Tải bản đầy đủ (.doc) (1,105 trang)

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 1,105 trang )

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI
VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
(Tái bản lần thứ tư)
NGUYỄN HỮU SƠN
Tuyển chọn và giới thiệu

LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Trãi (1380 –1442) là người anh hùng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ văn Nguyễn Trãi đã có một quá trình lịch
sử lâu dài. Ngay dưới thời phong kiến, kể từ khi Nguyễn Trãi được minh oan,
các thế hệ trí thức nho sĩ đã bỏ nhiều công sức để sưu tầm, khôi phục, tập
hợp các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Và, đến năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức
thứ 21 – (1868), bộ sưu tập văn bản Ức Trai di tập gồm 7 quyển đã được
khắc in.
Đến thế kỷ XX, đồng thời với việc phiên dịch văn bản Hán-Nôm của
Nguyễn Trãi ra chữ quốc ngữ, việc nghiên cứu di sản thơ văn của ông cũng
đạt được những kết quả mới. Vao các dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất (1442–
1962) và 600 năm năm sinh (1380–1980) của Nguyễn Trãi đã có các Hội thảo
khoa học cấp quốc gia và quốc tế, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước, di sản tư tưởng, văn hóa của Nguyễn Trãi
được thu thập, phân tích, đánh giá khá đầy đủ, toàn diện.
Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi ngày càng trở nên sâu sắc trong
đời sống văn hóa dân tộc. Tác phẩm của Nguyên Trãi được giới thiệu rộng
rãi, được đưa vào chương trình dạy và học trong nhà trường phổ thông, đại
học và là nguồn đề tài nghiên cứu của hàng loạt công trình khoa học có giá
trị.


Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập một cách có hệ


thống giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Trãi, Nhà xuất
bản Giáo dục cho in tập Nguyễn Trãi – Về tác gia và tác phẩm tập hợp chọn
lọc các bài nghiên cứu có giá trị của các tác giả trong và ngoài nước về tác
phẩm thơ, văn của Nguyễn Trãi trong suốt sáu thế kỷ qua.
Để giúp bạn đọc tiện theo dõi, tập sách phân chia thành nhiều chủ đề
theo từng chương mục và có chú xuất xứ đầy đủ. Đương nhiên sự phân chia
này chỉ là quy ước tương đối, nhất là ở phần nghiên cứu thơ ca. Các văn bản
được sử dụng ở đây về cơ bản được giữ nguyên vẹn. Tuy nhiên, do các bài
viết được công bố ở nhiều thời kỳ khác nhau và trên các cơ quan ấn loát khác
nhau, nên khi tập hợp lại trong một cuốn sách Nhà xuất bản Giáo dục do có
sự thống nhất tương đối về quý cách chính tả, nhất là ở phần tên riêng.
Do không có điều kiện liên hệ tiếp xúc trực tiếp với các tác giả có bài
viết khi chuẩn bị bản thảo cho nên cuốn sách chắc chắn còn những sai suất,
Nhà Xuất bản Giáo dục mong được các tác giả và bạn đọc tha thứ.
Nhân tập sách ra mắt bạn đọc, chúng tôi chân thành cảm ơn GS. Hà
Minh Đức, Viện trưởng Viện Văn học đã góp nhiều ý kiến quý báu trong quá
trình hoàn thiện bản thảo cuốn sách.
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

LỜI GIỚI THIỆU
Trước mắt chúng ta là bộ tư liệu văn học khá đồ sộ về các tác gia tiêu
biểu của lịch sử văn học Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của văn hóa dân
tộc, so với nhiều ngành nghệ thuật khác, văn học là nhân tố trội và có một vị
trí quan trọng. Kho tàng văn học dân gian vô giá chưa khai thác và đoán định
được hết sự giàu có và xác định được đầy đủ giá trị văn chương. Mười thế kỷ
văn học viết với những đỉnh cao về tác giả: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Khuyến, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu,



