TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
********************
GS. LƯƠNG NINH
LỊCH SỬ
VƯƠNG QUỐC CHAMPA
PHẦN I
CHƯƠNG MỘT
THỜI KỲ TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Vương quốc Chăm hình thành và phát triển trên dải ven biển miền Trung
Việt Nam và một phần Cao nguyên Trường Sơn. Lúc lớn mạnh nhất trải dài từ
Hoành Sơn, sông Gianh ở phía Bắc đến sông Dinh - Hàm Tân, ở phía Nam đến lưu
vực Krong Pô cô và sông Đà Rằng trên Tây Nguyên. Về phía Đông, họ thực sự làm
chủ cả vùng ven biển Đông cùng với dãy đảo gần bờ. Cư dân- chủ nhân của vương
quốc này là người Champa. Còn gọi là Chăm, Chiêm, nói tiếng Malayo Polynesian. Ngày nay một bộ phận người Chăm nói tiếng Malayo - Chamic, giữ
văn hóa truyền thống Champa vẫn sinh sống ở đất cũ, ven biển miền Trung, hoặc
Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam.
Một bộ phận khác không ít, khoảng 2 vạn nguời, sống ở tỉnh Bình Định và
Phú Yên, tự gọi là người Chăm Hơroi, cũng nói tiếng Malayo - Chamic, nhưng lại
không biết chữ Chăm và không gắn bó gì với văn hóa Champa.
Ngoài ra, còn có gần 400.000 người nói tiếng Malayo-Polynesian sống thành
vùng trên Tây Nguyên như người Raglai, Ede, Giarai, Churu...
Như vậy hẳn là vốn không có một tộc gọi là Chăm riêng biệt ngay từ đầu
mà chỉ là một bộ phận dân cư nói tiếng Malayo- Polynesian. Những người nói tiếng
Malayo - Polynesian cư trú rất rộng trên vùng đảo Tây - Nam Thái Bình Dương,
Tây Ấn Độ Dương mà một bộ phận của họ tự gọi là “Người Biển (Orang Laut); một
bộ phận khác tự gọi là “Người Rừng” (Orang Glai/ Raglai/ GiaLai); như muốn đối
xứng với những dân nói ngôn ngữ Nam Á - Môn Khmer cùng sống ở Cao nguyên
miền Trung Việt Nam có lẽ từ xưa hơn, tự gọi là Người (miền) Núi (Mnong,
Pnong). Như thế, một bộ phận sống ở ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay
được gọi là người Chăm là do gắn với Chăm, từ khi họ lập vương quốc Chăm.
Nhưng như thế, cư dân cổ nhất sống trên lãnh thổ miền Trung Việt Nam là
ai? Người Chăm đã có mặt từ bao giờ? Họ có đúng là đã lập nước Chăm không? Sử
học đã theo đuổi nghiên cứu vấn đề này từ hàng chục năm nay mong tìm ra lời giải
đáp đáng tin cậy.
Cuộc khai quật khảo cổ học có quy mô tương đối lớn, khoảng 12.000m2,
trên vùng hồ Ya Ly có thể bị ngập nước khi làm thủy điện Ya Ly vào tháng7-8 năm
2001, đã đem lại nhiều hiểu biết lý thú. Theo báo cáo, ở lớp dưới, bên trong và bên
dưới lớp đất laterit hóa đã thấy một số công cụ đá ghè đẽo, có vai viền bằng cuội,
2
rất giống đá cũ hậu kỳ. Lớp đất và dạng công cụ khiến hoàn toàn có thể tin được ở
đây có một thời đá cũ hậu kỳ của dân bản địa trước đầu thiên kỷ I trước Công
nguyên. Việc phát hiện đồ đá cũ trong tầng văn hóa có niên đại sớm ở Tây Nguyên
là điều tương đối hiếm và như thế, điều đó cũng đã nói lên cư dân bản địa đã sinh
sống từ rất lâu đời trên Tây Nguyên. Có lẽ họ là lớp cư dân nói tiếng Môn Khmer
(đúng ra là Môn cổ) còn sinh sống hiện nay ở đây với tỷ lệ khá cao, khoảng 400.000
trên 1 000 000 dân. Từ đầu thiên kỷ I trước công nguyên, có sự biến chuyển dân cư
ở đồng bằng ven biển và không thể không ảnh hưởng tới dân cư trên Cao nguyên.
Bên trên của một lớp văn hoá đá cũ hậu kỳ khá mỏng, lại thấy đột ngột và dày đặc
những mộ chum có đựng mảnh gốm, những công cụ đá mới hậu kỳ, đồ trang sức,
một ít dấu vết của đồ đồng và sắt, cho thấy có mối liên hệ hiển nhiên giữa văn hoá
sơ kỳ sắt trên Cao nguyên và vùng ven biển miền Trung. Một số nhà Khảo cổ nghĩ
dường như trên Cao nguyên, nhất là ở đây, ở Kon Tum, không thực sự có một thời
kỳ đá mới, mà từ đá cũ nhảy thẳng sang, sự có mặt của một lớp cư dân mới có nền
văn hoá cao hơn, đến cộng cư, cùng xây dựng Cao nguyên và vẫn giữ mối liên hệ
với dân ven biển. Dường như có một sự di chuyển dân cư, đặc biệt là của người
Nam Đảo (Austronesians). Điều này đã được nhiều học giả quan tâm thảo luận.
Những người này đi theo những hướng nào và đến những nơi đâu? Ở Việt Nam, có
lẽ họ đi từ biển Đông vào định cư ở ven bờ biển suốt chiều dài từ Bắc đến Nam
mang đến sự giao lưu văn hóa Lục địa - Biển, để lại dấu ấn của nền văn hóa Biển
trên các nền văn hóa sơ kỳ kim khí, như Hạ Long, Quỳnh Văn cho đến Long Thạnh,
Bình Châu ở miền Trung, nhưng nền văn hóa tiền sử, được coi là văn hóa Tiền Sa
Huỳnh, nhưng văn hóa Hang Gòn, Cần Giờ ở miền Nam, tương đương và gần gũi
Sa Huỳnh, có thể coi là Tiền Óc Eo, góp phần chuẩn bị cho sự ra đời của văn hóa
Óc Eo - Phù Nam ở châu thổ sông Cửu Long. ở Miền Trung, tiếp nối văn hóa Tiền
Sa Huỳnh, có niên đại khoảng nửa đầu thiên kỷ I trước Công nguyên, văn hóa Sa
Huỳnh thể hiện đậm đặc, dường như gắn liền với sự di cư đến từ biển trong một làn
sóng mạnh mẽ hơn đến miền Trung Việt Nam, trong đó, một địa điểm tiêu biểu là
Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng Ngãi, tiêu biểu cho một giai đoạn văn hóa mới phát
triển, giai đoạn sơ kỳ đồ sắt, có niên đại từ khoảng giữa thiên kỷ I trước Công
nguyên cho đến khoảng đầu Công nguyên.
Như thế chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh nền văn hóa sắt sớm mang đậm
dấu ấn văn hóa Biển, Nam Đảo, tiền thân trực tiếp của người Chăm, dân nói tiếng
Malayo - Polynesia, của văn hóa Chăm và của vương quốc Champa. Văn hóa Sa
Huỳnh xuất hiện trước Champa về mặt niên đại văn hóa khảo cổ và về phạm vi
lãnh thổ của nó, tuy nhiên, văn hóa Sa Huỳnh có phải là tiền thân trực tiếp hay nói
cách khác, Chăm có phải là sự tiếp nối trực tiếp của Sa Huỳnh và trên cơ sở văn hóa
Sa Huỳnh hay không thì từ trước đến nay, không phải là không có sự nghi vấn khoa
3
học. Đương nhiên do cùng là mối bận tâm không nhỏ của các nhà khảo cổ, và của
những người nghiên cứu lịch sử, văn hóa Champa. Từ giai đoạn văn hóa khảo cổ
học được gọi là giai đoạn Tiền Sa Huỳnh, thể hiện trên các di tích Bình Châu, Long
Thạnh (cũng thuộc Quảng Ngãi) mà người ta có thể thấy, chỉ riêng ở Long Thạnh
khá nhiều đồ gốm gồm những chum, vò hình trứng, có nắp đậy, khá nhiều tô có
chân, hoa văn trang trí là văn thừng, khắc vạch, các băng hình sóng, văn in băng
răng sò, cọng rơm; các băng tô màu, được miết láng bóng, đẹp; một số được miết
chì đen bóng. Đó là những nét đặc trưng cho gốm Tiền Sa Huỳnh lưu giữ trong gốm
Sa Huỳnh.
Một nét nổi bật của văn hóa Sa Huỳnh là tục chôn người chết trong vò đất
nung, còn gọi là chum; tuy nhiên cho đến nay chưa khẳng định được các vò đó là vò
quan dùng để chôn nguyên, cải táng hay dùng tro xương hỏa táng.
Từ đầu thế kỷ, trong nhiều năm, các nhà khoa học thuộc Trường Viễn Đông
Bác cổ đã khai quật một số địa điểm thuộc văn hoá Sa Huỳnh, một vùng bờ biển
tỉnh Quảng Ngãi, trên các địa điểm Thanh Đức, Phú Khương, Tân Long, mấy bãi
mộ chum (vò) nằm cách mặt đất, cát không sâu, hơn 400 vò gốm. Tiếp tục cho đến
nay, các nhà khoa học nước ngoài và Việt Nam lại phát hiện thêm nhiều bãi mộ vò,
rải rác trên bờ biển Việt Nam từ Quảng Bình đến Quảng Nam, từ Quảng Ngãi đến
Hang Gòn, Phú Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai cho tới vùng ven biển Thành phố Hồ Chí
Minh. Bên cạnh và nhất là bên trong vò, người ta còn thấy có đồ trang sức, như
vòng tay, xuyến bằng đá, vòng cổ bằng hạt đá quý, mã não, hạt thủy tinh, thủy tinh
mầu, đôi khi còn có cả viên thủy tinh lam đỏ, mảnh thủy tinh. Điều đó dẫn tới một
số nhà nghiên cứu cho rằng cư dân Sa Huỳnh đã biết nghề luyện thủy tinh, nấu thủy
tinh. Những kết quả phân tích thạch học gần đây cho biết thủy tinh được gia công
thêm tại chỗ, nhưng chính thủy tinh thì có nguồn gốc từ nước ngoài.
Lẫn trong số đồ trang sức này còn có loại mặt dây chuyền hình con thú 2 đầu
bằng đá mầu, đá quý. Loại mặt dây chuyền (pendant) này dường như là một kiểu
đồ trang sức đặc trưng của dân Nam Đảo (Austronesians) nên người ta đã thấy trên
khá nhiều di chi khảo cổ học thuộc văn hoá Sa Huỳnh hay giống văn hóa Sa Huỳnh
ở ven biển Việt Nam, Thái Lan và ở cả vùng đảo ngoài biển Đông. ở di chỉ Ban Don
Ta phet, có mặt dây chuyền (pendant) hình hai đầu thú và cả hình sư tử quỳ bằng đá
carnelian.. (Ian Glower, 1989). Vỏ ốc tiền đục lỗ xâu dây làm vòng cổ cũng là một
đặc trưng đồ trang sức của dân đánh cá ngoài khơi.
