Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tìm hiểu nguồn tài nguyên sinh học rừng ngập mặn tại xã Cẩm Thanh –TP Hội An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.59 KB, 52 trang )

MỞ ĐẦU
RNM là một thành phần rất quan trọng của môi trường tự nhiên, nằm
trong hệ sinh thái đất ngập nước ven biển. RNM được coi là nguồn tài nguyên ven
biển vô cùng hữu ích đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống con người.
Hệ sinh thái RNM có tính đa dạng sinh học rất cao đây là hệ sinh thái nằm giữa
hệ sinh thái trên cạn và dưới nước nên rất đa dạng về thành phần loài động thực vật
và thực vật. Các hệ sinh thái nước ngọt có khoảng 2611 loài thủy sinh vật, có 147
loài trai ốc, 546 loài trai ốc, 546 loài cá, 157 loài động vật nguyên sinh…[11]. Ở
vùng ven biển Việt Nam đã xác định được 350 loài san hô tảo rạn sống gắn bó cùng
khoản 2000 loài sinh vật đáy, cá và nhiều loại hải sản khác, 15 loài cỏ biển, 667 loài
rong biển, 94 loài thực vật ngập mặn các loại này tạo nên nét độc đáo về sinh cảnh
tự nhiên và ĐDSH cao [12].
Trong những năm gần đây đa dạng sinh học RNM đang bị suy giảm về diện
tích, cũng như là số lượng các thành phần loài động thực vật trong hệ sinh thái. Do
sự khai thác nguôn tài nguyên quá mức không hợp lý cùng với sự phát triển ồ ạt của
nhiều ngành kinh tế đã và đang làm cho nguồn tài nguyên đa dạng sinh học suy
giảm ngày càng trầm trọng.
Dưới sức ép của việc phát triển đô thị và công nghiệp, dân sinh, hơn 50%
diện tích rừng ngập mặn và thành phần loài trong hệ sinh thái bị suy giảm do việc
phá rừng để nuôi tôm [6] và các hoạt động khai thác thủy hải sản quá mức, bên cạnh
đó do ý thức của người dân chưa cao, chính quyền địa phương chưa có giải pháp
hữu hiệu trong việc quản lý nguồn tài nên nguồn tài nguyên sinh học. RNM, DN tại
xã Cẩm Thanh được đánh giá là một hệ sinh thái rất đa dạng sinh học đặc biệt với
quần thể dừa nước, nhưng hiện nay ngày càng suy giảm về diện tích cũng như thành
phần loài động thực vật .Việc bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên sinh học ở
RDN là một yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu nguồn
tài nguyên sinh học rừng ngập mặn tại xã Cẩm Thanh –TP Hội An” nhằm mục
đích điều tra thành phần số lượng loài động thực vật trong RNM tại địa phương để
quản lý và phát triển rừng ngập mặn và góp phần tăng lợi ích kinh tế cho người dân
và phát triển bền vững.



1


CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ RNM
2.1. Khái niệm RNM
RNM là thuật ngữ mô tả hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt dới
hình thành nên vùng triều với tổ hợp động, thực vật đặc trưng. Hệ sinh thái này, các
động thực vật vi sinh vật trong môi trường đất và môi trường tự nhiên được liên kết
với nhau thông qua quá trình trao đổi và đồng hóa năng lượng. Các quá trình nội tại
như cố định năng lượng, tích lũy sinh khối, phân hủy vật chất hữu cơ và chu trình
dinh dưỡng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố bên ngoài gồm cung cấp
nước, thủy triều, nhiệt độ và lượng mưa [12].

2.2 Khái niệm đa dạng sinh học
Theo công ước Đa dạng sinh học, khái niệm “Đa dạng sinh học”
(biodiversity, biological diversity) có nghĩa là sư khác nhau giữa các sinh vật sống
ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ
sinh thái thủy vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một
thành phần… thuật ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và
giữa các hệ simh thái [12].

2.3 Khái quát vai trò RNM
Rừng ngập mặn (RNM) là một trong những hệ sinh thái (HST) tự nhiên có
năng suất sinh học cao nhất. Vai trò quan trọng của RNM trong việc đóng góp vào
năng suất vùng cửa sông ven biển đã được biết đến từ những năm 1960. RNM cung
cấp một lượng lớn sinh khối cơ bản duy trì sự tồn tại của HST cả về ý nghĩa môi
trường và kinh tế (Phan Nguyên Hồng et al., 1999). RNM có vai trò bảo vệ bờ biển,
chống lại xói mòn, chống lại gió bão,... RNM còn là nơi cung cấp thức ăn và là nơi
cư trú của nhiều loài thủy sản quan trọng có giá trị thương mại cao. Từ lâu RNM đã

đem lại nhiều lợi ích về kinh tế xã hội cho cư dân vùng ven biển Việt Nam (Nguyễn
Hoàng Trí,1999).
2.3.1 Vai trò của RNM đối với tự nhiên
2.3.1.1. RNM điều hòa khí hậu
RNM có tác động đến điều hòa khí hậu trong vùng. Blasco (1975) nghiên
cứu khí hậu và vi khí hậu rừng, đã có nhận xét các quần xã RNM là một tác nhân
làm cho khí hậu mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biến nhiệt độ. Trên thế giới có rất
nhiều ví dụ điển hình về việc mất RNM kéo theo sự thay đổi khí hậu của khu vực…
Sau khi thảm thực vật không còn thì cường độ bốc hơi nước tăng làm cho độ mặn
của nước và đất tăng theo. Có nơi sau khi RNM bị phá hủy, tốc độ bốc hơi nước của
khu vực tăng lên đột ngột, gây ra hiện tượng xa mạc hóa do cát di chuyển vùi lấp
kênh rạch và đồng ruộng. Tốc độ gió tăng lên gây ra sóng lớn làm vỡ đê đập, xói lở
bờ biển. Mất rừng ngập mặn ảnh hưởng tới lượng mựa của các tiểu khu vực khác.
2


RNM ở vùng vịnh Fort de France thuộc quần đảo Martinique (pháp) bị giảm
một diện tích rất lớn do chất thải công nghiệp, ngay sau đó lượng mưa ở khu vực
này bị thay đổi, tốc độ gió vùng bờ biển tăng lên ô nhiễm tiếng ồn đi kèm với bệnh
dịch lan tràn (Blasco, 1975).
Chỉ trong vài chục năm trở lại đây, một diện tích đáng kể RNM ở Cà Mau đã
bị khai phát để làm đầm nuôi tôm quảng canh. Hậu quả là vẻ đẹp cảnh quan bị mất
đi kèm theo hành chục nghìn hecta đất bị hang hóa. Nhiều kênh rạch trước đây là
nơi cung cấp thức ăn, nơi nuôi dưỡng ấu trùng tôm cá, nay bị cát vùi lấp, khí hậu oi
bức và khắc nghiệt cùng với nạn ô nhiễm bao chùm khắp cả một cùng rộng lớn.
Một ví dụ rất điển hình là là việc mất rừng do chất độc hóa học của Mỹ đối với
RNM miền nam Việt Nam. Hàng chục ngàn hécta RNM bị phá trụi, đất bị phơi
dưới ánh nắng mặt trời, nồng độ muối trên lớp đất mặt ở Cần Giờ thành phố Hồ Chí
Minh có nơi lên tới 35 - 40%. Thảm thực vật mất đi đã ảnh hưởng đến toàn bộ hệ
sinh thái, các điều kiện tự nhiên cũng như khí hậu của khu vực. Sau khi phục hồi

rừng, cảnh quan và khí hậu đã thay đổi theo chiều hướng tốt và thành phố Hồ Chí
Minh coi đây là “lá phổi” của thành phố.
2.3.1.2. RNM trong việc bảo vệ đất bồi, chống xói lở hạn chế xâm nhập mặn.
Việt Nam với bờ biển dài 3260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng
năm thường xuyên phải chịu những cơn bão và triều cường gây thiệt hại lớn. Trước
đây, nhờ có các dãy rừng ngập mặn tự nhiên và những dãy rừng được trồng ở các
vùng cửa sông ven biển đê điều ít bị vỡ.
Nhưng gần đây do việc phá rừng ngày càng tăng, nạn lở đất, lũ lụt xảy ra
nhiều nên cuộc sống của cộng đồng dân cư ven biển ngày càng bị đe doạ. Ngay
trong năm 2005, Việt Nam đã phải gánh chịu những thiệt hại to lớn về người, tài
sản và cơ sở hạ tầng. Nhiều đoạn đê biển bị vỡ hoặc sạt lở nghiêm trọng. Nhưng sau
những thiệt hại mà bão số 2, 6 và bão số 7 gây ra, nhiều người dân ở vùng biển đều
có nhận xét rằng: ở những khu vực có rừng ngập mặn, đê biển không hề sạt lở.
Tại tỉnh Thanh Hoá, bão số 7 đã gây những thiệt hại nghiêm trọng, nhưng
cũng qua cơn bão này, người dân càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của rừng
ngập mặn. Bà Viên Thị Hoa - Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thanh Hoá nói: "Sau bão
số 7, chúng tôi có dịp đi một số tỉnh nằm trong dự án trồng rừng ngập mặn do Hội
Chữ thập đỏ Đan Mạch và hội Chữ thập đỏ Nhật Bản tài trợ. Tận mắt chứng kiến
những đoạn đê vỡ, những khu nhà ngập trong nước và có dịp so sánh với những
quãng đê lành lặn được che chở bởi những cánh rừng ngập mặn hoặc những khoảng
tre gai... chúng tôi dễ dàng nhận thấy một điều: ở đâu có rừng ngập mặn, sức tàn
phá của sóng biển bị suy giảm. Rừng ngập mặn là vành đai xanh góp phần quan
trọng trong việc phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai".
3


