Vai trò của gia đình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
đã mang lại cho xã hội Việt Nam những thay đổi và chịu sự tác
động không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực
văn hóa xã hội.Gia đình đơn vị cấu thành cơ bản của xã hội
tất yếu sẽ có
trên nhiều khía cạnh. Đây chính là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự xuất hiện của các vấn đề phức tạp trong gia
đình và xã hội Việt Nam. Để giải quyết những vấn đề tác động
của công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cũng
như xây dựng gia đình Việt Nam trở thành “nhân tố quan trọng
cho sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” đây một
trong những vấn đề đã và đang đặt ra cho xã hội nói chung và
cho mỗi chúng ta nói riêng. Bước sang những năm đầu của thế
kỷ XXI, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập sâu rộng quốc tế để phát triển nhanh hơn,
tạo tiền đề để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của Việt Nam được
phát triển theo hướng ưu tiên tạo ra công ăn việc làm, thu nhập
và góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội. Nhờ vậy, xã
hội Việt Nam đã có sự biến đổi nhanh chóng về mọi mặt cả
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế đã thu được nhiều thành tựu về phát
triển kinh tế xã hội và tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về
xã hội. Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế đã và đang để lại những mặt trái và hệ lụy của nó, tác
động sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực xã hội; trong đó, gia đình
thiết chế một thiết chế bền vững, lâu đời đã và đang chịu
những tác động sâu sắc nhất và dễ nhận thấy. Do đó, tác giả
chọn vấn đề: “Vai trò của gia đình và những biến đổi của nó
dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế” làm vấn đề nghiên cứu. 3 1. Vai trò của gia
đình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế Gia đình là yếu tố cấu thành xã hội, là tế bào của xã
hội; từ gia đình con người được sinh ra, trưởng thành và hoàn
thiện về thể chất và nhân cách. Gia đình quan hệ hữu cơ với
xã hội. Xã hội phát triển tạo điều kiện cho gia đình phát triển và
ngược lại gia đình lành mạnh thì xã hội mới lành mạnh, phát
triển, ổn định và bền vững. Gia đình trở thành mối quan tâm
chung của mỗi quốc gia dân tộc và nhân loại. Các nước phát
triển và đang phát triển đều nhận thức rõ xây dựng, củng cố và
phát triển sự vững chắc của gia đình là nhân tố quan trọng để
ổn định và phát triển xã hội. Gia đình phát triển bền vững
không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi người, mỗi nhà mà còn là
nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh,
an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì
vậy, gia đình là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm. Từ khi thành lập và trải qua các thời kỳ
lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều chủ trương, chính sách
để phát triển “các tế bào” của xã hội sao cho thật mạnh khỏe,
bền vững để tạo đà cho đất nước phát triển. Trong bối cảnh
hiện nay, quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức, tác động
mạnh mẽ tới vị trí, vai trò, chức năng của gia đình theo cả
chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Bên cạnh những thành
công, tiến bộ, các “tế bào” của xã hội cũng đang chịu nhiều rủi
ro, mất mát. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, vai trò của gia đình và xây dựng gia đình văn
hóa trong thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và làm
sâu sắc hơn. Thứ nhất: Gia đình là nền tảng, tế bào của xã hội
Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội được chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định khi bàn về vai trò của
gia đình đối với sự phát triển của xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“... những trật tự xã hội, trong đó có những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang
sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ
phát 4 triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển
của gia đình” 1. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Gia đình tốt thì xã
hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của
xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”2. Kế thừa tư tưởng của các
nhà kinh điển, Đảng ta nhận thức sâu sắc về vai trò của gia
đình đối với xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành
mạnh của xã hội”3. Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có
một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng “tế bào” phải
phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà
còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo
ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn
tại và phát triển được. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhiều
giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị truyền thống của
gia đình Việt Nam cũng đang mất đi. Tình trạng ly hôn, bạo
hành gia đình gia tăng; chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng
thụ có xu hướng tăng lên… Những hạn chế này đang làm cho
nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền
tảng xã hội thiếu vững chắc. Chính vì vậy, trên cơ sở những
tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam đã được
Đảng đề xuất từ Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định chiến lược xây dựng gia đình văn
hóa Việt Nam, tại Đại hội XI, Đảng ta phát triển mới về nhận
thức và xác định: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện
cơ bản, quan trọng để gia đình phát triển lành mạnh. Muốn có
một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc” thì phải xây
dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Thứ hai,
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước 1
C.Mác – Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 21, Nxb CTQG, Hà
Nội.1995, tr.121 2 Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG,
Hà Nội.2011, tr.300 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.2011.