Cùng lớp văn hóa vò mộ và đôi khi cả trong vò, các nhà khảo cổ phát hiện
được khuôn đúc đồng, mảnh nồi nấu đồng, nhiều xỉ đồng, nhưng đặc biệt là có một
số lượng đáng kể đồ sắt. Có vũ khí sắt, như gươm và nhất là công cụ sắt, như cuốc
thuổng, liềm, dao, rìu, tổng cộng đến nay có tới vài trăm hiện vật. Cùng với đồ sắt,
4
ngay cả trong vò, còn có một khối lượng không nhỏ công cụ đá, các rìu, bôn bằng
đá mài nhẵn phổ biến là có nấc, có vai. Niên đại của văn hóa Sa Huỳnh là cuối thời
đồ đồng và bắt đầu thời đồ sắt. Phân tích hiện vật và đo C14 một số mẫu gốm,
người ta có niên đại của văn hóa này là khoảng giữa thiên kỷ I trước Công nguyên,
cụ thể hơn là khoảng thế kỷ V trước Công nguyên. Một số tác giả muốn đẩy niên
đại lên sớm hơn một chút vào đầu thiên kỷ I trước Công nguyên. Về đại thể, có thể
thấy vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, có một nền văn hóa mới mang đặc
trưng văn hóa biển xuất hiện và phổ biến trên vùng ven biển Việt Nam, ở một số nơi
còn mở rộng lên cả Cao nguyên.
Trong vò, ngoài đồ trang sức công cụ và vũ khí bằng đá, đồng, sắt còn có cả
đồ dùng thường nhật. Những đồ dùng này là nồi, bình, vò, tô, bát... bằng gốm, để
nguyên hay đập ra để cho vừa một số vật trong vò, chum. Như vậy, vật gốm trong
vò và nhất là bản thân vò chum là một tập hợp hiện vật gốm Sa Huỳnh rất nhiều về
số lượng, phong phú về loại hình và rất đặc trưng.
Nét độc đáo trước hết là hình dáng các "vò quan" Vò hình trứng hay hình trụ,
đáy cong; một số ít có hình dáng khác, như kiểu nồi hình nón cụt. Tất nhiên phải
lớn, vì dùng làm quan tài. Cái lớn cao 80-100cm, đường kính thân 50-60cm; những
cái vừa và hơi nhỏ, cao 40cm, 50cm, bụng rộng 40-50cm. Vì thế có người gọi là vò,
có người gọi là chum (người Pháp gọi trước là jarre = lu, lọ, bình, vại, vò, chum).
Các vò này phần lớn làm bằng đất sét pha cát phù sa nên xương gốm thô,
phổ biến có mầu hồng nhạt, vàng nhạt, đôi nơi có màu vàng sẫm, cứng do có độ
nung cao; dày từ 1-2cm. Thường để mộc; Một số vò thuộc giai đoạn muộn có áo
gốm mầu hồng thẫm được miết láng bóng, có hoa văn trang trí trông khá đẹp.
Những vật gốm "tùy táng" nhỏ hơn và là đồ đựng nên thường được chế tác
cẩn thận hơn. Các nồi, vò, bình, bát tô có chân; một số làm bằng bàn xoay, có hình
dáng cân đối đẹp, có xương gốm mịn, nung kỹ có phủ một lớp áo gốm có màu đậm
hơn. Hoa văn trang trí đóng vai trò rất quan trọng. Về kỹ thuật làm có văn thừng,
khắc vạch; văn in, văn tô mầu, dựng cong ra tạo văn trơn, răng vỏ sò. Về hình dạng
văn, có vạch đường xiên chéo, văn vạch chữ chi, đường hình làn sóng, lấy thừng thô
dập từ vai tới đáy, lấy vỏ sò in thành từng hàng hình chữ V lăn tăn. Một số được
miết trên cổ hay vai những dải bột chì (graphite) rồi miết thành dải băng đen bóng
khá lạ mắt. Tóm lại, các công cụ, dụng cụ bằng đá mài phần đáng kể có vai, hiện vật
đồng, sắt và nhất là sắt, cùng với đồ trang sức và đồ gốm, cùng với cả hình dáng,
chất liệu, hoa văn trang trí phát hiện được trong các di chi văn hóa Sa Huỳnh cũng
chính là trình độ phát triển và đặc trưng độc đáo của văn hóa Sa Huỳnh, của cư dân
Sa Huỳnh. Với trình độ đó họ đang đứng trước ngưỡng cửa của thời đại văn minh,
của sự hình thành xã hội có phân hóa, có Nhà nước.
5
Cuộc khai quật lớn di chỉ Lung Leng (Ya Ly-Kontum) nói trên, cho thấy
dường như cư dân bản địa, lâu đời, những người ngày nay nói tiếng Môn-Khmer,
ngày xưa là tiếng Môn cổ, vẫn sống ở đó đã sử dụng các công cụ đá cũ từ hàng
nghìn năm trước và vẫn kéo dài như thế cho đến khoảng nửa đầu thiên kỷ I trước
Công nguyên; dường như có sự di cư của một bộ phận dân nói tiếng Mã Lai - Đa
Đao chuyển đến sống bên cạnh, thậm chí hơi bị dồn về phía Tây, mang đến một
phần của yếu tố mới, của văn hóa Sa Huỳnh, với mộ vò, đồ trang sức trùm lên bên
trên, muộn hơn. Một lượng công cụ đá mài cùng lớp mộ vò cho thấy có sự xuất hiện
hơi đột ngột từ biển vào, phần định cư ở ngay các vùng thấp ven biển, phần tìm
thêm đất cư trú trên cao nguyên.
Cho nên ngày nay phần lớn dân Kontum, là người Banar, nói ngôn ngữ MônKhmer, khoảng 150.000 người, trong khi ở Sa Thầy, trên đất Lung Leng ở phía tây
Kontum là người Gia Rai, nói tiếng Malayo, chỉ có một số nhỏ chỉ bằng khoảng
1/10.
Những dân nói tiếng Malayo khác đến nhiều hơn ở phần phía Nam Cao
nguyên. Có lẽ càng có cơ sở để nghĩ dân nói tiếng Malayo, ít ra là ỏ Việt Nam là từ
biển vào. Với trình độ phát triển của văn hóa Sa Huỳnh, cư dân đứng trước ngưỡng
cửa của thời đại văn minh, của sự chuẩn bị thành lập nhà nước. Chuẩn bị thôi, mà
chưa thể làm được ngay, bởi vì lúc này vùng lãnh thổ của cư dân Sa Huỳnh, phần
lớn miền Trung Việt Nam ngày nay cũng như cả miền Bắc, vùng châu thổ sông
Hồng vẫn đang còn bị Trung Quốc thời nhà Hán xâm chiếm và đô hộ.
Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán thay thế nhà Triệu xâm lược và thống
trị nước Âu Lạc. Ngoài hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, nhà Hán lập thêm quận Nhật
Nam. Quận Nhật Nam là miền đất từ Hoành Sơn có lẽ đến đèo Cù Mông, chia làm
5 huyện Tây Quyển, Chu Ngô, Tỵ Cảnh (hay Tỵ Ảnh theo Thủy Kinh Chú) Lô
Dung va Tượng Lâm (Tiền Hán Thư, q.28, tờ 10b). Tượng Lâm là huyện xa nhất về
phương Nam trong các đất chiếm đóng của nhà Hán, là đất Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định ngày nay.
Không chịu được sự thống trị và bóc lột tàn bạo của nhà Hán, nhân dân các
vùng bị chiếm đóng đã không ngừng nổi dậy chống lại. Nhân dân Nhật Nam đã
nhiều lần cùng với nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân vùng lên khởi nghĩa. Mùa xuân
năm 40, dân Nhật Nam đã từng hưởng ứng mạnh mẽ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Sau cuộc đàn áp đẫm máu của Mã Viện, nền thống trị của nhà Hán được tăng cường
về mọi mặt và các chính sách bóc lột, các thủ đoạn đồng hóa cũng được thực hiện
ráo riết hơn. Phong trào đấu tranh bị lắng xuống một thời gian rồi lại trỗi dậy mạnh
mẽ.
6
Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của hơn 2000 dân Tượng Lâm ở cực nam quận
Nhật Nam vào mùa hè năm 100. Chính quyền đô hộ phải điều quân của quận và các
huyện đến đàn áp, sát hại thủ lĩnh của nghĩa quân và dập tắt cuộc khởi nghĩa, nhưng
sau đó nhà Hán phải phát chẩn cho dân nghèo ở Nhật Nam và tha tiền lao dịch, tô
ruộng, thuế co kho trong hai năm cho dân Tượng Lâm để xoa dịu lòng bất bình của
họ; đồng thời nhà Hán đặt thêm chức Binh trương sự ở Tượng Lâm để đề phòng và
sẵn sàng đàn áp mọi hành động phản kháng.
Năm 136, nhân dân Tượng Lâm lại nổi dậy; năm sau, năm 137 bùng nổ một
cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân Nhật Nam. Nghĩa quân "đánh huyện Tượng Lâm
đốt thành và chùa, giết Trương Lai " (Hậu Hán thư, q.116, tờ 6b). Thứ sử Giao Chỉ
là Phan Điền điều hơn 1 vạn quân của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân vào đàn áp.
Nhưng binh lính Giao Chỉ, Cửu Chân đã chống lại cuộc hành quân, quay sang đánh
phá quận trị. Cuộc binh biến đó đã kìm chân bọn đô hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc đấu tranh của nhân dân Nhật Nam phát triển.
Lúc bấy giờ, viên thị ngự sử của nhà Hán đang đi sứ ở Nhật Nam là Gia
Xương, cùng với bọn quan lại đô hộ trong quận, hợp sức lại tổ chức cuộc đàn áp
Nghĩa quân đã đánh thắng bọn chúng và bao vây chúng hơn một năm trời.
Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam đã gây chấn động khá mạnh trong
triều đình nhà Hán. Hán Thuận đế (126-144) rất lo lắng đã phải họp các công khanh
bách quan và duyên thuộc 4 phủ lại để bàn phương lược đối phó. Triều đình bàn nên
sai một đại tướng huy động 4 vạn quân ở các châu Kinh, Dương, Duyên, Dự sang
đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam. Nhưng đại tướng Lý Cố đã nêu
lên 7 lý do để bác kế hoạch điều quân viễn chinh. Theo Lý Cố, tình hình nhà Hán
đang có nhiều khó khăn, ngay ở các châu Kinh Dương cũng đang có "giặc cướp tụ
họp không tan", nên việc trừng phạt bằng đại quân không dễ và sẽ gây ra nhiều mối
lo. Hơn nữa, quân viễn chinh "đi xa muốn đàm" tiếp tế tốn kém, thủy thổ không
hợp, sẽ chết mòn, bỏ trốn và mệt mỏi, không còn đủ sức chiến đấu. Lý Cơ cho rằng
"nay ở Nhật Nam quân ít, lương cạn, giữ không đủ sức, mà đánh cũng không xong
"nên rút ra Giao Chỉ, rồi dùng quỷ kế" chiêu mộ bọn man di khiến chúng tự đánh
lẫn nhau, cho vàng lụa đến cấp cho chúng, kẻ nào làm phản gián lấy được đầu giặc
thì phong hầu, cắt đất mà thưởng cho (Hậu Hán thư, q.116,8a).
