Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Luận Văn Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Thực Hiện Dân Chủ Ở Nước Ta Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.5 KB, 108 trang )

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----------------------

Nguyễn Lơng Luyện

Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngời hớng dẫn khoa học: TS HOÀNG HẢI BẰNG

HÀ NỘI - 2006


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ thế kỷ XX, “dân chủ” trở thành khái niệm phổ biến nhất của
nhân loại và “dân chủ” luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị- xã hội
quan tâm và đề cập. Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị- xã
hội hay một luận thuyết triết học chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân
chủ mà không sử dụng thuật ngữ này trong mục đích cương lĩnh hành động của


mình.
Trong số các giá trị lớn của nhân loại, dân chủ là một hiện tượng chính
trị- pháp lý phức tạp đầy mâu thuẫn. Nó phản ánh một nhu cầu cơ bản xuyên
suốt lịch sử, đặc biệt ngày càng tăng trong đời sống xã hội hiện tại. Tính phức
tạp của dân chủ được quy định, trước hết bởi nó là nhu cầu của con người với
tính cách loài, mặt khác, trong quá trình phát triển, dân chủ luôn là nhu cầu,
phương tiện của các giai cấp, tập đoàn xã hội nào đó nhằm xác lập đặc quyền
(đối với giai cấp thống trị), hoặc là đấu tranh xác lập mặt bằng về quyền (đối với
các giai cấp, tầng lớp xã hội khác).
Lịch sử dân chủ cho thấy, để đạt tới những giá trị chung, phổ biến, dân
chủ gắn liền và phát triển thông qua các nền dân chủ với tên gọi và giai cấp đại
diện khác nhau (dân chủ cổ đại gắn liền với việc xuất hiện Nhà nước Aten vào
thế kỷ V trước công nguyên, dân chủ của chủ nghĩa tự do cổ điển vào cuối thế kỷ
XVIII- đầu thế kỷ XIX, nền dân chủ đa số của Rút- xô, nền dân chủ XHCN kế thừa
và chọn lọc những nguyên tắc quan trọng nhất của dân chủ tập thể của Rút- xô, nền
dân chủ đa nguyên hiện đại của các nước tư bản phát triển).
Cũng như nhân quyền, dân chủ là một khái niệm đầy mâu thuẫn: vừa bao
hàm giái trị chung, phổ biến đồng thời vừa chứa đựng những yếu tố đặc quyền,
mang tính giai cấp. Quá trình phát triển dân chủ, về thực chất là quá trình đấu
tranh, hạn chế dần sự đặc quyền, từ dân chủ ít phổ biến đến những hình thức dân
chủ phổ biến hơn. Chính vì vậy, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước và


3
quyền lực nhà nước, không thể nói đến dân chủ tách rời, bên ngoài vấn đề nhà
nước.
Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, trong
một bài viết ngày 14.10.1949 đã khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới,
xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc

của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều nơi dân”.
Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt nam như một thành
tựu của tư duy đổi mới trở lại với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã khẳng
định:”Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”.
Do đó, ở nước ta việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời
sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm
thắng lợi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dân chủ có ý
nghĩa to lớn trong việc phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng.
Xây dựng môi trường thực thi và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng
đối với một nước có trình độ kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và
lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản như nước ta.
Chỉ có trong môi trường dân chủ, chỉ khi nào quyền tự do dân chủ của người
dân được giải phóng thì những sức mạnh và năng lực sáng tạo của họ mới được
phát huy. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thực hành dân chủ là cái
chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn [12, tr.249].
Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đã thể
hiện được rõ vai trò của mình trong việc làm cho nền dân chủ từng bước khởi
sắc. Dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động mạnh mẽ đến
việc giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần nâng cao
đời sống của nhân dân. Dân chủ về chính trị có những bước tiến quan trọng,


4
trong đó phải kể đến quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện tạo
chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội…
Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức
trách nhiệm của nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền

gây nhiều phiền hà và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, tệ quan liêu, nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ
những hạn chế trên, nhà nước cần phải thể hiện được vai trò quan trọng của
mình trong việc bảo đảm quyền lực của nhân dân, thông qua việc nghiên cứu
tìm tòi những hình thức và cơ chế, thể chế hoá đầy đủ các quyền tự do dân chủ,
tạo điều kiện và khả năng cho nhân dân tham gia thiết thực vào xây dựng và
quản lý nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi nhà nước ta phải thể hiện đúng bản chất của mình là nhà nước
của dân, do dân, vì dân; xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực để
phát triển đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo theo mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: "Vai trò của nhà nước trong việc
thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, những nội dung liên quan đến vấn đề nhà nước và
dân chủ đã được nhiều tác giả đề cập thông qua các công trình nghiên cứu, các
luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, các sách báo... tiêu biểu qua một số tác phẩm sau đây:
* Các luận văn thạc sĩ:
- Thực chất của quá trình dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Văn Vĩnh (1993).
- Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay của tác giả Mai Thị Minh Ngọc (2003).


5
* Luận văn tiến sĩ:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam

hiện nay của tác giả Đỗ Trung Hiếu (2002).
* Các loại sách, báo, tạp chí:
- Văn hoá pháp lý quá trình dân chủ hoá, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số
4/1991 của tác giả Trần Ngọc Đường.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb
Sự thật, 4/1992 của tác giả Đỗ NguyênPhương và Trần Ngọc Đường.
- Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ, Tạp
chí dân chủ và pháp luật số 10/2000 của tác giả Trần Hậu Thành.
- Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin khoa học xã
hội số 3/2002 của tác giả Đỗ Trung Hiếu...
Như vậy, cho đến nay đa phần các nội dung, các khía cạnh của vấn đề nhà
nước và dân chủ đã được bàn tới, song luận văn chỉ nhấn mạnh đến vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện và phát huy dân chủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của nhà nước trong việc
thực thi quyền dân chủ trong lịch sử thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân
chủ ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên đây, các nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
Thứ nhất, làm rõ vai trò của nhà nước đối với việc thực thi dân chủ trong
lịch sử thế giới.
Thứ hai, làm rõ vai trò của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong việc thực hiện dân chủ, phân tích thực trạng tình hình thực thi dân chủ, tìm
ra nguyên nhân những mặt làm được và những thiếu sót cần phải khắc phục.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực thi dân chủ phù hợp với xu thế
hội nhập quốc tế hiện nay.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của nhà nước trong việc
thực hiện dân chủ.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khai thác vai trò của nhà nước trong
việc thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay dưới góc độ triết học.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề dân chủ cũng như vai trò của nhà nước trong việc thực thi dân chủ.
- Trên cơ sở phương pháp luận triết học mácxít, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích - tổng hợp,phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp so
sánh, quy nạp để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân hạn chế về thực thi dân chủ sẽ đề xuất
một số giải pháp cho vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta trong tình hình mới
hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn nhằm nâng cao nhận thức cho tác giả về vấn đề dân chủ và vai
trò của nhà nước trong việc thực hiện vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho các
công tác nghiên cứu và giảng dạy.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