Giáo sư-Tiến sĩ Phan Nguyên Hồng - một chuyên gia trong lĩnh vực rừng
ngập mặn cho biết: "Rừng ngập mặn có ý nghĩa to lớn trong việc phòng vệ đê chống
xói lở ở vùng ven biển. Nếu chỗ nào không có rừng ngập mặn thì khi có bão dễ bị
phá. Ở các nước có Rừng ngập mặn, họ rất quan tâm giúp đỡ các nước không có

rừng ngập mặn như Nhật Bản, Hà Lan. Một số nước Bắc Âu muốn Việt Nam phát
triển rừng ngập mặn để bảo vệ dân, họ đã đầu tư nhiều tiền cho chúng ta phục hồi
rừng, nhưng một số địa phương lại có chủ trương phá rừng đi để làm đầm tôm, vì
lợi ích trước mắt không tính đến hậu quả lâu dài. Hậu quả cơn bão số 7, số 6 là
những bài học rất đắt giá cho chúng ta".[4]
Chúng ta đều biết rằng, ngay sau trận sóng thần và động đất xảy ra ở khu
vực Nam Á cuối năm ngoái, rất nhiều hội thảo khoa học về thảm hoạ thiên tai đã
được tổ chức và tầm quan trọng của rừng ngập mặn trong việc phòng ngừa và giảm
nhẹ thiên tai đã được các quốc gia đặc biệt quan tâm, chú ý.
Người ta tính rằng, trồng và bảo vệ gần 12.000 ha rừng ngập mặn ở Việt nam
chỉ mất khoảng hơn 1 triệu USD nhưng tiết kiệm khoảng hơn 7 triệu USD chi phí
hàng năm cho công tác bảo dưỡng đê điều (Achim Steiner, 2010).
2.3.1.3. Cung cấp chất dinh dưỡng của rừng ngập mặn
Hệ sinh thái RNM là sản phẩm đặc trưng vùng ven biển nhiệt đới, với nhiều
loài cây rừng đa dạng, sống ở vùng triều ưa độ muối thấp. Đây là môi trường thích
hợp cho nhiều loài động thực vật vùng triều, đặc biệt là các loài thủy sản, chúng tạo
nên HST độc đáo và giàu có về mặt năng suất sinh học so với các HST tự nhiên
khác. RNM cung cấp mùn bã hữu cơ khoảng 10,6 tấn/ha/năm, lượng chất hữu cơ
này đã tạo nên thức ăn chủ yếu cho các nhóm sinh vật tiêu thụ như cua, tôm, các
loài nhuyễn thể 2 vỏ, giun nhiều tơ và các loài cá ăn mùn bã hữu cơ (Bộ thủy sản,
1996).
Nghiên cứu của Vazquez et al. (2000) chỉ ra rằng hệ sinh thái rừng ngập mặn
giàu chất hữu cơ nhưng thiếu chất dinh dưỡng nhất là đạm, lân. Mặc dù vậy, rừng
ngập mặn vẫn có năng suất cao do sự tuần hoàn của chất dinh dưỡng ở đây rất hiệu
quả, do đó những chất dinh dưỡng khan hiếm vẫn được duy trì và tái tạo từ quá
trình phân hủy lá của cây ngập mặn. Xác cây ngập mặn khi bị phân hủy trở nên giàu
chất dinh dưỡng, chúng được nước triều mang ra các vùng cửa sông ven biển làm
phong phú thêm nguồn thức ăn cho các sinh vật ở hệ sinh thái kế cận (Lê Huy Bá,
2000). Sự phân hủy vật rụng của cây ngập mặn đã cung cấp lượng carbon và nitơ
đáng kể cho đất rừng. Lượng carbon và nitơ trong đất phụ thuộc vào tuổi rừng, rừng

càng nhiều tuổi thì lượng carbon và nitơ trong đất càng nhiều, nơi đất trống không
có rừng lượng carbon và nitơ rất thấp, hầu như không đáng kể. Đối với các mẫu lá
4


phân hủy, tỷ lệ phần trăm carbon hữu cơ trong mẫu lá giảm dần qua các tháng phân
hủy, ngược lại tỷ lệ phần trăm nitơ lại tăng lên. Tỷ lệ nitơ trong mẫu phân hủy được
tích lũy ngày càng cao chính là nguồn thức ăn giàu chất đạm cho các loài động vật
đáy cư trú trong rừng ngập mặn (Nguyễn Thị Hồng Hạnh & Mai Sỹ Tuấn, 2005).
Năng suất lượng rơi càng nhiều thì khi phân hủy sẽ cung cấp lượng carbon
hữu cơ và nitơ cho đất càng cao. Lượng carbon, nitơ trả lại cho đất thông qua sự
phân hủy vật rụng phụ thuộc vào tuổi rừng và lượng rơi của rừng, rừng càng nhiều
tuổi lượng rơi càng nhiều và sự tích tụ carbon, nitơ trong đất càng lớn. Qua quá
trình phân hủy, lá cây ngập mặn sau khi rơi xuống sàn rừng đã trả lại cho đất rừng
một lượng chất hữu cơ đáng kể, lượng chất hữu cơ này trả về cho đất dưới dạng các
chất khoáng. Đây chính là quá trình tự cung tự cấp chất dinh dưỡng của cây rừng
ngập mặn (Nguyễn Thị Hồng Hạnh & Mai Sỹ Tuấn, 2005).
2.3.2 Vai trò RNM đối với hoạt động kinh tế của của con người
2.3.2.1. Giá trị kinh tế của các các hải sản trong RNM
Hệ sinh thái RNM được coi là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc
biệt là nguồn lợi thủy sản. Người ta ước tính trên mỗi hecta RNM năng suất hàng
năm là 91 kg thủy sản (Snedaker, 1975). Riêng đối với các loài tôm, cá, cua… sống
trong RNM, hàng năm thu hoạch khoảng 750.000 tấn. Trong năm 1978, Indonesia
đánh bắt được 550.000 tấn cá trực tiếp có quan hệ với RNM cửa sông (Salm, 1981).
[5]
Những nghiên cứu mới đây ở Indonesia cũng cho thấy mối quan hệ mật thiết
giữa những vùng cửa sông có RNM và sản lượng đánh bắt tôm thẻ xuất khẩu ở ven
biển. Người ta tính bình quân trên mỗi hecta đầm lầy RNM cho năng suất hàng năm
là 160 kg tôm xuất khẩu (Chan, 1986).
Nếu tính cả các loài hải sản đánh bắt được ở các vùng ven biển, cửa sông có

RNM hoặc liên quan với RNM thì sản lượng lên tới 925.000 tấn, tức là tương
đương với 1% tổng sản lượng thủy sản đánh bắt được trên toàn thế giới. Sản lượng
tôm đánh bắt được trong những vùng có liên quan với RNM ở Australia vào năm
1979–1980 là 22.000 tấn tươi (Bant, 1987).
Nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng việc đánh bắt thủy sản có năng suất cao
chủ yếu ở các vùng nước nông, ven bờ, cửa sông; có thể giải thích: vùng này là nơi
tập trung các chất dinh dưỡng do sông mang từ nội địa ra và do nước triều đem từ
biển vào. Giữa sản lượng và các loại thủy sản đánh bắt được ở RNM có một mối
liên quan mật thiết. Ở miền tây Australia, người ta đánh giá là 67% toàn bộ các loài
thủy sản có giá trị thương mại đánh bắt được đều phụ thuộc vào RNM ở cửa sông.
Hamilton và Snedaker (1984) cho rằng 90% các loài sinh vật biển sống ở vùng cửa
sông RNM trong suốt một hoặc nhiều giai đoạn trong chu trình sống của chúng; đối
5


với nhiều loài thủy sản mối quan hệ đó là bắt buộc. Bản thân RNM đã là một hệ
thống nuôi trồng hải sản tự nhiên, nó lại cung cấp vật liệu làm nhà, nhuộm lưới, làm
dụng cụ đánh bắt trong nghề cá, đồng thời cung cấp nguyên vật liệu xây dựng làm
nơi ở cho làng đánh cá. Có thể nói RNM đã cung cấp những cơ sở tối thiểu từ đầu
đến cuối cho ngành đánh cá ở vùng ven biển.
2.3.2.2.Rừng ngập mặn đối với nuôi thủy sản ven biển
RNM không tồn tại độc lập mà liên hệ mật thiết với các HST liên đới trong
lục địa và biển. Sự trao đổi vật chất của 2 môi trường RNM và biển cũng thể hiện
mối phụ thuộc giữa chúng với nhau, trong đó RNM đóng vai trò quan trọng trong
việc cung cấp chất dinh dưỡng cho biển và cùng với việc nuôi dưỡng các ấu thể của
động vật biển đã giúp cho RNM thực hiện chức năng duy trì đa dạng sinh học và là
nguồn lợi sinh vật tiềm tàng cho biển (Phan Nguyên Hồng et al., 1999).[5]
Trong HST RNM, đa dạng về loài và nhiều về số lượng là giáp xác, đặc biệt
các loài thuộc họ Tôm he như tôm sú, tôm he mùa, tôm rảo, tôm bộp, tôm sắt…môi
trường sống của chúng ở trong vùng cửa sông nhiệt đới mà đời sống rất gắn bó với