Vua nhà Hán cử Chúc Lượng làm thái thú Cửu Chân, Trương Kiều làm thứ
sử Giao Chỉ, thực hiện kế ly gián thâm độc của Lý Cố. Cuộc khởi nghĩa ở Nhật
Nam tan rã dần sau hơn một năm hoạt động (vào năm 138).
Nhưng 6 năm sau, năm 144, dân Nhật Nam lại nổi dậy, liên kết với dân Cửu
Chân cùng chống kẻ thù chung. Hàng nghìn nghĩa quân đánh phá các huyện trị,
7
thành ấp của bọn quan lại đô hộ nhà Hán. Thứ sử Giao Chi là Hà Phương phải dùng
nhiều thủ đoạn mới dẹp yên được.
Năm 157, một cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra ở Cửu Chân do Chu Đạt cầm đầu.
Nghĩa quân đã trừng phạt tên huyện lệnh khét tiếng tham bạo ở Cư Phong, đánh phá
quận trị Cửu Chân, giết chết thái thú Nghê Thức. Nhà Hán cử Nguỵ Lang sang làm
đô úy quận Cửu Chân, tổ chức đàn áp tàn khốc, tàn sát hơn 2000 người. Nghĩa quân
lùi vào chiếm giữ Nhật Nam cùng với dân ở đây tiếp tục cuộc đấu tranh trong 3 năm
(157-160), lực lượng có lúc phát triển lên đến hơn 2 vạn người.
Tinh thần đoàn kết đấu tranh của nhân dân ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam được thể hiện và phát triển cao hơn trong cuộc khởi nghĩa do Lương
Long đứng đầu năm 178. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Giao Chỉ, lan sang Hợp Phố, Ô
Hủ và lôi cuốn hàng vạn dân Cửu Chân, Nhật Nam tham gia. Nghĩa quân đánh
chiếm các quận huyện và làm chủ tình hình trong 3 năm (178-181).
Như vậy là trong thế kỷ II, nhân dân Nhật Nam nói chung, dân Tượng Lâm
nói riêng đã liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa. Nhưng cuộc khởi nghĩa này luôn luôn
được sự đồng tình ủng hộ và nhiều khi cả sự tham gia hưởng ứng của nhân dân Giao
Chỉ, Cửu Chân. Đó là những bước chuẩn bị, tập dượt quan trọng dẫn đến thắng lợi
giành độc lập.
Cuối thế kỷ II, đời Sơ Bình ( năm 190-193), nhân Trung Quốc loạn lạc, dân
Tượng Lâm ở nơi xa xôi nhất đã đạt được thắng lợi trước tiên. Họ đã nổi dậy, giết
huyện lệnh, giành quyền tự chủ và lập nước. Cuộc khởi nghĩa tiến hành trong hoàn
cảnh thuận lợi: dân Giao Chỉ và Cửu Chân cũng đang đứng lên đấu tranh chống sự
thống trị hà khắc của Trung Quốc, đánh phá Châu Thành, giết thứ sử Chu Phu (năm
190) khiến trong mấy năm không lập nổi quận cai trị. Người lãnh đạo khởi nghĩa ở
Nhật Nam có tên là Khu Liên (có sách viết là Khu Quý, Khu Đạt hay Khu Vương)
lên làm vua. Chữ "Quý" và Đạt viết hơi giống nhau, cho nên đây chắc không phải
tên người mà có thể là sự chuyển âm từ ngôn ngữ cổ; Khu Liên - Kurung, có nghĩa
là tộc trưởng, thủ lĩnh, vua. Quốc gia mới lập của dân Tượng Lâm một thời gian dài
được các thư tịch cổ Trung Hoa gọi là nước Lâm Ấp; sách Thủy Kinh chú giải thích
rõ: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ "Tượng", chỉ gọi là Lâm Ấp.
Lương thư tức bộ sử nhà Lương (502-556) do Diêu Tư Liêm soạn vào đầu
thế kỷ VII đã dựa vào các tài liệu ghi chép của các thời trước cho biết một cách hệ
thống về nước Lâm Ấp và các vua kế tiếp nhau ở nước Lâm Ấp: Khu Liên, Phạm
Hưng, Phạm Dật, Phạm Văn... Phạm Hồ Đạt,.. "làm vua" vào khoảng cuối thế kỷ II
đến đầu thế kỷ V. Trong thời gian này, các quan lại Trung Hoa nhiều lần đem quân
đánh Lâm Ấp nhưng không thắng vì Lâm Ấp dựa vào địa thế hiểm trở chống cự
được.
8
Thư tịch Trung Hoa gọi tên Lâm Ấp cho đến Tấn Đường thư, thế kỷ VIII,
nhưng từ thế kỷ IV, có thêm nguồn tài liệu bi ký, cho phép ít nhiều so sánh các tên
vua qua cách gọi của bi ký và thư tịch. Cũng được biết tên nước được gọi chính
thức trong văn bia là Champa, có thể là lấy theo tên một loài hoa đẹp - hoa Ngọc lan
Champaca Linnae, cũng có thể như ở một số nơi khác, gọi theo địa danh một vùng
ở Ấn Độ, ở phía Bắc hạ lưu sông Hằng- Ganga. Tên gọi Champa được biết xuất
hiện lần đầu tiên trên văn bia của vua Champa là Sambhuvarman (595-629), tức
khoảng cuối thế kỷ VI, và trên cả bia Chân Lạp gọi là bia Ang Chumnik có niên
điểm 668. Nước Lâm Ấp rồi đến Champa thành lập và phát triển, nhưng có đúng là
trên cơ sở văn hóa Sa Huỳnh và tiếp nối Sa Huỳnh không? Có phải trên địa bàn của
văn hóa Sa Huỳnh, của nước Champa sau này, tức trên suốt chiều dài của miền
Trung Việt Nam, từ sông Gianh ở Quảng Bình đến sông Dinh ở BìnhThuận không?
Vấn đề này đã làm bận tâm những nhà nghiên cứu trong nhiều năm.
Đến những cuộc khai quật khảo cổ học gần đây ở Hậu Xá (Quảng Nam)
năm 1995-1996 phát hiện được tầng văn hóa cho thấy sự phát triển tiếp nối từ gốm
Sa Huỳnh đến gốm Chăm, tức là từ trước Công nguyên đến mấy thế kỷ đầu Công
nguyên. Đặc biệt là cuộc khai quật khảo cổ học trên đất Bãi Chợ bên cạnh khu di
tich Đồng Dương phát hiện tầng văn hóa sâu 1,1m, gồm 2 lớp. Lớp dưới, dày 60
cm có nhiều gốm Sa Huỳnh từ thô đến mịn, có áo gốm hồng nhạt, lớp trên dày 50
cm là gốm Sa Huỳnh muộn xen lẫn gốm đất sét pha cát màu xám nhạt, xương mỏng
mà cứng có độ nung cao, áo gốm màu vàng nhạt, có văn in ca-rô, ảnh hưởng của
gốm Trung Quốc thời Hán.
Lớp trên cùng lẫn cả lớp đất canh tác là gốm Chăm, xương gốm là đất sét pha
cát, hồng nhạt, để mộc hoặc có áo gốm cứng màu hồng nhạt, lẫn một ít mảnh gốm
Trung Quốc muộn, thế kỷ VIII-X. Di chỉ khảo cổ Đồng Dương khai quật năm 1996,
là một bằng cứ rõ ràng và chắc chắn về sự phát triển liên tục từ văn hóa Sa Huỳnh
từ sớm đến muộn, đến giai đoạn chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và tiếp tục đến những
thế kỷ IX-X, khi đã có gốm Chăm, văn hóa Chăm và sự giao lưu với văn hóa Trung
Quốc thời Tuỳ-Đường1.
Năm 1999-2000 ở Phú Yên, trên bờ của sông Đà Rằng đã đào được 2 chum
lớn chứa đựng khoảng 500 kg tiền đồng; năm 2001, ở Bình Định lại đào được 1
chum tiền cổ có gần 9000 đồng tiền, nặng hơn 100 kg. Các đồng tiền này phần lớn
là tiền Trung Quốc từ thời Hán (thế kỷ III đến thời Thanh - đầu thế kỷ XX). Đó là
những bằng cứ nói lên, một mặt là sự phát triển liên tục theo thời gian của một quốc
gia từ đầu Công Nguyên đến thời gian gần đây, quan hệ buôn bán trao đổi rộng rãi
và thường xuyên và cua một lãnh thổ nối liền. Đáng chú ý là chum tiền ở Bình Định
1
(Báo cáo của Trịnh Cao Tưởng, 1998)
9
còn cho thấy không có sự đứt đoạn nào trong nhiều thế kỷ phát triển và biến chuyển
dù trải qua những biến động của lịch sử.
10
PHẦN II
THỜI SƠ KỲ VƯƠNG QUỐC CHAMPA
(THẾ KỶ II-X)
CHƯƠNG HAI
GIAI ĐOẠN SINHAPURA
(TỪ ĐẦU ĐẾN KHOẢNG NĂM 750)
Lương Thư tức bộ sử nhà Lương (năm 502-556) do Diêu Tư Liêm soạn vào
đầu thế kỷ VII cho biết một cách hệ thống về nước Lâm Ấp từ khi mới lập.
Khu Liên làm vua mấy chục năm, rồi vì không có con, cháu ngoại là Phạm
Hưng thay, cho đến khoảng cuối thế kỷ III. Tiếp đó con là Phạm Dật nối ngôi, làm
vua trong 12 năm (năm 337-349). Phạm Văn vốn là người hầu của viên quan võ
huyện Tây Quyến quận, Nhật Nam (có lẽ cũng là người bản xứ), sau theo hầu Dật,
có tài được làm tướng. Sau Văn là Phạm Phát, con của Văn ở ngôi từ năm 349 đến
sau năm 361, rồi đến Phạm Tử Đạt (hay Phạm Hồ Đạt) cháu của Phát, làm vua vào
cuối thế kỷ IV- đầu thế kỷ V.
Dưới thời Phạm Hưng và Phạm Dật các quan lại Trung Quốc nhiều lần đem
quân đánh Lâm Ấp, nhưng không thắng vì Lâm Ấp dựa vào địa thế hiểm trở chống
cự được.