tr.77 5 Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: Gia đình “là
môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách” 4 góp phần chăm lo xây dựng con người Việt
Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công
dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa,
nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính. Con người Việt
Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có
một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi
gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm
trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, phải có trách
nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội
những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham
gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng
lao động tương lai có chất lượng cao. Đây là điểm mới trong tư
duy Đại hội XI của Đảng ta về vai trò của gia đình đối với phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Gia đình
chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động
cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến
những người lao động trí óc đều được sinh ra, được nuôi
dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình. Đảng ta nhấn mạnh,
gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà
còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình
thành nhân cách. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số
lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia
đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng
hơn gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo
dục nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Theo
quan điểm của Đảng, gia đình no ấm, bố mẹ thuận hòa, hạnh
phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các
thế hệ sau có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần
đắc lực vào chiến lược phát triển nguồn lực con người chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay. Thứ
ba: Gia đình có vai trò giữ gìn, lưu truyền và phát triển những
giá trị văn hóa dân tộc 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.2011.
tr.77 6 Đảng ta nhấn mạnh gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và
lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thông
qua các câu chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha
mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng
tâm hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo dục hình thành
nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử lý
các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ
những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền
thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi
dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình cộng
đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù
trong lao động sản xuất… Đảng ta chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện
nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét
đến cùng, đó là trách nhiệm của mỗi gia đình, mỗi con người
cụ thể. Trong xã hội hiện đại, sự biến đổi của gia đình diễn ra
một cách sâu sắc, quyết liệt, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn
đề cần quan tâm giải quyết như sự bùng nổ dân số, chênh lệch
về giới tính, mâu thuẫn thế hệ, sự lệch lạc trong lựa chọn đối
tượng để tiến hành xây dựng gia đình (kết hôn cùng giới),
những mô hình gia đình mới xuất hiện. Nhiều vấn đề gia đình
cũng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh mới
của đất nước, đặc biệt là do sự tác động của cơ chế thị trường
và hội nhập quốc tế không ít trường hợp có những thành viên
gia đình động cơ, mục đích sống lệch lạc, nhiều gia đình không
thích ứng được hoặc thích ứng không kịp với những biến đổi
nhanh chóng xã hội, rơi vào khủng hoảng, bế tắc, thậm chí đổ
vỡ. Trong bối cảnh hiện nay, một mặt nhiều giá trị mới được
tiếp thu, hình thành xuất hiện nhưng mặt khác nhiều giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam cũng đang dần dần
mai một đi. Tình trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng thụ có xu hướng tăng lên…
Những hạn chế này đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ
rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc.
Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị
kinh tế của xã hội. Không có gia đình 7 tái tạo ra con người
tốt, khỏe để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại
và phát triển được. Ở thời đại nào văn hoá gia đình cũng là
nền tảng cho văn hoá xã hội. Văn hoá gia đình giàu tính nhân
văn, nhân bản, đề cao giá trị đạo đức, nhân văn, xây dựng nếp
sống văn hoá trật tự, kỷ cương, hun đúc tâm hồn, bản lĩnh con
người. Bởi vậy gia đình tốt là bảo đảm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Xã hội phát triển, cơ cấu xã
hội có sự biến đổi nhưng tổ chức của gia đình không biến đổi
nhiều. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó văn hoá gia đình
đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá truyền thống dân tộc. Chuẩn mực của gia đình
Việt Nam hiện nay gồm 4 yếu tố: No ấm: Biểu hiện sự phát
triển kinh tế của gia đình nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật
chất và tinh thần của các thành viên. Bình đẳng: Biểu hiện các
thành viên trong gia đình tôn trọng lẫn nhau và được hưởng
mọi quyền lợi về học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc
sức khoẻ; đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ em gái, người cao
tuổi. Tiến bộ: Biểu hiện các thành viên trong gia đình luôn có ý
thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt để có kiến thức,
trình độ, năng lực; có đạo đức, lối sống lành mạnh phù hợp với
truyền thống văn hoá dân tộc và xu thế phát triển của thời đại.