7
Chương 1. DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC
THỰC HIỆN DÂN CHỦ

1.1. DÂN CHỦ - KHÁI NIỆM VÀ TIỀN ĐỀ

1.1.1. Khái niệm dân chủ
Tư tưởng về dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại, bắt đầu phát triển khi xã
hội có giai cấp và có hiện tượng áp bức bóc lột giữa các giai cấp đồng thời xuất
hiện nhà nước. Tư tưởng dân chủ đã phản ánh khát vọng quyền được sống, được
đối xử bình đẳng của đông đảo quần chúng bị áp bức. Nhưng hầu hết những
cuộc đấu tranh đó đều thất bại, và do thất bại trong hiện thực, quần chúng lao
động mơ tưởng đến một xã hội "hoàng kim" đã qua của họ, đó là xã hội cộng
sản nguyên thủy. Những người nô lệ đã mơ ước trở lại thời kỳ cộng sản nguyên
thủy, vì ở đó, họ được làm chủ cộng đồng, xã hội của mình. Những nhà tư tưởng
ở Hy Lạp thời cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải có quyền
lực mạnh nhất và cao nhất. Từ đó đã xuất hiện khái niệm dân chủ, nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân. Những tư tưởng dân chủ thời cổ đại đã được thể
hiện trong nhà nước dân chủ chủ nô Aten. Tuy nhiên, những tư tưởng dân chủ
thời kỳ này cũng còn nhiều hạn chế.
Sau khi nhà nước dân chủ chủ nô Aten bị tan vỡ, chế độ phong kiến được
xác lập. Mọi thành tựu của nhà nước Aten bị xoá bỏ và thay vào đó là những
giáo lý khắc nghiệt trói buộc cuộc sống con người cũng như kìm hãm sự phát
triển của xã hội. Vì lẽ đó, "chế độ phong kiến là đêm trường Trung cổ" đối với
các nước ở châu Âu.
Từ nửa sau thế kỷ XIV, trong lòng xã hội phong kiến đã xuất hiện những
mầm mống của chủ nghĩa tư bản, cùng với nó là sự hình thành từng bước của
giai cấp tư sản - đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ.
Để chuẩn bị cho cách mạng tư sản, từ nửa sau thế kỷ XIV, đến hết thế kỷ
XVI, ở Tây Âu đã nổi lên một phong trào văn hoá mới, sôi động, rầm rộ và có ý


8
nghĩa to lớn. Đó là phong trào văn hoá Phục hưng. Thực chất, đây là một cuộc
đấu tranh vừa ôn hoà vừa quyết liệt trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng của giai cấp
tư sản nhằm chống lại giai cấp phong kiến và Giáo hội. Phục hưng có nghĩa là

khôi phục, phát triển những tinh hoa của nền văn hoá cổ đại Hy-La trong điều
kiện lịch sử mới.
Tư tưởng chủ đạo của phong trào văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân
văn - tức là ý tưởng đề cao con người, quyền con người (đặc biệt là quyền tự do
cá nhân), ca ngợi các vẻ đẹp thân thể, trí tuệ, ý chí của con người. Đây cũng
chính là nội dung của vấn đề dân chủ thời kỳ này.
Sự hạn chế của vấn đề dân chủ trong văn hoá Phục hưng là ở chỗ, mặc dù
văn hoá Phục hưng đề cao giá trị con người và quyền con người, nhưng con
người ở đây chỉ là con người tư sản chứ không phải con người nói chung trong
đó bao hàm con người lao động. Họ đề cao giá trị của con người nhưng lại ủng
hộ sự bóc lột để làm giầu.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào văn hoá Phục hưng đã
bị chế độ phong kiến chống lại quyết liệt, những nhà văn hoá phục hưng bị đàn
áp bởi chính quyền phong kiến và các toà án dị giáo. Sở dĩ có tình hình này là do
giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ chế độ phong kiến; giai cấp tư sản lúc
này mới hình thành, mới bước vào con đường đấu tranh nên chưa có kinh
nghiệm để thắng nổi một chế độ chính trị chưa đến mức suy tàn như chế độ
phong kiến lúc đó. Mặt khác, phong trào Phục hưng tuy phát triển và tiến bộ
nhưng chưa gây được ảnh hưởng lớn trong phong trào quần chúng nhân dân lao
động.
Đến giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, vấn đề dân chủ lại tiếp tục được
các nhà tư tưởng tư sản quan tâm. Từ giữa thế kỷ XVIII và nhất là trong nhiều
năm của thế kỷ XVIIII, các nhà tư tưởng tư sản tiên tiến đã liên tiếp tấn công
vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới, tiến bộ và cách
mạng. Không phải ngẫu nhiên khi lịch sử gọi thế kỷ XVIII là thế kỷ "Khai sáng"
và trào lưu tư tưởng đó là trào lưu tư tưởng "Khai sáng".


