triển các dân tộc miền Tây Nam bộ
— Huỳnh Thò Gấm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .669
Vài cảm nghó về việc phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa
các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam đảo — Bá Trung Phụ (AriYa) . . . . . . . . .677
Sắc thái Chăm trong văn hóa Việt Nam — Trần Thiều . . . . . . . . . . . . . . .681
Lúa, nữ thần lúa và cái liềm: sự chuyển dòch của “các công nghệ lễ nghi” —
bàn về một vài vấn đề tôn giáo gắn với sự phát triển nông nghiệp
của người Bru-Vân Kiều ở Quảng Trò — Gábor Vargyas . . . . . . . . . . . . . . . .689
Bước đầu tìm hiểu những tác động của văn hóa và tôn giáo
trong phát triển giáo dục ở cộng đồng Chăm Islam
tại thành phố Hồ Chí Minh (qua trường hợp quận Phú Nhuận)
— Nguyễn Thò Thu Thủy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .702
Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở hai tỉnh
Sơn La - Lai Châu hiện nay — Lê Thò Quý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .707
Xu hướng đồng nhất hóa và bản đòa hóa của thói quen, phong tục,
tập quán trong quá trình giao lưu văn hóa: nghiên cứu trường hợp
các dân tộc Tây Nguyên — Phan Thò Mai Hương . . . . . . . . . . . . . . . . . .718
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Thái qua nghiên cứu
nghề dệt truyền thống của người Thái ở Tây bắc Việt Nam
— Nguyễn Thò Thanh Nga . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .729
CHUÛ ÑEÀ
III
NHÖÕNG VAÁN ÑEÀ
LÒCH SÖÛ
9
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
10
THỬ TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ
CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN
VỚI NHỮNG CƯ DÂN CÙNG THỜI
Ở ĐÔNG NAM Á VÀ NAM TRUNG QUỐC
Hán Văn Khẩn*
Văn hóa Phùng Nguyên đã có 45 năm phát hiện và nghiên cứu. Qua thám
sát, khai quật, nghiên cứu gần 70 di tích, các nhà khảo cổ đã xác đònh Văn hóa
Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau, cách ngày nay khoảng 4000 năm.
Nó là nền tảng cho sự phát triển liên tục của 4 giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên
- Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn ở lưu vực Sông Hồng.
Đồ đá và đồ gốm của Văn hóa Phùng Nguyên vô cùng phong phú và đa
dạng, trong đó có năm loại di vật rất độc đáo: Khuyên tai 4 mấu, qua đá, nha
chương, bàn đập vải vỏ cây và chạc gốm. Trong bài viết này, chúng tôi không
có tham vọng nói về tất cả các loại di tích di vật của Văn hóa Phùng Nguyên
mà chỉ muốn thử tìm hiểu mối quan hệ của người Phùng Nguyên với những cư
dân cùng thời ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc thông qua khuyên tai 4 mấu,
qua đá, nha chương, bàn đập vỏ cây và chạc gốm Phùng Nguyên.
I. VỀ KHUYÊN TAI 4 MẤU
Khuyên tai 4 mấu được làm từ đá ngọc nephrite màu xanh hay trắng ngà. Nó
có mặt ở một số di tích như Nghóa Lập, Lũng Hòa (Vónh Phúc), Bãi Tự (Bắc Ninh),
Tràng Kênh (Hải Phòng). Đặc biệt, tại các di chỉ - xưởng Bãi Tự và Tràng Kênh,
các nhà khảo cổ đã phát hiện được khuyên tai 4 mấu ở tất cả các dạng như phế
vật, phác vật và vật thành phẩm. Điều này chứng tỏ khuyên tai 4 mấu được sản
xuất tại chỗ, do người Phùng Nguyên chế tạo ra(1).
Khuyên tai 4 mấu Phùng Nguyên có cấu tạo đơn giản, quy mô kích thước
nhỏ. Ví dụ, khuyên tai 4 mấu phát hiện được ở ngôi mộ số 9 thuộc di tích
Lũng Hòa được làm bằng đá nephrite màu trắng ngà, hình vuông, mài nhẵn
hoàn toàn, dày 0,15cm, mỗi cạnh dài 1,3cm, ở mỗi cạnh, gần hai góc có cưa
lõm xuống hai rãnh sâu chừng 0,1cm, ở giữa có khoan một lỗ tròn rộng 0,5cm
và cưa một rãnh rộng 0,2cm từ lỗ tròn ra một cạnh vuông, làm cho hoa tai có
hình một bông hoa khá xinh xắn.(2)
* Phó Giáo sư, Tiến só, Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam.
11
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
Khuyên tai 4 mấu Phùng Nguyên có dạng vuông, cạnh mài thẳng, 4 mấu
nhọn ở 4 góc của hình vuông. Loại khuyên tai này ở giai đoạn sau - giai đoạn
Đồng Đậu, thì cạnh và mấu được mài tròn. Sang giai đoạn Gò Mun, khuyên
tai có chuyển biến mới ở chỗ 4 mấu được cắt ra thành 3 hay 4 răng nhỏ kiểu
răng cưa.(3)
Theo Hà Văn Tấn, vòng đồng 4 mấu của Văn hóa Đông Sơn và khuyên tai
3 mấu của Văn hóa Sa Huỳnh cũng có nguồn gốc từ khuyên tai 4 mấu của Văn
hóa Phùng Nguyên(4). Hơn nữa, những vòng 4 mấu và khuyên tai 3 mấu phát
hiện thấy ở một số nơi thuộc Đông Nam Á, Nam Trung Quốc và Đài Loan cũng
có khả năng có nguồn gốc từ khuyên tai 4 mấu Phùng Nguyên.(5)
Vậy là, người Phùng Nguyên đã góp cho khu vực một kiểu khuyên tai quý
giá và tạo lập nên mối quan hệ giao lưu trang sức ở Đông Nam Á, Nam Trung
Quốc và Đài Loan.
II. VỀ QUA ĐÁ
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng, qua đá phát hiện được ở một số
di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên là kết quả của sự giao lưu hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp với Nam Trung Quốc.
Qua xuất hiện ở Trung Nguyên Trung Quốc khá sớm, ở thời đại đồ dồng, từ
đầu thiên niên kỷ II trước Công nguyên. Trong lúc Trung Nguyên ở thời đại đồ
đồng thì Nam Trung Quốc vẫn ở hậu kỳ đá mới. Do đó, qua Trung Nguyên được
làm bằng đồng còn qua Nam Trung Quốc được làm bằng đá. Từ đó, có người
cho qua đá ở Nam Trung Quốc được làm phỏng theo dạng qua đồng Trung
Nguyên. Một số người khác thì cho rằng, qua xuất hiện từ thời đại đá mới và
được làm bằng đá, như qua đá thấy ở Quảng Đông và Hoa Nam Trung Quốc(6).