Hạnh phúc: Biểu hiện các thành viên trong gia đình gắn bó,
thương yêu, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, tạo ra
môi trường trong sạch, ngăn chặn tệ nạn xã hội. Hiện nay,
nước ta đang thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa.
Sự giao lưu mở cửa hội nhập đã đem đến cho gia đình Việt
Nam nhiều cơ hội. Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển
kinh tế, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn
minh của các nước. Song, bên cạnh những mặt tích cực đó,
mặt trái của cơ chế thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề tác
động đến đời sống gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt
Nam đang đứng trước những thử thách, sóng gió. Cuộc sống
của xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của 8 các
thành phần kinh tế đã tác động đến đời sống gia đình, ở một
góc độ nào đó đã phá vỡ nền nếp gia phong đạo đức của gia
đình truyền thống Việt Nam. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống
chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn, quan hệ tình dục
trước hôn nhân và việc nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng, để
lại những hậu quả nặng nề về nhiều mặt đối với gia đình và xã
hội. Xu hướng hôn nhân với người nước ngoài ngày càng
nhiều và sau hôn nhân nhiều phụ nữ di cư theo chồng sinh
sống ở nước ngoài cũng đặt ra mối quan tâm lo lắng của toàn
xã hội. Các giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt đẹp của
người Việt Nam đang có biểu hiện xuống cấp, mai một. Nhiều
tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm,
HIV/AIDS đã và đang xâm nhập vào các gia đình. Mâu thuẫn
xung đột giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống và vấn đề
chăm sóc người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới.
Tình trạng bạo lực trong gia đình có chiều hướng ngày càng
gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động. Những hạn chế này
đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng,
làm cho nền tảng xã hội thiếu vững chắc. Gia đình không chỉ là
“tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội.
Không có gia đình tái tạo ra con người tốt, khỏe để xây dựng
xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Việc
thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình còn nhiều thiếu sót và bất
cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly
thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá
thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng về nhiều mặt đối với bản thân, gia đình và xã hội. Những
biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang
làm cho xã hội lo lắng, bận tâm. Nhiều giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, sống có
trách nhiệm, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống
cấp. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc,
nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới.
Tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, mại dâm
và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình. 9
Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em,
trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi
phạm pháp luật có chiều hướng phát triển. Nhiều gia đình vẫn
đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là
nỗi đau của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị
chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những
mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh
sau gần bốn mươi năm qua vẫn chưa thể bù đắp. Công tác
xoá đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó
khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng duyên hải,
miền núi, vùng sâu, vùng xa,biên giới, hải đảo, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những
hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát
triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Từ thực tế
trên, chúng ta thấy việc phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của
gia đình truyền thống trong công tác xây dựng gia đình văn hóa
có đời sống kinh tế phát triển, đời sống văn hóa tinh thần lành