9
Thành tựu dân chủ trong trào lưu tư tưởng "Khai sáng" này gắn liền với

những nội dung, tư tưởng tiến bộ, dân chủ và nhân đạo trong các học thuyết của
những đại diện xuất sắc thuộc trào lưu triết học ánh sáng như: Jăng Miliê, Sác
Luy Môngtexkiơ, Vônte, Giăng Giắc Rútxô.
Các nhà tư tưởng tư sản đã tiếp tục xây dựng, phát triển, hướng tới hoàn
thiện ý niệm về dân chủ trong đó có sự bình đẳng cho mọi người kể cả nông dân
và nô lệ. Đặc biệt, các nhà tư tưởng tư sản thời kỳ này đã xác định vai trò của
quản lý nhân dân trong lịch sử phát triển của một quốc gia. Những thành tựu này
chính là sự kế thừa, phát huy cao độ tư tưởng dân chủ trong thời kỳ văn hoá
Phục hưng.
- Tư tưởng dân chủ của Sác luy Môngtexkiơ:
Xuất thân từ một gia đình quý tộc tư pháp, đã từng làm Chủ tịch nghị hội
(khi đó là cơ quan tư pháp) ở Boócđô nên Môngtexkiơ hiểu biết rất rõ hệ thống cai
trị và thực chất của chế độ chuyên chế từ Trung ương cho đến địa phương.
Trong các tác phẩm "Những lá thư Ba Tư" (1721) "Khảo sát về sự lớn
mạnh và suy tàn của La Mã" (1734), và đặc biệt là cuốn "Tinh thần pháp luật"
(1748), ông đã thể hiện những tư tưởng dân chủ của mình. Nghiên cứu các chế
độ chính trị, ông phân biệt 3 loại tổ chức nhà nước: độc tài, quân chủ lập hiến và
cộng hoà. Môngtexkiơ lên án chế độ độc tài là tàn bạo và cho rằng chế độ cộng
hoà là tốt đẹp, nhưng trong thực tế không thực hiện được. Theo ông, chế độ
chính trị tốt nhất là nhà nước quân chủ lập hiến giống như nước Anh.
Chống lại nền quân chủ chuyên chế tập trung mọi quyền lực vào tay vua,
nguyên tắc tổ chức quyền lực "Tam quyền phân lập" của Môngtexkiơ là hết sức
tiến bộ với lập luận rằng phân quyền và hạn chế quyền hành là những bảo đảm
chủ yếu của tự do. Vì thế quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải triệt để độc
lập, phân lập với nhau nhưng mặt khác cũng phải kiềm chế lẫn nhau. "Lấy
quyền lực hạn chế quyền lực". Tổ chức các cơ quan quyền lực theo nguyên tắc
này đã hạn chế được quyền lực tập trung quá nhiều trong tay một người hoặc
một nhóm người từ đó dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, vi phạm pháp luật.



10
Tất cả mọi người trong xã hội từ người có địa vị cao nhất đến người có địa vị
thấp nhất đều phải tuân theo pháp luật, dù là điều nhỏ nhất. Rõ ràng đây là một
quan điểm hết sức tiến bộ không chỉ vào thời kỳ đó.
- Tư tưởng dân chủ của Vônte:
Vônte sinh trưởng trong một gia đình giàu có, là người đại diện xuất sắc
nhất của trào lưu triết học Pháp thế kỷ XVIII, trong các tác phẩm của mình, đặc
biệt trong "Những lá thư triết học", ông đã thể hiện tư tưởng dân chủ của mình
một cách rõ nét: ông kịch liệt lên án tính chất dã man, tàn bạo, phản động và lạc
hậu của chế độ chuyên chế ở Pháp và của nhà thờ Thiên chúa giáo. Bằng giọng
văn châm biếm chua cay và sâu sắc, ông đã phê phán kịch liệt tính chất thối nát
của xã hội đương thời. Những tư tưởng tiến bộ, đậm tính dân chủ của Vônte,
một mặt khiến ông trở thành kẻ thù không đội trời chung với chế độ độc tài
phong kiến và nhà thờ Thiên chúa, nhiều lần bị bắt giam vào ngục Baxđi; mặt
khác, đưa ông lên vị trí vô cùng quan trọng trong trào lưu triết học "Khai sáng".
- Tư tưởng dân chủ của Giăng Giắc Rut-xô:
Giăng Giắc Rút-xô (1712 - 1778) là người đại diện xuất sắc cho tư tưởng
dân chủ cách mạng trong thời kỳ Khai sáng.
Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm nổi tiếng như "Luận về khoa học
nghệ thuật", "Luận về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng", "Khế ước xã
hội", "Emilơ". Giá trị và ảnh hưởng của các tác phẩm này không phải chỉ thu
hẹp trong phạm vi một áng văn hay, một nghệ thuật điêu luyện mà là ở quan
điểm xã hội và chính trị tiến bộ của ông. Rút-xô đã nói lên quyền lợi và nguyện
vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, đặc biệt là của nông dân và tiểu tư sản.
Trong khi lên án chế độ phong kiến chuyên chế, Rut-xô lên tiếng phê
phán chế độ tư hữu và những quan hệ xã hội do chế độ đó sinh ra, ông cho rằng
sự bất bình đẳng là hậu quả của chế độ tư hữu và kêu gọi mọi người đều phải
bình đẳng. Ông vạch ra rằng, nhà nước khi đó phục vụ cho bọn có của để chống
lại những người không có của bằng những thủ đoạn tàn ác và dã man. Tuy vậy,
Rut-xô không chủ trương tiêu diệt toàn bộ chế độ tư hữu vì theo ông việc đó



11
không thể thực hiện được, ông chủ trương điều hoà chế độ tư hữu, chuyển từ chế
độ đại sở hữu sang tiểu tư hữu. Trên cơ sở đó nếu không diệt trừ tận gốc cái xấu
xa của xã hội thì cũng có thể giảm bớt đến mức tối thiểu những sự bất bình
đẳng.
Điểm nổi bật nhất trong quan niệm chính trị của Rút- xô là vấn đề chế độ
nhà nước.Trong khi Môngtexkiơ tin tưởng vào nhà nước quân chủ lập hiến,
Vônte và Đi-đơ-rô trông chờ vào một vị "minh quân" thì Rut-xô chủ trương thiết
lập một nhà nước cộng hoà, trong đó bảo đảm hoàn toàn chủ quyền của nhân
dân, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng và tư hữu tài sản. Đó là một chính quyền
cộng hoà cấp tiến nhất, triệt để nhất và cũng lý tưởng nhất.
Trong "Khế ước xã hội" ông đã trình bày chi tiết về một chính quyền
nhân dân. Khái niệm nhân dân mà ông đề cập đến là những người lao động
sản xuất nhỏ, là nông dân, là tiểu chủ, thợ thủ công... những người trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, họ chiếm đa số trong xã hội. Như
vậy, nền dân chủ của Rut-xô là nền dân chủ của đa số, là dân chủ thực sự
của nhân dân. Mặc dù còn những điểm hạn chế, nhưng với những tư tưởng
tiến bộ nêu trên, Rut-xô vẫn được coi là nhà cách mạng dân chủ xuất sắc
nhất.
Những tư tưởng dân chủ trong bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ và bản
"Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp là sự tiếp nối các tư tưởng của
các nhà khai sáng.
- Tư tưởng dân chủ của C.Mác:
Với sự phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu có phê phán thành
tựu lý luận của những người đi trước, khái quát lịch sử phát triển của dân chủ,
C.Mác đã trình bày một cách khoa học về dân chủ.
Lý luận dân chủ gắn liền với học thuyết nhà nước của C.Mác và chủ nghĩa
Mác nói chung. Sự hình thành và phát triển lý luận dân chủ không tách rời sự hình

thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là học thuyết của C.Mác về nhà
nước. Vì vậy, nghiên cứu những tư tưởng lý luận dân chủ của C.Mác phải đặt


