Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phương pháp luận và hướng tiếp cận tiền, sơ sử miền Trung Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.14 KB, 15 trang )

Một số vấn đề về phơng pháp luận và hớng tiếp cận
Tiền, Sơ sử Miền Trung Việt Nam

Lâm Thị Mỹ Dung
I. Khái quát về phạm vi không gian và giới hạn thời gian:
I.1. Không gian: Theo phân vùng địa lý (Lê Bá Thảo 1998:385-386),
miền Trung Việt Nam (hay Trung bộ), tính từ Bắc Thanh Hoá đến Nam Phan
Thiết, dài đến hơn 1500 km. Diện tích toàn lãnh thổ bằng 96.366 km2, dân
số trên 17 triệu ngời, mật độ dân số thấp song hơn 3/4 lãnh thổ là rừng núi.
Tảng nền địa - văn hoá miền Trung không hoàn toàn trùng với lãnh thổ
địa lý. Xét về văn hoá - khảo cổ học, từ trớc sau công nguyên, Thanh Nghệ
Tĩnh thuộc không gian văn hoá Đông Sơn, không gian văn hoá Việt cổ. Theo
các nhà nghiên cứu Bình-Trị-Thiên là khu đệm giữa văn hoá Đông Sơn và
văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn trớc công nguyên rồi giữa văn hoá Đại Việt và
văn hoá Chămpa thiên niên kỷ I đầu công nguyên. Nh vậy, không gian về cả
tự nhiên và văn hoá đợc đề cập trong bài viết chỉ từ Quảng Trị phía bắc đến
Phan Rang, Phan Thiếc phía nam với cốt lõi là hai khu vực Quảng Nam,
Quảng Ngãi. Đây cũng là nơi phân bố đậm đặc của những di tích trớc sau
công nguyên và cũng là những địa bàn đợc thâm canh khảo cổ từ nhiều năm
nay.
Dới góc độ địa-văn hoá, địa hình miền Trung hẹp chiều ngang TâyĐông với giới hạn Trờng Sơn Nam-Tây, biển khơi- Đông. Nếu mô hình hoá
địa thế này chúng ta sẽ có một trục dọc hẹp đựơc phân cách và nối nhau bởi
những đèo-nhánh núi chạy cắt ngang từ dãy Trờng Sơn trải dài theo chiều
dọc. Có thể phân chia khúc ruột này thành những phần cơ bản sau:
Trên đất liền với đặc trng địa hình hẹp đông-tây, tạo thế tựa sơn hớng
hải chạy dài theo trục bắc-nam, những dãy núi, đồi tách ra từ dải Trờng Sơn
đâm ngang ra biển (hoành sơn) tạo nên địa thế một đèo, một đèo, lại một
đèo; đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo hải Vân, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù
Mông... và vô số những đèo nhỏ khác. Những đèo này là ranh giới phân cách
vừa về địa lý vừa về văn hoá chính trị các tiểu vùng văn hoá miền Trung trên
nền tảng chung. Do vậy đèo không chỉ là đờng biên phân cách mà còn là đờng kết nối dẫn truyền văn hoá.




Dới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều TâyĐông ra biển. Mỗi một tỉnh ở miền Trung đều ứng với một lu vực sông cấu
tạo nên lãnh thổ đó. Những sông này tạo nên một số đồng bằng tơng đối
rộng rãi nh đồng bằng sông Cái và sông Thu Bồn ở Quảng Nam Đà Nẵng,
đồng bằng sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn ở cửa sông Cả, Tuy Hoà
ở cửa sông Đà Rằng, Nha Trang ở cửa sông Cái. Các đồng bằng đều là những
châu thổ hoặc đồng bằng cửa sông, thông thờng chúng bị phân cách với nhau
về phía biển do những thành tạo cát, những đầm phá hay vũng vịnh và cả
đèo. Từ Ninh Hoà xuống cho đến Phan Thiết, các đồng bằng đều có diện tích
không đáng kể do sờn đông Trờng Sơn Nam đã ra sát biển. Sông miền Trung
ngắn, nớc biếc xanh, ít phù sa do đó châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, cùng
với đờng bờ biển cao và khúc khuỷu tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền
rất tốt. Bờ biển miền Trung lồi lõm, ngoài bờ là những đảo, cụm đảo đợc
hình thành trong quá trình tạo sơn nh : hòn Gió (Quảng Bình), đảo Cồn Cỏ
(Quảng Trị), Cù lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn-Cù lao Ré (Quảng Ngãi),
Hòn Tre (Khánh Hoà), Phú Quý (Ninh-Bình Thuận)... Những đảo này một
mặt là những bình phong ngăn chặn bớt sóng gió Biển Đông, mặt khác
chúng còn là tuyến đầu trong quá trình giao thoa văn hoá khu vực và quốc tế,
nối Đông Nam á Lục địa với Đông Nam á Hải đảo, nối Bắc- Nam và Đông
Tây.
Miền Trung là lãnh thổ duy nhất ở Việt Nam có những con đờng ngắn
nhất nối liền các đờng hàng hải quốc tế ở biển Đông với những tuyến giao
thông bộ và thuỷ trong Đông Nam á lục địa. Điều đó cũng đúng với các đờng hàng không (Lê Ba Thảo 1998: 391).
Một trong những địa hình của miền Trung là đồng bằng duyên hải.
Diện tích của từng đồng bằng tơng đối nhỏ hẹp, có nguồn gốc khác nhau.
Phù sa mới chỉ kéo dài ven thung lũng sông bị thu hẹp về phía biển bởi các
thành tạo hỗn hợp sông biển, hoặc đơn giản là các thành tạo biển dới dạng
những cồn cát duyên hải nh ởThanh Hoá- Nghệ An, hay các trảng cát rộng
lớn kéo dài suốt từ Quảng Bình xuống cho đến Phan Thiếc, mà nguồn gốc