Từ thời Phạm Văn, khoảng thế kỷ III, đã chú ý xây dựng bộ máy chính
quyền, quân đội, nhân thế mạnh đã đem quân đánh các nước lân cận, như "Đại Kỳ
Giới, Tiểu Kỳ Giới". Lại đem quân trừng trị bọn quan lại nhà Hán tham tàn, hà
khắc, đánh phủ quận Nhật Nam, bắt giết thái thú Hà Hầu Lẫm, lấy thây tế trời, rồi
chiếm quận Nhật Nam, lấy Hoành Sơn làm cương giới phía Bắc, xây thành Khu
Túc để phòng giữ.
Các vua kế sau của Lâm Ấp vẫn phải thường xuyên chống cự, đối phó với
các quân nhà Hán, bảo vệ lãnh thổ, đôi khi còn đánh lấn ra tới cả phía, nam quận
Cửu Chân. Tuy nhiên, có lần vào năm 446, thứ sử Giao Châu thuộc nhà Tiền Tống
là Đàn Hòa Chi đã đem quân đánh Lâm Ấp, thắng, cướp đoạt nhiều của cải, cướp
phá kinh đô rồi rút về.
Đến năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy lại đem quân đánh Lâm Ấp thắng
vua Phạm Phấn Chi, cướp đoạt của cải, tàn phá kinh đô, rồi lại phải rút quân về.
11
Tuy gặp phải nhiều khó khăn, Lâm Ấp vẫn giữ được quyền tự chủ và đang bắt đầu
phát triển.
Kinh đô ở đâu? Thủy Kinh chú mô tả "Đô thành có điện quay về hướng
Đông, cao hơn thành quá một trượng rưỡi... dùng phân bò trát tường vách màu
xanh?). Phi tần chọn tiêu phòng không có cung quan ở riêng... Đền thần tháp quý
lớn nhỏ 8 miếu; dai ta nhiều tầng giống như tháp Phật. Ngoài thành không có phố
xá, ít người ở; bờ bể tiêu điều, không phải là nơi người ta ở được..." (?)
Nhưng như thế chưa thể giúp gì cho việc đoán xem vị trí kinh đô Lâm Ấp ở
chỗ nào, cũng rất khó hình dung diện mạo kinh đô đó, chưa kể là có những điều
khác với ghi chép của tài liệu khác. Chẳng hạn như "Phạm Văn nhiều lần buôn bán,
học được (ỏ Trung Hoa) dậy vua Lâm Ấp Phạm Dật xây dựng thành trì, lầu
điện..."Tục nước đó chỗ ở làm gác gọi là Vu Lan hay Can lan) (nhà sàn?)... Nam nữ
đều quấn ngang tầm vai từ lưng trở xuống, gọi là đo man hay can man, đeo vòng tai
nhỏ, người sang đi giầy da..." (Nam Tề thư, Lương thư, liệt truyện.)
Từ thế kỷ IV, có thêm nguồn minh văn, bia ký, qua đó có thể biết tên chữ
của các vua Chăm, làm bằng chứng của điều ghi trong thư tịch "người Lâm Ấp viết
chữ Hồ", cho biết thêm nhiều sự kiện xã hội, văn hóa, lịch sử. Ngay ở thế kỷ IV có
4 minh văn rất có ý nghĩa:
1- Chữ hòn Cụt (Chiêm Sơn - Duy Xuyên - Quảng Nam) có một dòng ngắn:
Namo bhagavato Mahadevaya Bhadresvarasvaminah sirasa panapatya (Kính lạy
thần Bhadresvara hạnh văn vĩ đại); ở đây là thần Isvara=Siva mà vua
Bhadravarman tôn thờ và tự đồng nhất.
2. Minh văn ở Chợ Dinh (Phú Yên) cũng nhắc tới tên vị vua Bhadravarman
nói trên.
3. Bia Mỹ Sơn 1 là một bia dài, nói về việc vua Bhadravarman lập đền thờ
thần Bhadresvara, cúng ruộng đất cho đền (cùng với địa giới được kê khá cụ thể).
Niên đại thế kỷ IV không phải được ghi trên bia mà do các học giả đoán
theo tự dạng chữ Phạn cổ. Lại có tác giả cho rằng ở thế kỷ IV có một ông vua trị vì,
tên gọi là Bhadravarman và có vẻ là ông đã thống nhất được lãnh thổ, cai quản được
từ đèo Hải Vân đến đèo Cả, và có thể là nước Champa, cái tên gọi Champa đã có từ
đây.
Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là suy đoán mà chưa thật có những bằng chứng chắc
chắn.
Ở thôn Võ Cạnh nay thuộc xã Vĩnh Trang, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh
Hòa, cách thành phố Nha Trang 6 km về phía nam, ngay từ đầu thế kỷ XX đã phát
12
hiện được một tấm bia khắc nổi trên 3 mặt của một phiến đá granit lớn, cao hơn
2m, nói về việc cúng thần của một dòng vua gọi là Sri Mara. Tấm bia này cung cấp
nhiều hiểu biết về văn hóa, phong tục, về quan niệm lễ nghi Hindu giáo, nhưng
cũng đem lại nhiều điều ngộ nhận khá xa. Có tác giả đồng nhất Sri Mara với Phạm
Sư Man của nước Phù Nam, nên coi vùng này (cả miền Nam Trung Bộ, từ đèo Cả
đến Hàm Tân là một vùng thuộc quốc của Phù Nam). Quan niệm này cũng đã được
chứng minh là không đúng.
Một học giả căn cứ vào tự dạng cổ, đoán định niên đại của bia Võ Cạnh là
thế kỷ II hoặc muộn nhất cũng là thế kỷ III, nên có tác giả suy luận Sri Mara là Khu
Liên, vua đầu tiên và cai quản thống nhất cả Champa từ Bắc đến Nam. Bia Võ
Cạnh đã là đề tài nghiên cứu và tranh luận kéo dài trên nửa thế kỷ, và rồi đến J.
Filliozat đoán định nội dung trong đó Sri Mara là sự tự nhận theo tap quán của một
dòng vua Pallavah, Nam Ấn Độ cũng dựa vào sự phân tích tự dạng và nhất là vào
nội dung có liên quan đến một dòng vua Nam Ấn, ông đoán định niên đại của bia
Võ Cạnh là khoảng cuối thế kỷ III - đầu Thế kỷ IV, giải thích và tự nhiên bác bỏ
nhiều cách hiểu sai từ trước một cách thuyết phục.
4. Cũng ở Động Yên Châu thuộc Quảng Nam. Người ta phát hiện được một
minh văn nhỏ nói về việc thờ cúng thần rắn Naga, nhưng một số chữ được viết
bằng một kiểu chữ Chăm cổ sơ khai và cũng được đoán định niên đại thế kỷ IV và
như thế đây là sự sáng tạo văn tự bản địa vào loại sớm nhất mà người ta được biết.
Thế kỷ IV, chưa chắc đã có một nước Champa thống nhất và chưa chắc đã có
ngay tên gọi Champa, nhưng nó đã cho thấy biết bao nhiêu sự kiện rất lý thú, sự
sáng tạo sôi động và dường như đã hình thành những vùng dân cư, những vùng văn
hóa ít nhiều riêng biệt và hàm súc của người Chăm - Champa.
Phổ hệ vương triều Simhapura hay Gangaraja được biết chủ yếu qua 2 bia,
Mĩ Sơn III và IV (Xem thêm phụ lục ở phía sau), có thể biết khá đầy đủ nhưng cũng
không ít rắc rối như sau: Đầu tiên là ông vua mà người ta không biết gì về ông:
1. Monarathavarman, nhưng cũng được biết ông có một người chắt, sẽ nói tới
dưới đây.
2. X, là con? Và
3. Có lẽ là cháu, Bhardravarman, tác giả bia Mĩ Sơn I, thế kỷ IV(?); đến
4. Rudravarman, có lẽ chính là chắt của vua I, người “rực rỡ như mặt trời”,
đến
5. Sambhuvaramn “người con trai” của vua 4, có “ánh sáng rực rỡ”, người có
dựng bia, lập đền thực tế (khoảng 630-640)(?)
13
6. Kandarpadharma, con vua thứ 5, người như một dharma thứ hai tái sinh
mà tên gọi đã cho thấy như thế (khoảng 630-640);
7. Prabhasadharma là “con trai của người” (vua 6) mà “tình yêu quý của mọi
thần dân đều hướng về” (khoảng 640-650). Nhưng đến ông này thì bắt đầu có sự rắc
rối. Ông có người em gái út lấy chồng là mọt giáo sĩ (có lẽ là người Bà lamôn) ten
là Chandasya Satya Kausika Svamin, sinh hạ được 3 người con trai; văn bia kể tên
của cả 3 người là Bhadresvaravarman, Anangarupa và Visvarupa. Theo tên gọi có
tác giả tưởng người anh cả Bhadresvaravarman đã làm vua kế ngôi, tuy nhiên không
thể xếp ông này và chỗ nào cho hợp với thứ tự vương triều. Ông vua thứ 7 này,
ngoài người em gái út, có 3 cháu trai, thì còn một người nữa, không rõ là con hay
cháu, tên là Jagadharma “nổi tiếng vì sự quảt cảm lớn lao”, chẳng hiểu vì lý do gì
mà lại phái đi đến Bhavapura (nước Chân Lạp), rồi kết hôn với công chúa nước này
tên là Sarvani, con gái của vua isanavarman (khoảng 615-655), sinh được người con
trai, tên là Prakasadharma, đoán là vào năm 630, đến khoảng 650 thì trở về làm vua
Champa.
8. Prakasadharma (650-687) có “phẩm chất vương giả và khí phách anh
hùng”, rồi cũng không hiểu sự tình nưh thế nào mà do “những chiến thắng mà người
giành được” (hiểu là không phải do truyền ngôi bình thường) để lên làm đại vương
toàn Champa (Maharaja Campapura-paramesvara), mang tôn hiệu
Vikrantavaraman, kể lại lai lịch và tôn sùng vua 7 (ông của mình) là vị “tôn sư của
mọi thế giới” (Bia Mĩ Sơn III, niêm điểm 657, sau đó làm lễ tế thần, cúng một kosa
và cả mukuta như “mặt trời mọc không tì vết bởi đức vua Vikrantavarman”, năm
867 (bia Mĩ Sơn IV)… Có tác giả tưởng nhầm có 2 ông Vikrantavarman và kéo dài
niên đại của ông này ra để lấp chỗ trống. Thực sự từ khoảng 650 đến 687, gần 40
năm chỉ có 1 ông này, tác giả của ít nhất 7 minh văn, từ Quảng Nam tới Khánh Hoà
(3 ở Mĩ Sơn, 3 ở Quảng Nam và 1 ở Lệ Cam - Khánh Hoà).