Huy Cận, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… –
những tên tuổi luôn là niềm tự hào cho nền văn hóa và văn học dân tộc.
Theo dòng lịch sử tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn
lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào lãng quên. Dường
như ngược với quy luật ấy những tác giả và tác phẩm tiêu biểu lại không
ngừng được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử. Cuộc đời và tác phẩm của họ
mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều vấn đề xã hội và có thể dự
báo một điều gì cho mai hậu. Sinh thời Nguyễn Du băn khoăn:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Ba trăm năm lẻ nữa ta đâu biết,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)
Thế hệ kế tiếp, những kẻ hậu sinh thiết tha muốn hiểu ông và đã một
phần hiểu ông. Từ ý kiến tâm huyết của Ngô Đức Kế, đến những công trình
nghiên cứu sâu sắc của Hoài Thanh, Xuân Diệu, của các nhà nghiên câu Lê
Đình Kỵ, Lê Trí Viễn,… Truyện Kiều đã được phân tích từ trên nhiều bình
diện. Và đáng quý khi tác phẩm này đã góp phần do sự phát triển đời sống
tình cảm của dân tộc.
“Truyện Kiều, tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du” thật sự đã giữ vai
trò quan trọng biết nhường nào làm những con người Việt Nam chúng ta xích
lại gần nhau, sát cánh bên nhau, thông cảm và đồng cảm trong đời sống
thường nhật, trong lao động, đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thân
yêu của mình”.
Đấy là trường hợp Nguyễn Du và cũng là của nhiều nhà văn tiêu biểu
khác mà trước hết phải kể đến Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi, người anh hùng
cứu quốc, nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà thơ. Tất cả những phẩm chất của
các nhân vật trên quy tụ lại trong nhiều tác phẩm văn chương và hậu thế đã
tìm hiểu, nghiên cứu ông trên nhiều bình diện. Đinh Gia Khánh nghiên cứu
quan điểm văn chương của Nguyễn Trãi; Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi



thu hiểu Quân trung từ mệnh tập – tập luận chiến quân sự và ngoại giao; rồi
văn thơ chữ Hán, văn thơ Quốc âm cũng được nhiều nhà nghiên cứu khai
thác. Đặc biệt Bình Ngô đại cáo được đánh giá rất cao qua nhiều bài viết từ
Bùi Kỷ, Vũ Khiêu đến Bùi Văn Nguyên. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn
Trãi là của một thời và của muôn đời. Những ý kiến đánh giá về ông qua các
thời đại giúp cho người đọc hiểu được vị trí và sự đóng góp của ông cho văn
hóa và văn học nước nhà.
Văn học thời trung đại còn khởi sắc ở chặng đường cuối với nhiều nhà
văn tiêu biểu. Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao, một tấm gương sáng trên
cả hai phương diện đạo và đời. Nhà yêu nước lớn, nhà nho giữ đạo vẹn tròn,
nhà văn giàu dũng khí và tài năng, người đã gìn giữ và đưa văn chương lên vị
trí cao quý. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ý kiến sâu sắc của Phạm Văn
Đồng và nhiều nhà nghiên cứu khác về sự nghiệp văn thơ tác giả. Trong công
lao chung nghiên cứu về tác giả thời kỳ trung đại phải kể đến những công
trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Lê Trí Viễn, Đinh Gia
Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, đặc biệt là Xuân Diệu. Ông tự đặt
cho mình nhiệm vụ phải nói cho được cái hay, cái đẹp, hương vị cao quý của
văn thơ các danh nhân ở mọi thời. Ông là người ngưỡng mộ thi hào dân tộc
Nguyễn Du, “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương ca ngợi Nguyễn Khuyến,
nhà thơ của “dân tình làng cảnh”, cảm thương cái tài cái phận và tiếng cười ra
nước mắt của Tú Xương.
Bước sang thời kỳ hiện đại cánh cửa lịch sử mở gần từ đầu thế kỷ XX
và chỉ sau hai thập kỷ lịch sử văn học đã bước vào thời kỳ Phục hưng với
Phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn, trào lưu hiện thực phê phán và tiếp
theo hơn nửa thế kỷ văn học cách mạng. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là
một tác gia lớn mở đầu và khai sáng cho nền văn học cách mạng. Sự nghiệp
của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh bao gồm trên nhiều phạm vi: thơ ca,
truyện ký, văn chính luận và ở lĩnh vực nào cũng nổi lên với những tác phẩm
tiêu biểu. Nghiên cứu sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh là niềm hứng thú của

nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước và chúng ta đã có một khối lượng tư


liệu phong phú về văn thơ Hồ Chí Minh. Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh đòi
hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều vấn đề về nội dung tư tưởng
cũng như nghệ thuật biểu hiện. Các tác giả Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu,
Phạm Huy Thông, Hoài Thanh…; các nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên đều
có nhiều bài viết hay về văn thơ Hồ Chí Minh.
Tố Hữu, nhà thơ vô sản với phong cách sáng tạo độc đáo đã sớm thu
hút được sự quan tâm của bạn đọc. Ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Trần
Minh Tước đã gọi “Tố Hữu là nhà thơ của tương lai”. Cách mạng tháng Tám
thành công, tập thơ Từ ấy được giới thiệu và Đặng Thai Mai xem tập thơ là
“bó hoa lửa lộng lẫy”. Suốt nhiều thập kỷ, Tố Hữu vẫn được xem là “lá cờ đầu
của thơ ca cách mạng”, hay nói như Chế Lan Viên: “Anh là người mở đường,
dẫn đường và hiện nay vẫn trên đường”. Hơn 60 năm sáng tác thơ Tố Hữu
đã chinh phục được nhiều thế hệ bạn đọc qua giọng điệu trữ tình cách mạng
ấm áp tình đời tình người. Hàng trăm bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đã
khai thác khá triệt để thơ Tố Hữu với nhiều cách tiếp cận, vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu thích hợp. Và chắc chắn mọi ý kiến không dễ thuận
chiều, xuôi gió. Hai cuộc tranh luận về tập thơ Từ ấy và Việt Bắc đã ghi lại
được những quan điểm học thuật khác nhau và phần nào không khí văn học
một thời. Những nhà văn, nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại như Xuân Diệu,
Nguyễn Tuân, Nam Cao đều có phong cách sáng tạo độc đáo, lôi cuốn mạnh
mẽ người đọc. Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất” trong Phong trào Thơ mới, nhà
thơ lớn của nền thơ ca cách mạng, nhà phê bình nghiên cứu văn học uyên
thâm và tinh tế đã là đề tài của biết bao công trình. Nguyễn Tuân độc đáo và
tài hoa trong văn cũng như trong đời, một kiểu mẫu nhà văn lấy mình làm
điểm tựa để nói về cuộc đời với nhiều ý tưởng lạ, ngôn từ chắt lọc, sáng tạo.
Nam Cao đến muộn, ông chưa được biết đến trong Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan nhưng từ những năm đầu thập kỷ sáu mươi, Nam cao đã thu hút

và ngày càng nằm sâu trong ký ức từ tưới học trò đến những người trải đời
và đau đời. Tất cả những trang viết về các nhà văn tiêu biểu – trên, được
chọn lọc qua các tập tư liệu như còn mang theo hơi thở, sức sống, dư âm và
tài năng sáng tạo từ cội nguồn, những cây lớn vẫn tỏa bóng mát và hương


thơm. Các tập tư liệu về văn học Việt Nam được sưu tầm công phu, có hệ
thống, chọn lọc theo một chuẩn mực thống nhất. Chuẩn mực cao nhất là chất
lượng, bài viết phải góp phần nói lên được đặc điểm và phong cách của tác
giả. Được viết ra từ nhiều thời điểm với những quan điểm nhận thức khác
nhau nên cách đánh giá chắc chắn là có nhiều điểm khác biệt. Đó là hiện
tượng bình thường trong nghiên cứu văn học và theo thời gian chắc chắn còn
có thêm những suy nghĩ mới.
Đây là bộ tư liệu đầu tiên giới thiệu chín tác giả chính trong chương
trình văn học của nhà trường. Chắc chắn là chúng ta phải có thêm nhiều tập
tư liệu khác. Bên cạnh Xuân Diệu phải có Huy Cận, giới thiệu Nguyễn Tuân
phải có Tô Hoài, và giới thiệu Nam Cao phải có Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan. Mục đích cuội cùng không chỉ vì riêng cho tác giả mà
trước hết là vì bạn đọc. Phải tạo những điêu kiện thuận lợi nhất để có thể hiểu
kỹ về tác giả, tác phẩm. Chịu trách nhiệm biên soạn với Nhà xuất bản Giáo
đục, các nhà nghiên cứu của Viện Văn học đã làm việc với tinh thần say mê
và ý thức tôn trọng những giá trị tinh thần cao quý của văn học dân tộc.
Viện trưởng Viện Văn học
GS. HÀ MINH ĐỨC