cũng rất khác nhau. Nói chung đất dù là đất phù sa sông cũng nghèo hơn so
với châu thổ hai miền bắc, nam, lại hay bị nớc mặn xâm nhập vào mùa khô.
Khí hậu: Miền Trung Việt Nam nổi tiếng về lợng ma lớn, nhng rất
không đồng đều về thời gian và rất khác nhau nếu tính theo không gian. L-


ợng ma hàng năm ở Huế là 2.890mm, và của Pleiku ở Tây Nguyên là
2.684mm. Tuy vậy, ở đồng bằng Nam Trung Bộ lợng ma ít hơn nhiều : chẳng
hạn nh Quy Nhơn với lợng ma cả năm là 1.647mm, Nha Trang 1,441mm và
Phan Rang không quá 695mm. Phan Rang (Ninh Thuận) trung bình một
năm có 49 ngày ma vào khoảng từ tháng 9 đến tháng 11. Hai tỉnh Phan rang,
Phan Thiết nằm ở cực nam Trung Bộ này là những vùng rất khô hạn.
Toàn bộ vùng này còn có một vấn đề khác. Gió mùa từ hớng tây nam
hoặc hớng tây thổi qua miền Trung Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Sau khi
đi qua dãy núi Trờng Sơn, nó thờng gây ra hiện tợng gió phơn trên vùng đồng
bằng duyên hải. Do đó, mùa ma chỉ bắt đầu từ tháng 9 với gió mùa đông bắc.
Vào thời gian đó ma to làm các con sông chảy qua vùng đồng bằng nhỏ hẹp
nhanh chóng chuyển thành lũ lụt. Cả hai hiện tợng gió phơn và lũ lụt dữ dội
nhất là ở khu vực Nghệ An xuống đèo Hải Vân.
Nếu xét từ tơng quan lợng ma, gió phơn và hạn hán, lũ lụt thì theo các
nhà nghiên cứu, miền Trung Việt Nam ít nhất là vùng phía bắc đợc xem là
vùng khô hạn (Momoki Shiro 1999: 66).
I.2. Thời gian: Hiện nay, đa phần các nhà nghiên cứu chấp nhận trên
đại thể một sự phân kỳ nh sau cho diễn trình tiền, sơ, lịch sử miền Trung Việt
Nam:
Giai đoạn văn hoá phát triển trớc thời điểm hình thành văn hoá Sa
Huỳnh cổ điển (văn hoá sa huỳnh sơ kỳ sắt) và đợc gọi dới những cái tên nh
Sơ Sa Huỳnh, Tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh sớm... Đây là những nhóm di tích,
những văn hoá tham dự vào sự hình thành văn hoá Sa Huỳnh nh những
nguồn, dòng chảy văn hoá khác nhau kết tinh trong văn hoá Sa Huỳnh sơ kỳ

sắt. Trong giai đoạn này bức tranh văn hoá mang chất khu vực gồm nhiều
mảnh vụn. Giai đoạn này phần nào đấy tơng đơng với giai đoạn Tiền Đông
Sơn ở miền Bắc Việt Nam.
Giai đoạn văn hoá Sa Huỳnh sơ kỳ sắt- Sa Huỳnh thực sự hay Sa
Huỳnh cổ điển nằm trong khung niên đại từ thế kỷ 6, 5 trớc công nguyên đến
thế kỷ I sau công nguyên. Tính thống nhất văn hoá thể hiện trong những
dạng địa phơng rộng hơn so với giai đoạn trớc và tơng đơng với văn hoá
Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam.
Tác giả củabài viết này từ nhiều năm nay kiên trì theo quan điểm rằng
văn hoá Sa Huỳnh là nền văn hoá thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt có niên đại từ