Tuy nhiên, từ 687, mọi việc diễn ra mờ nhạt cho đến khi có bia miền Nam,
khoảng năm 750. Hơn nửa thế kỷ chứ không phải ít. Lúc này đã có đền Mĩ Sơn E1,
khoảng sau năm 750, nhưng hơn nửa thế kỷ qua là gì? Qua Mĩ Sơn III, lần đầu tiên
người ta thấy nói đến sự khởi đầu huyền tích của nước láng giềng Bhavapura/
Chenla tức Cambot sơ kỳ, mối quan hệ hôn nhân giữa hai dòng vua, nói đến sự tôn
thờ thần chủ Siva được gọi tên là Sri Sambhubhadresvara và việc lễ hiến tế ngựa
(asvamedha).
Bia Mỹ Sơn 1 tìm thấy ở trước mặt đền A1 mà tác giả - vua BhadravarmanI
kể rằng ông có một ngôi đền thờ thần, cúng ruộng và nhiều vật quý... Tuy nhiên đến
nay bia thì còn mà đền thì không còn. Hiện nay không còn một phế tích kiến trúc
nào có trước thế kỷ VIII; tất cả có lẽ được dựng bằng vật liệu nhẹ (tre gỗ lá) nên
14
đều đã bị hủy hoại, do thời gian và cũng do cả chiến tranh xâm lược cướp phá. Từ
bia Mỹ Sơn 3, từ Sambhuvarman, các đời vua trước người ta phải đoán biết niên
đại, đến ông vua thứ 8, lên kế ngôi trong một tình huống xem ra có vẻ khá bí ẩn và
phức tạp, tên là Prakasadharma (657-687). Ông vua này lên ngôi thực sự là một sự
kiện lịch sử rất đặc sắc. Là cháu nội vua thứ 7, Prabhasadharma của Champa, lại là
cháu ngoại của Isanavarman vua Bhavapura/ TChenla, lên ngôi thì đã tiến hành lập
đền dựng bia Mi Son 3 cao 1m25, rộng 0m75, ghi rõ niên đại 579 saka=657 Công
lịch, tìm thấy ở gần đền E6; chính là bia kể thứ tự phổ hệ triều gọi là Gangaraja, từ
Manorathavarman, Rudravarman, đến Sambhuvarman, bắt đầu các vua "thực",
khiến nhiều người gọi nhầm là bia Sambhuvarman. Thực ra là bia “gia hệ” do
Prakasadharma dựng năm 658. Nhưng không phải chỉ có bia này, mà ông vua này
còn dựng và cho khắc nhiều minh văn nữa: a/ năm 657 minh văn kể về dòng họ
bên mẹ là công chúa Bhavapura là bia Mỹ Sơn 3 nói trên, b/ bia Mĩ Sơn IV năm 687
cúng thần một kosa và một mukuta. c/ Một minh văn khác, có lẽ cuối năm là việc
lập đền thờ thần bảo hộ Kuvera; cả 3 đều ở Mỹ Sơn; ông còn 3 minh văn nữa ở
Thạch Bích, Dương Mông, Trà Kiệu ở Quảng Nam và cái thứ 4 ở Lệ Cam - Khánh
Hòa, có ghi rõ 2 dòng chữ: Namas Sivaya- Sri Prakasadharma jayadanam (Vua
Prakasadharma kính dâng thần Siva vật phẩm chiến thắng). Cộng là 7 minh văn của
một vị vua.
Bằng cách đó, ông vua này cho thấy dòng dõi cao quý, quan hệ rộng lớn và
khẳng định quyền làm chủ, cai quản liền một dải miền Trung, từ đèo Hải Vân đến
đèo Cả. Đến đây, trải qua chừng 5 thế kỷ, các vua thời này đã để lại hơn 10 minh
văn viết chữ Phạn cổ, 1 minh văn chữ Chăm cổ, phần lớn ở miền Bắc, ở đất Quảng
Nam, một vài cái ở đất Phú Yên, Khánh Hòa (không kể bia Võ Cạnh) 1 bia ở Huế,
có tới 4 bia ở chính Mỹ Sơn và tập trung ở trước cửa đền A1. Một số công trình xây
dựng (đền tháp) thấy nói đến nhưng không còn. Một ngôi đền không thấy nói ở bia
nào còn lại tuy không còn đầy đủ, nhưng còn một phần thân gạch và nhất là đài thờ
bằng sa thạch, đền E1 và cả F1 kém quan trọng hơn, cũng đã trở thành tiêu biểu cho
kiến trúc vào loại cổ nhất, đẹp và đặc sắc nhất, trở thành một mốc, một tiêu chí để
phân định tiến trình kiến trúc Champa.
Đài thờ E1 có hình nhạc công, vũ nữ múa lụa hết sức mềm mại, có tu sĩ ngồi
tham thiền, đầu tóc thắt jatamukuta 2 vòng/tầng, phần tóc trên để xõa tự nhiên thành
một nắm trên đầu và nhất là hình vòm cửa tháp thể hiện lại trên đài thờ là một đại
bàng rất thoáng đãng, mềm mại với hai đầu đại bàng cuộn lại theo hai chiều ngược
nhau, rất sinh động. Ph. Stern cho rằng Mỹ Sơn E1 chịu ảnh hưởng của đại bàng
Prei Khmeng, kiến trúc Tiền Ăngco, nhưng lại là tiền thân trực tiếp của Prasat
Damrei Krap (Phnom Kulen, năm 802), đến nỗi có người gọi Damrei Krap là tháp
E1 trên đất Khmer. Từ đó lại gợi ý tiếp cho sự bắt chước của các tháp Chăm ở miền
15
Nam. Như thế, E1 có niên đại vào khoảng nửa sau thế kỷ VIII, có thể được xây vào
thời vua cuối của vương triều này, có thể chính là Prakasadharma.
Sự cống hiến của vương triều này với vương quốc Chăm trong một thời gian
chừng 5 thế kỷ có vẻ là không nhiều, nhưng rất căn bản: với sự thống nhất bước
đầu, gồm miền Bắc, miền Trung và một phần Nam Chăm, nam đèo Cả, tức là đất
Khánh Hoà, sự sáng tạo chữ Chăm cổ, sự sáng tạo một kiểu kiến trúc, một nền
nghệ thuật, tiêu biểu là nghệ thuật E1, còn để dấu ấn ảnh hưởng về sau đến Nam
Chăm và đến cả Chân Lạp - Campuchia. Đó là sự mở đầu và sự đặt nền móng cho
cả Champa.Vương triều này, có tác giả gọi theo tên ông vua huyền thoại, mở đầu là
vua Hằng Hà (Gangaraja), ở đây, để thống nhất với các giai đoạn sau, được gọi
theo tên kinh đô - giai đoạn Sinhapura.
Có lẽ kinh đô đã phải được xây dựng từ thời này, nhưng tên gọi thì người ta
lại biết khá muộn. Có lẽ lần đầu tiên được nhắc tới là ở bia Mỹ Sơn XII, kí hiệu
Bảo tàng là B.2-5, dựng trước đền G.1. Từ trước, kinh đô và đền thờ bị phá (nếu
muốn nói tới sự kiện Lê Đại Hành đánh trả thù việc Phê Mi Thuế cấu kết với Ngô
Nhật Khánh xâm nhiễu thì sự việc diễn ra lại ở Đồng Dương/Indrapura, tức là đã lâu
lắm rồi) (năm 982). Đến năm 1080, vua Harivarman (vương triều trung ương Vijaya) mới sai Phó vương (Yuvaraja) ra lệnh "cho dân chúng Sinhapura, dựng lại
nơi cúng lễ, từ đó đường sá, tất cả như trước". Đồng thừi, nhấn mạnh tôn thờ thần
chủ của cả nước, là thần Srisanabhadresvara. Đến bia Mỹ Sơn XX của vua Jaya
Harivarman, niên điểm 1157, lại nói về việc cúng thần chủ Srisanabhadresvara và
hiến cho đền nhiều ruộng, trong đó có ruộng Salamvan, từ sông Sinhapura đến rừng
Lak. Bia Mỹ Sơn XXIV, niên điểm 1114, lại cho biết cúng một số vật quý, như
sadmukha, kanap ở Sinhapura cho Srisanabhadresvara.
Việc tìm tòi, phát hiện dấu tích thành đất, phế tích đền tháp, đài thờ ở Trà
Kiệu (làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), nằm trên
bờ nam sông Thu Bồn (sông Sinhapura ?), khiến nhiều tác giả đoán định Sinhapura
(thành phố Sư Tử) chính là Trà Kiệu; lại thấy bi ký nói đến việc xây nhà lập đền,
sửa đường, trong khi vua vẫn ở Vijaya (gần Quy Nhơn) dựng bia ở Mỹ Son, lại đến
khi năm 1927, J.Y.Claeys khai quật di tích Trà Kiệu, thì có nhiều căn cứ để tin rằng
kinh đô thời sơ kỳ chính là ở Trà Kiệu. Như thế, có thể ở giai đoạn đầu của thời sơ
kỳ, kinh đô có tên gọi là Sinhapura và cũng có thể là nằm trên địa điểm Trà Kiệu
ngày nay. Nhưng điều được chú ý nhắc tới ở đây không phải chủ yếu là vấn đề
kinh đô, cũng không phải là vấn đề Sinhapura - Trà Kiệu. Bởi vì Sinhapura bị phá
2 lần bởi các tướng Trung Hoa là Đàn Hòa Chi (năm 446) và Lưu Phương (năm
605), tức là đã lâu và chính Sinhapura mất vai trò cũng đã lâu. Trừ phế tích E1 đã
nói trên, những di tích và di vật nghệ thuật rất đặc sắc, gắn với địa danh Trà Kiệu lại
16
xuất hiện sau thời Sinhapura hơn 2 thế kỷ và kinh đô đã chuyển đi nơi khác rồi. Cho
nên vấn đề ở đây là vùng dân cư, một vùng dân cư phía Bắc có trình độ kinh tế và
văn hóa phát triển từ lâu đời, nên các vua trung ương của Champa ỏ Vijaya cần
quan tâm dựng lại đền thờ ở đất khởi nghiệp, tức là Lâm Ấp cũ, dựng tượng thờ và
lập bia ở Mỹ Sơn nơi có những đền từ thuở ban đầu, để nhấn mạnh sự tôn sùng, đề
cao thần được coi là thần chủ, thần tối cao của quốc gia, là thần Srisanabhadresvara,
có lẽ nhằm mục đích quy tụ lòng người, kêu gọi sự phục tùng trung ương, tức là các
vua ở Vijaya (mà thực chất không hoàn toàn là trung ương, như sẽ nói tới đưới đây)
cần qaun tâm dựng lại đền thờ ở đất khởi nghiệp. Tức Lam ấp cũ, dựng tượng thờ
và lập bia ở Mĩ Sơn, nơi có những đền từ thưở ban đầu để nhấn mạnh sự tôn sùng,
đề cao thần được coi là thần chủ, thần tối cao của quốc gia, là thần
Srisanabhadresvara, có lẽ nhằm mục đích quy tụ lòng người, kêu gọi sự phục tùng
trung ương, tức là các vua ở Vijay.