môi trường RNM, như cách nói của người dân “Con tôm ôm cây đước”. Tôm là loài
ăn tạp do vậy trong thành phần thức ăn của chúng các mảnh vụn của cây ngập mặn
chiếm một lượng đáng kể (Phan Nguyên Hồng et al., 1999). Nguồn thức ăn đầu
tiên, phong phú và đa dạng cung cấp cho các loài thủy sản là các mảnh vụn hữu cơ
được phân hủy từ vật rụng cây ngập mặn (Kathiresan & Bingham, 2001). Quá trình
phân hủy diễn ra làm cho hàm lượng acid amin ở các mẫu lá tăng cao và làm giàu
dinh dưỡng cho cả thủy vực. RNM vừa tạo ra nguồn thức ăn trực tiếp là các mùn bã
hữu cơ, vừa cung cấp thức ăn gián tiếp qua các động vật ăn mùn bã làm mồi cho các
loài cá lớn và một số động vật ăn thịt khác. Do đó, thành phần động vật trong vùng
RNM rất phong phú và đa dạng (Phan Nguyên Hồng & Mai Thị Hằng, 2002).
RNM không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn sơ cấp cho các loài thủy sản mà
còn có vai trò hạn chế sự tăng nhiệt độ và sự bốc hơi nước của thủy vực, làm cho độ
mặn của nước trong đầm và khu vực nuôi thủy sản ven biển không lên quá cao (Lê
Bá Toàn, 2005). Rễ nơm và thân cây đước tạo thành sức cản nước triều, làm lắng
đọng phù sa của dòng triều chứa chất hữu cơ màu mỡ (Dương Hữu Thời, 1998).
Theo Primavera et al. (2005), RNM và các vuông tôm có tác dụng hỗ trợ nhau.
RNM có tác dụng như là bể lọc sinh học xử lý nước thải từ đầm nuôi tôm. Trong
quá trình làm sạch nguồn nước, RNM giữ lại chất dinh dưỡng, hấp thu chất hữu cơ
và tăng sinh khối. RNM còn góp phần làm tăng nguồn hải sản trong vùng và các bãi
triều lân cận qua đó góp phần nâng cao đời sống của người dân (Phan Nguyên Hồng
et al., 2005).
6


RNM là nơi duy trì bền vững các nguồn lợi hải sản và hỗ trợ nghề cá. Nhờ
các loại chất dinh dưỡng RNM thu nhận được từ nội địa chuyển ra hay biển khơi
chuyển vào, đặc biệt là khối lượng lớn mùn bã từ các cây ngập mặn phân hủy tại
chỗ do đó tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái RNM rất cao, trong đó có nhiều
loài hải sản quan trọng. Nhờ nguồn mùn bã phong phú của RNM mà nhiều đầm
tôm, đầm cua ở đây có năng suất cao hơn các vùng khác (Phan Nguyên Hồng et al.,

2005)
2.3.2.3. RNM đối với hoạt động du lịch
Trong hoạt động du lịch, RNM là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái hết sức
quý giá. Tại Việt Nam, những năm gần đây, khách du lịch ngày càng có xu hướng
tìm đến tham quan, nghiên cứu các khu RNM, theo đó nguồn lợi ngành Du lịch thu
được từ hệ sinh thái này cũng tăng lên. RNM thực sự trở thành đối tượng tiềm năng
đối với hoạt động khai thác phát triển du lịch nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
2.3.2.4. RNM trong việc giảm thiểu tác hại của sóng thần
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái đa dạng, có vai trò rất quan trọng,
được ví như lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn chế
tác hại của gió bão, mở rộng đất liền.
RNM còn được ví như một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, nó không chỉ hấp
thụ khí CO2 do hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, mà còn sinh ra một
lượng ôxy rất lớn, làm cho bầu không khí trong lành. Về kinh tế tài nguyên RNM
rất đa dạng như: Gỗ, than, ta-nin, chim, thú và nhiều loài hải sản có giá trị xuất
khẩu...
Ai cũng biết vai trò của rừng ngập mặn (RNM) trong việc bảo vệ môi
trường, là “lá phổi xanh” rất quan trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của
RNM còn nhiều hơn, nó còn như những “bức tường xanh” có tác dụng phòng hộ
trước gió và sóng biển.[10]
Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được
trồng và bảo vệ tốt thì các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng gió lớn, dù là
đê biển được đắp từ đất nện, trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố
bằng bê tông hoặc kè đá nhưng RNM bị chặt phá để chuyển sang nuôi tôm như Cát
Hải (Hải Phòng), Hậu Lộc (Thanh Hóa) thì bị tan vỡ.
Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên
cứu hệ sinh thái RNM, ĐH Sư phạm Hà Nội), độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi
qua dải RNM, với mức biến đổi từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m.[10]
Tương tự, đợt sóng thần khủng khiếp ngày 26/12/2004, hơn 2 triệu người ở 13 quốc
gia châu Á và châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề, nhưng kết quả

khảo sát của IUCN (Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới) và UNEP (Chương trình
7


Môi trường thế giới) cùng các nhà khoa học cho thấy, những làng xóm ở phía sau
“bức tường xanh” RNM với băng rừng rộng gần như còn nguyên vẹn năng lượng
sóng được giảm từ 50% đến 90%, nên thiệt hại về người rất thấp hoặc không bị tổn
thất… RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển 1km, so với nơi không có
rừng thiệt hại giảm 50% - 80%. Ở Phuket (Thái Lan) cũng vậy.[10]
2.4. Tác động ảnh hưởng RNM
2.4.1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với hệ sinh thái RNM
Trong 50 năm trở lại đây, các khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới,
trong đó có Việt Nam, đã phải gánh chịu tác động nặng nề của sự biến đổi khí hậu.
Cường độ, tần suất hoạt động của các trận bão, lũ lụt, hạn hán…ngày càng mạnh,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống con người, tới các nguồn tài nguyên, các
hệ sinh thái ven bờ, trong đó có hệ sinh thái RNM.
Biến đổi khí hậu, đặc biệt là biến đổi về nhiệt độ, nồng độ CO2, trầm tích,
cường độ bão và mực nước biển đe dọa khả năng sống sót của RNM. Trong đó,
mực nước biển dâng được coi là nguy cơ lớn nhất. Theo tính toán sơ bộ của các nhà
khoa học, với dự báo mực nước biển dâng 45cm vào năm 2070, có thể khoảng
230.000ha RNM ở Việt Nam sẽ hoàn toàn bị biến mất. Nước biển dâng cũng ngăn
cản sự bồi tụ các bãi triều, ngăn cản sự tái sinh tự nhiên của các loài cây ngập mặn
tiên phong như mắm, bần chua...
Một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới dự báo Việt Nam là một
trong hai nước đang phát triển (Bangladesh và Việt Nam) bị tác động tồi tệ nhất trên
thế giới do nước biển dâng. Kết quả nghiên cứu bước đầu về sự biến đổi khí hậu đối
với hệ sinh thái RNM cho thấy, có 6 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái
nhạy cảm này, đó là: nhiệt độ không khí, lượng mưa, gió mùa đông bắc, bão, triều
cường, hoạt động của con người. Ngoài ra, cũng có sự liên quan gián tiếp giữa biến
đổi khí hậu và hệ sinh thái RNM thông qua sự thay đổi về mực nước biển. Một số

yếu tố có thể tác động ngay, một số yếu tố khác tác động trong tương lai như: gió
mùa đông bắc, sự tăng cường dòng chảy của sông, mưa lớn ở địa phương, sự tích tụ
phù sa, các tác động của con người.
Ở các vùng núi, do rừng nguyên sinh bị suy thoái nghiêm trọng nên thường
xảy ra lũ quét, trượt lở đất khi có mưa lớn. Việc con người phá RNM để trồng lúa,
nuôi tôm đã ngăn cản sự vận động của thủy triều, làm ảnh hưởng lớn đến sự sinh
trưởng và phát triển của các loài cây ngập mặn, dẫn đến làm mất nơi sinh sống của
hải sản và động vật vùng triều, làm thay đổi dòng chảy, giảm sự phân tán nước ở
các bãi triều và vùng ven biển…
2.3.2. Tác động bởi hình thức sử dụng và khai thác tài nguyên