thế kỷ thứ V trớc công nguyên và trên đại thể kết thúc vào thế kỷ thứ I công
nguyên, còn những văn hoá trớc đó đợc gọi là Tiền Sa Huỳnh. Và ngay trong
văn hoá Sa Huỳnh sơ kỳ thời đại đồ sắt cũng có sự diễn biến sớm muộn. Sự
kết thúc của nền văn hoá này diễn ra không đồng đều và không đồng thời
ở các khu vực khác nhau. Từ góc độ táng thức và đồ tuỳ táng chôn theo, có
thể chia các địa điểm thành những nhóm theo trật tự thời gian sau:
1. Những địa điểm mộ chum xen lẫn mộ đất (Gò Mả Vôi, Bình Châu,
Dung Quất...) thuộc nhóm có niên đại sớm nhất. Điểm đặc biệt ở đây là sự
có mặt của nhiều đồ tuỳ táng công cụ và vũ khí bằng đồng mang dáng dấp
bộ đồ đồng Đông Sơn. Chúng tôi cho rằng ảnh hởng của văn hoá Đông Sơn
vào văn hoá Sa Huỳnh là rất lớn, có thể nói đồ đồng xuất hiện ở miền Trung
Việt Nam là do tiếp xúc mạnh mẽ với văn hoá Đông Sơn. Khi viết về Bình
Châu, chúng tôi cũng đã cho rằng Bình Châu là sự Đông Sơn hoá Sa Huỳnh ở
một không gian khu biệt. Thậm chí cũng có thể chấp nhận giả thiết cho rằng
có một bộ phận c dân Đông Sơn nam tiến từ rất sớm và sống xen cài hay giao
hoà cùng với c dân Sa Huỳnh. ảnh hởng từ văn hoá Đông Sơn là xu thế
chính trong văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn sớm.
2. Nhóm thứ hai là nhóm các địa điểm mộ chum giai đoạn cực thịnh

của văn hoá Sa Huỳnh với loại chum mai táng chủ đạo hình trụ, đồ tuỳ táng
công cụ sắt, đồ thuỷ tinh, mã nãoĐiển hình nh các địa điểm An Bang, Lai
Nghi, Gò Dừa, Bình Yên
3. Nhóm thứ ba là nhóm các địa điểm mộ chum giai đoạn kết thúc của
văn hoá sa huỳnh và kéo dài sang giai đoạn sau công nguyên. Chum mai
táng cũng vẫn có hình trụ là chính, đồ tuỳ táng bằng sắt và bằng đồng và một
số loại hình gốm thể hiện mối giao lu văn hoá mạnh mẽ với văn hoá Hán.
Bên cạnh mộ chum là mộ đất và niên đại có thể kéo dài đến thế kỷ 2,3 sau
công nguyên. Điển hình là bộ su tập hiện vật Hậu Xá II do những ngời đào
trộm lấy năm 1998, tại đây có loại chum trang trí văn in ô vuông kiểu Hán,
trang sức hình dấu phẩy, mộ chum Xóm ốc, mộ nồi Suối Chình, mộ đất với
bộ đồ đồng Đông Hán ở Lai Nghi, mộ chum, mộ đất Hoà Diêm
Giai đoạn văn hoá Chămpa* từ thế kỷ I, II sau công nguyên đến thế kỷ
XV sau công nguyên. Liên bang các tiểu quốc. Tơng đơng với giai đoạn Bắc
thuộc/chống Bắc thuộc và thời kỳ độc lập tự chủ ở miền Bắc Việt Nam. Giai
đoạn này cũng có thể đựơc chia nhỏ thành những giai đoạn sớm (mà một số


ngời gọi là giai đoạn Lâm ấp), giai đoạn muộn khi tên gọi Chămpa xuất hiện
trong sử sách.
Có thể khái quát một trật tự nh sau:
Thời Sơ sử- văn hoá Sa Huỳnh, kết thúc trên đại thể vào
đầu thế kỷ I sau công nguyên (ở một số vùng, có thể kéo dài
hơn song cũng đã có nhiều biến đổi, không còn đơn thuần
là văn hoá Sa Huỳnh Cổ điển nh Suối Chình- Quảng Ngãi,
Hoà Diêm- Khánh Hoà...)
Từ đầu thế kỷ I sau công nguyên đến đầu thế kỷ III sau
công nguyên: Chăm cổ hay Chăm sớm, tiếp xúc văn hoá
chủ yếu với phía Bắc?sự tiếp xúc này đã bắt đầu từ giai
đoạn cuối của văn hoá Sa Huỳnh (Gò Dừa, Lai Nghi, Bình

Yên...) và tăng cờng hơn ở giai đoạn sau (Gò Cấm, Hậu Xá
I di chỉ, Trảng Sỏi...). Trong sử sách, cơng vực phân bố của
văn hoá Sa Huỳnh lúc này thuộc về địa phận quận Nhật
Nam của nhà Hán. Văn hoá thay đổi, táng thức mộ chum
và bộ đồ gốm tuỳ táng gần nh biến mất thay vào đó là loại
hình di tích mới, đồ gốm khác về loại hình chất liệu. Còn
có thể gọi là Tiền Lâm ấp?
Từ đầu thế kỷ III- Nhà nớc Lâm ấp (ảnh hởng vợt trội của
Hán?và từ nền tảng Chăm sớm). Một số thành cổ nh Trà
Kiệu, Cổ Luỹ, Thành Hồ...đợc xây dựng trên nền tảng của
cơ tầng Chăm sớm , đồng thời cũng bắt đầu tăng cờng
những ảnh hởng phơng Nam.
Từ thế kỷ VI- Tên gọi Champa xuất hiện
II. Phơng pháp và hớng tiếp cận: Vấn đề và tranh luận
II.1. Phân kỳ: Quan điểm về nối tiếp và phát triển liên tục:
II.1.1. Phân kỳ truyền thống Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh: áp dụng
cách phân kỳ khảo cổ học theo các thời đại lấy chất liệu công cụ làm tiêu chí
chính và dựa theo chuỗi tiến hoá các văn hoá khảo cổ học thời đại kim khí
miền Bắc Việt Nam để đa những di tích giai đoạn trớc văn hoá Sa Huỳnh Sơ
kỳ sắt vào trật tự sơ kỳ, trung kỳ hay hậu kỳ đồng thau trong tình hình t liệu
hiện nay không còn thoả đáng và thích hợp.