NGUYỄN TRÃI
ANH HÙNG DÂN TỘC VÀ DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Nguyễn Trãi (1380 – 19/9/1442), hiệu Ức Trai, quê xã Chi Ngại, lộ Lạng
Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương); sau dời đến làng Ngọc Ổi,
xứ Sơn Nam Thượng, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện

Thường Tín, tỉnh Hà Tây).
Xuất thân trong một gia đình Nho học: cha là Nguyễn Ứng Long, tức
Nguyễn Phi Khanh (1856 – 1429); ông ngoại là Trần Nguyên Đán (1325 –
1390) – tiến sĩ, nhà thơ và tể tướng cuối triều Trần; hơn nữa, vốn là người tài
trí, thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) vào năm Canh Thìn (1400) và được triều Hồ


trao giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng khi mới tròn 20 tuổi…, Nguyễn Trãi
hội đủ điều kiện để có thể dẫn thân gánh vác những trọng trách lớn lao và
góp phần giải quyết những thách thức đang đặt ra trước toàn dân tộc. Trải
qua nhiều năm tháng tìm đường cứu nước, bước chân trải khắp dặm dài xứ
sở, đặc biệt là quãng đời mười năm gian khổ “nếm mật nằm gai” gắn bó với –
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cho đến ngày toàn thắng, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ bản
lĩnh, khí phách và tinh thần Đại Việt, trở thành nguồn sáng phẩm chất và tinh
hoa dân tộc.
Nguyễn Trãi là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam trên các tư cách
anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà chính trị quan chức, nhà ngoại
giao, nhà sử học và địa lý học. Về hoạt động xã hội, ông là bậc khai quốc
công thần một lòng đắp xây vương triều Lê trong buổi ban đầu. Gắn với cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh, trên cương vị Tuyên phụng đại phu;
Hàn lâm thừa chỉ, Nguyễn Trãi đã có tập thư binh vận – luận chiến Quan
trung từ mệnh tập nổi tiếng, sử dụng “đao bút” như một thứ vũ khí lợi hại, góp
phần làm suy yếu tinh thần quân địch. Sau đại thắng Mậu Thân (1428),
Nguyễn Trãi đã viết một số tác phẩm trong đó có Bình Ngô đại cáo (được coi
là áng “thiên cổ hùng văn”), Phú núi Chí Linh và Lam Sơn Vĩnh Lăng Thần
đạo bi (nêu bật công tích của Lê Lợi trong sự nghiệp cứu nước), Bằng Hồ di
sự lục (bản tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp Trần Nguyên Đán). Thơ ca của ông
có lẽ được sáng tác chủ yếu vào thời gian sau chiến tranh. Tập thơ chữ Hán
Ức Trai thi tập gồm 105 bài nằm trong dòng chảy thơ Đường truyền thống và
trong hệ quy chiếu chung của mỹ học thời đại phong kiến. Riêng với Quốc âm

thi tập bằng chữ Nôm gồm 254 bài, có thể coi Nguyễn Trãi là người chính
thức khởi đầu tập đại thành thơ quốc âm, mở ra một dòng chảy mới trong nền
thơ ca dân tộc. Hơn thế nữa, Quốc âm thi tập còn có ý nghĩa là sự phá cách,
cách tân, khắc phục khuynh hướng quy phạm, mở rộng cảm quan sáng tạo
thi ca, đặc biệt trong cách diễn tả thế giới thiên nhiên và nội tâm con người
bằng ngôn ngữ và điệu tâm hồn dân tộc.