mạnh phong phú là yêu cầu bức thiết của toàn xã hội. Gia đình
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước. Do đó vai trò của
gia đình trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế là rất quan trọng và cần thiết. 2. Những
biến đổi của gia đình Việt Nam dưới tác động của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Trong bối
cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam đang chịu những tác động
nhiều chiều và biến đổi mạnh mẽ. Việc phát huy các giá trị văn
hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống trong thời đại ngày nay,
khắc phục những hệ quả tiêu cực do công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế mang lại là yêu cầu bức thiết của toàn
xã hội. Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển đổi từ
truyền thống sang hiện đại trên nhiều phương diện và xu
hướng khác nhau. Đó là sự biến đổi mang tính toàn diện cả về
hình thái, các chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình và vai trò của người phụ nữ trong gia đình. 10
Một là, Sự biến đổi của hình thái gia đình Gia đình Việt Nam
truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia đình
được hình thành từ nền văn hóa bản địa, chứa nhiều yếu tố
dường như bất biến, ít đổi thay. Theo đó, hình thái gia đình phổ
biến là gia đình mở rộng gồm nhiều thế hệ các thành viên liên
kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống và thường bị chi
phối bởi chế độ “gia trưởng”. Trong quá trình phát triển, gia
đình truyền thống đã thể hiện được các ưu điểm về sự gắn bó
tình cảm giữa các thành viên trong gia đình; về vấn đề bảo lưu
các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ và phát huy tốt nề
nếp gia phong, gia đạo. Tuy nhiên, gia đình truyền thống lại là
một trong những nhân tố tham gia vào quá trình kìm hãm năng
lực phát triển của các cá nhân, đặc biệt là dưới tác động của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
gia đình truyền thống có vẻ không còn là khuôn mẫu của gia
đình hiện đại. Sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và
sự hình thành hình thái gia đình mới là một điều tất yếu. Theo
kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, mô hình hộ gia
đình 2 thế hệ (gồm cha mẹ và con cái) gia đình hạt nhân tồn
tại khá phổ biến ở Việt Nam (chiếm tỉ lệ 63,4%). Hộ gia đình 3
thế hệ trở lên gia đình mở rộng có xu hướng giảm. Trong đó,
mô hình gia đình qui mô nhỏ có xu hướng phổ biến ở thành thị
hơn nông thôn và ở nhóm hộ giàu hơn hộ nghèo; tỷ lệ hộ gia
đình có 3 thế hệ ở nông thôn thấp hơn thành thị. Nguyên nhân
của sự thay đổi này có thể được lí giải như sau: Thứ nhất,
trong bối cảnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế không ngừng được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực,
hình thái gia đình hạt nhân tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn một số
loại hình thái gia đình khác (gia đình mở rộng, gia đình khuyết).
Bởi vì gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn
nhẹ và có khả năng thích ứng nhanh với các biến chuyển của
xã hội với những đặc điểm sau: Tương đối tự do so với sức
ảnh hưởng của tập thể, dòng họ. Sau khi kết hôn, vợ chồng
không sống chung với ông bà nội ngoại mà chuyển sang nơi ở
mới do đó hình thành nên cộng đồng sinh sống độc lập. Trọng
tâm của gia đình đã chuyển từ mối quan hệ ông bà, cha mẹ
và 11 con cái sang quan hệ vợ chồng, cho nên sức hấp dẫn
và tính thân mật về mặt tình cảm giữa hai vợ chồng được đề
cao và tính năng quan hệ về mặt tình cảm của gia đình được
tăng cường. Gia đình hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh
tế và tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng không gian
tự do tương đối để phát triển tự do cá nhân. Thứ hai, xã hội
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mang đặc
tính “động” rất cao và cần đến một cơ chế mở để vận hành
cung cầu của lực lượng lao động theo nguyên tắc của thị
trường một cách thuận lợi. Trong đó, tính “động” có được từ sự
tự do lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân rất được quan tâm.