Tài liệu khai quật khảo cổ học gần đây cho thấy, các di tích sớm, đợc
tập hợp dới cái ô chung Tiền Sa Huỳnh, dù có thời gian tồn tại tơng đơng
với Phùng Nguyên, Đồng Đậu ở phía Bắc thì cũng khó xếp vào phạm trù
đồng thau. ở miền Trung Việt Nam, đồng thau chỉ xuất hiện trớc sắt một
quãng thời gian rất ngắn. Đồng thế kỷ 6 trớc công nguyên, sắt - thế kỷ 5,
4 trớc công nguyên. Chúng ta cha có đầy đủ t liệu để xác định c dân văn hoá
Sa Huỳnh đã khai thác và luyện sắt hay nhập sắt từ bên ngoài? Theo Eiji

Nitta, có thể ở vùng ven biển miền Trung và Nam Bộ trong những thế kỷ cuối
của TNK I trớc công nguyên đã có công cụ sắt rèn, nhng một khối lợng lớn
sắt có thể đợc cung cấp từ Đông Bắc Thái Lan bằng đờng sông (Nitta 1999:
86). Khi nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh cần chú trọng hơn nữa tới bối cảnh
khu vực, trớc đây yếu tố hải đảo thờng đợc các nhà nghiên cứu nhấn mạnh,
song t liệu của các nghiên cứu khảo cổ học hiện nay cho thấy có nhiều ngả
đờng tiếp xúc, giao lu văn hoá. Thứ nhất: tiếp xúc và giao lu với vùng sâu
trong nội địa qua những con đờng thợng đạo, nối vùng duyên hải miền Trung
với Lào, Thái Lan...; thứ hai: theo đờng biển và từ đó ngợc theo các dòng
sông. Đây là những con đờng chuyển tải văn hoá giữa Sa Huỳnh- Đông Sơn,
Sa Huỳnh - Hán và Sa Huỳnh- ấn...
II.1.2. Vấn đề Sa Huỳnh - Chămpa
Giai đoạn những thế kỷ trớc sau công nguyên là giai đoạn bản lề trong
diễn biễn văn hoá ở miền Trung Việt Nam nói riêng và Đông Nam á nói
chung. Tài liệu khảo cổ học phát hiện trong những năm gần đây cho thấy có
những thay đổi nhanh, đột ngột, những tiếp xúc văn hoá ồ ạt đã xảy ra trên
địa bàn này ứng với sự hình thành và phát triển của một loạt những Nhà nớc
Thủ lĩnh kiểu Tù trởng quốc hay Liên minh Tù trởng quốc.
Do có những thay đổi bớc ngoặt nh vậy, nhiều yếu tố văn hoá bản địa
trớc đó dờng nh biến mất và để thế vào chỗ đó là những hình thức, hành vi
của cấu trúc văn hoá mới-lạ. Để lý giải điều này các nhà nghiên cứu không
thể chỉ viện dẫn những định kiến cũ và áp dụng lối t duy tiến hoá thông thờng. Đặt vấn đề theo kiểu hỏi ngỏ của chúng tôi trong những nghiên cứu của
mình nhằm mục đích đa ra một số nhận xét và giả thuyết làm việc từ lối tiếp
cận trực tiếp tài liệu khảo cổ học đã có và để tài liệu tự nó nói.
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cho rằng, những ngời nghiên cứu
cần thống nhất trong việc sử dụng các khái niệm, thuật ngữ chìa khoá trong


văn hoá nh chuyển tiếp, nối tiếp, bản địa, ngoại sinh, cú hích, bớc ngoặt... Trong đó chúng tôi lu ý một số điểm sau:
Từ tiếp cận môi trờng sinh thái, ta thấy, các nhóm c dân dù