8


Trong giai đoạn hiện nay, áp lực dân số và nhu cầu sử dụng tài nguyên lớn
trong khi nguồn lợi tài nguyên trong khu RNM không đủ đáp ứng cho nhu cầu khai
thác nên các hình thức sử dụng và khai thác tài nguyên của người dân là chưa hợp
lý làm ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học.
Trong khi HST bị phá hủy và cần quá trình hồi phục thì cùng nhu cầu sử
dụng tài nguyên lại tăng nhanh dẫn đến việc các mô hình truyền thống ban đầu
được thay thế bằng các mô hình mới mang tính tận diệt và cưỡng bách. Khai thác
chọn lọc và sử dụng tự nhiên được thay bằng khai thác kiệt và áp dụng các kỹ thuật
mới trong nuôi trồng thủy sản. Đồng thời các nhu cầu sử dụng tài nguyên với hình
thức mới, như du lịch…làm cho đa dạng sinh học hệ sinh thái suy giảm.
2.5. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học RNM
2.5.1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học RNM trên thế giới
RNM phân bố chủ yếu ở vùng xích đạo, nhiệt đới và nhiệt đới hai bán cầu.
tuy nhiên, một số loài có thể mở rộng khu phân bố lên phía bắc tới Bermuda và
Nhật Bản.
Theo đánh giá của Hutchings và Seanger (1987) thì diện tích RNM trên thế

giới là 15.429.000ha, trong đó 6.246.000 ha nằm ở vùng Châu Á nhiệt đới và Châu
Đại Dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng Châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc
Châu Phi. [9]
Theo tài liệu của IUCN (1993) thì diện tích RNM trên thế giới là là 168.810
2
Km . Spalding và cs (1997) cho rằng số liệu trên đây đã cũ và không bao gồm tất cả
các nước, đặc biệt là thiếu vùng Hồng Hải, vịnh A Rập và một số phần của châu
Mỹ. Fisher và Spalding ( 1993) đưa ra số liệu diện tích RNM thế giới là 198.818
Km2.[4]
Theo Tomlinson (1986) phân chia RNM làm hai nhóm có thành phần loại
cây khác nhau. Nhóm phía đông tương ứng với vùng ấn Độ - Thái Bình Dương với
số loài đa dạng và phong phú. Nhóm phía tây gồm bờ biển nhiệt đới châu Phi, châu
Mỹ ở cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Số loài ở đây ít chỉ bằng 1/5 ở phía
Đông (Spalding và cs, 1997). Các loài chủ yếu là đước đỏ (Rhizophora mangle),
mắn, (Avicennia germinans), Laguncularia racemosa.[4]
Đến năm 1997, Spading tính toán trên ảnh vệ tinh và các số liệu thu thập
đước xác định RNM trên thế giới khoảng 80 loài thực vật (59 loài ngập mặn chính
thức, 21 loài gia nhập RNM). Các vùng RNM phồn thịnh nhất ở Đông Nam Á bao
gồm: Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam.
Tuy nhiên trên cơ sở phân tích hóa thạch thì một số tác giả lại cho rằng trung
tâm không phải nằm ở Malaysia. Ở Úc và Papua New Guinea có khoảng 30 loài cây
gỗ và cây bụi thuộc 14 họ thực vật có hoa trọng hệ thực vật rừng ngập mặn. Ngoài
9


ra trong RNM còn có 10 loại thuộc họ dây leo. Bì sinh hoặc dưới tán và khoảng 10
– 15 loài phát triển tốt ở những vùng nội địa khi gặp trong những quần xã RNM.
Một số lớn các loài thực vật khác như tảo, cỏ biển, địa y cũng thấy trong các quần
xã RNM, nhưng hầu hết các loài cậy này không phải chỉ trong RNM mới có.[9]
Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái rất quan trọng ở vùng ven

biển nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhưng hiện nay RNM đang đối mặt với nhiều thách
thức như diện tích rừng ngập mặn trên thế giới liên tục suy giảm. Trong 5 năm từ
năm 1990 đến 1995, đã có 13,7 triệu ha rừng bị mất đi (FAO (1997)). Rừng mất do
các yếu tố thiên nhiên, tác động của con người (nuôi thuỷ sản, nông nghiệp, công
nghiệp, du lịch, đô thị hoá…). Không những suy giảm diện tích mà hệ sinh thái
RNM cũng bị suy thoái nghiêm trọng nhiều loài động thực vật đã biến mất hoặc
đang trong tình trạng báo động.
2.4.2. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học RNM ở Việt Nam
Việt Nam có tổng diện tích đất liền là 32 894 398 ha với bờ biển dài 260km,
chạy suất từ Bắc (Móng cái thuộc Quảng Ninh ) ở vĩ độ 2 05’B vào nam (Hà Tiên
thuộc Kiên Giang) đến vĩ độ 80 33’B và từ kinh độ 1020 10’ đến kinh độ 1090 20’Đ.
Với bờ biển dài đặc biệt là có hai đồng bằng lớn đồng bằng băc bộ và đồng bằng
nam bộ là những vùng trũng, tạo nên hai vùng ĐNN tiêu biểu cho địa mạo vùng
châu thổ Sông Hồng và sông Cửu Long.[4]
Theo tài liệu thống kê năm 2000, cả nước có 606792 ha đất ngập mặn ven
biển, trong đó 155290 ha là diện tích RNM ven biển.[12]

Hình1.1. Biểu đồ phân bố diện tích rừng ngập mặn Việt Nam

Tuy nhiên, diện tích rừng ngập mặn đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng do
các hoạt động chuyển đổi diện tích rừng sang sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, quai đê lấn biển, do xói lở bờ biển. Trong hai thập niên qua, có hơn 200000 ha
rừng ngập mặn bị phá để nuôi tôm. Ở khu vực Gánh Hào (Bạc Liêu), trong 27 năm

10


(1964 – 1991) đã bị xói lở mất khoảng 7.000ha rừng ngập mặn, bình quân mất
khoảng 259 ha/năm.
Phan Nguyên Hồng(1993) đã công bố 77 loài cây ngập mặn khác thuộc 2

nhóm được phân chia theo các điều kiện môi trường và đa dạng sống khác nhau.
Nhóm 1 có 35 loài cây ngập mặn thuộc 20 chi của 16 họ, nhóm này thường được
gọi là cây ngập mặn “ thực thụ”. Nhóm 2 có 42 loài thuộc 38 chi của 28 họ, nhóm
này bao gồm các loại cây “gia nhập” RNM thường ở các rừng thứ sinh và rừng
trồng trên đất cao.[4]
Số lượng biến đổi theo từng vùng khác nhau: vùng ven biển Bắc Bộ có 52
loài, vùng ven biển Trung Bộ có 69 loài, vùng ven biển Nam Bộ có 100 loài. Vùng
ven biển Cà Mau có hệ sinh thái RNM phong phú nhất về thành loài cây, sinh
trưởng phát triển tốt nhất và đạt kích thước lớn nhất. Nơi đây gần với trung tâm
hình thành và phân bố RNM ở Đông Nam Á là Indonesia và Malaysia.
+ Khu vực miền Bắc
Khu vực Bắc Việt Nam bao gồm dải ven biển Ninh Bình-Nam Định-Thái
Bình-Hải Phòng - Quảng Ninh có các đặc trưng là dải ven biển thuộc lưu vực sông
Hồng và sông Thái Bình với địa hình đồng bằng thấp. Khu vực cửa sông ven biển
đồng bằng sông Hồng có diện tích đất ngập nước (ĐNN) ven biển là 22.487 ha và
102.482 ha ĐNN mặn cửa sông với 971 loài thuộc các động thực vật chính sống
trên cạn và dưới nước, trong đó chim chiếm 21,3%, côn trùng 18%, chân khớp
thuộc Zoplankton 13,8% và cá 13,4%. Thành phần loài thực vật gồm: 12 loài cây
ngập mặn và 31 loài đi theo đã tạo nên thảm thực vật quan trọng, không chỉ là công
cụ bảo vệ bờ biển mà còn là nơi sống, di cư của chim, cá.
Đất ngập nước vùng cửa sông Tiên Yên (Quảng Ninh): Với diện tích 5.000
ha. Rừng ngập mặn (RNM) ở đây thu hút nhiều động vật có giá trị, đặc biệt là chim
nước, chim di cư; là nơi cư trú và sinh sản của nhiều loài hải sản như cua, mực, cá
Mòi, Đối trích.
Đất ngập nước vùng cửa sông Văn Úc (Hải Phòng): Đây là địa phương có
diện tích ĐNN ven biển thuộc loại lớn của nước ta. Diện tích bãi bồi ven biển Hải
phòng là 17.000 ha, diện tích chưa có RNM là 11.000 ha, đầm nuôi thuỷ sản nước
lợ là 5.000 ha.
Vùng đất ngập mặn cửa sông Ba Lạt (Tiền Hải, Giao Thuỷ): Diện tích RNM 6.008
ha và diện tích bãi bồi là 25.934 ha, bãi triều được bồi đắp do phù sa với tốc độ

hàng năm tương đối nhanh (26-27m/năm).
Đất ngập nước cửa sông Thái Bình – Trà Lý: Vùng cửa sông điển hình, bãi
triều được hình thành do sự bồi đắp phù sa hàng năm với tốc độ nhanh. Diện tích
bãi triều là 11.409 ha, trong đó diện tích có khả năng trồng RNM là 6.775 ha. Hiện
11