Cũng vào thời kỳ hậu chiến, Nguyễn Trãi đã được ban họ vua, được
phong tước Quan Phục hầu và giữ chức Nhập nội Hành khiển kiêm Lại bộ
Thượng thư, tiếp tục soạn thảo nhiều chế, chiếu ban bố trọng nước và các
thư, biểu bang giao với nhà Minh. Ngoài ra, ông còn biên soạn bộ sách Dư
dựa chí và Luật thư, nêu một số ý kiến tranh luận về luật hình, âm nhạc và
quan niệm nền văn hiến dân tộc. Theo nhiều nguồn tư liệu (chưa được kiểm
chứng thật chắc chắn), Nguyễn Trãi còn là tác giả của Lam Sơn thực lục,
Ngọc đường di cảo, Gia huấn ca, v.v… Đáng tiếc rằng vụ án Lệ Chi Viên oan
khiên với hình thức tru di tam tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh chịu, chính là hệ
quả tất yếu của những cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái nảy sinh vào thời
hậu chiến trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ. Đó cũng chính là hậu
quả – nghịch lý khôn lường của tấm lòng ngay thẳng, tinh thần dấn thân, dám
nói thẳng nói thật thể hiện một nhân cách lịch sử sáng soi kim cổ.
Xem xét cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi có thể
khẳng định ông đã trở thành hiện thân cho bước chuyển giao thời đại từ Phật
giáo Lý – Trần sang Nho giáo, người đặt nền móng tư tưởng văn học nghệ
thuật cho thời đại Nho giáo thịnh trị, đặc biệt trong buổi ban đầu còn rực sáng
ánh hào quang của tinh thần phục hưng dân tộc và ý nghĩa nhân văn, nhân
đạo cao cả. Đánh giá những đóng góp xuất sắc, đa dạng của Nguyễn Trãi đối
với lịch sử dân tộc Việt Nam và sự phát triển những giá trị nhân văn nhân loại,
vào năm 1980, Tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc
(UNESCO) đã ghi nhận ông là danh nhân văn hóa và được kỷ niệm rộng rãi

trên toàn thế giới.
***
Hơn hai mươi năm sau khi Nguyễn Trãi qua đời, vào năm Giáp Ngọ,
niên hiệu Quang Thuận thứ 5 (1464), vua Lê Thánh Tông (sinh 1442, làm vua
1460 – 1497) đã xuống chiếu minh oan; đến năm Đinh Hợi (1467), lại xuống
chiếu sai Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Rất đáng tiếc
là bộ sưu tập công phu được hoàn thành vào năm Canh Tý (1480) về sau lại
đã bị thất tán. Phải đợi khoảng hơn thế kỷ sau, một học giả đời Nguyễn là


Dương Bá Cung đã dốc sức vào việc sưu tầm di văn Nguyễn Trãi và được
nhà Phúc Khê tàng bản khắc in vào năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21
(1868), có tên chung là Ức Trai di tập gồm 7 quyển. Sau công việc đặc biệt có
ý nghĩa của Trần Khắc Kiệm ở thế kỷ XV thì đây là lần sưu tầm, biên soạn,
khắc in quan trọng thứ hai, giữ vị trí rằng thành di sản thơ văn Nguyễn Trãi và
còn giữ lại được đến ngày nay.
Ngay dưới thời phong kiến đã có nhiều ý kiến bình luận, đánh giả của
các bác vua chúa, sử gia, văn nhân khá thống nhất về Nguyễn Trãi. Họ đề
cao, ca ngợi ông trước hết ở phẩm chất, nhân cách, đức độ và tài năng:
– Hoàng có thanh phong ngọc thự tiên,
Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền…
Nho lâm kỷ hứa chiêm Sơn, Đẩu, …
Hảo vị triều đình lực tiến hiền…
(NGUYỄN MỘNG TUÂN –
Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn công).
(Trên gác vàng, vẻ thanh cao của ông như một vị tiên trong lầu ngọc,
Cái tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho nước, từ xưa chưa có bao
giờ…
Lâu nay rừng Nho trông ngóng ông như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu,
Ông nên vì triều đình mà ra sức tiến cử kẻ hiền tài)

(Tặng ông Gián nghị đại phu họ Nguyễn)
– Tâm kính tương phùng khi ngẫu nhiên?
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền.
(NGUYỄN TỬ TẤN – Đề Ức Trai bích)
(Phải có tâm hồn sáng mới chọn được cảnh đẹp, đâu phải việc ngẫu
nhiên?
Ông đã mở riêng ở đây một cảnh lâm tuyền giữa chốn thị thành).