12
trong quan hệ với học thuyết nhà nước. Ngược lại khi nghiên cứu về nhà nước,
không thể không nói đến dân chủ.
Vấn đề trung tâm của lý luận dân chủ mácxít là vấn đề con người, là tư
tưởng xây dựng một "vương quốc tự do" của con người. C.Mác là người kế
thừa, phát triển tư tưởng nhân đạo, tư tưởng XHCN đã có từ trước. Điều khác
căn bản là C.Mác đã đem lại cho tư tưởng đó một cơ sở khoa học, giải thoát nó
khỏi những ảo ảnh và những dự định viển vông.
Trong tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" viết
năm 1843, C.Mác đã nêu lên những quan niệm về bản chất của chế độ dân chủ
khi so sánh với chế độ quân chủ. C.Mác viết:
Chế độ dân chủ là nội dung và hình thức. Chế độ quân chủ dường như chỉ
là hình thức, nhưng trong thực tế thì nó xuyên tạc nội dung. Dưới chế độ quân
chủ, tổng thể, tức nhân dân, bị đặt vào một trong những phương thức tồn tại của
họ, tức chế độ chính trị của họ. Còn trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ
nhà nước thể hiện ra là một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định
của nhân dân " và "Trong chế độ quân chủ, chúng ta có nhân dân của chế độ nhà
nước; trong chế độ dân chủ, chúng ta có chế độ nhà nước của nhân dân. Ở đây,
chế độ nhà nước- không chỉ tự nó, xét theo bản chất của nó, mà còn xét theo sự
tồn tại của nó, theo tính hiện thực của nó- ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực
của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự
nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ nhà nước ở đây xuất hiện đúng chân
tướng của nó, - tức là xuất hiện với tính cách là sản phẩm tự do của con người
[21, tr.349].
Cùng xuất phát từ con người, nhưng C.Mác khác những bậc tiền bối của
ông là phát hiện ra những quy luật vận động của đời sống xã hội, quan điểm về

giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc đấu tranh để cải tạo xã hội. Đặc biệt là
C.Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.


13
Từ hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận, C.Mác ngày càng ý thức rõ
hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tư bản. C.Mác đã nhận
thức rằng, giành lấy dân chủ là một mục tiêu, một nội dung của giai đoạn thứ
nhất của cuộc cách mạng vô sản. Việc giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống
trị cũng có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy dân chủ. Xây dựng nhà nước của
giai cấp vô sản, của nhân dân lao động cũng có nghĩa là xây dựng nền dân chủ
của giai cấp vô sản, nền dân chủ của nhân dân lao động.
V.Lênin- lãnh tụ của cuộc cách mạng XHCN đầu tiên, đã đặc biệt nhấn
mạnh tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ, khi mà cuộc đấu tranh giai cấp
đang diễn ra quyết liệt và vấn đề giành chính quyền được đặt ra một cách trực
tiếp. Khi phân tích sâu sắc những hạn chế của dân chủ tư sản, tính tất yếu khách
quan của việc dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước tư sản giành lấy chính
quyền, giành lấy dân chủ, V.Lênin cũng nhấn mạnh tính lịch sử của dân chủ và
phân tích sâu sắc thêm tư tưởng của chủ nghĩa Mác về sự tiêu vong của nhà
nước và chế độ dân chủ. V.Lênin khẳng định rằng, không có dân chủ trừu tượng
mà bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể, dân chủ với giai cấp này, không
dân chủ với giai cấp kia. V.Lênin viết:
Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của
nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có
tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế. Nhưng
mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng
giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau
trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước [20, tr.123].

Từ những tư tưởng nêu trên, có thể hiểu khái niệm dân chủ theo nghĩa:
Thứ nhất, dân chủ là "dân quản lý, dân bầu cử và chính quyền vì dân".
Thứ hai, dân chủ là hình thức thiết chế của mọi tổ chức đoàn thể với sự
tham gia bình đẳng của tất cả các thành viên trong việc quản lý và nghị quyết
của tổ chức đó được thông qua theo biểu quyết đa số.


14
Thứ ba, dân chủ là lý tưởng của chế độ xã hội với những giá trị xác định:
tự do, bình đẳng, chủ quyền dân tộc, nhân quyền v.v..
Thứ tư, dân chủ là phong trào chính trị - xã hội với mục đích giành lấy
chính quyền về tay nhân dân.
Như vậy, có hai cách tiếp cận đối với khái niệm dân chủ:
Cách thứ nhất, dựa trên việc xây dựng các phạm trù, xuất phát từ lý
tưởng, những giá trị và mong ước của con người như tự do, công bằng, đoàn kết,
coi trọng nhân quyền.
Cách tiếp cận này gắn dân chủ với nhà nước, mà nói đến nhà nước là nói
đến sự cưỡng chế.
Cách thứ hai, phạm trù dân chủ được xây dựng trên cơ sở thực tế, không
phụ thuộc vào các giá trị do nhà nước tuyên cáo. Dân chủ được xem như hình
thức cầm quyền lãnh đạo trên cơ sở cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị
thông qua bầu cử trực tiếp.
Từ hai cách tiếp cận này Robert Dahl (1915) nhà chính trị học Hoa kỳ,
một trong những người sáng lập học thuyết dân chủ đa nguyên đã đưa ra thuật
ngữ "Polyarche", tức là phân chia quyền lực. Thuật ngữ này biểu hiện một chế
độ chính trị với đặc trưng quan trọng nhất là trình độ và mức độ tham dự chính
trị của mọi công dân. Khái niệm "Polyarche" khác với khái niệm "Dân chủ" ở
hai điểm:
Một là, dân chủ - thay mặt nhân dân quản lý và cai trị, do dân và nhờ sự
giúp đỡ của nhân dân, làm việc vì nhân dân.