tại diện tích RNM là 3.388 ha với 52 loài thuộc 48 chi và 26 họ, các loài chủ yếu là
Bần chua, Trang, Mắm quăn, Giá, Sú.
+ Khu vực miền Trung:
Ở khu vực miền Trung Việt Nam bao gồm dải ven biển Đà Nẵng – Thừa
Thiên Huế - Quảng Trị có đặc trưng bởi các hệ đầm phá lớn nhất Việt Nam cũng sẽ
bị tổn thương nặng khi mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu.
Đất ngập nước đầm phá dải ven biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến
Ninh Thuận: Với tổng diện tích các đầm phá này khoảng 447,7 km 2. Hiện nay, do
nhiều nguyên nhân khác nhau các đầm phá đang được quản lý và khai thác không
hợp lý nên nhiều đầm đang bị suy thoái.
Đến nay, xét về mặt đa dạng sinh học và các chức năng sinh thái, 5 đầm phá
ven biển có thể được coi là vùng ĐNN quan trọng của Việt Nam: Đầm Ô Loan (Phú
Yên), đầm Thị Nại và Đề Gi (Bình Định), đầm Cầu Hai (Thừa Thiên Huế), đầm Nại
(Ninh Thuận).
Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai: Là hệ đầm phá lớn nhất nước ta, chạy dài
dọc theo bờ biển tỉnh Thừa Thiên Huế trên 67 km với diện tích khoảng 216 km 2, là
nơi dừng chân quan trọng của nhiều loài chim di cư từ phía bắc vào phía đông như
vịt trời, ngỗng trời, chim nước. Trong hệ đầm phá này có điểm cát trắng Phú Xuân
có trữ lượng khoảng 8 triệu m3 được dùng làm nguyên liệu thuỷ tinh.
+ Khu vực miền Nam:
Vùng châu thổ Nam bộ gọi là đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm các tỉnh
Long An, Tiền giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Hậu
Giang, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu với tổng diện tích 4

triệu ha.
Đất ngập nước mặn ven biển và cửa sông đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) là một trong những hệ sinh thái giàu có nhất. ĐNN ven biển phân bố dọc
ven biển Đông, phía Tây Nam bán đảo Cà Mau và vịnh Thái Lan, trong đó diện tích
ĐNN ngập thường xuyên là 879.644 ha phân bố ở vùng biển nông có độ sâu nhỏ
hơn 6m khi triều kiệt, ĐNN mặn ngập không thường xuyên là 756.425 ha. Các dải
rừng ngập mặn phân bố dọc ven biển, ở những vùng bãi bùn ngập mặn là nơi sinh
đẻ, nuôi dưỡng nhiều loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao; nơi bảo tồn đa dạng sinh
học của 40 loài cây ngập mặn; Theo số liệu lâm nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu
Long có 98 loại cây RNM trong đó có 32 loài thực thụ và 66 loài tham gia vào hệ
sinh thái rùng ngập mặn ở đây. Bên cạnh đó còn có 36 loài thú, 182 loài chim, 34
loài bò sát và 6 loài lưỡng cư, đồng thời vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá và
thủy sản. Tại vùng Cồn Chim hiện nay có khoảng 64 loài động vật phù du, 76 loài
cá thuộc 40 họ (cá đối, cá bống, cá liệt, cá móm, cá giò, cá chua và cá mú, cá
12


hồng…), 35 loài giáp xác, 31 loài thân mềm và một loài da gai và 33 loài chim
trong đó có 23 loài chim nước và 10 loại chim rừng…Thực vật ở RNM Việt Nam
và ở rừng Sác Cần Giờ trước kia có trên 24 loài, 36 chi thuộc 24 họ. Các loại cây
phổ biến nhóm Mấm, Bần, Đước, Dà, Vẹt, Xu, Cóc, Giá, Chà là, Tra, Ráng…đây là
những loài cây thích hợp với điều kiện môi trường sinh thái ở RNM.
RNM có vai trò đặc biệt quan trọng hình thành nên bức tường thực vật bảo
vệ bờ biển khỏi xói mòn và là nơi xử lý hiệu quả nhất chất thải đô thị, chất thải
công nghiệp làm cho nước biển ven bờ tránh bị ô nhiễm.
2.5.3. Tổng quan RNM về rừng Dừa Nước Cẩm Thanh – Hội An
Theo Phan Nguyên Hồng (1984), chia RNM Việt Nam ra 4 khu vực chính
theo đó vùng Hội An, Quảng Nam thuộc vùng 3 là khu vực chỉ có các sông ngắn, ít
phù sa, bãi ngang gió mạnh tạo ra nhiều cồn cát dọc ven biển, do đó RNM chỉ phát
triển bên trong các cửa sông, đầm phá, bán đảo.

RNM ở Hội An quan trọng nhất là cây dừa nước có tên khoa học là
Nippafructicans thuộc họ Palmae là một loại cây ngập mặn phân bố chủ yếu ở các
tỉnh phía nam, làm thành các thảm rộng theo các triền sông, lạch. Sự hiện diện của
chúng ở miền trung Hội An thành từng dãy rộng là rất đặc sắc. Ở Việt Nam, ngoài
việc trồng dừa nước và sử dụng bẹ lá để làm nhà, người dân ở các tỉnh phía nam
còn khai thác quả dừa nước vừa già để lấy cùi làm thực phẩm.
Các nghiên cứu công bố về sinh thái phân bố của RNM dừa nước ở Hội An
còn rất hiếm hoi, chỉ có trong báo cáo hàng năm của UBND các xã, huyện về tình
hình quản lý đất đai. Nghiên cứu của nguyễn hữu đại 2006 (viện hải dương học)
đánh giá tài nguyên đất ngập nước hạ sông thu bồn và đề suất giải pháp bảo vệ,
phục hồi.[1] Tác giả đã nghiên cứu vùng đất ngập nước (RNM, thảm cỏ biển) tại
Hội An và một số địa phương lân cận như duy xuyên, điện bàn. Báo cáo đã xác định
RNM ở Hội An chủ yếu là cây DN, ngoài ra cũng đã phát hiện ở vùng Cửa Đại một
số loài cây ngập mặn khác như đước đôi (Rhizhophora apiculataBl.), Vẹt dù
(Bruguiera gymnorhiza (L) Lamk) hay Ráng Đại (Acrostychum aureum L).
Theo nghiên cứu của Đoàn Thị Tâm (2010) DN là loài cây ngập mặn chủ
yếu tại hạ lưu sông Thu Bồn. Chúng hiện diện khắp nơi từ ven bờ sông lớn cho đến
các kênh rạch nhỏ. Thông thường là những dãy hẹp, rộng từ 3-20m, đáng chú ý là
rừng dừa nước Bảy Mẫu trải rộng trên địa bàn các thôn 1,2,3 và 8 của xã Cẩm
Thanh. Thành phần động thực thực vật hệ sinh thái RNM dừa nước Cẩm Thanh Hội An, theo thống kê có 6 loài thực vật, 21 loài cá, 3 loại tôm, 11 loại động vật đáy
có giá trị kinh tế. RNM DN tại xã Cẩm Thanh có các thảm cỏ biển phân bố tập
trung ở khu vực gần Cửa Đại, nơi có độ mặn tương đối cao.[13]

13


Hệ sinh thái RNM DN Cẩm Thanh - Hội An, đây là nơi nuôi dưỡng ấu thể
sinh vật, cung cấp giống các loài sinh vật biển có giá trị như: Cá Mú, cá Dìa, cá
Hồng, Cua Đá …và cung cấp các sản phẩm từ DN cho các ngành dịch vụ. Nhưng
hiện nay do các hoạt động khai thác quá mức của người dân và hoạt động du lịch

phát triển kinh tế đã suy giảm nguồn tài nguyên sinh học.

2.6. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
2.6.1. Điều kiện tự nhiên
• Vị trí địa lý
Xã Cẩm Thanh nằm ở phía Đông - Nam thị xã Hội An cách trung tâm thành phố
3 km.
+ Tọa độ địa lí
Vĩ độ Bắc từ 15o15’26” đến 15o52’33”
Kinh độ Đông từ 108o19’13” đến 108o22’09”
Tổng chiều dài ranh giới chính là 13,7km tiếp giáp với các địa phương sau:
Phía Bắc giáp phường Cửa Đại và phường Cẩm Châu
Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên
Phía Đông giáp phường Cửa Đại
Phía Nam giáp xã Cẩm Nam
• Địa hình địa mạo
Địa hình xã Cẩm Thanh thuộc dạng địa hình đồng bằng ven biển, hơi phức
tạp. Độ dốc nhỏ, theo hướng thấp dần từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Nữa khu
vực của xã nằm ở phía Đông và Đông - Nam bị chia cắt mạnh bởi hệ thống kênh
rạch, đây là vùng bồi tụ của sông ngòi. Độ cao trung bình là 0,7 m so với mặt nước
biển. Độ sâu sông, rạch trung bình -2 m. Nữa khu vực còn lại có địa hình cao hơn
và tương đối bằng phẳng, điểm cao nhất của xã là khu vực Lùm Bà ( thôn 6) thuộc
dạng cao cục bộ +3m.
• Khí hậu thời tiết
Xã Cẩm Thanh nằn trong khu vực khí hậu trung trung bộ, nóng ẩm mưa
nhiều, tuy nhiên do nằm gần biển khí hậu tương đối mát mẻ.
Theo số liệu của đài khí tượng thủy văn Quảng Nam, khu vực nghiên cứu
nằm trong vùng có đặc điểm khí hậu như sau:
14