Ở Việt Nam, qua đá phát hiện được ở nhiều di chỉ thuộc Văn hóa Phùng
Nguyên, như Lũng Hòa, Đồng Đậu (lớp dưới), Tràng Kênh(7), Khu Đường.(8)
Qua Phùng Nguyên được làm từ đá spilite hoặc nephrite, có hình dáng và
quy mô kích thước tương tự như nhau. Có thể lấy qua đá Lũng Hòa và Khu
Đường làm ví dụ. Qua đá Lũng Hòa tìm thấy trong mộ số 9, bằng đá mềm
giống như đá hoạt thạch, màu xám trắng. Nó có cấu tạo hai phần rõ rệt: phần
lưỡi và phần cán, có sống nổi chạy dài ở giữa phần lưỡi ở cả hai bên, hai
bên hơi lõm lòng máng, gần ngoài mép mài vát cả hai bên tạo lưỡi sắc, mũi
qua mài nhọn, cán gần thẳng, cán ở giữa dày, mỏng dần về hai bên tạo cho
cán có mặt cắt ngang hình bầu dục dẹt, có mấu nhỏ để phân đònh lưỡi và
cán qua, có một lỗ tròn cuối phần lưỡi(9).
Qua đá Khu Đường bò gãy mất một phần lưỡi, cán còn nguyên vẹn: phần
lưỡi còn lại dài 5,5cm, rộng 7,5cm. Phần cán dài 11cm, rộng 6cm. Tiết diện cắt
ngang thân và cán hình ovan dẹt. Hai rìa lưỡi gần sắc, nơi dày nhất của lưỡi
là 0,7cm. Chính giữa phần giáp lưỡi và cán có một lỗ khoan tròn với đường
kính 0,6cm; ở một góc của cán có một lỗ tròn với đường kính 0,2cm. Qua được
12
THỬ TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN VỚI NHỮNG CƯ DÂN...
làm bằng đá nephrite, được mài chuốt bóng rất đẹp(10). Như vậy, qua Khu
Đường khác qua Lũng Hòa, Đồng Đậu (lớp dưới) và Bãi Tự ở chất liệu đá và
số lỗ khoan.
Qua là một loại vũ khí của Trung Quốc. Qua ở Việt Nam cũng được cho là
một loại vũ khí. Việc xác đònh nguồn gốc qua Phùng Nguyên có thể phải xem
xét thêm. Tôi nghó, qua Phùng Nguyên có mối liên hệ nào đó với qua Trung
Quốc nhưng cũng có thể được chế tạo tại chỗ. Bởi vì, người Phùng Nguyên có
kỹ thuật chế tác đá điêu luyện và rất giỏi tạo dáng công cụ, vũ khí và các loại
đồ trang sức.
III. VỀ NHA CHƯƠNG
So với qua đá, nha chương mới chỉ phát hiện được năm tiêu bản: 2 tiêu bản
ở di tích Xóm Rền(11), 3 tiêu bản ở di chỉ Phùng Nguyên(12).
Hai nha chương Xóm Rền được làm bằng đá spilite, được mài nhẵn bóng,
thân dài, có lỗ khoan thủng ở gần đốc, hai bên lỗ có mấu, lưỡi ở một đầu,
mài vát một mặt, rìa lưỡi cong lõm vào. Sau đây xin nêu kích thước chiếc
nha chương lớn nhất làm ví dụ. Chiếc nha chương này bò vỡ ra 5 mảnh nhưng
vẫn còn phục nguyên được. Độ dài của nha chương là: từ đốc đến điểm giữa
của lưỡi là 43,2 cm, từ đốc đến mũi nhọn dài nhất là 46cm. Phần đốc dài
8cm, rộng 4cm. Phần có mấu dài gần 6cm, rộng 4cm. Ở phần này có 4 mấu
lớn và nhiều mấu nhỏ. Các mấu lớn có đường rìa lồi lõm phức tạp. Tất cả
hai mặt, ở phần có mấu, có nhiều đường rãnh nông chạy song song. Lỗ cách
rìa đốc là 7,1 cm, đường kính lỗ 0,7 cm. Chỗ hẹp nhất của thân rộng 4,5 cm.
Lưỡi xòe rộng gần 7 cm. Bề dày không đều, ở phần đốc là 0,7 cm, ở phần
lưỡi là 0,3 cm(13).
Bên cạnh hai nha chương Xóm Rền còn thấy có nhiều hạt chuỗi, khuyên tai,
mảnh vòng đá có mặt cắt chữ T được làm bằng đá ngọc nephrite màu trắng ngà
hoặc nâu hồng, rìu đá và nhiều mảnh gốm đặc trưng cho gốm Xóm Rền.
Chiếc nha chương phát hiện được ở di chỉ Phùng Nguyên vào năm 1993. Nó
được làm bằng đá ngọc nephrite màu nâu hồng, mài nhẵn bóng, thân dài, có hai
lỗ cách đều nhau ở phần đốc, hai bên chỗ đốc và thân có mấu lõm và có hình
chữ V, lưỡi ở một đầu, mài vát một mặt, rìa lưỡi lõm. Kích thước của nha chương
là: dài 35 cm, đốc dài 6 cm, đốc rộng 8,9 cm, mấu dài 0,7 cm, thân dài 28 cm,
lưỡi rộng 12cm, dày 0,4 cm. Phần đốc có một lỗ khoan cách đầu đốc 2 cm với
đường kính 0,8 cm. Hai lỗ khoan cách nhau 3,3 cm (14).
Nha chương là một hiện vật dùng trong nghi lễ ở Trung Quốc, thuộc Văn hóa
Thương, cách ngày nay khoảng 3700 - 3400 năm.
Niên đại của nha chương Phùng Nguyên, theo kết quả đònh niên đại bằng
khoảng 4000 năm cách ngày nay, tức là, ngang với thời Thương ở Trung
Quốc. Sự giống nhau đến từng chi tiết của nha chương Phùng Nguyên so với nha
chương Trung Quốc chứng tỏ ảnh hưởng mạnh của Văn hóa Thương đến Văn
C14,
13
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
hóa Phùng Nguyên. Theo Hà Văn Tấn, “ảnh hưởng của Văn hóa Thương đến Văn
hóa Phùng Nguyên, có thể đã theo con đường phía Tây, qua Tứ Xuyên, Vân Nam.
Tuy nhiên, cũng chưa đủ chứng cứ để loại trừ con đường phía Đông, qua Quảng
Đông, Quảng Tây, mặc dầu, chiếc nha chương ở Hồng Kông, theo Đặng Thông
là có niên đại muộn. Theo truyền thuyết Việt Nam có nói đến giặc Ân thời các
vua Hùng. Sự tiếp xúc giữa Văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Ân Thương phải
chăng đã nói lên cái lõi sự thật của truyền thuyết trên?”(15).
IV. VỀ BÀN ĐẬP VẢI VỎ CÂY
Đây là loại di vật khá phổ biến trong Văn hóa Phùng Nguyên. Một số kết
quả nghiên cứu về di vật này đã được công bố. Tuy nhiên, ý kiến của các nhà
nghiên cứu về tên gọi và chức năng của bàn đập vẫn chưa có sự thống nhất.
Một số người cho rằng hiện vật này khó có thể là bàn đập vải vỏ cây. Bởi vì,
nó được làm bằng loại đá mềm, quy mô nhỏ bé và quá nhẹ để làm bàn đập. Số
người khác lại coi hiện vật này là một loại bàn mài nhưng lại không rõ dùng để
mài cái gì. Số thứ ba (đông hơn), dựa vào nhiều tài liệu dân tộc học, cho hiện
vật này là bàn đập vải vỏ cây. Chúng ta có phần ngả theo ý kiến này.
Ở Việt Nam, bàn đập vải vỏ cây có diện phân bố khá rộng, bao gồm các
tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Phú Thọ, Vónh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Ninh Bình và Tây Nguyên. Hình dạng của bàn đập cũng có sự khác nhau
giữa các khu vực.