Còn "Polyarche" là chế độ, trong đó việc quản lý, cai trị là do thiểu số
điều hành được đa số kiểm soát.
Tức là công thức: " Nhân dân lãnh đạo nhân dân " được thay thế bằng
công thức: " Giới thượng lưu tách ra từ nhân dân lãnh đạo nhân dân”.
Hai là, dân chủ theo đúng nghĩa không ở đâu, không bao giờ được thực
hiện một cách trọn vẹn và quyền lực không bao giờ có được sự phân chia cân


15
bằng. Không phải lúc nào nhân dân cũng được tham gia vào công việc quản lý
và không phải khi nào mọi yêu cầu của nhân dân cũng đều được đáp ứng đầy đủ.
Dân chủ là hình thức cai trị (cầm quyền) cho phép các nhóm xã hội được
tự do thể hiện lợi ích của mình và tìm thấy những quyết định trong cuộc đấu
tranh có nhượng bộ một cách cân bằng.
Ngoài những ý kiến trên đây, trong ngôn ngữ hiện đại, dân chủ có thể
được hiểu là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước của một giai cấp.
- Là nguyên tắc tổ chức, quản lý xã hội.
- Là tính chất của các mối quan hệ giữa các cộng đồng người.
- Là giá trị xã hội, một lý tưởng giải phóng con người hướng tới tự do và
thực hiện quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân.
- Dân chủ là sản phẩm của nền văn minh.
- Là điều kiện và tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Xét theo góc cạnh chính trị, dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính
trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực và
mọi công dân, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định.
Dân chủ trước hết và chủ yếu được xem xét dưới góc cạnh chính trị và
pháp luật nhưng dần dần nó mang thêm ý nghĩa xã hội vì nó liên quan đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống.
Dân chủ là một quá trình vận động không ngừng với những thay đổi quan

trọng về nội dung, từ lĩnh vực chính trị, dân chủ ngày càng bao trùm lên các lĩnh
vực xã hội khác.
Về thể chế, dân chủ có thể mang nhiều hình thức: chế độ đại nghị, chế độ
tổng thống, thậm chí cả chế độ quân chủ lập hiến.
Về tính chất, dân chủ cũng có thể là của đa số khi các cơ quan quyền lực
nhà nước phản ánh được ý chí của đại đa số nhân dân (XHCN) hoặc cũng có thể
là của thiểu số khi một số thế lực thống trị dựa vào sức mạnh tài chính hay chính
trị lũng đoạn các cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân (TBCN).


16
Ở nước ta, khi bàn về khái niệm dân chủ, các nhà khoa học trong nước đã
có nhiều ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp, là
tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội.
- Ý kiến thứ hai hiểu khái niệm dân chủ bao hàm 3 nội dung cơ bản là nội
dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo (dân chủ xã hội
là thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo loài người) và nội dung
xã hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại của xã hội hiện đại).
- Ý kiến thứ ba cho rằng, dân chủ cần được xem xét theo nhiều khía cạnh,
nhưng với nghĩa chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân.
- Ý kiến thứ tư của một số nhà khoa học, tôn vinh dân chủ là một công
trình bi tráng trong hàng chục vạn năm của loài người. Đó là khát vọng, lý tưởng
chung mà hàng triệu con tim và khối óc cùng hướng tới.
- Ý kiến thứ năm cho rằng, dân chủ không chỉ là một vấn đề chính trị hay
xã hội, mà xét theo bề sâu chính là một vấn đề văn hoá. Bởi thế, xử lý vấn đề
dân chủ không thể tách rời khỏi việc xử lý mối quan hệ truyền thống - hiện đại
trong văn hoá. Dân chủ còn là một yếu tố của văn hoá, một thành tựu văn hoá đã
có từ lâu trong truyền thống văn hoá của dân tộc.

Cho đến nay, dân chủ được tiếp nhận từ nhiều góc độ khác, nhưng nội
dung cơ bản của dân chủ vẫn giữ nguyên từ gốc và có phát triển theo tiến trình
phát triển của nhân loại từ thời cổ đại đến nay.
Tựu trung lại, dân chủ được hiểu theo những khía cạnh như sau:
Một là, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền quyết
định những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình.
Hai là, dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước, một chế độ chính trị
xã hội mà ở đó thừa nhận những mặt pháp lý những quyền cơ bản của con người
(quyền tự do, quyền bình đẳng). Đồng thời những quyền này được thể chế hoá


17
bằng pháp luật để quy định rõ mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, nhà
nước với công dân cũng như bản thân công dân với công dân.
Nền dân chủ trong xã hội có giai cấp đối kháng chứa đựng trong đó hai mặt
đối lập nhưng thống nhất với nhau đó là tính nhân loại và tính giai cấp.
Tính nhân loại của dân chủ chủ yếu là bảo đảm các quyền của con người
như quyền tự do, bình đẳng và các lợi ích cơ bản của con người phù hợp với sự
tiến bộ của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Tính giai cấp của dân chủ là yếu tố phản ánh quyền lực và lợi ích của giâi
cấp thống trị, được thực hiện thông qua thể chế nhà nước mà giai cấp thống trị
đại diện.
Tuy nhiên, khi giai cấp thống trị còn là giai cấp tiến bộ, nhu cầu và lợi ích
của nó phần nào phù hợp với nhu cầu và lợi ích của nhân dân thì nó sẽ chủ động
ban hành một số những chính sách dân chủ nhất định đáp ứng đúng đòi hỏi của
nhân dân. Khi đó có được sự thống nhất giữa tính giai cấp với những giá trị
chung của nhân loại. Khi giai cấp thống trị đã trở nên lạc hậu với thời cuộc và có
nguy cơ mất quyền lực thì sẽ tìm cách thắt chặt sự kiểm soát quyền lực,hạn chế
và thậm chí thủ tiêu những giá trị dân chủ.
Khi tiếp cận dân chủ từ góc độ là một hình thức nhà nước cũng không nên

tuyệt đối hoá đến mức xem tính giai cấp là tất cả. Bất cứ nhà nước nào, ngoài
chức năng giai cấp còn có chức năng xã hội, chức năng công quyền. Việc thực
hiện có hiệu quả chức năng xã hội lại là một điều kiện và tiền đề để thực hiện có
hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp. Nói cách khác, để giai cấp thống trị giữ
được quyền lực trong tay của mình, nó cũng phải phần nào thoả mãn nhu cầu
của quảng đại quần chúng để họ nhìn nhận nhà nước của giai cấp thống trị như
nhà nước của chính mình. Đó là tiền đề cơ bản nhất bảo đảm tính ổn định của
thiết chế chính trị và nền dân chủ.
Như vậy, trong bất kỳ hình thức dân chủ nào cũng đồng thời có sự tồn tại
chuẩn mực dân chủ mang tính giai cấp và những chuẩn mực dân chủ mang tính
nhân loại tạo thành một chỉnh thể thống nhất, hai yếu tố nêu trên không tồn tại