+ Nhiệt độ ( nguồn: UBND xã Cẩm Thanh)
+ Nhiệt độ trung bình trong năm : 25,6oC
+ Nhiệt độ cao tuyệt đối : 40,3Oc
+ Nhiệt độ thấp tuyệt đối : 10,5oC ( tháng 12 - 3 năm sau)
+ Biên độ nhiệt ngày đêm 9,3oC
+ Tổng số giờ nắng trung bình trong năm là 2158 giờ
• Lượng mưa
+ Lượng mưa trung bình trong năm 2069mm
+ Lượng mưa trung bình lớn nhất trong năm 3315mm
+ Lương mưa trung bình nhỏ nhất trong năm là 2212 mm
+ Tổng số ngày mưa trung bình trong năm 120 ngày
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, tổng lượng mưa trong khoảng thời
gian này chiếm từ 70 - 75% tổng lượng mưa bình quân trong năm. Tháng có lượng
mưa lớn nhất là vào thánh 10 - 11, những tháng còn lại mưa ít và khô cạn.
• Độ ẩm
+ Độ ẩm trung bình hàng năm 82,1%
+ Độ ẩm cao nhất 90%
+ Độ ẩm thấp nhất 71%
Lượng bốc hơi trung bình hàng năm là 1035 mm. Lượng bốc hơi mạnh nhất
là vào tháng 6 - 7 ( trong một ngày các tháng có thể lên đến 14,5mm)
• Gió
Gió mùa Đông Bắc: trung bình từ tháng 10 năm nay đến cuối tháng 4 năm
sau thường có những đợt không khí lạnh từ phía Bắc tràn về và gây ra gió mùa
Đông Bắc. Mỗi năm trung bình có từ 9 - 10 đợt ( thống kê UBND xã Cẩm Thanh).
Gió tây nam: thường xuất hiện vào cuối tháng 3 đến cuối trung tuần tháng 9
thường mang lại thời tiết khô nóng, thịnh hành mạnh nhất của gió này là vào tháng
6,7, 8.
Gió Đông Nam vào các tháng 4, 5,6
Bão và lũ lụt.

15


Tháng có khả năng chịu đựng ảnh hưởng của bão nhiều nhất là 9, 10, 11.
theo thống kê tại xã hàng năm có 3 cơn bão đổ bộ vào đất liền.
• Thủy văn
Mạng lưới thủy văn thuộc hệ thống sông thu bồn, con sông lớn nhất trong
khu vực có chiều dài qua địa bàn xã là 4,5km rộng trung bình 350m, giáp về phía
đông nam của xã, đổ ra biển đông thông qua cửa đại. Bao quanh địa bàn xã gồm 3
con sông khác là sông hội an (rộng trung bình 250m), sông Ba Chươm và sông Đò
(rộng trung bình 60m). Tổng chiều dài sông rạch là 14,35km. Ngoài ra còn có hàng
trăm ao hồ lớn nhỏ (phần lớn đã được tận dụng nuôi trồng thủy hải sản). Do lợi thế
nằm ở vùng cửa sông, có hệ thống sông, rạch dày đặc nên ít có hiện tượng ngập úng
tuy nhiên rất dễ bị xâm nhập mặn.
2.6.2. Điều kiện kinh tế xã hội
2.6.2.1. Kinh tế
Xuất phát từ thực trạng nguồn tài nguyên đất đai, vốn và cơ sở vật chất địa
phương, Cẩm Thanh đã đề ra cơ cấu phát triển kinh tế theo hướng ngư - nông
nghiệp - thương mại, dịch vụ trong đó lấy nuôi trồng thủy sản làm ngành kinh tế
mũi nhọn. Trong những năm qua cũng tạo được mức tăng trưởng kinh tế ổn định,
đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên cơ cấu kinh tế còn bộc lộ
nhiều hạn chế, thiếu tính ổn định, nhất là việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp chưa
có những chuyển biến tích cực, vẫn còn trong tình trạng mày mò, khảo nghiệm.
Cơ cấu kinh kế của xã hiện nay được xác định là nông - ngư nghiệp, dịch vụ
- du lịch - thương mại, tiểu thủ công nghiệp. Trong bảng là một số chỉ tiêu kinh tế
chủ yếu của năm 2010.
Bảng 1.1. Chỉ tiêu kinh tế của năm 2010
Chỉ tiêu

ĐVT


Giá trị

Thu nhập bình quân đầu người

Triệu đồng

10

Sản lượng nuôi trồng thủy sản

Tấn

132

Sản lượng lương thực ( lúa)

Tấn

667

Tổng sản lượng khai thác thủy sản

Tấn

1300

Ngành thương mại du lịch

Tỷ đồng


9,5

16


(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009)

2.6.2.2. Dân số
Xã Cẩn Thanh gồm có 8 thôn với diện tích là 895,43 ha, trong đó số hộ thôn
6 nhiều nhất là 296 hộ và ít nhất là thôn 7với 87 hộ, với 3560 nam và 3847 nữ.
Bảng 1.2. Phân bố dân cư theo đơn vị thôn
Đơn vị
Thôn 1
Thôn 2
Thôn 3
Thôn 4
Thôn 5
Thôn 6
Thôn 7
Thôn 8
Toàn xã

Hộ
225
211
300
207
292
306

208
155
1875

Nhân khẩu
923
938
1152
815
1194
1310
994
504
7729

Nam
421
473
540
378
554
636
431
314
709

Nữ
502
465
602

437
640
674
450
329
4020

(Nguồn: UBNN xã cẩm thanh 2010)
2.6.2.3. Giáo dục
Trên địa bàn xã hiện có một trường trung học cơ sở, 2 cơ sở thuộc trường
tiểu học và 4 cơ sở thuộc trường mẫu giáo gồm 33 lớp học và 36 phòng học. Tổng
số học sinh theo học 1038 em, tổng số cán bộ và giáo viên là 178 người. Nhìn
chung, quy mô của các trường học đảm bỏa đúng tiêu chuẩn theo quy định của Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo; chất lượng dạy và học được nâng lên; tỷ lệ học sinh khá giỏi
ngày càng nhiều. Tuy nhiên cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học vẫn còn nhiều
thiếu tốn.
2.6.2.4. Y tế
Trạm y tế nằm ngay trung tâm xã, thuận tiện cho việc khám chữa bệnh và
điều trị cho người dân. Trạm có 10 phòng và 3 giường bệnh, trang thiết bị, dụng cụ
thuốc men của trạm tương đối đảm bảo. Đội ngủ cán bộ trạm gồm 5 người: 1 bác sĩ,
1 y tá và 3 nữ hộ sinh; ngoài ra còn có đội công tác viên ở bên dưới địa bàn thôn.
2.6.2.5. Văn hóa – thể thao
17


Trung tâm văn hóa thể thao của xã tập trung tại địa bàn thôn 6 gồm có: Khu
thiết chế văn hóa rộng 2,18 ha, sân vận động rộng 2 ha. Trên địa bàn xã có 12 di
tichslichj sử văn hóa.Ở các thôn đều có khu sinh hoạt văn hóa – thể thao rộng rãi và
khang trang và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, giải trí của nhân dân. Tuy nhiên trang
thiết bị cơ sở vật chất còn nghèo.

2.6.2.6. Cấp điện
Nguồn điện được nhận từ trạm biến áp trung gian35 KV Cẩm Hà có dung
lượng 2 x 5600 KVA đủ khả năng cấp điện cho toàn xã. Hiện tại ở xã có 7 trạm biến
áp, tổng chiều dài đường dây trung thế là 6883m, tổng chiều dài đường dây hạ thế là
12419m, Tổng số hộ sử dụng điện là 1763 hộ đạt 100% số hộ toàn xã.
2.6.2.7. Nguồn nước sinh hoạt
Nước sinh hoạt được cung cấp từ nhà máy cấp nước Hôi An qua trạm bơm
trụng chuyển đặt tại thôn 5. Lượng nước cung cấp bình quân 110m 3/ngày. Tổng
chiều dài hệ thống cấp nước 12,6km; 100% thôn trong xã đã có đường ống dẫn
nước đi qua đặc biệt là ở những nơi dân cư xa xôi, hẻo lánh như: Gò Hý, thôn 7,Cồn
Tiến dân cư cũng được hưởng nước sạch. Tuy nhiên, chất lượng hệ thống chưa đảm
bảo.
2.6.2.8. Bưu chính viễn thông
Hệ thống thông tin liên lạc được đầu tư và nâng cấp đảm bảo phục vụ thông
suốt nhu cầu sử dụng, sản xuất kinh doanh, thông tin liên lạc giữa các địa phương;
100% các thôn đều có cáp điện thoại. Ngoài ra còn có điểm bưu điện văn hóa xã
vừa hoạt động bưu chính viễn thông vừa là điểm nghiên cứu, học tập và tìm hiểu
thông tin của nhân dân.