khác nhau về ngôn ngữ, tộc ngời về truyền thống văn hoá,
tập quán ứng xử ... khi kế thừa cùng một không gian sống
vẫn có những tơng đồng trong hành vi văn hoá để thích ứng
với điều kiện khí hậu, nhiệt độ, đặc điểm địa chất, địa mạo...
đấy là cha kể đến sự tiếp xúc, giao lu cũ-mới hay trong
ngoài mà dù muốn hay không vẫn thờng/phải xảy ra.
Những sự thích nghi khác nhau và tộc ngời cũng cần đợc
xem xét. Môi trờng và sinh thái luôn đa ra một cơ cấu chính
với nghĩa mà những nhà nhân học tìm kiếm để hiểu và diễn
giải sự khác biệt văn hóa. Sự liên kết tộc ngời với khái niệm
ổ sinh thái và với sự cạnh tranh tài nguyên... cắt đứt và nối
tiếp thế nào có thể xuất hiện trong dạng nối tiếp của văn
hóa. Những dấu vết văn hóa đặc biệt có thể hữu dụng nh
thể những sự thích nghi với những môi trờng đặc biệt và
những kiểu tồn tại. Nh thế, những nhóm với những đặc
điểm văn hóa khác nhau có thể cùng c trú và thậm chí bất
đồng về văn hóa vì những khác nhau này nh thích ứng với
sự khai thác tơng ứng của họ những nguồn tài nguyên khác
nhau ở cùng một vùng
Tiếp xúc để dẫn đến biến đổi văn hoá ở những giai đoạn
bản lề của lịch sử khác với biến đổi văn hoá thông thờng.
Đối với giai đoạn cận kề công nguyên chúng ta không thể
chỉ chú ý đến sự tiếp nối hay đứt gãy của từng hiện tợng văn
hoá riêng lẻ mà cần chú ý đến cách thức tiếp nối hay đứt
gãy của cả hệ thống hay của tập hợp nhiều hệ thống cũng
nh động lực trong/ngoài, nguyên nhân chính/phụ... của quá
trình biến đổi. Hình thức tiếp xúc ở những thời đoạn nối nh
thế này không thể là sự tiếp xúc/giao lu thông thờng theo
trình tự từ yếu đến mạnh và diễn ra nh một quá trình dần
dần mà trong đa số trờng hợp là những cuộc va chạm mạnh

dẫn đến cả cái nội sinh và cả cái ngoại sinh đều phải biến


-

-

-

đổi để có thể tơng hợp và tích hợp hình thành một dạng văn
hoá mới. Tuỳ thuộc vào bản lĩnh vợt trội của mỗi nền văn
hoá mà chúng ta thấy hệ thống nhân tố nội sinh lấn áp hay
ngợc lại.
Hai khái niệm chuyển tiếp và đứt gãy không hoàn toàn đối
nghịch với nhau, cần hiểu trong cái nọ đã bao hàm cái kia.
Nếu không chấp nhận một khái niệm kép và mở nh vậy
chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt của nghiên cứu. Nh vẫn thờng
hay xảy ra trong lịch sử, việc hai nền văn hóa rất khác nhau
đã làm nảy sinh một sự tiến hóa và phát triển tốt lành.
Những sự gặp gỡ nh vậy thờng gây nên những phản ứng
trong các nhóm ngời; đột nhiên họ nhận thấy là có thể có
những phơng pháp chế tạo khác, những phong cách suy
nghĩ và cảm xúc khác với những phơng pháp và phong cách
mà, theo truyền thống họ vẫn cho là hữu hiệu và không thể
thay thế đợc.
Miền Trung Việt Nam do vị thế mở của mình và cũng do
những nguyên nhân lịch sử là nơi cập bến của nhiều lớp c
dân khác nhau, đặc điểm này đã tạo ra các lớp văn hoá
chồng xếp theo kiểu cơ học (nếu chỉ xét trên bề mặt), song
thẩm thấu lẫn nhau (nếu xét ở tầng sâu). Cây phổ hệ văn

hoá Miền Trung, có trục văn hoá chính song cũng có nhiều
nhánh, cành, nguồn văn hoá phụ. Nghiên cứu so sánh mối
quan hệ Sa Huỳnh Chămpa trong thời Sơ sử và mối quan
hệ văn hoá Chăm-Việt thời Lịch sử chắc chắn sẽ thấy không
ít tơng đồng, nhất là bên cạnh mối quan hệ chủ đạo cần lu ý
vai trò của tiếp xúc văn hoá, chuyển dịch dân c với bên
ngoài qua đờng biển và đất liền.
Phạm vi thời gian của giai đoạn nghiên cứu là thời điểm
chuyển giao từ thiên niên kỷ I trớc công nguyên đến những
thế kỷ đầu công nguyên, đây là một giai đoạn rất nhạy cảm
trong lịch sử, trong khoảng thời gian này với sự vận động
chuyển c của các c dân du mục trên khắp các lục địa á- âu,
cho nên, dĩ nhiên c dân trong vùng không thể không chịu


-

-

những tác động trực tiếp hay gián tiếp (Diệp Đình Hoa
2003: 662).
Phạm vi thời gian của giai đoạn nghiên cứu cũng là thời
gian thuộc vào hai nền văn hoá khảo cổ và liên quan chặt
chẽ đến một vấn đề có tính chất lý thuyết mà theo Hà Văn
Tấn đó là : bao giờ thì mở đầu và kết thúc một văn hoá
khảo cổ trên trục thời gian khi sự phát triển văn hoá là liên
tục? (Hà Văn Tấn 1997: 370). Đây là lĩnh vực nghiên cứu
lý thuyết rất phức tạp, tuy vậy ông cũng đã lu ý tới tính tơng
đối tĩnh và tính động của văn hoá khảo cổ. ông cũng cho
rằng : Đứng trớc con đờng tiến hoá liên tục và dần dần