18
biệt lập, tách rời nhau mà chúng thâm nhập lẫn nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn
nhau. Song, cho đến nay quan điểm duy vật về lịch sử vẫn công khai xem tính
giai cấp có ý nghĩa quyết định.
Trong vấn đề dân chủ cũng cần làm rõ nhiều vấn đề về lý luận và thực
tiễn. Thực tế lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có chế độ dân chủ
chung, mà các chế độ đó khác nhau về bản chất, hình thức, do bản chất giai cấp
thống trị quy định. Nhưng "dòng chảy" lịch sử nhân loại - trong đó có lịch sử
của dân chủ và của các chế độ dân chủ khác nhau là liên tục, có tính kế thừa tất
yếu. Do vậy mà nhân loại đã có bước tiến chung về dân chủ: từ dân chủ trực tiếp
từ nguyên thuỷ đến các chế độ và lý thuyết dân chủ kế tiếp nhau. Thành quả của
chế độ sau cao hơn chế độ trước, chế độ dân chủ sau đã loại bỏ những cái lỗi
thời, kế thừa những cái tiến bộ của chế độ dân chủ trước. Nếu chỉ diễn đạt rằng
không có "dân chủ nói chung", "dân chủ chung chung", "dân chủ thuần tuý" thì
vẫn gây sự nhận thức khác nhau dẫn đến nhiều lệch lạc.
Mặc dù, các nhà nghiên cứu còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng hầu
như đều nhất trí dân chủ là khát vọng, là mục tiêu mà con người vươn tới,

đồng thời là động lực to lớn thúc đẩy con người hành động, con người được
sống tự do mà dân chủ mang lại sẽ phát huy hết tài năng sáng tạo của mình.
Một khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực thì xã hội sẽ khơi dậy được
sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Sự phát triển tự do
của mỗi cá nhân thực sự sẽ phát huy được khả năng chủ động và sáng tạo của
cá nhân đó và nếu như tất cả các thành viên trong cộng đồng xã hội đều được
phát triển tự do, không bị ràng buộc, không bị cấm đoán một cách vô lý,
không bị làm thui chột khả năng thì sẽ làm cho cả xã hội phát triển.
Dân chủ vốn vừa là mục tiêu, vừa là động lực to lớn của sự phát triển xã
hội, đặc biệt là trong xã hội XHCN, trong đó lần đầu tiên trong lịch sử, quần
chúng lao động đông đảo được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột trở thành
người làm chủ vận mệnh của mình. Lênin viết: "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm
ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy


19
trong thực tiễn v.v.. đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu
tranh vì cách mạng xã hội" [20, tr.97]. Do dân chủ có vị trí quan trọng như vậy,
nên nhiệm vụ của nhà nước ta là phải tạo mọi điều kiện để đưa dân chủ vào cuộc
sống.
1.1.2. Những tiền đề của dân chủ
Như vậy, về vấn đề dân chủ có nhiều ý kiến đánh giá và nhìn nhận khác
nhau nhưng có một điều, lịch sử dạy chúng ta rằng, dân chủ chỉ mang lại lợi ích
khi nó phù hợp với nền văn hoá chính trị và tâm tính của dân tộc, khi nó có
những tiền đề về kinh tế và xã hội tương ứng. trong trường hợp ngược lại, nó có
thể sinh ra một thứ quyền lực số đông, dẫn đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ
và hậu quả cuối cùng là có thể dẫn đến chế độ độc tài chuyên chế.
Nếu như chỉ nói đến dân chủ một cách chung chung thì đó chưa phải đã là
hình thức quản lý xã hội tốt nhất và chưa hẳn đã là chìa khoá vặn năng cho tất cả
các dân tộc và cho mọi thời đại. Một nền dân chủ tồi, không hiệu quả thậm chí

còn có thể nguy hiểm hơn là chế độ chuyên quyền. Lịch sử cũng đã chứng tỏ
rằng, nhiều chế độ quân chủ, tập đoàn quân phiệt và những quyền lực chuyên
chế còn mang đến sự hưng thịnh kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội, củng cố an
ninh và công bằng trong phân phối kết quả lao động hơn nhiều so với một chế
độ dân chủ yếu kém và hình thức, dẫn đến một tình trạng tham nhũng nặng nề
ăn sâu vào bản chất.
Vậy thì những điều kiện nào cần thiết để có thể có một nền dân chủ có
khả năng phục vụ lợi ích chung một cách hiệu quả nhất?
Thứ nhất, dân chủ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế và tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Tiền đề quan trọng nhất trong các điều kiện kinh tế cho nền dân
chủ chính là trình độ tương đối cao của phát triển công nghiệp. theo các chỉ số
kinh tế, các nước dân chủ vượt khá xa so với các quốc gia có chế độ cực quyền
hoặc chuyên quyền. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trình độ phát triển
kinh tế là nguyên nhân trực tiếp của sự phát triển dân chủ. Ví dụ, nước Mỹ


20
chuuyển sang chế độ dân chủ vào thế kỷ XIX ở giai đoạn tiền công nghiệp phát
triển, trong khi cùng thời gian đó các nước có nền công nghiệp phát triển như
Liên xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Nam Triều Tiên, Brazin vẫn còn tồn tại chế độ
cực quyền cho đến tận những năm 80-90 của thế kỷ XX. Có nhiều nước được
coi là dân chủ (dân chủ tư sản) như ở châu Âu và Bắc Mỹ bắt đầu quá trình dân
chủ hoá khi kinh tế của họ còn thấp hơn nhiều so với một số nước Ả Rập hoặc
châu Á không dân chủ.
Tiền đề cho dân chủ chính là yếu tố phụ thuộc vào nền công nghiệp phát
triển- Đó là mức độ đô thị hoá. Dân cư ở các thành phố lớn sẵn sàng tiếp cận với
dân chủ nhanh hơn so với dân cư nông thôn, là nơi có đặc điểm thường mang
nặng tính bảo thủ do chịu ảnh hưởng của những lề thói tập tục truyền thống.
Ngoài ra một yếu tố quan trọng nữa thể hiện trình độ phát triển công nghiệp, từ
đó quy định mức độ dân chủ là sự phát triển của hệ thống thông tin đại chúng

thông qua mạng lưới sách báo, truyền hình, internet. Sự phát triển của phương
tiện thông tin giúp cho dân chúng nhanh chóng có thông tin để có thể tham gia
bàn luận, đánh giá và lựa chọn những quyết định chính trị đúng đắn. Trong một
quốc gia rộng lớn về lãnh thổ, với dân số đông thì sự yếu kém và lạc hậu về
thông tin đại chúng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển dân chủ. Và một điều
vô cùng quan trọng nếu nói đến dân chủ mà không có một nền kinh tế thị trường
cạnh tranh. Lịch sử thế giới chưa biết đến một ví dụ tồn tại dân chủ trong các
quốc gia không có nền kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân. Nền kinh tế thị
trường ngăn ngừa việc tập trung quyền lực kinh tế và đi liền với nó là quyền lực
chính trị vào tay một nhóm nhỏ xã hội hoặc vào bộ máy quyền lực nhà nước.
Kinh tế thị trường kích thích sự phát triển các tính chất cần thiết cho một nền
dân chủ: tự do, trách nhiệm và sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội. Kinh tế
càng phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ tầng của xã hội ngày càng phát
triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền công dân và quyền con
người, quyền học tập, nghỉ ngơi, quyền có việc làm, quyền được chăm sóc sức
khoẻ, quyền học tập và được bảo vệ của trẻ em, quyền được sống trong môi