18


CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ sinh thái RNM, DN xã Cẩm Thanh Hội An là nguồn tài nguyên phong
phú đa dạng sinh học, có vai trò quan trọng giúp bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi
trường và chống lại các tiêu cực của biến đổi khí hậu và là nguồn lợi mưu sinh của
người dân trong xã. Tuy nhiên, sự đa dạng sinh học RNM đang bị suy giảm nghiêm
trọng do sự phát triển của các ngành kinh tế, dân số bùng nổ, nhu cầu về thức ăn vui

chơi giải trí, nhiên liệu, không gian sống…tăng lên dẫn đến diện tích rừng dừa nước
suy giảm đi nhanh chóng. Bên cạnh đó sự phát triển về kinh tế công nghiệp và nông
nghiệp đặc biệt các phong trào phá rừng nuôi tôm tràn lan đang là nguyên nhân
chính làm suy giảm đa dạng sinh học, gây ảnh hưởng đế sinh kế của người dân. Do
đó cần phải giải quyết vấn đề suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học RNM, DN
nhằm hạn chế tối đa các tác động ảnh hưởng đến người dân và môi trường trước
tiên ta phải điều tra sơ bộ hệ sinh thái RDN gồm những loại nào:
- Thành phần số lượng các loài thực vật
- Thành phàn số lượng các loài động vật
- Phân bố loài các loài động thực vật trong hệ sinh thái

2.2. Địa điểm nghiên cứu
Rừng ngập mặn tại xã Cẩm Thanh – thành phố Hội An.

2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Tìn hiểu thực trạng nguồn tài nguyên sinh học rừng ngập mặn.
- Tìm hiểu thành phần các loài loài động thực vật trong rừng ngập mặn.
- Gía trị của nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đối với con người và môi
trường.
- Sự suy giảm nguồn tài nguyên tài nguyên sinh học rừng ngập mặn.
- giải pháp bảo vệ nguồn tài nguyên đa dạng sinh học rừng ngập mặn.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
2.4.1.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập tài liệu thứ cấp tại phòng tài nguyên - môi trường UBNN xã Cẩm
Thanh, sách báo và trên internet.

19



- Tập hợp và kế thừa các tài liệu và kết quả nghiên cứu đã có trước đây về
rừng ngập mặn.
2.4.1.2. Sử dụng phương pháp khảo sát thực địa và phỏng vấn nhanh có sự tham
gia của cộng đồng
- Quan sát trực tiếp hiện trạng khu vực nghiên cứu đồng thời kết hợp với thu
thập hình ảnh. Bằng cách sử dụng các ghe thuyền nhỏ kết hợp với việc di truyển
trên bộ để khảo sát hiện trạng đa dạng sinh học của hệ sinh thái RNM dừa nước
Cẩm Thanh.
+ Chia ô đếm trực tiếp
- Xác định tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái dừa nước một cách chính
xác nhất bằng phương pháp chia ô đếm trực tiếp để xác định thành phần số lượng
đặc điểm phân bố các loại động thực vật cũng như xác định được mật độ phân bố
loài chiếm ưu thế.
- Sử dụng các công cụ PRA để điều tra ngoài thực địa.
+ Công cụ bảng câu hỏi
- điều tra số lượng thành phần các loài động thực vật trong hệ sinh thái RDN
- Bảng câu hỏi điều tra tình hình hiện trạng khai thác sử dụng nguồn tài
nguyên sinh học RDN.
+ Công cụ lịch thời vụ
- Là công cụ lập khoảng thời gian mùa nào thì số lượng các loài động thực
vật đa dạng nhất và nguồn lợi khái thác của người dân vào khoảng thời gian nào
trong một năm là thịch hợp nhất những kết quả này dựa vào kinh nghiệm tính bản
địa của cộng đồng địa phương.
+ Cây vấn đề
- Xác định được các nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp làm suy giảm nguồn
tài nguyên sinh học và diện tích rừng ngậo mặn. Qua đó biết được những hậu
quả gây ra của việc suy giảm đa dạng sinh học.
+ Công cụ bản đồ
- Vẽ bản đồ là là công cụ khởi điểm cho bước thu thập thông tin thực địa, nó

có cái nhìn chung và bức tranh chung chuẩn bị cho những công việc tiếp theo.
- Bản đồ thể hiện vị trí, nơi đâu là có nguồn tài nguyên, những hoạt động
khai thác đánh bắt, chỉ rõ ranh giới và những đặc tính của cộng đồng giúp cộng
đồng biết được những khó khăn thuận lợi.
2.4.1.3. Phương pháp tổng hợp và thống kê só liệu
- Công cụ phân tích định tính: Lược bỏ những thông tin phụ, tập trung vào
thông tin chính, tóm tắt thông tin.

20


- Công cụ phân tích định lượng: tóm tắt số liệu, sử dụng bảng biểu, xử lý
thống kê các thông tin điều tra từ bảng câu hỏi bằng phần mềm EXCEL.

CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN
3.1. Đa dạng hệ sinh thái rừng ngập mặn
Hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng sinh học về thành phần loài thực vật
cũng như động vật như; dừa nước, đước đôi, vẹt dù, ô rô và một số quần thể ráng
dại muống biển…thảm cỏ biển với các loại chiếm ưu thế Halophila beccarii
Ascherson (Cỏ Xoan gân song song), Zosterajaponica Ascherson&Graebn (Cỏ
Lươn Nhật Bản), rong biển Gracilaria tenuistipitata Chang et Xia (rong câu)…Về
động vật rất phong phú đem lại giá trị kinh tế cao với các loại cá như cá mú, cá dìa
cá liệt …và nhiều loài giáp xác cũng như thân mềm. Nhiều ngư dân cho biết số
lượng loài rất phong phú và đa dạng nhưng hiện nay đã suy giảm nhiều do khai thác
quá mức.
3.1.1. Hệ thực vật
3.1.1.1.Cây dừa nước (Nippa fructicans Wurmb)
DN là cây ngập mặn phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía nam, được người dân di
dời về trồng trước đây hiện nay DN là cây ngập mặn chủ yếu tại lưu vực Sông Thu
Bồn. Chúng hiện diện khắp nơi từ ven bờ sông lớn cho đến các kênh rạch nhỏ. Làm

thành các thảm rộng từ 3–20 mét theo các lạch, triền sông.[1] Đáng chú ý là rừng
dừa bảy mẫu trên địa bàn các thôn 1, 2, 3, và 8 của xã Cẩm Thanh tạo nên một hệ
động vật dưới nước rất phong phú đa dạng của lưu vực sông Thu Bồn.
a. Mô tả loài
DN có tên khoa học là Nippa fructicans Wurmb, thuộc cọ Palmae [1]. Cây
mọc thành dãy ven sông lạch nước lợ, gồm phần gốc thân ngầm với hệ thống rễ
chằng chịt và phần trên là lá to. Lá dài 5–8 mét gồm có cuống lá tròn, dài, phân trên
là bệ lá phình to. Lá dùng để lợp nhà, làm vách, cuống lá có thể ghép lại làm cửa,
vách và các trang trí trong nhà.[1
Hình 3.1. Dừa nước tại thôn 2 Xã Cẩm Thanh (22/3/2011)

Cụm hoa dài 60–90 cm, gié đực dài 3–5 cm màu cam. Theo nhiều tài liệu,
hoa thụ phấn nhờ một loài ruồi thuộc họ ruồi dấm (Drosophilidae). Dừa nước có
buồng quả to, gần giống hình cầu mỗi buồng có từ 40-60 quả, quả có nhân cứng
cơm của quả màu trắng mềm ngon có thể ăn được, 1kg có 10-12 quả. Từ cuống của

21


buồng hoa quả người ta có thể trích nhựa DN là một loài chất dịch có mùi vị ngọt
để làm đường, rượu, nước giải khát rất đặc biệt ở một số nước như philippin, thái
lan, bangladesh.[1]

Hình 3.2. Hoa dừa và quả dừa (22/3/2011)
b. Mật độ phân bố
Tại xã Cẩm Thanh dừa nước tập trung chủ yếu và nhiều nhất tại thôn 2, 3, và
thôn 8 đặc biệt là khu rừng dừa Bảy Mẫu thuộc thôn 2 và thôn 3 của Xã Cẩm Thanh
với diện tích nhiều nhất là 84,69 ha (Nguồn: UBND xã cẩm thanh, 2010) ngoài ra
còn ở như các cồn gò như thuận tình, cồn tiến, cồn 3 xã, gò Hí, gò già. Nhưng diện
tích RDN ngày càng bị suy giảm được thể hiện qua bảng 3.1và hình 3.1[14].