Thần chủ Srisanabhadresvara thực ra cũng không phải điều gì lạ lẫm. Thực tế
vẫn là thần Siva, đã có tiền đề hay tiền thân tên gọi từ thuở ban đầu. Từ thế kỷ IV
(Mỹ Sơn 1) vua Bhadravarman đã tôn thờ Siva, dưới hình thức tôn thờ đồng nhất
vua Bhadravaman + Siva = Bhadresvara; đến thế kỷ VII đã có Srisana, Isanatha,
Srisanesvaranatha. Đến đây, sự nhấn mạnh là muốn nhấn lên 3 lần Siva: Sri (thiêng
liêng) + Isana (hình dáng Mặt Trời của Siva) + Bhava (Hình dáng Nước của Siva,
cũng là một phần của Bhadra) + Isvara (Siva), nói cách khác, chính là Siva - nhiều
lần Siva.
Tuy nhiên "chính sách đoàn kết - thống nhất tôn giáo" này vẫn chỉ có hiểu
qua, không tuyệt đối.
Vương triều Đồng Dương - Indrapura sau Sinhapura, trước Vijaya, thì cũng
với tinh thần "xin quy thuận Lokesa, tức đấng Lokesvara tối thượng, lại có những
đức tính của Isvara", lại nhấn mạnh theo cách riêng đến Sambhubhadresvara, tức là
đồng nhất các vua khởi nghiệp với Siva, hoặc là theo tinh thần toàn cục mà vương
triều này muốn theo đuổi thực tế, để tôn thờ Campapuraparamesvara - Siva của
toàn Champa. Những nơi khác như bia Bản Lãnh (xã Đa Hòa, huyện Duy Xuyên),
rất gần Trà Kiệu, lại tôn thờ Sivalingesvara, còn Po Nagar thì cúng thần Jaya
Harilingesvara. Tất cả vẫn đều là Siva, nhưng với những hình thức, tên gọi khác
nhau, phải nói là một cách cố ý.
Giai đoạn Sinhapura - giai đoạn đầu tiên của Lâm Ấp - Champa cũng còn
chứa đựng khá nhiều vấn đề khúc mắc. Bên trên khi trình bày về sự chuyển từ Tiền
sử, từ thời kỳ bộ lạc, còn bị nhà Hán đô hộ sang thời kỳ lập nước, chúng tôi đã nói
một cách thuận chiều, nêu xu hướng, chuyển từ văn hoá Sa Huỳnh đến việc lập
nước, đến Lâm ấp và vương quốc Champa, theo cáhc nghĩ thông thường hiện nay.
17
Tuy nhiên thực tế phức tạp hơn. Sau vài lần khai quật ở Trà Kiệu và vùngQuảng
Nam, một số tác giả vẫn cho là chưa thể chứng minh sự nối tiếp trên địa tầng văn
hoá khảo cổ. Yamagata Mariko, giảng viên của đại học Rikkyo - Tokyo - Nhật Bản
(2001), có lần khai quật với giáo sư Ian Glower, có lần với Nguyễn Kim Dung, vẫn
cho rằng trên một di chỉ, có dấu vết bên dưới là văn hóa Sa Huỳnh muộn khoảng
nửa sau thế kỷ I trước công nguyên, rồi đến lớp trên là mảnh gốm có văn in ca rô
của văn hoá Hán có niên đại cuối thế kỷ I giữa thế kỷ II sau công nguyên. Có một
khoảng đứt đoạn, hoặc một khoảng cách, nên không thể mặc nhiên nói có sự phát
triển tiếp nối liên tục từ Sa Huỳnh đến Champa, vì thế mà thích gọi là Lâm ấp hơn
là Champa. Nói một cách khác, các nhà khảo cổ học vẫn tỏ ra thạn trọng khi chưa
thấy trong cùng một tầng văn hoá, dấu vết của sự kết thúc Sa Huỳnh và của sự bắt
đầu của văn hóa Champa. Từ năm 2000 đến 2002, Nguyễn Mạnh Cường và cộng
sự, rồi đến Bùi Văn Liêm và cộng sự đào khảo cổ Hoà Diêm (Khánh Hoà), sau cuộc
khai quật xóm Cồn của Vũ Quốc Hiền; các nhà khảo cổ học cho rằng thậm chí tìm
thấy bằng chứng của một sự phát triển liên tục từ văn hóa Sa Huỳnh đến Champa.
Song lại có những tác giả vẫn hoài nghi sự đánh giá đặc điểm và tính chất của các
dấu tích văn hoá đó. Cũng có ý kiến cho rằng di chỉ Bãi Chợ ở Đồng Dương mà
nhóm Trịnh Cao Tưởng khai quật, có sự tham ga của Seichi Kikuchi thuộc Đại học
Sô Oa, Hồ Xuân Tịnh và cùng làm việc còn có Lương Ninh, có thể coi nơi đây có
sự phát triển liên tục của các lớp văn hoá, từ Sa Huỳnh sớm đến muộn, qua các di
vật gốm và ở lớp trên là gốm Chăm và cả gốm nước ngoài, Trung Quốc, từ thế kỷ II
đến thế kỷ VII. Tiếc rằng địa bàn hẹp, diện đào thăm dò còn hẹp chỉ khoảng 20m2.
Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều tin chắc rằng không có con đường
nào khác ngoài đường chuyển từ văn hoá Sa Huỳnh đến Lâm ấp rồi Champa. Một
số tác giả chưa tin vì chưa thấy bằng cứ trực tiếp của khảo cổ học của sự diễn tiến từ
Sa Huỳnh từ sớm đến muộn chưa thấy sự nối liền của Chăm - Champa. Từ đó một
vấn đề đặt ra là yếu tố văn hoá Chăm, Champa sớm là gì? Nếu là đòi phải có một
móng gạch của kiến trúc, một mảnh phù điêu đá… là một điều không tưởng. Dường
như gốm Chăm lúc đầu và cả gốm Cao nguyên hiện nay vẫn được chế tác bằng tay
(không dùng bàn xoay) để mộc (không có áo gốm, men) trong một thời gian dài,
trông khá thô và khó phân biệt. Một yếu tố văn hoá nào đó trước Hán hoặc rất ít ảnh
hưởng văn hoá Hán trong vài thế kỷ đầu Công nguyên cũng khó tìm không kém gì.
Tuy vẫn có thể hỏi, thế thì những cư dân đã nặn gốm Sa Huỳnh đẹp đến như thế,
chạy đi đâu mà không làm tiếp, hay có những cư dân khác đến thế chỗ? đây là một
vấn đề khá phức tạp.
Từ Khu Liên khởi nghiã thành công, lập Lâm ấp, trải qua các đời vua Phạm
Hùng, Phạm Dật, Phạm Chuỳ, Phậm Phật, Phạm Hồ Đạt… (Tấn thư, q.97, Lâm ấp),
trong đó có thể biết káh chắc, như năm 348, Văn đánh Cửu Chân, sau đó chinh tây
18
đốc bộ Đằng Tuấn tấn công Văn, nhưng bị thua; khoảng sau năm này Văn chết, con
là Phật nối ngôi, rồi khoảng năm 373, 405, Phật lại sai sứ sang “cống”, nên một số
nhà sử học lấy thời gian tương đương, coi Phạm Phật chính là Bhadravarman trong
bi ký, có tới 3 minh văn nói tới tên ông có niên đại thế kỷ IV. Tuy nhiên đây cũng
vẫn là suy đoán. Sau những năm này, chắc Lâm ấp hưng khởi mạnh, Trung Quốc
nhiều lần sai quân tướng sang đánh.
Năm 420, nhà Tấn sai Đỗ Tuệ Độ đem quân đánh, “phá được nước”.
Năm 446, nhà tiền Tống sai Đàn Hoà Chi đem quân đánh, “đánh được”
Năm 605 là trận tấn công của Lưu Phương nhà Tuỳ. Trước đây Đàn Hoà Chi
đã hạ thành Khu Túc (hay Khu Lật), rồi đánh vào Tượng Phố. Chữ Lật (quả lật) và
chữ Túc (hạt lúa) viết rất giống nhau. Theo Tuỳ Thư, Lưu Phương kể, Khu Túc là
“tiền đồn”, lập bằng rào luỹ, gọi là thành, nhưng không phải là đắp đất cao hay xây.
Trước đây dựa vào sự mô tả vị trí theo Thuỷ Kinh Chú, Tấn thư, Tuỳ thư, học giả
Đào Duy Anh cho rằng thành này vào thượng nguồn sống Gianh, bắc Quảng Bình.
Tôi đã giới thiệu ý kiến này và bàn lại, cũng dựa vào các mô tả của các thư tịch
Trung Hoa và tính thêm độ dài của bóng nhật quỹ, đoán là nó phải ở vùng giữa
Quảng Trị (Lương Ninh 1980). Từ đây đi vào quốc đô Lâm ấp, Tượng Lâm, Tượng
Phố, đường dài khoảng 300km, hành quân mất 8 ngày. Lưu Phương phá rào luỹ
Khu Túc, tiến đến quốc đô, vua Phạm Phạn Chí bỏ chạy, từ trước cũng đã thường
“dựa vào rừng núi hiểm trở” rất khó đánh, không hề thấy nói “phá thành, hạ thành”,
mà chỉ nói “phá cung thất”, chắc là bằng tre, lá như mô tả, thu tượng vàng nặng
hàng vạn cân, chắc là cường điệu chiến lợi phẩm “cho oai”.
Sách cũ cho phép hình dung khá rõ về Lâm ấp:
Người dân Lâm ấp có tài đi núi, quen ở nước, không quen đất bằng (hiểu là
đi thuyền trên sông, biển, làm nhà sàn để ở; chính Văn trước khi làm Vua, thường
chăn trâu trên khe núi; họ “cậy nơi hiểm trở không chịu thần phục”; “có giết được
(người cầm đầu) rồi lợi dụng núi sâu hang vắng họ vẫn trốn tránh được”.
Thực ra Đàn Hoà Chi đánh Khu Túc lúc đầu không thắng, sau phải lập mưu
cho đại quân tấn công trước, rồi dùng quân tinh nhuệ từ phiá sau “trèo qua luỹ mà
vào”, sau đó mới đuổi đến Lâm ấp.
Lại ghi Lưu Phương đánh Lâm ấp, gặp voi chiến, bị thua, sau cùng lập mưu
đào hố, cho voi và người sa xuống, mới thắng được; Phương vào, phá huỷ cung
thất, thu tượng miếu chủ bằng vàng (Tuỳ Thư); “thành vua nước đó dùng gỗ làm
rào” (Cựu Đường Thư); “đừơng hiểm trở không thông được” (Tân Đường thư). Nói
một cách khác, cho đến đầu thế kỷ VII, dường như chưa có kiến trúc gạch, đắp luỹ,
xây thành. Các dấu tích thành, đền miếu, phù điêu nghệ thuật mà J.Y. Claeys phát
19
hiện đều có niên đại muộn, thế kỷ X, kể cả tiền đồn, thành Khu Túc, cũng chỉ là rào
luỹ.