mà trên đó, giữa hai điểm khác nhau trớc và sau, bao giờ
cũng có thể tìm đợc một điểm thứ ba vừa giống điểm sau
vừa giống điểm trớc, thì chúng ta phải hiểu nh thế nào, phải
định nghĩa nh thế nào những khái niệm khảo cổ học cơ bản
mà chúng ta vẫn thờng dùng, nh khái niệm văn hoá...
(Hà Văn Tấn 1997: 730). Có lẽ, cần nhớ rằng, văn hoá khảo
cổ, trong một nội dung của nó, đã bao hàm ý nghĩa của giai
đoạn văn hoá (Hà Văn Tấn 1997: 730).
Một vấn đề quan trọng nảy sinh khi nghiên cứu giai đoạn
này là mối liên quan giữa các tài liệu khảo cổ học và quá
trình diễn biễn của lịch sử. Giai đoạn đang nói đến cũng
chính là thời gian hình thành nhà nớc. Tất nhiên sự xuất
hiện và hình thành các giai cấp cũng nh sự hình thành nhà
nớc đầu tiên là cả một quá trình, hàng ngàn năm. Tuy vậy,
theo Ăng ghen quá trình này chỉ có thể tiến hành một cách
nhanh chóng bùng nổ, đột biến khi có sự tác động của bên
ngoài và cũng cần lu ý tính đa dạng của các hình thức hình
thành. Để giải quyết đợc vấn đề này một cách thấu đáo đòi
hỏi việc phân tích và sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác
nhau. Chúng tôi hy vọng với những nghiên cứu của mình,
các học giả sẽ tìm thấy một số nguồn tài liệu hữu ích khi tìm
hiểu nguồn gốc và lịch sử hình thành Vơng quốc Champa
cổ đại.


II.2. Xu hớng tiếp cận:
II.2.1. Tiếp cận tiến hoá sinh thái:
Có nhiều cách trình bày về điều kiện sinh thái miền Trung và từ đó đa
ra phơng cách thích nghi của con ngời. Điển hình là dự án Vùng khô: Khắc
nghiệt hay ôn hoà; Lý thuyết phân tam địa lý... của các nhà khảo cổ học,

nhân học Mỹ, Nhật Bản.... hay tiếp cận địa-văn hoá của Trần Quốc Vợng...
Khi nghiên cứu khu vực Miền Trung từ góc độ tiến hoá sinh thái nảy
sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Theo quan im v s tin húa v mụi trng sng ca con
ngi, vựng khụ thớch hp hn cho vic nh c thu s khai. Vựng khụ
khụng hon ton khc nghit m cng tt con ngi cú th thớch nghi
v n nh cuc sng.
Thứ hai: Vai trò của trồng trọt mà cụ thể của trồng lúa trong cơ cấu
kinh tế thời sơ sử và cổ trung đại miền Trung. Trên thực tế, s giu cú v
thnh vng ca quc gia (vùng khô- mà trong trờng hợp này là Chămppa)
chng cú gỡ liờn quan n cỏc sn phm nụng nghip m da vo cỏc
phng tin khỏc nh ti nguyờn khoỏng sn v cỏc sn phm rng (bao
gồm cả sản phẩm từ gỗ và phi gỗ) cng nh trung tõm ca cỏc l trỡnh mu
dch. Nghiên cứu khu vực Miền Trung cần đặc biệt lu ý đến mạng lới trao đổi
từ vùng cao-thấp và ngợc lại và những bến, cảng thị cửa sông ven biển miền
Trung Việt Nam nh cầu nối giữa Bắc và Nam, giữa Lục địa và Hải đảo. Nh
nhận định của nhà nghiên cứu Momoki Shiro Chămpa là cánh cổng đi vào
thế giới Trung Hoa đối với ngời Malay và Inđô, trong khi bản thân nó cũng là
cánh cổng của thế giới ấn độ hóa đối với Philippin và Việt Nam (Momoki
Shiro 1999: 71).
Khi nghiên cứu vấn đề này, cũng cần xem xét về sự chuyển dịch của
các tuyến mậu dịch quốc tế, sự suy tàn của con đờng tơ lục nội địa và sự hình
thành con đờng tơ lụa trên biển. Theo các nhà nghiên cứu, nhìn chung, trớc
thế kỷ 16, khi cha có đờng biển qua lại giữa Thái Bình Dơng với Đại Tây Dơng, ấn Độ Dơng với Đại Tây Dơng, chỉ duy nhất ở ấn Độ Dơng và Thái
Bình Dơng là hình thành những con đờng đi qua Đông Nam á; Melaka


(Malacca), Sunda và các eo biển Lombok. Vào thời kỳ này, biển Đông Nam
á đóng vai trò kiểm soát các luồng văn minh thế giới (Sakurai Yomio:28).
Thứ ba: Vai trò của hệ thống trị thuỷ và điều phối sự sử dụng nớc. Các