Trước hết, xin nói về bàn đập vải vỏ cây của Văn hóa Phùng Nguyên. Bàn
đập Phùng Nguyên có số lượng lớn hơn và có mặt ở nhiều di tích hơn so với
khuyên tai 4 mấu, qua đá và nha chương.
Bàn đập vải vỏ cây Phùng Nguyên được làm bằng đá phiến (schiste) hay
đá cát (grès), có dạng chữ nhật, ở hai mặt rộng đối nhau có những rãnh nhỏ
chạy song song, hai mặt bên được mài lõm đều, đôi khi được mài thành rãnh
lớn sâu. Đa số bàn đập bò gãy vỡ thành nhiều mảnh nhỏ nên rất khó xác
đònh quy mô kích thước cũng như số lượng rãnh của bàn đập. Tuy nhiên,
căn cứ vào một số bàn đập còn nguyên hoặc gần nguyên vẹn, chúng ta thấy
mặt cắt ngang của bàn đập có hình vuông hay chữ nhật, số lượng rãnh trên
hai mặt của một bàn đập bao giờ cũng bằng nhau, mặt cắt rãnh chữ V, sâu
và rộng độ 2-3 ly. Chúng ta mới chỉ biết số lượng rãnh nhiều nhất trên một
mặt của một bàn đập là 8 rãnh.
Bàn đập vỏ cây Phùng Nguyên thuộc loại bàn đập không có cán. Muốn
sử dụng loại bàn đập này, theo nhiều tài liệu dân tộc, người ta phải dùng gỗ
và mây để làm cán. Chúng ta có thể tìm hiểu cách tra cán và sử dụng bàn
đập vải vỏ cây của người Phùng Nguyên qua cách tra cán và sử dụng bàn
đập vải vỏ cây của người Tô-rát-gia (Toradja) ở Xu-la-ve-di. Bàn đập của người
Tô-rát-gia cũng bằng đá và giống hệt bàn đập Phùng Nguyên. Khi tạo cán,
người Tô-rát-gia dùng dây mây vấn quanh rãnh bàn đập nối với một đoạn gỗ
tròn, sợi mây sẽ buộc chặt cán gỗ vào bàn đập. Người Tô-rát-gia có nhiều
14
THỬ TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN VỚI NHỮNG CƯ DÂN...
cách buộc cán khác nhau. Đặc biệt, tại Xu-la-ve-di người ta đã phát hiện được
bàn đập vải vỏ cây tương tự ở di tích tiền sử. Ngoài Xu-la-ve-di, chúng ta có
thể thu thập thêm nhiều tài liệu tương tự ở nhiều bộ lạc người Anh-điêng trên
đất Trung và Nam Mỹ(16).
Ngoài đòa bàn gốc của Văn hóa Phùng Nguyên (Phú Thọ, Vónh Phúc, Hà
Tây, Hà Nội và Bắc Ninh), bàn đập không cán còn thấy có mặt ở một số nơi
khác như Mán Bạc (Ninh Bình), Hang Chổ (Hòa Bình) và Tây Nguyên.
Ở Việt Nam, ngoài loại bàn đập không cán Phùng Nguyên, các nhà khảo
cổ còn phát hiện được bàn đập có cán ở Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú
Thọ, Tây Nguyên. Đáng chú ý là, ở bàn đập có cán, rãnh được xẻ ngang, rãnh
xẻ ở một hoặc hai mặt, rãnh xẻ dọc và ngang cắt nhau tạo thành ô ca-rô. Qua
bảng thống kê dưới đây của 11 bàn đập Lò Gạch (Hà Giang)(17), chúng ta sẽ
thấy rõ sự khác biệt giữa bàn đập không cán Phùng Nguyên với bàn đập có
cán ở Việt Nam.
Bảng thống kê kích thước bàn đập khắc rãnh Lò Gạch (cm)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Ký hiệu
Đặc điểm vết rãnh
LG 1
Ca rô 1 mặt
LG 2
Ca rô 2 mặt
LG 3
Ca rô 1 mặt
LG 4
Ca rô 1 mặt
LG 5
Ca rô 2 mặt
LG 6
Ca rô 1 mặt
LG 7
Ca rô 2 mặt
LG 8
Khắc ngang
LG 9
Ca rô 2 mặt
LG 10
Ca rô 2 mặt
LG 11
Ca rô 1 mặt
Trung bình
Dài thân
12,0
10,0
9,8
8,0
16,5
18,5
15,5
18,2
8,5
13,0
15,0
7,16
Rộng thân
5,0
4,5
4,8
6,0
5,0
3,0
5,0
4,0
3,6
5,0
5,0
4,11
Đáy thân
3,6
2,4
3,3
2,1
3,0
2,5
4,5
4,2
1,3
2,4
1,9
1,39
Như vậy, bàn đập vải vỏ cây Phùng Nguyên chỉ có một loại, bàn đập không
có cán, hình chữ nhật, rãnh được xẻ theo chiều dọc. Còn bàn đập có cán, rãnh
được xẻ ở một hoặc hai mặt, rãnh xẻ ngang, rãnh xẻ dọc, rãnh xẻ cắt nhau tạo
thành ô caro.
Bàn đập vải vỏ cây có cán và không có cán tìm thấy ở nhiều nơi thuộc Đông
Nam Á, Nam Trung Quốc và Đài Loan(18).
Bàn đập vải vỏ cây ở Đài Loan được Tăng Chung chia ra làm hai loại(19).
- Loại 1: Bàn đập không có chuôi (hay bàn đập hỗn hợp), phải lắp thêm cán gỗ.
15
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
- Loại 2: Bàn đập có chuôi. Loại bàn đập này lại được chia ra làm nhiều kiểu sau:
1. Bàn đập có mặt xẻ rãnh theo chiều dọc, mặt xẻ rãnh và mặt tiếp giáp với
cán có mấu.
2. Bàn đập có rãnh xẻ theo chiều dọc và không có mấu.
3. Bàn đập có mặt xẻ rãnh ô vuông và không có mấu.
4. Bàn đập có rãnh hình ô trám và có nấc.
5. Bàn đập có rãnh chéo ô trám và không có nấc.
6. Bàn đập hình dao thái rau với 2 kiểu: có rãnh và không có rãnh
Tăng Chung cũng nêu ra một số khung niên đại cho bàn đập vải vỏ cây ở
một số nơi như sau: Bàn đập vải vỏ cây không cán Đài Loan ở khu vực Hoàn
Châu (Giang Khẩu) có tuổi 6000 năm cách ngày nay; Bàn đập Phùng Nguyên
xuất hiện cách ngày nay khoảng 3500-4000 năm; Bàn đập xuất hiện ở Thái Lan
và Mã Lai sau 3500 năm cách ngày nay; Niên đại bàn đập ở Philipin và Đài Loan
không vượt quá 3500 năm cách ngày nay; Niên đại bàn đập ở Trung Mỹ không
vượt quá 2700 năm cách ngày nay.