(Đề ở vách nhà Ức Trai).
– Chân nguyên hội hợp hạnh phùng thần,
Tá trị danh nho hỷ hữu nhân…
Tứ hải phương kim quy nhất thống,
Thùy năng dược dã xuất hồng quân.
(PHAN PHU TIÊN – Hạ Gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai)
(May gặp đúng thời hội chân nguyên mở nước,
Mừng có bậc danh nho giữ gìn xã tắc…
Từ nay bốn biển đã thuê về một mối,
Có ai được là người như ông có thể bước ra từ lò tạo hóa).
(Mừng quan Gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai)
Về những đánh giá trực tiếp, những nhà vua đương thời như Lê Thái
tông (trị vì những năm 1434 - 1442) đã khẳng định: “Tiên sinh giúp đức Thần
khảo ta thay trời làm việc, sánh được với Thượng đế”; hay như Lê Nhân Tông
(trị vì những năm 1443 – 1459) cũng đánh giá: “Nguyễn Trãi là người trung
thành” giúp đức Thái Tổ dẹp loạn tặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình.
Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều
không ai sánh bằng”… Ngoài ra, các sử gia và văn nhân nổi tiếng đều đã có
lời bàn, Ngô Thì Sĩ (1726–1780) viết trong Việt sử tiêu án: “Đầu đời Lê, trong
số các nhân tài thu dụng được có Nguyễn Ức Trai là giỏi hơn cả, còn các ông
Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Phan Phu Tiên, Nguyễn Thiên Túng cũng đều

là những tay cự phách trong làng văn”; Tô Thế Huy (thế kỷ XVII - XVIII) đề
cao ông: “Chính đó là sông Giang, sông Hán trong các sông và sao Ngưu,
sao Đẩu trong các sao vậy”, sử gia Phan Huy Chú (1782 - 1840) cũng không
định trong Lịch triều hiến chương loại chí: “Ông có văn chương mưu lược,
gặp được vua, kinh bang tế thế, làm bậc công thần mở nước thứ nhất. Về già
muốn an nhàn, không có ý tham luyến địa vị”… Ngoài những đánh giá chung
về con người cũng có một số lời bàn tương đối chuyên sâu, cụ thể về thơ văn


Nguyễn Trãi, chẳng hạn ý kiến của bậc vua sáng Lê Thánh Tông. “Ức Trai
tâm thượng quang Khuê tảo” (Tấm lòng Ức Trai ngời sáng những áng văn
chương); Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong toàn Việt thi lục: “Văn chương của
ông có khí cốt và phong cách, lời thơ giàu tình ý”; lời Bùi Huy Bích (1744 –
1802) “Từ khoảng Thuận Thiên đến thời Hồng Đức, hay thơ có vài mươi
người, song lời nhanh, ý mạnh, không quên vua và cha mẹ chính là thơ của
Lê Trãi; hãy như nhận xét cua soạn giả Nguyễn Năng Tĩnh (thế kỷ XVIII - XIX)
trong bài Tựa “Ức trai di tập”: Học vấn của tiên sinh sở đắc, bắt nguồn từ
trong gia đình, mà văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính
đáng, cứng rắn, là tự tiên sinh rèn luyện và phát huy được. Tiên sinh vốn
không cố ý đúc chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa,
đẹp đẽ, dồi dào, không cái gì có thể che lấp được… Than ôi! Người như tiên
sinh chẳng phải là bậc danh thế nước Việt ta thì còn ai nữa, v.v…
Như vậy ngay từ thế kỷ XIX trở về trước, các bậc vua chúa, sử gia và
văn nhân đã rất mức đề cao Nguyễn Trãi. Chính nhờ thái độ trân trọng của
các và tiên hiền ấy, cộng với tinh thần sưu tập không biết mệt mỏi, bất chấp
mọi nỗi khó nhọc, mọi cách ngăn không gian và thời gian để cuối cùng định vị
được bộ Ức Trai di tập đại thành, góp phần lưu giữ chứng tích và khẳng định
truyền thống văn hiến dân tộc. Mặt khác, mặc dù còn dừng lại ở những lời
bình luận tổng quát, song các bài thơ đề vịnh, cách bài đề tựa và những nhận
xét, đánh giá của tiền nhân cũng chính là những cứ liệu, gợi ý và đúc kết quý