Bảng 3.1 Diện tích rừng dừa nước qua từng năm
Năm

Diện tích dừa nước (ha)

Trước 1980

99.86

1991

99.96

2000

52.3966

2005

57.68

2010

84.69
( Nguồn: UBNN Xã Cẩm Thanh năm 2010)

22


Hình 3.1. Biểu đồ thệ hiện mức độ biến động diện tích dừa nước (1980-2010)


Từ bảng 3.1 và hình 3.1 cho thấy diện tích RDN tại xã Cẩm Thanh từ năm
1980 đến năm 2000 bị suy giảm nghiêm trọng. Diện tích dừa nước trước năm 1980
là 99,86ha đến năm 2000 diện tích dừa nước chỉ còn 52,39ha giảm gần 50% so với
trước năm 1980 diện tích dừa nước ngày càng giảm qua các năm do phong trào
nuôi tôm phát triển mạnh nên người dân chặt phá các khu vực có dừa nước để nuôi
tôm, làm muối. Tuy nhiên từ năm 2000 đến năm 2010 diện tích dừa nước lại tăng
lên nhờ các hoạt động trồng dừa nhằm mục đích phục hồi hệ sinh thái bên cạnh đó
giai đoạn này hoạt động nuôi tôm tại xã Cẩm Thanh có sự suy giảm do nuôi tôm
dịch bệnh nên hiện trạng phá rừng ngập mặn làm hồ nuôi tôm suy giảm nên diện
tích dừa nước tăng lên đáng kể.
Theo kết quả khảo sát ngày 22/4/2010 trên khu vực được đo đạc có diện tích
bình quân 16 m2 mật độ cây dừa dao động thường từ khoảng 1 đến 3 cây/m 2 (nơi
dày nhất) như tại vị trí mương đào (thôn 2). Nơi đây các thảm dừa nước này mọc
thành các thảm rộng tiếp giáp ra mũi đất bồi của hai thôn về phía Cửa Đại, vành đai
DN mọc xen kẽ với cỏ biển tạo ra sinh cảnh các hệ sinh thái đan xen vào nhau rất
phong phú. Đây là khu vực được quản lý và khai thác tốt [1].
c. Giá trị sinh học
Giá trị của cây dừa nước là mắt xích vô cùng quan trọng trong hệ sinh thái
RNM DN. Lá dừa nước là nguồn lợi giúp người dân có thu nhập ổn định mà nó còn
là nơi cư trú sinh sản của nhiều loài sinh vật dưới nước tạo nên một hệ sinh thái đa
dạng và phong phú.
Giá trị DN đối với môi trường đồng hóa các chất thải gia tăng hàm lượng
chất dinh dưỡng cho sinh vật tiêu thụ như tôm cua cá… Thêm vào đó còn có tác
23


dụng chắn sóng cường độ thủy triều và đặc biệt là ngăn chặn sự nhiễm mặn, Điều
hòa khí hậu tạo cảnh quan môi trường cũng như trong việc làm sạch môi trường.
Theo ý kiến của rất nhiều người dân các khu vực nào có các thảm DN thì cường độ

gió bảo ít hơn hẳn với khu vực không có DN.
RNM DN còn đi vào lịch sử của người dân trước năm 1980 rừng dừa bảy
mẫu là cái nôi nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội ta trong suốt cuộc kháng chiến dành thắng
lợi. Hiện nay RNM DN Cẩm Thanh trở thành một điểm du lịch thu hút khách nước
ngoài năm 2006 là 423.395 du khách nước ngoài và 543.379 khách trong nước [1].
3.1.1.2. Cây đước đôi (Rhizophora apiculata Bl. )
a. Mô tả loài
Đước đôi có tên khoa học là Rhizophora apiculata Bl. Thuộc họ đước
Rhizophoraceae [11].
Hình 3.3. Hoa và quả của Cây đước đôi (Rhizophora apiculata Bl.) ở gò Thuận Tình

Cây thân gỗ cao 25-30 m, đường kính 60-70 cm, gỗ có lõi màu hồng sậm.
Cây sống ở vùng đất mềm đã ổn định, mực triều 2.5 m [11]. Bộ rễ chân nôm rất
phát triển, và cao 1-2 m giúp cây dễ thở trong môi trường rừng ngập mặn. Có bộ lọc
muối ở mặt lá và các mắc ở thân và rễ cây. Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục, đầu
nhọn, mặt trên xanh sẫm và láng bóng, dài 10-16cm, rộng 3-6cm, màu hồng hay đỏ
nhạt[5].
Cụm hoa sim có 2 hoa trên cuống ngắn 0.5-1cm, mập, đài hợp xẻ 4 thuỳ hình
tam giác dày dài 1-14cm, rộng 6-8mm, ở lại cùng với quả, tràng 4 cánh, mỏng
trắng. Quả màu nâu với trụ mầm dài 20-30cm, xanh sẫm. Cây thường ra hoa quanh
năm nhưng mùa rộ thường từ tháng 4–5, trụ mần già vào các tháng 8 – 10 [11].
b. Phân bố
Đước đôi cũng là cây ngập mặn chính xã cẩm thanh trước đây, cây Đước
trước đây không có ở Cẩm Thanh. Từ năm 1999, phòng nông nghiệp và PTNT thị
xã Hội An đã di trồng cây đước từ Miền Nam về trồng taị gò Thuận Tình và triền
sông thôn 2 Cẩm Thanh trên diện tích khoảng 2.5 hecta [1]. Đến nay diện tích tồn
tại và phát triển chừng vài ngàn mét vuông ở khu vực cuối cồn thuận tình.
c. Giá trị sinh học
Giá trị sinh học: Cây có giá trị kinh tế cao, gỗ cứng, khá bền, được dùng làm
cừ, cột, đóng bàn ghế…thân đước cho nhiệt lượng cao, ít khói được ưa chuộng. Vỏ

nhiều tanin để nhuộm lưới. Lá làm phân xanh, hoa nuôi ong [5].
Ngoài ra đước còn là loài cây có vai trò quan trọng trong việc chắn sóng, bảo
vệ vùng ven biển, giảm hiệt hại do thiên tai bão lụt gây ra. Là nơi nuôi dưỡng và
cung cấp thức ăn cho các loài hải sản có giá trị cao.
24


3.1.1.3 Vẹt dù (Mắm Trắng)

a. Mô tả loài
Có tên khoa học là Bruguirea gymnorhiza (L) Lamk. thuộc họ Đước
Rhizophoraceae.[1]
Hình 3.5. Cây vẹt dù (Bruguiria gymnorhiza (L) Lamk) ở thôn 3 (22/4/2011)

Cây thân gỗ cao khoảng 10-15m, đường kính đến 0.7m, sống chủ yếu ở vùng
đất bồi, mềm, lún như vùng cửa sông, ven bờ, đầm lầy. Với mực triều thích hợp là
2m. Được xem là dấu hiệu nhận biết vùng đất bồi [11]. Có bộ rễ chùm, thở nhiều,
thon ở phía đầu, dựng đứng từ dưới bùn lên, cao đến 30 cm. Rễ thân rỗng, có khả
năng phục hồi khi bị giẫm đạp. Diện tích bộ rễ lớn từ 2-6m 2, giúp cây thở và trao
đổi chất tốt hơn. Cây có bộ lọc muối ở mặt lá, và các mắc ở thân, rễ cây. Lá to dài
10-20 cm cuống lá màu đỏ nhạt. Hoa mọc ở nách lá, các lá đài màu đỏ, trụ mầm
hình thuôn nhọn hai đầu[9]. Hoa đơn thành gié, nhỏ, màu vàng, đường kính cỡ
5mm. Quả nang hơi cong, dài khoảng 4cm, màu xanh hơi xám, đầu thon nhọn, tự
khai thành 2 mảnh, hạt nảy mầm trên cây trước khi quả rụng [5].
b. Phân bố
Cây vẹt dù cũng là cây ngập mặn chính thức. Cây được rải rác ven bờ kênh
rạch các thôn hiện nay còn nhiều ở thôn 3, 8, thuận tình của xã Cẩm Thanh. Người
dân xung quanh vùng cho biết loài cây này cũng được người dân địa phương di
trồng từ miền nam về trồng nhưng do phong trào nuôi tôm người dân đã phá đi hiện
nay diện tích còn lại rất ít.

+ Giá trị: Cây được dùng trong xây dựng, làm củi, các dụng cụ nhỏ, trái làm
thức ăn cho cá ngoài ra còn có tác dụng chắn sóng trống xói mòn xạt lở đất.
3.1.1.4 Cây ráng dại (Acrostichum aureum L)

Có tên khoa học là Acrostichum aureum L là một cây thân bụi, mọc rải rác ở
các bờ sông kênh rạch[11].
Hình 3.6. Ráng dại (Acrostichum aureum L) ở thuận tình (22/4/2011)

+ Mô tả: Cây bụi cao đến 1.5 mét. Lá kép lông chim dài trên 1m, lá dày chét
dài đến 40 cm không lông, mép nguyên, gần phụ hình mạng, dưới cuống chính có
nhiều gai giả do các cuống phụ biến thành. Lá sinh sản ở thân với các ổ túi màu nâu
đỏ phủ khắp mặt dưới lá, trừ ở gân và mép lá. Loài này thường gặp ở hầu hết các
nước trong khu vực Đông Nam Á [8].
+Phân bố: Là cây ngập mặn chính thức. Cây mọc hoang ở các bờ sông kênh
rạch, đầm nước mặn, nước lợ hay đất có nhiều mùn.
+Giá trị: Có vai trò quan trọng trong việc chống xói lở bờ sông

25


×