Như vậy, kỹ thuật làm vải vỏ cây xuất hiện khá sớm và phổ biến trên một
không gian rộng lớn. Tuy nhiên, cho đến nay, chúng ta chỉ biết cách làm vải vỏ
cây bằng bàn đập qua tài liệu dân tộc học. Quy trình làm vải vỏ cây của dân
tộc Lê ở Hải Nam (Trung Quốc) cho chúng ta những tri thức quý giá để tìm hiểu
cách làm vải vỏ cây bằng bàn đập của người xưa. Trên đại thể, quy trình làm
vải vỏ cây của người Lê gồm các bước sau:
1. Bóc vỏ cây
2. Ép phẳng và phơi khô
3. Dùng chày đập, trước tiên đập ngang, sau đập xen kẽ
4. Ngâm vào nước rồi dùng chân giẫm cho hết nhựa.
5. Để róc nước rồi phơi khô thành vải vỏ cây.
Rõ ràng, việc làm vải vỏ cây có vai trò đáng kể trong Văn hóa Phùng Nguyên.
Chưa có nơi đâu tìm thấy nhiều bàn đập vải vỏ cây như ở Phùng Nguyên. Cách
đây khoảng 4000 năm, bàn đập có cán tồn tại song song với bàn đập không cán.
Bên cạnh kỹ thuật làm vải bằng bàn đập, người Phùng Nguyên còn biết xe sợi dệt
vải. Nhiều loại dọi xe sợi phát hiện được trong Văn hóa Phùng Nguyên đã nói lên
điều đó. Có thể nói, Phùng Nguyên là quê hương của bàn đập vải vỏ cây. Người
Phùng Nguyên đã đóng góp cho khu vực một công cụ làm vải vỏ cây quan trọng.
V. VỀ CHẠC GỐM
So với 4 loại di vật vừa nêu trên thì chạc gốm có số lượng lớn hơn và loại
hình đa dạng hơn. Chạc gốm xuất hiện đầu tiên trong Văn hóa Phùng Nguyên
và phổ biến trong tất cả các Văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
16
THỬ TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN VỚI NHỮNG CƯ DÂN...
Chạc gốm được làm bằng đất sét pha cát thô, nặn hoàn toàn bằng tay, màu
nâu đỏ hay nâu xám. Chạc gốm thường có cấu tạo hai phần: Phần thân lớn và
rỗng, phần chân nhỏ và đặc. Hoa văn trang trí trên chạc gốm chủ yếu là vắn
thừng. Tính đa dạng của chạc gốm được thể hiện rõ ở phần chân của chạc gốm.
Các loại hình chân của chạc gốm thường thấy nhất là: chân hình trụ tròn, chân
có mặt cắt ngang hình chữ D, chân tròn có thêm nhánh nhỏ giống chân lợn, chân
hình bàn chân, chân là một vòng quai, chân xẻ thành 2 phần to và nhỏ, v.v...
Chân chạc có nhiều dáng thế khác nhau: dáng thẳng để đứng được, dáng
nghiêng không để đứng được, dáng nằm thân vươn lên phía trên.
Quy mô kích thước của chạc gốm rất khác nhau: có chạc gốm chỉ to bằng
ngón tay ngón chân (dài khoảng 3 - 4 cm), có chạc gốm khá lớn: cao có khi trên
20 cm, đường kính miệng thân có khi gần 30 cm. Đặc biệt, có không ít chạc
gốm được khoan lỗ ở gần đáy hay ở đáy. Số lỗ khoan trên chạc gốm cũng rất
khác nhau: 1 lỗ, 2 lỗ, có khi tới 4 lỗ. Các lỗ khoan được sắp xếp thành hình tam
giác hay thành đường thẳng.
Hiện vật này được gọi bằng nhiều tên khác nhau, tùy theo cách hiểu của mỗi
người. Nhìn chung, tên gọi của hiện vật này thường có liên hệ với hình dáng
hoặc chức năng sử dụng, như đèn, hòn kê, ông đầu rau, vật hình cốc, vật hình
sừng bò, vật giữ lửa và vật có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy.
Có thể nói, cho đến nay, tất cả những lý giải về chức năng của chạc gốm chưa
có cơ sở thuyết phục.
Chạc gốm bắt đầu xuất hiện trong Văn hóa Phùng Nguyên và tồn tại trong
suốt 2000 năm, từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, chủ yếu trên đòa bàn của hệ
thống Văn hóa Phùng Nguyên - Đông Sơn. Rõ ràng, sự xuất hiện, sự biến mất
cũng như chức năng của chạc gốm là rất huyền bí. Đây là những vấn đề rất cần
được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ.
Ngoài Việt Nam, ở Trung Quốc, chạc gốm cũng có mặt ở một số khu vực
thuộc trung du và hạ du của sông Hoàng Hà và Trường Giang. Chạc gốm phát
hiện được ở Hoa Bắc, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Đài Loan, nhưng nhiều nhất là ở
tỉnh Hồ Bắc. Chạc gốm xuất hiện từ thời đại đá mới đến sơ kỳ đồ sắt, sớm nhất
là 6000 - 5000 năm cách ngày nay, trong các Văn hóa Từ Sơn, Bắc Tân, Hà Mậu
Độ (loại hình Thành Bội Khi) và Đại Khê, trong đó nhiều nhất là Đại Khê.
Chạc gốm ở Trung Quốc chỉ có hai loại: loại hình trụ tròn thẳng đứng, dưới
to trên nhỏ và loại hình trụ nghiêng. Cả hai loại chạc gốm đều có thân rỗng và
chân đặc, có một lỗ tròn xuyên qua thân, nhánh phụ không phát triển, thường
chỉ tạo thành gờ nổi, cũng có loại chạc gốm tạo quai như Lũng Hòa. Kích thước
chạc gốm loại bé là 3,4cm, loại lớn là 21cm.
Cho đến nay, các nhà khảo cổ Trung Quốc chưa có ý kiến thống nhất về tên
gọi cũng như chức năng của chạc gốm. Trên đại thể, theo hình dáng, chạc gốm
có các tên gọi sau đây: Vật hình sừng, vật hình đầu lợn, vật hình mõm lợn, vật
hình giày; Theo công dụng, chạc gốm mang các tên sau: chày gốm, đồ gốm hình
17
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
khuôn, giá kê nồi, chân kiềng và v.v... Đa số cho chạc gốm là giá để kê nồi nấu
và gọi là “cái giá kê”.
Gần đây lại có ý kiến cho rằng, những chạc gốm có kích thước tương đối
lớn, ít trang trí hoa văn hoặc hoa văn đơn giản, có vết khói hoặc nung cháy, là
giá kê; Còn những chạc gốm nhỏ, trang trí hoa văn đẹp, có dạng hình động vật
thì được cho là hiện vật có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy(20).
Như vậy, giữa chạc gốm Việt Nam và Trung Quốc vừa có nét tương đồng vừa
có sự dò biệt. Sự tương đồng giữa chạc gốm Việt Nam và Trung Quốc được thể
hiện qua một số chạc gốm hình trụ, chân chạc gốm chia hai phần không đều
nhau, chạc gốm có quai, chạc gốm có xuyên một lỗ ở thân. Song, sự khác biệt
giữa chạc gốm Việt Nam và Trung Quốc là khá lớn: chạc gốm Việt Nam phong
phú và đa dạng về kiểu dáng, không có chạc gốm hình động vật, chạc gốm có
nhiều lỗ khoan. Do đó, chúng tôi cho rằng, chạc gốm Việt Nam và Trung Quốc
xuất hiện và phát triển độc lập với nhau, nhưng có thể có mối quan hệ qua lại
với nhau. Việc minh đònh chức năng và mối quan hệ của chạc gốm Việt Nam và
Trung Quốc là hết sức khó khăn và phức tạp.