công trình thủy lợi rất cần thiết ở các vùng khô, và việc xây dựng chúng gắn
bó mật thiết với khả năng tổ chức của chính thể. Một số ngời thậm chí còn
cho rằng nguyên nhân chính gây ra sự suy tàn của các chính thể vùng khô
chính là sự thất bại trong việc giữ gìn những công trình đó.
Trong bất cứ trờng hợp nào, chúng ta cần phân biệt mục đích và chức
năng của các công trình thủy lợi; bất kể nó dành cho tới tiêu, gia dụng, tôn
giáo, các hệ thống vệ sinh,vv.... Khi nhấn mạnh đến cơ chế liên hiệp của các
mandala Chămpa và tính độc lập tơng đối của mỗi một mandala, chúng tôi
cho rằng không thể coi nhẹ tính thống nhất và cơ chế điều khiển chung thông
qua hệ thống tâm linh và thuỷ hệ. Vơng quốc Chămpa có một tổng thể văn
hoá chung mà cũng có sắc thái văn hoá vùng.
Một trong nguyên nhân gây nhiều tranh luận chính là niên đại và chủ
nhân của các công trình trị thuỷ của một vùng đất có nhiều lớp c dân sinh
sống trong một thời gian dài. Những công trình này thờng đợc xây dựng, sử
dụng, sửa chữa và tái cấu trúc qua những thời kỳ và thờng không có tầng văn
hoá với các chỉ định niên đại cần thiết. ở Miền Trung những dạng thờng gặp
là giếng, hệ thuỷ, đập, kênh, cọn nớc....mà nhiều di tích trong đó rất khó xác
định một cách chính xác là của ngời Chăm, ngời Hoa hay ngời Việt...
II.2.2. Tiếp cận tiến hoá lịch sử:
ấn hoá và phi ấn:
Từ thập kỷ 60 trở về trớc, nhiều học giả phơng Tây nh Coedes,
Maspero... thờng coi Chămpa là một quốc gia ấn hoá. Trên thực tế, ảnh hởng
văn hoá-tôn giáo của ấn Độ đối với Chămpa là rất mạnh mẽ và không thể
phủ nhận. Song ngời ta cũng nhận thấy nhiều yếu tố phi ấn, khác ấn ở đây.
Paul Mus nhấn mạnh tới những đặc điểm bản địa-tiền ấn Độ hoá trong văn
hoá Chămpa. Trong quá trình tiếp thu văn hoá Trung Hoa, ấn Độ..., ngời
Chăm đã kết hợp hài hoà giữa yếu tố văn hoá địa phơng (nội sinh) và văn hoá
bên ngoài (ngoại sinh) trên cơ sở phù hợp với điều kiện môi trờng sinh thái,
tính cách, tâm lý tộc ngời, điều kiện xã hội, lịch sử đặc thù để sáng tạo ra
nền văn hoá của mình có những nét chung, song có nhiều nét riêng so với



những văn hoá láng giềng khác ở Đông Nam á cũng tiếp thu mạnh mẽ ảnh
hởng của văn minh ấn Độ.
Cấu trúc mandala
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hình ảnh xa cũ về Chămpa chẳng hạn
nh "nhà nớc ấn độ hóa" của "quốc gia Chămpa" ở ven biển miền Trung Việt
Nam không còn phù hợp nữa. Chămpa không phải là một quốc gia thống
nhất và tập trung, mà là một mandala với sự thống nhất lỏng lẻo bao gồm
nhiều ngời lãnh đạo địa phơng, mà ngời mạnh nhất tự xng là raja di raja.
Mandala thờng bao phủ toàn bộ vùng biển của miền Trung Việt Nam ngày
nay
Dựa trên những kết quả nghiên cứu thực địa, hiện nay các học giả Việt
Nam rất quan tâm tới những mối quan hệ giữa các trung tâm chính trị, đô thị
cảng và các trung tâm tôn giáo. Mandala Chămpa trớc tiên là một "liên
bang" của những chính thể ven sông ấy.
Theo Trần Kỳ Phơng, mỗi tiểu vơng quốc/mandala đợc thiết lập trên
địa bàn này, đã dựa vào năm yếu tố phong thủy nh: (1) Núi Thiêng (tợng trng
thần Siva); (2) Sông Thiêng (tợng trng nữ thần Ganga, vợ thần Siva); (3) Cửa
Biển Thiêng (cảng-thị, nơi trao đổi hàng hoá, mậu dịch hải thơng, là trung
tâm kinh tế); (4) Thành Phố Thiêng/Hoàng Thành (nơi c ngụ của vua và
hoàng tộc hoặc lãnh chúa, là trung tâm vơng quyền); (5) Đất Thiêng/Thánh
Đô (nơi thờ tự thần linh và tổ tiên, là trung tâm tín ngỡng) (Trần Kỳ Phơng
2004:3).
Với phơng pháp tiếp cận tổng thể, Trần Quốc Vợng cũng đã nhìn
miền Trung nh một phức sinh thái, với 7 hằng số địa lý (núi đồi-đèo-sôngbiển-cồn-bàu-đầm phá) mà ông đã mô hình hoá thành hình hộp chữ nhật
đứng-cạnh Tây là núi đồi-cạnh Đông là biển, với các đèo-sông, chia nó thành
các xứ - vùng hình chữ nhật ngang (Trần Quốc Vợng 1998:314-315). Đặc
điểm văn hoá Chămpa phần nhiều đợc quy định bởi những điều kiện địa/sinh
thái này.

III. Tài liệu đọc thêm về những vấn đề liên quan:
III.1. Phân kỳ Tiền, Sơ sử Miền Trung
Vũ Công Quý 1991. Văn hoá Sa Huỳnh. NXB Văn hoá Dân tộc. Hà
Nội.