21
trường lành mạnh và an toàn cũng như những nội dung khác đều đòi hỏi sự đầu
tư lớn của nhà nước và xã hội. Sự phát triển kinh tế bảo đảm cho triển vọng của
nền dân chủ, sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra được một tầng lớp trung lưu và sẽ tạo
điều kiện cho dân chúng có học thức cao hơn trước và đó là môi trường mới
thuận lợi cho dân chủ hoá.
Mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế là rất phức tạp, chặt chẽ,
làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Kinh tế tạo điều kiện để xây dựng dân chủ,
nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Cũng cần thấy rằng dân
chủ đã tạo điều kiện phân phối công bằng hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích
thích sự phát triển kinh tế.
Mối quan hệ nhân quả ở đây là tương đối và có thể chuyển đổi cho nhau.

Chúng ta đã biết kinh tế quyết định cuối cùng đối với chính trị và chính trị có ý
nghĩa quyết định trực tiếp cho phát triển kinh tế. Nguyên lý ấy cũng đúng trong
trường hợp thiết lập một chế độ dân chủ. Nhận thức vấn đề này có ý nghĩa to lớn
trong thực tiễn. Bởi vì không ít người chưa thấy được hoặc thậm chí không
muốn nhận thấy tính tích cực của dân chủ trong phát triển kinh tế, muốn chờ đợi
cho đến khi có đủ điều kiện kinh tế phát triển cao mới xây dựng dân chủ. Vin
vào điều này để thụ động, thờ ơ, lơ là thực hiện trong việc thực hiện dân chủ là
không thể chấp nhận được.
Thứ hai, dân chủ không chỉ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế mà còn phụ
thuộc vào điều kiện văn hoá, tinh thần.
Kinh tế thị trường nhìn chung tích cực hơn hệ thống kinh tế mệnh lệnh
hành chính ( phải xem xét trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể). Nó nâng cao
phúc lợi xã hội khi tạo ra khả năng và cơ hội tăng thu nhập cho người dân nhờ
vào khoảng không cho sự phát triển năng lực sáng tạo. Một xã hội giàu có sẽ có
tác động thuận lợi đến quá trình dân chủ hoá xã hội vì có khả năng, trong phần
lớn các trường hợp, xoa dịu được sự bất bình đẳng xã hội. Thực tế chứng mịnh
rằng, sự phân cực do bất bình đẳng xã hội sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn
hoặc xung đột chính trị, mà nhiều khi không thể sử dụng thiết chế và phương


22
pháp dân chủ để giải quyết các xung đột đó. Do vậy, sự phân cực giầu- nghèo
trong xã hội là rào cản to lớn cho quá trình thực hiện dân chủ, mặc dù dân chủ
cũng không dễ có trong một xã hội với chế độ phân phối của cải xã hội theo
hình thức cào bằng, bình quân chủ nghĩa.
Trình độ học vấn, trình độ hiểu biết các vấn đề chính trị-xã hội của nhân
dân là nhân tố cơ bản để thực hiện dân chủ. Bởi vì dân chủ là biểu hiện của trình
độ văn hoá chính trị, có quan hệ mật thiết với trình độ dân trí, văn hoá nói
chung. Chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được quyền hạn và nghĩa vụ của
mình, tự giác tham gia vào công việc nhà nước, công việc xã hội, hoạt động với

tư cách là công dân có tri thức văn hoá mới thực sự có điều kiện thực hiện dân
chủ. Người không có học vấn thường đứng ngoài chính trị và dễ trở thành đối
tượng cho các mánh khoé, thủ đoạn của những lực lượng chính trị cơ hội. Dân
chủ không thể tồn tại với sự cam chịu, phục tùng một cách thụ động các quy
định của chính quyền và chế độ đẳng cấp. Điều này đã được Hồ Chí Minh xác định
rõ :"Trình độ văn hoá của nhân dân ta nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân
cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" [29, tr.281].
Mặt khác, dân chủ không chỉ phụ thuộc vào trình độ dân trí, văn hoá của
người dân mà nó còn phụ thuộc vào văn hoá chính trị của chủ thể cầm quyền,
Những nhà lãnh đạo chính trị có tài, có đức thường suy nghĩ và đưa ra những
quyết sách phù hợp với lợi ích và nhu cầu của nhân dân.
Tuy nhiên. thực hiện dân chủ không phải chỉ mong đợi vào "lòng tốt" của
người cầm quyền, mà quan trọng hơn là xây dựng những định chế dân chủ buộc
những người nắm giữ quyền lực dù muốn hay không muốn cũng phải tuân theo.
Những người cầm quyền được lựa chọn có thể là những người có tài và đức, suy
nghĩ và hành động của họ vì lợi ích của nhân dân, nhưng nếu không có thiết chế
để nhân dân kiểm soát thì họ có thể dần trở thành người lạm dụng quyền lực, sử
dụng quyền lực đó để mưu cầu lợi ích cho riêng mình.


23
Thứ ba, tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh đến văn hoá chính trị cũng như
hành vi ứng xử của công dân trong đời sống chính trị - xã hội.
Với tính chất là cơ sở hình thành nên tâm tính và ý thức cũng như thế giới
quan chính trị, tôn giáo có thể ngăn chặn hoặc thúc đẩy quá trình dân chủ hoá
đời sống xã hội. Trong số các tôn giáo thì Đạo Tin lành có tác động tích cực hơn
cả đến quá trình dân chủ hoá, thiết lập những giá trị tốt đẹp cho xã hội như giáo
dục tự do và trách nhiệm cá nhân, sự bình đẳng, yêu lao động và phủ nhận các