Cuối cùng, để kết thúc bài viết, chúng tôi muốn tóm lược 3 mục đích chính
của tham luận này như sau:
1- Bước đầu giới thiệu 5 loại di vật độc đáo của Văn hóa Phùng Nguyên:
Khuyên tai 4 mấu, qua đá, nha chương, bàn đập vải vỏ cây và chạc gốm.
2- Thử tìm hiểu mối quan hệ qua lại nhiều chiều và những đóng góp đáng
ghi nhận của người Phùng Nguyên với những cư dân cùng thời ở Đông Nam Á,
Nam Trung Quốc và Đài Loan.
3- Những điều chưa biết về 5 loại di vật này là không ít. Rất mong được sự
quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Thò Kim Dung, Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá thời đại đồng thau ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1996, tr. 169.
2. Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quật đợt I Di chỉ Lũng Hòa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1986,
tr. 105.
3. Nguyễn Khắc Sử, Trình Nang Chung, Nguyễn Trùng Thương, Nguyễn Thò Toán, Âu Văn Hợp, Hà Giang
thời tiền sử, Sở Văn hóa thông tin Hà Giang xuất bản, Hà Giang 2000, tr. 19-32.
4. Hà Văn Tấn, Đóng góp vào lòch sử một kiểu khuyên tai, Khảo cổ học số 15, 1974 tr. 24.
5. Như trên, tr. 19-32.
6. Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quật đợt I Di chỉ Lũng Hòa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1986.
7. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Ngọc Bích, Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội 1978, tr.66-68.
8. Nguyễn Xuân Mạnh, Hán Văn Khẩn, Hoàng Anh Tuấn, Kết quả khai quật lần thứ hai di chỉ khảo ở
Khu Đường, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: 5 năm nghiên cứu và đào tạo của Bộ môn Khảo cổ
học (1995-2000), Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội-2002, tr. 28, 56.
9. Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quật đợt I Di chỉ Lũng Hòa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1986, tr. 91.
18
THỬ TÌM HIỂU MỐI QUAN HỆ CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN VỚI NHỮNG CƯ DÂN...
10. Nguyễn Xuân Mạnh, Hán Văn Khẩn, Hoàng Anh Tuấn, Kết quả khai quật lần thứ hai di chỉ khảo ở
Khu Đường, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: 5 năm nghiên cứu và đào tạo của Bộ môn Khảo cổ
học (1995-2000), Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội-2002, tr. 55.
11. Hà Văn Tấn, Hán Văn Khẩn, Hai hiện vật lạ trong một di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên, trong: Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1981, tr.62-65.
12. Nguyễn Lộc, Những hiện vật lạ mới phát hiện được ở di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, trong: Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1985, tr.73-74.
13. Hà Văn Tấn, Những chiếc “nha chương” trong Văn hóa Phùng Nguyên, Khảo cổ học số 2, 1993, tr.16-27.
14. Trần Kim Thau, Nguyễn Anh Tuấn, Thêm một “nha chương” phát hiện trong khu di chỉ Phùng Nguyên,
trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1998, tr.199-201.
15. Hà Văn Tấn, Những chiếc “nha chương” trong Văn hóa Phùng Nguyên, Khảo cổ học số 2, 1993, tr. 19.
16. Hà Văn Tấn, Về những cái gọi là “bàn đập” trong các di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên, trong: Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1979, tr.82.
17. Nguyễn Khắc Sử, Trình Nang Chung, Nguyễn Trùng Thương, Nguyễn Thò Toán, Âu Văn Hợp (2000),
Hà Giang thời tiền sử, Sở Văn hóa thông tin Hà Giang xuất bản, Hà Giang 2000, tr. 172-173.
18. Tăng Chung (Đăng Thong), Bước đầu tìm hiểu về những bàn đập vải vỏ cây ở khu vực Đài Loan.
Tăng Chung. On prehistorie stone bark cloth beaters in East Asia.
19. Tăng Chung (Đăng Thong), Bước đầu tìm hiểu về những bàn đập vải vỏ cây ở khu vực Đài Loan,
tr. 8-9.
20. Hoàng Xuân Chinh. Chạc gốm ở Trung Quốc, trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học, năm 1993,
tr.132.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội (1998), Báo cáo khai quật Đồng Vông lần thứ
tư, tháng 12/1997.
2 - Trần Thò Bằng (1979), Báo cáo khai quật di chỉ Gò Hện, Luận án tốt nghiệp ĐHTHHN, Tư
liệu khoa Lòch sử.
3 - Vũ Ngọc Bình (Chủ biên), Tiền sử Gia Lai. Sở Văn hóa thông tin Gia Lai xuất bản, Pleiku
1995, tr.200, bản vẽ XXIX.
4 - Nguyễn Duy Chiến, Báo cáo khai quật di chỉ Núi Xây, Tư liệu VKCH.
5 - Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Ngọc Bích, Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, Nxb Khoa học
xã hội, 1978, tr.66-68, h.99-101.
6 - Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quật đợt I Di chỉ Lũng Hòa, Nxb Khoa học xã hội, 1986,
Hà Nội.
7 - Hoàng Xuân Chinh, Chạc gốm ở Trung Quốc, trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học
năm 1993, 1994, tr.132.
8 - Tăng Chung (Đăng Thong), Bước đầu tìm hiểu về những bàn đập vải vỏ cây ở khu vực Đài Loan.
9 - Tăng Chung, On prehistorie stone bark cloth beaters in East Asia.
10 - Nguyễn Cường, Nguyễn Thò Đông, Chu Quế Ngân (2002), Phát hiện chiếc bàn đập thứ hai
ở Lạng Sơn, trong: NPHMVKXH năm 2001, tr.310-311.
11 - Nguyễn Cường Văn hóa Mai Pha, Sở VHTT Lạng Sơn xuất bản, Lạng Sơn 2002, tr.115, 296:
h.16.
12 - Nguyễn Thò Kim Dung, Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá thời đại đồng
thau ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1996, Hà Nội.
13 - Nguyễn Thò Kim Dung (2002), Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật di chỉ Xóm Rền, tỉnh Phú Thọ.
14 - Nguyễn Văn Hán (1977), Đồ đá Đồng Vông. Luận án tốt nghiệp ĐHTHHN, Tư liệu VKCH.
15 - Th.Hây - ec.đan (Th.Heyerdahl) (1952), Người Anh-điêng châu Mỹ ở Thái Bình Dương (tiếng
Anh), Luân Đôn, tr.133, bản ảnh 1 (nguồn: 24)
19
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
16 - Ngô Sỹ Hồng, Góp bàn về chức năng của “chạc gốm”, Khảo cổ học số 1, 1985, tr.21-27.
17 - Ngô Thò Lan, Vài nhận xét về các chân “chạc gốm” trong các đòa điểm Khảo cổ học, trong:
Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1998, tr.310.
18 - Lý Lộ Lộ (1997), Vải vỏ cây của dân tộc Lê ở Hải Nam, Văn vật thiên đòa, số 1, tr.42-43
(Nguồn 8, tr.2).
19 - Nguyễn Lộc, Những hiện vật lạ mới phát hiện được ở di chỉ Khảo cổ học Phùng Nguyên,
trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1985, tr.73-74.