báu, giúp cho hậu thế ngày càng nhận thức sâu sắc chân giá trị di sản tinh
thần Nguyễn Trãi.
***
Bước sang thế –kỷ XX, công việc khai thác, tiếp nhận di sản văn hóa –
văn học của Nguyễn Trãi thể hiện trước hết ở thành tựu biên soạn, phiên dịch
văn bản Hán - Nôm, giới thiệu ngày càng đầy đủ, chính xác hơn trước thuật
của Nguyễn Trãi với đông đảo công chúng bạn đọc trong nước cũng như trên
thế giới. Đồng thời, giới nghiên cứu cũng triển khai rộng rãi việc tìm hiểu văn
thơ Nguyễn Trãi trên hầu hết mọi phương diện như nội dung tư tưởng nghệ


thuật thơ văn và hướng tới xác định vị trí Nguyễn Trãi trong nền văn học dân
tộc cũng như những đóng góp sáng giá của ông vào tiến trình văn hóa toàn
nhân loại.
Để có thể phác họa được một cách khái quát toàn cảnh diện mạo tiến
trình nghiên cứu thơ văn Nguyễn Trãi vốn hết sức phong phú ở thế kỷ XX,
chúng tôi tiến hành hệ thống hóa lại các nguồn tài liệu, đồng thời theo sát cấu
trúc của công trình, sẽ phân tích theo 5 chủ điểm chính như sau: Quan điểm
văn học nghệ thuật; Văn chính luận; Thơ chữ Hán; Thơ chữ Nôm.; và cuối
cùng là vị trí Nguyễn Trãi trên tư cách “danh nhân văn hóa thế giới”.
1. Về quan điểm văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi.
Trên thực tế, Nguyễn Trãi không có những trước thuật tập trung bàn
riêng về văn học nghệ thuật. Những ý kiến thể hiện quan điểm văn học nghệ
thuật của ông chỉ có thể tìm thấy rải rác ở một số lời phát biểu, nhận định
ngắn gọn, thậm chí gián tiếp thông qua ghi chép ở các nguồn sách sử, các sử
gia và người đương thời. Song bù đắp lại, chính cuộc đời cùng toàn bộ các
sáng tác còn lại đã là minh chứng hùng hồn, thể hiện sáng rõ quan điểm văn
học nghệ thuật của Nguyễn Trãi.
Như đã nêu ở phần trên, chính những người đồng thời và các nhà trí
thức dưới thời phong kiến đã có công ghi chép và đánh giá khá sâu sắc về

cuộc đời sự nghiệp cũng như quan niệm của Nguyễn Trãi về văn nghệ.
Đương nhiên, từ lập trường chính thống của thời đại, họ không thể không
chịu sự chi phối của quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí”… Nhưng có
một điều chắc chắn là bản thân hiện tượng Nguyễn Trãi, cây đại thụ văn hóa,
anh hùng giải phóng dân tộc – với tư cách là đối tượng nghiên cứu, bình luận
– đã điều chỉnh trở lại cách đánh giá để các nhà nho cùng hướng về ý thức
cộng đồng dân tộc tinh thần nhân văn và tiến bộ xã hội. Chính vì lẽ đó mà
những ý kiến đánh giá của các thế hệ trí thức Nho giáo như Nguyên Mộng
Tuân, Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh
Tông, Trần Khắc Kiệm, Hà Nhiệm Đại, Đỗ Nghi, Tô Thế Huy, Ngô Thì Sĩ, Lê
Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Dương