đẳng cấp giáo hội. Các tôn giáo khác, đặc biệt là Hồi giáo ít có xu hướng tiếp
cận đến quá trình dân chủ hoá thông qua các đạo luật khắt khe, không dành cho
cá nhân một khoảng không tự do và sự lựa chọn để đi đến việc hoàn thiện đời
sống xã hội. Sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ của Hồi giáo hay như những
giáo lý đạo đức-xã hội của Nho giáo, Phật giáo (nếu không được nhận thức một
cách tích cực) sẽ buộc con người cá nhân thu hẹp khả năng và quyền được tiếp
cận đến những giá trị mà dân chủ là một trong giá trị văn minh nhất của nhân
loại.
Vấn đề ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đến quá trình dân chủ có lẽ là
điều đáng bàn hơn cả. Với chiêu bài tự do tín ngưỡng, các thế lực đối lập ra sức
sử dụng tôn giáo với mục đích đen tối, ru ngủ các tín đồ nhằm chiếm đoạt quyền
lực chính trị như đã từng xảy ra ở Tây nguyên- Việt Nam, như đã và đang xảy ra
với chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Tự do tín ngưỡng nhưng thực chất, các thế lực
tôn giáo này không mang lại dân chủ cho các tín đồ mà đẩy xã hội đến sự hỗn
loạn và xung đột giữa các tôn giáo khác nhau.
Thứ tư, quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia cũng ảnh hưởng nhiều đến
dân chủ của từng quốc gia nói riêng và trên thế giới nói chung.
Các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hoá, tôn giáo là những điều kiện, tiền đề
bên trong của mỗi quốc gia cho sự hình thành và phát triển dân chủ. Tuy nhiên
các yếu tố bên ngoài ngày càng có vai trò đặc biệt, tác động mạnh mẽ đến quá
trình dân chủ. Đó là sự tác động về kinh tế, chính trị, văn hoá thông tin hoặc
thậm chí là can thiệp quân sự trực tiếp. Ví dụ, sự can thiệp thô bạo vào đời sống


24
chính trị ở Nam Tư, ở I-Rắc về thực chất không phải là thiết lập dân chủ ở các
nước này mà là gạt bỏ chế độ chính trị đối lập với quyền lợi thống trị toàn cầu
của Mỹ. Tuy nhiên, nền dân chủ của một quốc gia được thiết lập do có sự can
thiệp, tác động từ bên ngoài sẽ không ổn định và không có sinh lực cho đến khi
nào tạo ra được những tiền đề bên trong cho bản thân nó. Tự do trong khuôn

khổ, giới hạn và kiểm soát của những người cùng dân tộc với nhau vẫn sẽ có ý
nghĩa hơn so với tự do dưới sự bảo hộ của dân tộc khác!
Nói một cách tổng quan, làm bạn với các quốc gia dân chủ có uy tín là
cách thức hợp lý cho quá trình dân chủ hoá đối với các nước đang phát triển chế
độ dân chủ. Tuy nhiên không phải sự giúp đỡ nào cũng vô tư, mà đa phần ẩn sau
sự ủng hộ đó là những mưu tính vụ lợi. Vấn đề đặt ra trong quan hệ đối ngoại đa
phương, các quốc gia phải bình đẳng hợp tác, học hỏi và trao đổi trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau. Dân chủ nghĩa là không áp đặt và do quyền tự quyết của mỗi
quốc gia, từng dân tộc.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Dân chủ với tính cách là một giá trị xã hội luôn thể hiện khát vọng của
nhân loại về cuộc sống tự do, bình đẳng cho tất cả mọi người. Nhưng những giá
trị dân chủ ấy chỉ có thể được thực hiện từng bước thông qua những thể chế dân
chủ khác nhau - những hình thức nhà nước dân chủ khác nhau như lịch sử nhân
loại đã từng trải qua. Dân chủ, cũng như nhà nước, cũng như chính trị, luôn
mang tính giai cấp. Do vậy, dân chủ chủ nô là dân chủ của giai cấp chủ nô; dân
chủ tư sản là dân chủ của giai cấp tư sản. Dân chủ vô sản là dân chủ của giai cấp
vô sản, dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ vô sản là sự phát triển tất yếu
của xã hội, của kinh tế, của chính trị và của bản thân dân chủ.
1.2.1. Nhà nước với việc thực hiện dân chủ trong lịch sử
- Nhà nước dân chủ chủ nô Aten:
Nhà nước Aten (thế kỷ thứ V - IV TCN) đã thiết lập chính thể cộng hoà
dân chủ. Quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho đại hội nhân dân là cơ


25
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đại hội nhân dân được thành lập từ tất cả các
công dân đàn ông từ 20 tuổi trở lên. Đại hội nhân dân thường họp từ 2 đến 3 lần
trong tháng. Đại hội có quyền bầu ra những cơ quan nhà nước khác và những
chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Đại hội nhân dân là cơ quan ban

hành pháp luật. Mỗi công dân đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình về tất cả
các vấn đề mà họ quan tâm, có quyền sáng kiến pháp luật, có quyền yêu cầu Đại
hội huỷ bỏ các đạo luật nếu nội dung của đạo luật đó làm tổn hại tới các nguyên
tắc của nền dân chủ hiện hành. Cơ quan quản lý nhà nước là Hội đồng trăm năm
do Đại hội nhân dân bầu ra theo phương thức rút thăm. Người được bầu phải từ
30 tuổi trở lên và phải trải qua kỳ thi sát hạch về chính trị.
Nhà nước cộng hoà dân chủ ở Aten phát triển khá cao, đặc biệt là khi có
các cuộc cải cách đặc sắc của các nhà quý tộc như Sô Lông, Cơlitten và
Pêricơlat... Các cuộc cải cách này đã đem lại những thay đổi rất lớn trong đời
sống nhà nước và xã hội lúc bấy giờ như: thực hiện việc xoá bỏ nô lệ vì nợ; xoá
bỏ việc phân hoá dân cư theo tài sản và địa vị xã hội để tiến hành phân chia khu
vực hành chính - lãnh thổ căn cứ vào khu vực cư trú của họ; nâng cao hơn vai
trò của Đại hội nhân dân; cho phép những công dân ít tài sản cũng được tham
gia Hội đồng trăm năm.
Có thể nói, Nhà nước Aten là một điển hình về nền dân chủ chủ nô hoàn
thiện nhất, tiến bộ nhất thời đó với những đặc điểm cơ bản là:
- Có sự tham gia của nhân dân (dân tự do) vào việc ban hành các đạo luật.
- Các cơ quan nhà nước được thành lập theo nguyên tắc bầu cử (rút thăm),
số lượng đại biểu được bầu phụ thuộc vào số lượng dân cư của mỗi đơn vị lãnh
thổ, do vậy, luôn có sự thay đổi về nhân sự; quy định chế độ báo cáo và chế độ
trách nhiệm mà những người giữ các chức vụ quan trọng trước cử tri về những
việc làm của họ.
- Giải quyết những công việc nhà nước mang tính tập thể, công khai dân
chủ; thủ tục quản lý đơn giản không có sự quan liêu; đã tách Toà án khỏi cơ


×