20 - Nguyễn Xuân Mạnh, Hán Văn Khẩn, Hoàng Anh Tuấn, Kết quả khai quật lần thứ hai di
chỉ khảo ở Khu Đường, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: 5 năm nghiên cứu và đào tạo của
Bộ môn Khảo cổ học (1995-2000), Nxb Chính trò quốc gia, Hà Nội, 2002, (tr.55, ảnh III, h.1).
21 - Hà Văn Phùng, Thử xếp loại “chạc gốm” - di vật độc đáo của người Việt cổ, Khảo cổ học
số 3, 1977, tr.40-50.
22 - Hà Văn Phùng (1989), Góp bàn về một khía cạnh của “chạc gốm”, trong: Những phát hiện
mới về khảo cổ học năm 1989, tr.89-90.
23 - Hà Văn Phùng (1996), Văn hóa Gò Mun, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.276-277, Bản vẽ
XVII, bản vẽ XVIII.
24 - Bùi Thu Phương (2001), Những bàn đập tìm thấy ở di chỉ Gót Rẽ (Phú Thọ), trong: Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000, tr.168-169.
25 - Nguyễn Khắc Sử, Trình Nang Chung, Nguyễn Trùng Thương, Nguyễn Thò Toán, Âu Văn
Hợp (2000), Hà Giang thời tiền sử, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Giang xuất bản, Hà Giang 2000,
tr.172-173.
26 - Hà Văn Tấn (1974), Đóng góp vào lòch sử một kiểu khuyên tai, Khảo cổ học số 15, tr.19.32.
27 - Hà Văn Tấn (1974), Đồng Chỗ (Hà Tây), Khảo cổ học số 16, tr.77.
28 - Hà Văn Tấn (1979), Về những cái gọi là “bàn đập” trong các di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên,
trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1979, tr.80-83.
29 - Hà Văn Tấn, Hán Văn Khẩn (1981), Hai hiện vật lạ trong một di chỉ Văn hóa Phùng
Nguyên, trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1981, tr.62-65.
30 - Hà Văn Tấn (1985), Ghi thêm về khuyên tai có mấu ở Đông Nam Á, trong: Những phát hiện
mới về khảo cổ học năm 1985, tr.130-132.
31 - Hà Văn Tấn (1993), Những chiếc “nha chương” trong Văn hóa Phùng Nguyên, Khảo cổ học
số 2, tr.16-27.
32 - Hà Văn Tấn (Chủ biên) (1999), Khảo cổ học Việt Nam, Tập II, Thời đại kim khí Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.35,526; Bản ảnh 19-20.
33 - Trần Kim Thau, Nguyễn Anh Tuấn (1999), Thêm một “nha chương” phát hiện trong khu di
chỉ Phùng Nguyên, trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1998, tr.199-201.
34 - Lãng Thuần Thanh (1962), Chày đập vải vỏ cây bằng đá ở Nam Trung Quốc, Đông Nam Á
và Trung Mỹ (chữ Anh), Tập san Viện Dân tộc học, số 13, Đài Bắc, tr.240.
35 - Trương Việt Thắng, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chinh (1992), Về sưu tập Lò Gạch và một
số phát hiện mới Khảo cổ học ở Hà Giang (Hà Tuyên), trong: Những phát hiện mới về khảo
cổ học năm 1991, tr.10-12.
36 - Trần Quý Thònh, Trần Văn Bảo (1998), Những chiếc bàn đập tìm thấy ở Tây Nguyên, trong:
Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997, tr.189-190.
37 - Nguyễn Đình Thực (1974), Suy nghó về “chạc gốm”, Khảo cổ học số 15, tr.33.
38 - Nguyễn Anh Tuấn, Võ Quý (1999), Phát hiện thêm hai bàn đập bằng đá ở Phú Thọ, trong:
Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1998, tr.197-199.
39 - Nguyễn Hữu Tự (2000), Phát hiện bàn đập hoa văn gốm ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang,
trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000, tr.169.
20
PHONG TỤC CHÔN CẤT BẰNG CHUM GỐM
TRONG VĂN HÓA SA HUỲNH Ở VIỆT NAM
Trònh Sinh*
Văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng ở Miền Trung Việt Nam, được biết đến từ năm
1909 với dấu hiệu đầu tiên là “một kho chum gốm khoảng 200 chiếc nằm cách
mặt đất không sâu, trong một cồn cát ven biển vùng Sa Huỳnh”(1).
Từ bấy đến nay, hơn một thế kỷ trôi qua, với công sức của nhiều nhà khảo
cổ học Việt Nam và nước ngoài, chúng ta đã tìm được nhiều khu di chỉ cư trú
và mộ táng của văn hóa Sa Huỳnh và cả những văn hóa trước đó nữa - những
văn hóa tiền Sa Huỳnh. Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về phong tục
chôn cất của người Sa Huỳnh: chôn nguyên xác, cải táng, hỏa táng...?
Bằng tư liệu rút ra từ cuộc khai quật mới đây, tháng 6-2003 ở khu mộ táng
Động Cườm, xã Tam Quan Nam, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đònh (nơi chỉ cách
khu mộ Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi có khoảng 10 km) của Viện Khảo cổ học,
Viện Bảo tàng Lòch sử Việt Nam và Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Đònh, tác giả
đã cung cấp một số tư liệu về những mộ táng chôn cất bằng chum gốm nơi đây
và những nhận xét được rút ra.
I. NHỮNG NGÔI MỘ Ở ĐỘNG CƯỜM
Cuộc khai quật Động Cườm đã cung cấp 50 mộ táng, trong đó đa số là mộ
chum (46 mộ, chiếm 92%). Ngoài ra, còn tìm được 4 mộ nồi vò úp nhau, chiếm
8% số mộ ở đây. Sưu tập mộ táng ở đây đã giúp chúng ta tìm hiểu táng tục chôn
cất ở đây và qua đó thấy được phong tục chôn cất của cư dân Sa Huỳnh nói chung.
1. Những ngôi mộ chum
Những ngôi mộ (cả mộ chum và mộ nồi vò) được phân bố theo quy luật: chôn
ở phần phía đông và phía bắc của quả đồi cát nằm ngay ở bờ biển. Các ngôi mộ
không phân bố rộng mà chỉ trên một giải hẹp, lưng chừng đồi, không lên đến
đỉnh mà cũng không xuống quá thấp dưới chân đồi.
Chúng tôi đã đào nhiều hố thám sát và quan sát nhiều vách giao thông hào
ở ngoài khu vực phân bố vừa kể, nhưng không tìm thấy mộ và bất kỳ hiện vật
* Phó Giáo sư, Tiến só, Viện Khảo cổ học. Việt Nam.
21
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
nào. Điều đó chứng tỏ người Động Cườm chôn liền khoảnh, đã có ý thức về một
khu nghóa trang tập trung chứ không chôn tràn lan. Với một diện tích khai quật
300 m2, phát hiện được 50 mộ táng là một minh chứng về mật độ dày đặc mộ
táng trong đòa điểm khảo cổ học này.
Sưu tập 46 chum gốm có hình dạng khá giống nhau: thân hình trụ, đáy tròn,
hoa văn thừng thô được đập điền đầy khắp thân chum, một số có thân thon hơn,
vai chum hơi nhô ra, đáy cong hơn và hoa văn thừng cũng được đập theo từng
nhóm. Một số chum còn tìm được nắp đậy, có hình chóp cụt, miệng loe trang trí
hoa văn khắc vạch tô màu thổ hoàng. Nhiều chum gốm đã bò mất phần trên do
ảnh hưởng của lớp đất mặt đã bò ủi hoặc do việc trồng cây đã phá huỷ. Chum
có độ nung tương đối cao, vì thế kích thước của chum khá lớn mà chum không
bò vỡ cho đến trước lúc chôn, mặc dù ở một số chum có thân mỏng.