Nhưng thế thì kinh đô là ở đâu? Lâm ấp là ở đâu? Tượng Phố là ở đâu? Nơi
đâu là người dân có tài đi núi, nơi đâu hiểm trở, núi sâu hang vắng, đường khó
thông? Kinh đô là nơi vua ở, cung thất là nhà gỗ có sàn gác, “dựng gỗ rào làm
thành”, một vài ngôi đền miếu, chắc cũng bằng gỗ, có thờ thần chủ bằng vàng(?).
Nơi dân bộ lạc gốc sống quây quần khi khởi nghĩa vừa mới thành công, qua nhiều
lần bị đàn áp, tôi đoán chắc không phải là ở Trà Kiệu, hạ lưu sông Thu Bồn, mà
sống ngay trong thung lũng Mĩ Sơn. Nơi đây điều kiện môi sinh khá khó khăn, mùa
mưa thì lũ cuốn, nước ngập, mùa khô thì cạn nóng, nhưng khoảng 500 - 1000 dân
với vua, sống trong giai đoạn đầu là thích hợp, lại kín đáo và hiểm trở. Tuy nhiên số
dân chúng làm ruộng, đánh cá ở ven sông Thu Bồn, ở ngay trên đất Trà Kiệu ngày
nay và đã lập nên Tượng Phố, giặc đến thì bỏ chạy. Chính những cư dân này mới
tạo nên nền tảng kinh tế xã hội ban đầu của Lâm Ấp.
Họ đã tiếp nhận quan hệ với người Ấn Độ và văn hoá Ấn Độ để đến thế kỷ
IV đột ngột xuất hiện 2 minh văn chữ Phạn cổ là chữ Hòn Cụt (Quảng Nam) và
minh văn Mĩ Sơn I. Không chắc là nơi đây và vùng núi phía Nam, Phú Yên và
Khánh Hoà, nơi này có trước nơi kia, lập quan hệ với Ấn Độ, mà cũng có thể đồng
thời, trước sau không bao nhiêu, có bia Chợ Dinh (Phú Yên) và có từ cuối thế kỷ III
là bia Võ Cạnh (Khánh Hoà). Nhưng ở Quảng Nam cũng trong thế kỷ IV, lại có
minh văn chữ Chăm cổ nhất thế kỷ IV, thì quá trình giao lưu văn hoá và sáng tạo
văn hoá lại còn phải diễn ra sớm hơn. Trước đó từ thế kỷ II, không phải chỉ có sự đô
hộ của nhà Hán, lại có cả miếng “phong nê”, miếng “gắn xi” bằng đất sét. Ngoài ra
không còn có gì khác, hoàn toàn tĩnh lặng trong hơn 2 thế kỷ đầu tiên. Nhưng đây là
thời gian đầy biến động, cũng là thời gian phát triển ban đầu, vừa muốn cố dựa vào
thế hiểm trở để tự vệ, vừa muốn mở rộng điạ bàn cư trú làm ăn sinh sống và giao
lưu trong điều kiện mới tự do. Sự xáo trộn và thay đổi địa bàn cư trú, tìm đến nơi
đất mới để sinh sống đã diễn ra.Việc phát hiện sự xáo trộn, đứt đoạn trong tầng văn
hoá khảo cổ, hẳn là điều dễ hiểu. Đây hoàn toàn không phải là sự đoán mò mà là sự
phỏng đoán có căn cứ. Cũng nên tính đến thực tế là việc chôn cất người chết của
các bộ lạc Sa Huỳnh (mộ chum vò) với dân Chăm Lâm Ấp chịu ảnh hưởng Ấn Độ
và cả Hán chắc có thể khác nhau, nhu cầu sử dụng đồ gốm cũng khác nhau. Hơn
nữa, mong muốn tìm thấy những thành trì vững chắc, những đền tháp, cung điện
xây thì cũng còn là hơi sớm.
Sau cuộc tấn công của Lưu Phương, năm 605 nhà Tuỳ suy vong, nhà Đường
thay, lập An Nam đô hộ phủ, những cũng không thể có tham vọng vượt quá phủ đô
hộ này, nên dường như nhận thức được điều đó, Lâm ấp yên tâm phát triển, mở
20
rộng quan hệ, trong phần còn lại của thế kỷ VII. Chắc đã có quan hệ với nước
Bhavapura (Chân Lạp) mới lập, qua đường bò ngang Cao nguyên, đến Sambor nằm
trên trung lưu sông Mê Kông, nên một ông hoàng Chăm mới sang làm phò mã của
nước Bhavapura. Không phải chỉ có quan hệ hôn nhân, có khi chỉ là tình cờ, mà qua
đó, còn có quan hệ văn hoá. Bởi thế sau thời gian này, người Chăm xây dựng đền
Mĩ Sơn E1 mà cái vòm cửa chịu ảnh hưởng khá rõ của Prei Khmeng (khoảng giữa
thế kỷ VIII) của Chân Lạp. Mĩ Sơn E1 có niên đại khoảng sau năm 750 là một trong
số vài viên kiến trúc gạch đầu tiên của người Chăm, nhưng như thế cũng đủ để họ
đúc kết kinh nghiệm làm gạch, xây gạch, đem phổ biến lại cho người Khmer và còn
giúp người Khmer xây dựng tháp Prasat Damrei Krap năm 802. Cũng chưa hiểu tại
sao sau Mĩ Sơn E1, sau năm 750, người Chăm chuyển kinh đô vào miền nam, vào
Rajapura, tức Virapura ở phía nam Đèo Cả mà không thấy do tranh chấp, xung đột
nào. Hay là họ vẫn lo sợ, đề phòng nhà Đường mới lập? Miền Bắc, Tượng Phố ngày
nào, có 7-8 thế kỷ yên ổn phát triển dường như được độc quyền quan hệ với nước
ngoài, trở thành vùng quần cư đông đúc và phong túc, mới trở thành Sinhapura
đúng với danh của nó, trở thành Trà Kiệu với kiến trúc đền tháp và những phù điêu
đá vào hàng đẹp nhất của người Chăm, khi nó không còn là kinh đô nữa, Tượng
Phố, Ấp Lâm và sau đó, trong khoảng từ năm 190 - 750 CN, vai trò “trung tâm”
của nó xem ra khá mờ nhạt. Tuy nhiên 3 minh văn, trong đó có minh văn chữ Chăm
Đông Yên Châu và kiến trúc đền Mĩ Sơn E1 cũng đem lại cho nó giá trị của bước đi
đầu tiên, sự chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn sau và đó là những vấn đề khúc
mắc của giai đoạn Sinhapura, vừa khó hiểu, vừa lý thú.
21
CHƯƠNG BA
GIAI ĐOẠN VIRAPURA (KHOẢNG 750-850)
Trước đây, một số nhà nghiên cứu, chưa hiểu tên gọi Hoàn Vương mà Tấn
Đường thư Trung Quốc chỉ định giai đoạn này có nghĩa gì, chưa hiểu Virapura =
Rajapura mà bi ký gọi, tương ứng với thực tế nào, có nghĩa là gì nên vẫn đinh ninh
là có một tiểu quốc Panduranga nằm trong vương quốc Champa, mà Po Nagar (chỉ
một cụm kiến trúc xây dựng trên đỉnh một quả núi nhỏ, trên cửa sông Cái - sông
Lau, gần biển) là thứ phụ hoặc là một "thánh địa" của Panduranga.
Panduranga là cách chuyển âm Sanskrit của từ Chăm Panran, nguồn gốc của
tên gọi Phan Rang ngày nay, nhưng nó không hề thâu tóm Po Nagar, cũng như toàn
bộ Nam Chăm, toàn bộ đất miền Nam Trung Bộ.
Po Nagar theo bi ký là tên gọi đền thờ Quốc chủ, là cách gọi tắt của Yang
Pu/Po = (Vua) Nagar tắt của Nagara (Nước/ Quốc gia); thực tế là thờ thần Siva mà
vua đã tự đồng nhất với thần để gọi, như Yan Po Ku Sri (Đức vua) Harivarmadeva
tức Harivarman, cùng thần Harilingesvara (Po Nagar 1, niên điểm 1145). Thần là
đàn ông, vua cũng là đàn ông, thờ ngẫu tượng linga. Tuy nhiên, ở Po Nagar, tục thờ
cúng còn gắn với chuyện dân gian về cô công chúa Chăm chết theo chồng do bị
đắm thuyền ở gần biển, dân thờ phụng như nữ thần, thần mẹ, theo truyền thống mẫu
hệ và gọi chệch tên đền một cách cố ý là Po Ineu Gar, có ý đồng nhất với Uma, vợ
Siva, thờ Quốc mẫu, cũng tức là Quốc chủ, theo dân gian, còn hàm ý mẹ của cô gái
bán trầm, lấy hoàng tử nước ngoài, bị chết đuối ở chính nơi đây. Thực tế, phần lớn
bi ký quan trọng ở Po Nagar lại là bia của nhà vua trung ương ở Vijaya, như bia Po
Nagar 1 nói trên, cũng như Po Nagar 2, niên điểm 1170, của cùng ông vua. Làm
như thế, như kiểu "Văn phòng đại diện", để khẳng định quyền tôn chủ của vua ở cả
miền nam, cả vương quốc. Điều này thể hiện tiêu biểu nhất như trong bia Mỹ Sơn
XXV:"Vua Sri Jaya Paramesvaravarmadeva, trị vì với chiếc lông duy nhất trong xứ
so Campa... đã khôi phục toàn bộ linga ở miền Nam, như ở Yan Pu Nagara và các
linga ở miền Bắc như ở Srisanabhadresvara..."
Mặt khác, gọi là Po Nagar cũng không phải chỉ có ở Tháp Bà, trên núi, gần
thành phố Nha Trang, mà còn có Po Nagar Mông Đức (tên làng, xã Hữu Đức,
huyện An Phước, nay là Ninh Phước, tỉnh Khánh Hòa), kí hiệu C 14, nói về việc
công chúa Suryalaksmi dựng tượng thờ thần Bhumivijaya dưới thời Indravarman.
Po Nagar không phải là thánh địa, la thủ phủ Nam Chăm thì cũng không chắc gì là
thủ phủ của xứ Kauthara (có nghĩa là lưỡi hái). Chỉ có 1 minh văn của Harivarman I
22
(khoảng 800-817) cho biết nhà vua lập đền thờ thần Malada Kuthara. Phỏng đoán là
vị thần của xứ Kauthara ở đâu đây, "Ngài dùng tượng Mukhalinga, bên cạnh nữ
thần Hanh vân Bhagavati, nữ thần của Kauthara". Đoán là đất Nha Trang và Po
Nagar, nhưng là suy đoán; bản thân Kauthara cũng không phải là một vùng lãnh
thổ có tầm quan trọng gì đặc biệt đối với lịch sử Champa, ngoại trừ là vùng đất cổ
Po Nagar, đúng hơn là một vùng dân cư, sớm tiếp xúc với người Ấn Độ, học hỏi để
có nền văn hóa của mình, bắt đầu từ bia Võ Cạnh, khoảng thế kỷ IV, đến 2 cột đền
ở Phan Rang, 2 mặt khắc 42 dòng chữ Chăm cổ, niên điểm 1227.