Do vậy, gia đình hạt nhân vợ chồng là trọng tâm có thể tự do
lựa chọn nơi ở mà không bị sức ép từ dòng họ mang đặc tính
gắn liền với nhu cầu của xã hội công nghiệp. Thứ ba là xu
hướng thanh niên di cư từ nông thôn ra thành thị để làm việc
rồi lập gia đình ở thành thị và điều kiện đất đai, nhà ở tại các
thành thị bị hạn chế... Ba là, Sự biến đổi chức năng của gia
đình Từ cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4
chức năng cơ bản (sinh sản, giáo dục, kinh tế và tâm lí tình
cảm). Do sự va chạm giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện
đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu xã hội và
tốc độ biến đổi của gia đình, chức năng của gia đình Việt Nam
có những biến đổi theo phương thức khác với gia đình phương
Tây trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Thứ nhất, về chức năng sinh sản, đại bộ phận người
dân Việt Nam vẫn cho rằng sinh con là một chức năng quan
trọng của gia đình. Tuy nhiên, đã có một sự chuyển đôi nhận
thức rất rõ về số con. Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam
năm 2006, tỉ lệ người đồng ý rằng gia đình phải có nhiều con
chiếm tỉ lệ khá thấp (18,6% người cao tuôi, 6,6% người độ tuôi
18 60 và 2,8% vị thành niên), quan niệm “gia đình nhất thiết
phải có con trai” vẫn được một bộ phận đáng kể người dân ủng
hộ (gần 37% người độ tuôi 18 60), trong đó nhóm dân số
nghèo có nhu cầu sinh con trai nhiều hơn nhóm dân số giàu
(45,5% ở nhóm có thu nhập thấp nhất, 26% ở nhóm có thu
nhập 12 cao nhất). Lý do để giải thích vì sao phải có con trai
chủ yếu vẫn là “để có người nối dõi tông đường” (85,7%), “để
có nơi nương tựa lúc tuôi già” (54,2%) và “để có người làm
việc lớn, việc nặng” (23,4%). Tuy nhiên, đã có khoảng 63%
người trong độ tuổi 18 60 cho rằng không nhất thiết phải có
con trai5. Kết quả phân tích cho thấy đại bộ phận người dân đã
tự nhận thức được giá trị của con cái trong cuộc sống gia đình
nói chung, chứ không chỉ đơn thuần thực hiện theo qui định
của chính sách dân số. Thêm vào đó, cho đến nay cấu trúc xã
hội và quan điểm giá trị liên quan đến vấn đề sinh sản và quan
hệ tình dục cũng đã có sự thay đôi. Sự tự do trong việc mang
thai và sinh sản do các tiến bộ của y học mang lại cho con
người, sự tự do trong quan hệ tình dục nhờ vào sự phát triển
của các phương pháp tránh thai và các loại dịch vụ liên quan
đến tình dục đã góp phần mang lại sự thay đổi trên. Giờ đây
tình dục không chỉ mang ý nghĩa là một phương cách của việc
sinh sản mà còn là sự thể hiện của nhu cầu thể xác tự nhiên
của loài người. Đời sống tình dục thỏa mãn đang trở thành
nhân tố chính trong việc làm tăng mức độ thỏa mãn trong đời
sống hôn nhân. Thứ hai, về chức năng giáo dục chức năng
này được tăng cường hơn bao giờ hết và trở thành một trách
nhiệm nặng nề mà gia đình phải gánh vác. Trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhu cầu về
nguồn lao động có tay nghề tăng cao nên đòi hỏi nguồn nhân
lực phải đáp ứng đầy đủ các tư chất cần thiết. Do đó, tiêu
chuẩn của việc dưỡng dục con cái cũng tăng theo. Sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt đã làm tăng kỳ vọng xã hội đối với tiêu
chuẩn chất lượng của việc dưỡng dục con cái. Đây cũng chính
là lý do chính thu hút sự quan tâm của cha mẹ đối với việc học
của con cái. Tuy nhiên, sự quan tâm này không giống nhau
giữa các khu vực, vùng, miền và dân tộc. Cha mẹ ở thành thị
chăm lo đến việc học của con cao hơn so với nông thôn. Tây
Bắc là vùng có tỉ lệ cha mẹ ít quan tâm hơn so với các vùng
còn lại, người Hmông là dân tộc có tỉ lệ cha mẹ quan tâm tới
việc học của con cái thấp nhất. Ngoài ra cũng cần phải chú ý
đến những dữ kiện sau: các nhóm cha mẹ có học vấn cao và
có thu nhập cao thì mức độ quan tâm đến việc học 5 Kết quả
điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Uỷ ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối
hợp cùng Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới thuộc Viện
KHXHVN và quỹ nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) thực hiện
và đã công bố cuối tháng 6/2008.