Chum được chôn đứng ở độ sâu cách mặt đất hiện tại trung bình khoảng
1 -1,5 m. Đa số chum được chôn còn nguyên dáng. Một số chum có phần khác
ở cách chôn: một chum được lót dưới đáy bên ngoài là một nồi gốm được đập
ra lấy mảnh để rải, một số được đập thủng phần đáy hoặc được đục một số lỗ
trên thân chum. Có thể việc người xưa đập thủng hoặc đục lỗ vào thân chum
phản ánh một quan niệm giúp cho linh hồn người chết được siêu thoát nhanh
hơn chăng?
Trong quá trình khai quật, chúng tôi không tìm được biên mộ. Có thể do mộ
táng được chôn trong cát, vì thế các huyệt mộ đã bò xoá nhoà, cát trong huyệt
lẫn với cát sinh thổ. Tuy vậy, có thể đoán đònh được các mộ táng được chôn
trong lớp sinh thổ cát vàng. Người xưa đào mộ huyệt có kích thước không lớn
lắm, chôn đứng chum xuống rồi vùi cát lại. Một điều đáng chú ý là không thấy
bằng chứng chắc chắn của các ngôi mộ chum có sự chôn chồng lên nhau hay
chia cắt nhau. Vì thế, có thể người xưa có hình thức nào đó đánh dấu mộ: bằng
những viên đá nhỏ rải trên mộ, đắp nấm mộ ? hay chỉ đơn thuần là dựa vào trí
nhớ ? Do tính chất của lớp cát chôn mộ dễ bò xáo trộn nên cũng chưa có thể
trả lời được câu hỏi này.
Chôn theo mộ là những đồ tùy táng. Có những mộ nhiều đồ tùy táng, có
những mộ không có một đồ tùy táng nào. Dường như không có mối liên quan
giữa hình thức, kích thước mộ chum và số lượng đồ tùy táng. Có những mộ kích
thước lớn nhưng không có bất kỳ một hiện vật nào. Điều đó chứng tỏ: những
chiếc chum gốm được sản xuất nhiều và dễ dàng. Mọi thành viên trong làng khi
chết đi đều có chum để chôn cất mặc dù có thể những thành viên này thuộc loại
nghèo không có của cải mang theo. Điều đó còn cho thấy nghề làm gốm đã phát
triển và phổ biến, trong từng cộng đồng cư dân nhỏ cũng nắm được kỹ thuật làm
gốm để có thể tự cung cấp phục vụ sinh hoạt hàng ngày và dòp tang ma.
Chôn cùng với chum là đồ tùy táng: một số đồ gốm như nồi, bát thường được
đặt ở phần chân hay trên nắp đậy bên ngoài chum. Khuyên tai, dọi chỉ, đồ trang
sức mã não, hạt cườm, đồ sắt... được chôn thường ở trong lòng chum. Chúng tôi
mô tả một số mộ chum điển hình.
22
PHONG TỤC CHÔN CẤT BẰNG CHUM GỐM TRONG VĂN HÓA SA HUỲNH Ở VIỆT NAM
Ngôi mộ số 03ĐgCHVIM6 thuộc loại mộ chum có thân hình trụ, có đáy hình
cầu. Chum bò vỡ ở phần trên, chỉ còn khoảng 1/2 ở phần dưới. Kích thước đo
được: chiều cao còn lại: khoảng 46 cm, đường kính thân còn lại: khoảng 60 cm,
chiều dày thân chum: khoảng 0,6 cm. Chất liệu chum là gốm thô pha nhiều cát,
mầu đỏ nâu, hoa văn trang trí trên thân chum là hoa văn thừng, điền đầy khắp
thân. Chum được tạo hình bằng phương pháp “dải cuộn” tức người xưa nặn gốm
thành dải rồi cuộn thành hình chum, miết láng thành chum trước khi nung. Ngoài
phần thân, chum có phần nắp vốn được úp lên chum, nay bò vỡ và rơi trong lòng
chum. Nắp có hình chóp cụt, phần trên phẳng, được trang trí hoa văn in vỏ sò.
Chum được chôn đứng trong lòng đất và cách mặt đất khoảng 1 m. Chum có
chức năng như một chiếc quan tài bằng gốm. Bên trong và ngoài chum gốm có
một số đồ tùy táng như sau:
- Đồ gốm có 2 chiếc nồi. Chiếc thứ nhất mang số ký hiệu 03ĐgCHVIM6 - 1,
có đường kính 22,3 cm chiều cao 22 cm độ dày 0,6 cm. Nồi có hoa văn thừng
thô, có dấu vết đun mầu đen, chứng tỏ nồi đã từng được sử dụng trước khi chôn.
Nồi được chôn phía ngoài và hướng miệng vào phần dưới của chum. Trang trí
hoa văn trên thân là hoa văn thừng thô, trang trí trên cổ là hoa văn khắc vạch.
Chiếc nồi gốm thứ hai mang số ký hiệu 03ĐgCHVIM6 - 4, có hình dáng giống
với chiếc nồi thứ nhất nhưng kích thước nhỏ hơn, có mầu đen tô ánh chì, bên
ngoài có hoa văn in dấu vỏ sò. Nồi được đặt trong chum gốm. Nồi còn dấu vết
đun chứng tỏ là nồi thực dụng trong cuộc sống hàng ngày.
- Đồ sắt có những hiện vật sau: 1 chiếc kiếm sắt còn cả chuôi có số ký hiệu
03ĐgCHVIM6 - 2, bò gỉ nhiều , được đặt trong lòng chum. Một chiếc dao sắt số
ký hiệu 03ĐgCHVIM6 - 3, bò gỉ nhiều. Một chiếc rìu sắt có số ký hiệu
03ĐgCHVIM6 - 6 có dáng hình thang, bò gỉ nhiều.
Ngôi mộ này là một ngôi mộ chôn 3 đồ sắt, chứng tỏ là một ngôi mộ của
nhà giàu vì khi đó, những hiện vật làm bằng sắt còn rất hiếm. Những công cụ
và vũ khí bằng sắt chỉ có thể do một người có vò trí cao trong cộng đồng mới
sử dụng.
Ngôi mộ số 03ĐgCHI M21 thuộc loại mộ chum có thân hình trụ, có đáy hơi
tròn, miệng loe xiên, mép miệng vê tròn. Mộ này còn có phần nắp chum hình
nón cụt, đã vỡ và rơi vào trong lòng chum. Chum được làm từ chất liệu gốm thô
pha nhiều cát. Đồ tùy táng bên trong chum là: 1 rìu sắt có họng tra cán, 1 mũi
nhọn bằng sắt, 1 chiếc khuyên tai ba mấu nhọn bằng đá nê phơ rít, 1 lục lạc
nhỏ bằng đồng, 29 hạt chuỗi màu đỏ bằng đá mã não và 158 hạt cườm bằng
thủy tinh nhiều mầu sắc. Bên ngoài chum còn một đồ tùy táng nữa là 1 chiếc
nồi gốm có dáng miệng loe cổ ngắn và có thể một vài đồ gốm khác bò vỡ không
nhận dạng được. Những đồ gốm này được đặt bên ngoài chum và ở vò trí trên
nắp trước khi chôn.