Hà Văn Tấn 1999 (chủ biên). Khảo cổ học Việt Nam . Tập II. Thời
đại Kim khí. NXBKHXH. Hà Nội
Lâm Thị Mỹ Dung 2004. Thời đại đồ đồng. NXB ĐHQG. Hà Nội.
III.2. Tiếp xúc và giao lu văn hoá
Lõm Th M Dung 2001, Yu t Hỏn min Trung Vit Nam nhng
th k trc, sau cụng nguyờn. Trong Mt chng ng nghiờn cu lch s
1995-2000. NXB Chớnh tr Quc gia. H Ni.
Lõm Th M Dung 2003. Nhng a im kho c hc Chm c
min Trung Vit Nam. ti NCKH cp HQG. Mó s QX .2001.01. T
liu lu ti Bo tng Nhõn hc, trng HKHXH & NV. H Ni.
Mariko.Y 2001. S chuyn tip t Sa Hunh lờn Linyi (Chmpa) vi
s liờn quan c bit n thung lng sụng Thu Bn. Tham lun ti Hi tho
Quc t v Mt th k Kho c hc Vit Nam-Thnh tu, phng hng
v trin vng. H Ni.
Mandala Chămpa:
Higham Charles. 2002. Early Cultures of Mainland Southeast Asia.
Bangkok, River Books Ltd.
Wolters Oliver W. 1982. History, Culture and Region in Southeast
Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Hall, Kenneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in
Early Southeast Asia, Honolulu: University of Hawaii Press.
Trần Kỳ Phơng2004 Vestiges of Champa Civilization. NXB Thế giới.
Hà Nội
W.A. Southworth 2004. The Coastal States of Champa. Trong I.

Glover và P. Bellwood (chủ biên). Southeast Asia from Prehistory to History.
Routledge Curzon. London and New York.
Xu hớng tiếp cận:
Trần Quốc Vợng 1998 Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá. NXBVHDT
và Tạp chí VHNT. Hà Nội


Fukui Hayao (chủ biên). 1999. The Dry Areas in Southeast Asia:
Harsh or Benign Environment. Papers presented at Kyoto- Thammasat Core
University Seminar. Kyoto.
Lờ ỡnh Phng 2001. Kho c hc Chmpa mt th k nghiờn cu.
Tham lun ti Hi tho Quc t v Mt th k Kho c hc Vit NamThnh tu, phng hng v trin vng. H Ni
ấn hoá và phi ấn:
Coedes, G. 1967. The Making of Southeast Asia. University of
California Press. Berkeley and Los Angeles.
Coedes, G. 1968. The Indianized States of Southeast Asia. Honolulu,
East - West Center.
Majumdar, R.C. 1985. Champa: History and Culture of an Indian
Colonial Kingdom in the Far East, 2 nd 16th centuries AD. Delhi, Gian
Publishing House.
Ngô Văn Doanh 1994. Văn hoá Chămpa. NXB VHTT. Hà Nội.
H Vn Tn (ch biờn) 2002. Kho c hc Vit Nam. T.III. Kho c
hc Lch s. NXBKHXH. H Ni.
Chú thích
Theo Trần Kỳ Phơng để tránh nhầm lẫn, nên phân biệt rõ hai
khái niệm Chăm và Chàm. Chăm dùng để chỉ tộc ngời hiện tại
sinh sống chủ yếu ở hai tỉnh Phan Rang và Phan Thiết. Chiêm
Thành (trong sử cổ) để chỉ Chămpa và Chàm để chỉ ngời
Chiêm Thành (trong văn bia là Urang Campa) hay chủ nhân
của văn hoá Chămpa.

Tài liệu sử dụng
1. Lê Bá Thảo 1998. Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý. NXB
Thế giới. Hà Nội
2. Momoki Shiro 1999. A short Introduction to Champa Studies.
Trong Fukui Hayao (chủ biên). 1999. The Dry Areas in


3.

4.
5.
6.

7.
8.

Southeast Asia: Harsh or Benign Environment. Papers presented
at Kyoto- Thammasat Core University Seminar. Kyoto.
Eiji Nitta 1999. Iron and Salt Industries in Isan.Trong Fukui
Hayao (chủ biên). 1999. The Dry Areas in Southeast Asia: Harsh
or Benign Environment. Papers presented at Kyoto- Thammasat
Core University Seminar. Kyoto
Diệp Đình Hoa 2003.Diệp Đình Hoa 2003. Những con đờng
khám phá. Nhà XBKHXH. Hà Nội.
Hà Văn Tấn 1997. Theo dấu các văn hoá cổ. Nhà XBKHXH.
Hà Nội
Sakurai Yomio 1999. The Dry Areas in the History of Southeast
Asia. Trong Fukui Hayao (chủ biên). 1999. The Dry Areas in
Southeast Asia: Harsh or Benign Environment. Papers presented
at Kyoto- Thammasat Core University Seminar. Kyoto

Trần Kỳ Phơng. 2004 Vestiges of Champa Civilization. NXB Thế
giới. Hà Nội
Trần Quốc Vợng 1998. Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá.
NXBVHDT và Tạp chí VHNT. Hà Nội



×