Trên đất Phan Rang có khoảng 10 minh văn, trong đó, một phần là các minh
văn muộn, của các vua trung ương cố ý đặt ở miền Nam :
- Trụ của đền Lom No tìm thấy ở phía Tây làng Chương Mỹ, trước đây, bị
gọi nhầm là Yang Kur, niên đại 1227;
- Cột đền (Pilier) ở Phan Rang (Ký hiệu B. 2.15 va B.2.16), 2 cột đều của
vua Jaya Paramesvaravarman II, cúng thần Svayamutpanna, niên đại 1223, 1227;
- Đà ngang (linteaux) 2 cái, kí hiệu B.2.17, và B.2.18: Vua Jaya Indravaman
VI cũng cúng vị thần Svayamutpanna, niên đại 1244 và 1254;
- Minh văn Batau Tablah (dân gian còn gọi là Đá Nẻ) niên đại 1160.
Ngoài ra, ở Phan Rang còn một số minh văn khác, có ý nghĩa quan trọng đặc
biệt đối với Lịch sử và văn hóa Nam Chăm ở giai đoạn này:
1. Glai Lamau (Rung Cay) ở Phan Rang, niên điểm 801 tìm thấy ở làng Vĩnh
Thuận, xã Hữu Đức, Huyện An Phước, nay là huyện Ninh Phước, rất gần Po Nagar
Mông Đức đã biết. Bia này kể vua Indravarman I (khoảng 787-801) lập đền thờ
Indraparamesvara trên nền hoàng cung cũ của vua Satyavarman, và cũng (dùng
tượng?) thờ Sankara-Naraya (môt hình thức kết hợp của Siva-Visnu ?).
2. Yang Tikuh (Chuột thiêng) dân gian còn gọi là Dạ Tràng, kế vua
Harivarman I (khoảng 801-817) xây đền thờ thần Sri Bhadradhipatisvara "ở phía
Tây". Minh văn này rất quan trọng; nó nói tới tên thần được gọi một cách trang
trọng khác thường, được ghép mới hơi khác thường và "ở phía Tây", nên, phải
chăng đây chính là cụm di tích Po Dam ?
3. Còn một bia khác ở Nha Trang, cũng gọi là Po Nagar ở Nha Trang (Kí
hiệu B.2.10), là một bia cao 0,895m rộng 0,50m. Bia này cũng đặc sắc không kém,
đã được chuyển về lưu tại Bảo tàng Hà Nội (L.Finot cũ), năm 1910. Bia có 4 mặt:
A,B,C,D, cùng với 4 phần chân, tạm đánh số là C 2 dưới B, D 2 dưới C và E dưới
D; khá phức tạp vi độ dài ngắn khác nhau và niên đại cũng rất khác nhau. Mặt A, 18
dòng cho biết Satyavarman dựng một linga, năm 781; mặt B,C và một phần D kể
23
Vikrantavarman, cháu họ của Satyavarman cúng thần trước năm 854; đến C 2, D 2
dưới B và C, có 2 dòng Sanskrit cho biết vua Indravarman (II) của triều Đồng
Dương sau này cúng một tượng vàng thần năm 918. Sẽ phải trở lại sự kiện này
dưới đây khi đề cập đến vương triều này ở Đồng Dương đã thấy sự cầu kỳ của ông
vua này, khi cho người lặn lội hàng trăm ki lô mét, tìm đến Po Nagar để khắc vào
chân bia của triều vua trước đã có từ trước 2 thế kỷ để khoe công đức của mình. Rồi
cũng bia này, trên một phần chân, được gọi là E có 13 dòng Sanskrit, khắc chữ rất
nhỏ, chỉ cao hơn 1cm, kể tiếp việc pho tượng vàng Bhagavati đã được dựng từ
trước năm 918 nói trên đã bị quân Cambốt cướp vào khoảng năm 945, nay được
vua Jaya Indravarman dựng lại tượng Bhagavati bằng đá, năm 887 saka = năm 965.
Mặt D 2 và E liên quan tới 2 ông vua cuối của triều Đồng Dương sau này,
sẽ phải trở lại dưới đây.
Một điều lạ là trừ Po Nagar và Po Klong Garai, có cả thảy 5 minh văn muộn
của các vua Trung ương, thì ở các kiến trúc miền Nam đều không thấy có bi ký.
Thế kỷ XI và XIII, miền Nam Champa có động loạn, có sự chia rẽ dẫn tới
những cuộc chiến tranh ly khai, những cuộc tấn công chinh phục, nhờ đó mà người
ta mới biết tên gọi của kinh đô và của xứ sở miền Nam, trong khi chính bi ký miền
Nam lại không cho biết gì.
Chẳng hạn như minh văn Panduranga 6 (năm 1050), những người con của xứ
sở Panran này còn Panduranga 12 thì kể: Hoàng thân Abhimabyudeva đến nhận
chức tư lệnh Panran…
Đặc biệt bia Mĩ Sơn 21 nói về cuộc chiến tranh Champa - Campuchia, đã kể
quân hai bên đánh nhau ở cánh đồng Rajapura… lại phái một đạo quân mạnh hơn
trước ngàn lần để đánh nhau trên cánh đồng Virapura… “còn minh thì lên ngôi vua
ở Rajapura ở Panran…”. Những đoạn này, khiến người ta hiểu rằng: Rajapura
(Thành phố Đức Vua hay hoàng thành cũng tức là Virapura (Thành phố Tráng sĩ
hay người trai trẻ). Tiếng Chăm Pô Tằm (Người Pháp phiên âm là Po Dam) còn
người Chăm xưa tự dịch sang Phạn ngữ là Virapura và đều ở Phan Rang. Đó là lý
do các học giả Pháp gọi cụm di tích này ở phái Tây Phan Rang là Po Dam, có lẽ vốn
là do được xây dựng bởi hoặc tôn thờ vị vua trẻ có chiến công mà bia Yang Tikuh
còn gọi là Virapura (= Po Dam) là “Kinh thành của thần thánh”, có thể là vua
Harivarman I, em rể của Indravaramn (I) (801-817 có tên hiệu là Virajaya Sri
Harivarmdeva, lên ngôi còn khá trẻ) Sau 2 cuộc tấn công cướp phá của người Java,
năm 774 và 787 cũng là giai đoạn mà thư tịch Trung Hoa đổi tên gọi nước Lâm ấp
là Hoàn Vương (dịch nghiã của Rajapura). Tuy nhiên Hoàng cung không phải ở trên
địa điểm Virapura - Po Dam, vì nơi đây là đỉnh núi và chân núi, đất hẹp và ít nguồn
nước, mà có lẽ được dựng bằng gỗ theo thói quen, trên cánh đồng bằng phẳng, ở
24
phía đông Po Dam và gần biển hơn, nơi mà sau này nhiều thuyền buôn nước ngoài
đã đến đây, kể lại.
Po Nagar thực sự không phải được sử dụng nhiều, được xây dựng nhiều, đã
có một số đền miếu được xây dựng, rồi bị phá hoại hay bị hư hại qua thời gian, lại
được trùng tu mà đến nay rất khó biết chắc chắn dấu vết của những sự thay đổi đó;
đã có một ngôi đền, trong đó, vua Satayvarman dựng một tượng thần năm 781 là
một linga, nhưng lại là tôn chủ của nữ thần” (devisanalinga)(?) nhưng đã bị bọn
cướp biển lấy đi mất, sau khi đốt phá “nơi ở của thần”. Vua Vikrantavarman II đã
đuổi đánh ra tận biển, song đầu tượng đã bị chìm mất rồi. Đó cũng là tôn chủ của nữ
thần, tôn chủ của Hạnh vận Bhagavati (Bhagavatisvara), nư thần của Kauthara
(Kauthara Devi). Po Nagar còn có bia 4 mặt đã nói trên, cho biết 2 niên đại 781 784; ngôi đền tây bắc có mấy dòng chữ trên tường gạch, có ghi niên đại, đoán là
năm 813, nhưng các nhà minh văn học, từ A, Bergaigne đèu cho rằng việc đọc niên
đại hoàn toàn không chắc chắn, trong khi phần ngoài và mái tháp đã được tu sửa ở
thời sau, muộn hơn. Po Nagar bị cướp, đốt phá 2 lần vào năm 774 và 787. Cũng
khoảng thời gian này, những hoạt động khác lại không diễn ra ở Po Nagar mà ở
Phan Rang, bia Glai Lamau năm 810 kể việc vua Satyavarman xây dựng lại ngôi
đền bị phá huỷ trên nền cũ của ngôi đền do ông vua truyền thuyết là Vichitrasagara
đã xây dựng. Bia Yang Tikuh năm 799 kể việc vua Indravarman III xây dựng lại
ngôi đền thờ “ở phía tây” đã bị phá năm 787. Đây cũng chính là thời gian các ông
vua đã chuẩn bị cho xây 3 cụm tháp cổ ở miền nam. Sau thời gian này, ở Po Nagar
không có minh văn xây dựng hay tu bổ của vương triều miền Nam mà cả Po Nagar
và Panran đều là nơi lập đền, dựng bia của các vương triều sau nhằm khẳng định và
củng cố vương quyền tối cao và thống nhất ở lãnh thổ miền Nam. Po Nagar không
còn thấy nói tới Bhagavati, mà chỉ nói tới Yang Pu Nagara. Đền miếu được xây
dựng muộn, thế kỷ XII; riêng pho tượng nữ thần ngồi, hay tay đặt trên đầu gối thì
theo J. Boisselier vật cầm tay không tiêu biểu, quần áo không rõ ràng, chẳng có đồ
nữ trang nào, trông tầm thường, ngoại trừ bộ tóc để xoã trên vai, giống tượng Phú
Ninh (Phú Yên), được đoán định niên đại khoảng cúội thế kỷ VIII, nửa đầu thế kỷ
IX(?). Tuy thực ra theo niên điểm văn bia thìphải muộn hơn, thế kỷ X. Miền Nam
Champa mở đầu bằng bia Võ Cạnh mà từ cúôi thế kỷ XIX, người ta đã đoán định
không chính xác niên đại là thế kỷ II - III từ đó tưởng nhầm dòng vua Sri Mara là
Sư Man, nên cho đây là đất của Phù Nam và theo Phật giáo. Thực ra theo Filliozat
là truyền thống Nam ấn Sri Mara, có niên đại thế kỷ III - IV và vẫn là Hindu giáo, ở
đây có ý nghĩa là sự du nhập sớm của văn háo ấn Độ đến vùng dân cư đòng bằng
Khánh Hoà. Bia Võ Cạnh trước đây được thông báo là thuộc làng Võ Cạnh, ngoại
thành Nha Trang; nay Bảo tàng Khánh Hoà đã chỉ dẫn tới tận nơi, cho biết địa điểm
25