Qua 46 ngôi mộ chum gốm trong đó có 2 mộ điển hình vừa miêu tả trên
đây, chúng tôi có thể thấy được cách bố trí đồ tùy táng khá thống nhất: đồ
23
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ HAI
gốm chôn theo thường là nồi gốm nhỏ, bát bồng có hình dáng và chất liệu
mang đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh, trang trí hoa văn thừng, khắc vạch, in
ấn vỏ sò… Nhiều đồ gốm được đặt trên nắp chum, một số được chôn trong
lòng chum. Bên cạnh đồ đựng, đồ đun nấu, còn một số đồ gốm đặc biệt nữa.
Đó là một chiếc khuyên tai bằng đất nung thuộc loại hình khuyên tai có 3 mấu
giống với ba chiếc khuyên tai có ba mấu bằng đá cũng tìm được trong cuộc
khai quật này. Còn tìm được dọi xe chỉ với nhiều hình dáng dựa trên mặt cắt
ngang: hình chóp cụt, hình bán nguyệt, hình bầu dục… Đồ sắt cũng được tùy
táng nhưng không nhiều, tập trung ở một vài hiện vật vì khi đó đồ sắt rất quý.
Những đồ sắt này gồm kiếm, dao, rìu, đục, mũi nhọn. Chúng được đặt trong
lòng chum. Đồ trang sức chôn trong mộ chum cũng hết sức phong phú và rất
đẹp. Đó là chiếc lục lạc bằng đồng hình cầu có hoa văn xoắn ốc. Những đồ
trang sức bằng đá quý như ba chiếc khuyên tai ba mấu đặc trưng của văn hóa
Sa Huỳnh, nhiều hạt chuỗi bằng đá mã não mầu hồng thắm, có chiếc hình
thoi, có chiếc hình bầu dục, một số hạt chuỗi màu xanh lá cây hình trụ dài.
Đặc biệt, trong chum gốm có nhiều hạt cườm làm bằng chất liệu thuỷ tinh có
kích thước nhỏ vài mi li mét, có mầu đỏ, xanh, tím, đen… với hình trụ, hình
thùng rượu có lỗ xuyên tâm để xỏ dây đeo cổ. Một hiện vật cũng tìm được ở
đây là 2 mảnh rìu đá, chứng tỏ đến giai đoạn đồ sắt phát triển như ở Động
Cườm thì đồ đá vẫn tồn tại, có thể chỉ là tàn dư của một thời kỳ đã qua khi
mà công cụ chủ yếu được làm từ đồ đá.
Đồ tùy táng chôn trong mộ chum ở Động Cườm cũng cho thấy một phong
tục chôn cất: người xưa chia của cho người chết. Họ quan niệm người chết cũng
cần phải có đồ dùng và công cụ sản xuất, vũ khí như khi họ còn đang sống cuộc
sống trần thế. Vì thế, họ chôn theo từ những đồ quý giá như chiếc kiếm sắt, một
loạt đồ trang sức bằng đá mã não cho đến những vật dụng bình thường hàng
ngày vẫn sử dụng như nồi đun nấu. Họ cho rằng tài sản mang sang bên kia thế
giới cũng phải được làm đẹp, trau chuốt như các đồ gốm được trang trí hoa văn
bằng cách in vỏ sò, bôi thổ hoàng, các mô típ hoa văn đẹp đẽ trang trí trên nắp
chum, các khuyên tai đá quý được đánh bóng.
Từ đồ tùy táng, chúng ta có thể thấy một phần bức tranh kinh tế xã hội đương
thời của người Động Cườm.
Người Động Cườm đã ở vào giai đoạn sử dụng thành thạo công cụ và vũ
khí bằng sắt. Với đồ sắt, có thể họ đã có một ngành nông nghiệp phát triển
dựa trên quảng canh, phát cây bằng rìu… Họ cũng là người đánh bắt cá biển
vì ở gần biển, nhiều hoa văn in dấu vỏ sò biển. Nhưng nghề biển cũng không
chiếm toàn bộ thời gian và cuộc sống của họ. Mà họ vẫn lập làng, sản xuất
những chum gốm to, có nghóa trang riêng biệt, chứng tỏ sự đònh cư lâu dài ở
một vùng ven biển. Sự phân hóa giầu nghèo thể hiện qua đồ tùy táng. Mộ
giàu là có nhiều đồ tùy táng, nhất là đồ sắt, mộ nghèo thì không có hiện vật
hoặc là ít hiện vật. Số mộ nghèo chiếm đa số. Phân hóa giàu nghèo có thể
chứng tỏ có phân hóa xã hội, bước đầu có yếu tố hình thành một dạng nhà
nước sơ khai.
24
PHONG TỤC CHÔN CẤT BẰNG CHUM GỐM TRONG VĂN HÓA SA HUỲNH Ở VIỆT NAM
Trong các chum gốm không tìm được xương cốt. Để giải đáp câu hỏi người
chết được chôn cất trong chum ra sao là một vấn đề khó khăn.
Chúng tôi đã thành lập bảng thống kê kích thước của 20 chiếc chum gốm là
những chiếc còn đo được trong quá trình chỉnh lý sơ bộ tại hiện trường ngay khi
khai quật (xem bảng Thống kê). Chúng tôi cũng làm thực nghiệm để xem xét
với kích thước người bình thường liệu có bỏ lọt vào chum gốm để chôn không?
Chúng tôi chọn một nam giới trong số dân công đào cho chúng tôi có kích
thước cơ thể trên kích thước trung bình của người Việt một chút: chiều cao khoảng
1,7 m và cân nặng khoảng 70 kg để làm thực nghiệm các số đo khi cố gắng thu
nhỏ cơ thể hết cỡ để xem có khả năng bỏ lọt vào trong chum gốm không?
Số
TT
Ký hiệu
chum gốm
Chiều cao
toàn thân
chum (còn
lại)
Chiều cao
trong lòng
chum (còn
lại)
1
HI M2
~ 82 cm
~ 75 cm
~ 62 cm
~ 49 cm
2
HI M21
~ 82 cm
~ 77 cm
~ 63 cm
~ 49 cm
3
HI M34
~ 76 cm
~ 69 cm
~ 63cm
~ 48 cm
4
HI M8
~ 80 cm
~ 50 cm
5
HI M32
~ 71 cm
~ 50 cm
6
HI M5
~ 78 cm
~ 49 cm
7
HVI M8
~ 25 cm
~ 49 cm
8
HVI M1
~ 41 cm
~ 52 cm
9
HI M14
~ 60 cm
~ 38 cm *
10
HI M23
~ 50 cm
~ 50 cm
11
HVI M9
~ 50 cm
~ 48cm
12
HI M33
~ 64 cm
~ 49 cm
13
HI M29
~ 59 cm
~ 47 cm
14
HI M12
~ 48 cm
~ 43 cm *
15
HI M6
~ 37 cm
~ 36 cm *
16
HI M24
~ 73 cm
~ 49 cm
17
HI M11
18
HI M28
~ 59 cm
~ 48cm
19
HI M13
~ 32 cm
~ 43 cm*
20
HVI M12
~ 32 cm
~ 49 cm
~ 91 cm
~ 75 cm
Đường kính
Đường kính
vành miệng trong lòng chum
chum
(rộng nhất)
~ 58 cm
~ 49 cm
25