Bá Cung, Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh, Cao Bá Quát, Tự Đức… vẫn có
ý nghĩa định hướng cho con người thế kỷ XX. Mặt khác, bản thân những “ý
đẹp lời hay” đó lại trở thành những cứ liệu lịch sử đảm bảo cho giá trị thơ văn
Nguyễn Trãi, trở thành tư liệu bổ trợ và đồng hành cùng di sản Nguyễn Trãi;
giúp cho chúng ta tìm hiểu quan điểm văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi
một cách có cơ sở.
Trong thời hiện đại, có thể nói hầu hết các công trình nghiên cứu về
Nguyễn Trãi đều đã xa gần đề cập đến vấn đề quan điểm văn học nghệ thuật
của ông. Tuy vậy, chỉ đến khi xuất hiện những khảo cứu chuyên sâu thì chúng
mới trở thành đối tượng chuyên biệt, thành sự tự ý thức trong quan niệm của
nhà nghiên cứu. Đặt trong giới hạn cụ thể, có thể coi Đinh Gia Khánh là một
trong số những người đi đầu chủ ý tìm hiểu quan điểm văn học nghệ thuật
của Nguyễn Trãi. Ngay vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi, Đinh Gia
Khánh xác định: “Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi là một ví dụ tiêu biểu về
mối quan hệ mật thiết giữa văn nghệ và đời sống… Văn của Nguyễn Trãi
thường phản ánh những vấn đề lớn của thời đại, những tình cảm chung,
những nguyện vọng chung của dân tộc” … Về sau này, trong một bộ giáo

trình lịch sử văn học, Đinh Gia Khánh có dịp hoàn chỉnh thêm nhận định:
“Nguyễn Trãi quan niệm rằng văn nghệ không thể tách rời những yêu cầu của
cuốc sống. Và ông để lại những ý kiến rất quý báu góp phần xây dựng một
nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ và khả năng của văn nghệ… Và có thể nói
rằng vai trò lớn của Nguyễn Trãi trong lịch sử văn học nghệ thuật nước ta
trước hết là ở những quan điểm của ông về ý nghĩa, tác dụng và nhiệm vụ
của văn nghệ đối với cuộc sống, đối với dân tộc, đối với nhân dân. Ông đã
đóng góp rất lớn vào kho tàng lý luận văn học nghệ thuật của dân tộc”. Tiếp
đó ông đã có một tiểu luận phân tích kỹ lưỡng, toàn diện quan điểm văn nghệ
của Nguyễn Trãi thông qua chính các sáng tác và khẳng định về ông “còn cần
được coi như nhà lý luận văn nghệ kiệt xuất của dân tộc”.


Ngoài Đinh Gia Khánh còn có nhiều nhà nghiên cứu khác tiếp tục tìm
hiểu sâu sắc quan điểm văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi, nổi bật có Trần
Huy Liệu, Nguyễn Thiên Thụ, Bùi Văn Nguyên…
Có thể nêu nhận xét chung rằng các tác giả đã thông qua cuộc đời và
văn nghiệp Nguyễn Trãi, thông qua cả các ý kiến của người xưa mà đi đến
việc xác định quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Theo dòng thời gian,
những quan điểm đó ngày càng được mô tả, khắc họa sâu sắc, rõ ràng, góp
phần quan trọng vào việc tổng kết thành tựu và truyền thống lý luận văn nghệ
của ông cha ta.
2. Về văn chính luận của Nguyễn Trãi: Quân trung từ mệnh tập và
Bình Ngô đại cáo
Xét về mặt văn bản, cho đến nay chúng ta được biết quân trung từ
mệnh tập có 65 văn kiện, trong đó có một “tờ tấu cầu phong”, một “tờ chiếu
khuyến dụ hào kiệt”, một “tờ tâu về việc tìm hỏi con cháu họ Trần” và bản
“Văn hội thề” (1427). Nhưng nói đến Quân trung từ mệnh tập là nói đến tập
văn luận chiến - đúng hơn là tập thư binh vận, ngoại giao – mà học giả Trần
Huy Liệu đã từng xác định: “Có thể nói phần lớn các tư tưởng triết học, chính

trị, quân sự của Nguyễn Trãi đã nói lên khá cụ thể trong Quân trung từ mệnh
tập”.
Kể từ khi văn bản Quân trung từ mệnh tập được phiên dịch và chính
thức hội nhập vào đời sống văn hóa – học thuật tác phẩm được khai thác
trước hết ở ý nghĩa lịch sử, giá trị nội dung gắn liền với từng bước phát triển
của cuộc khởi nghĩa chống quân Minh cho đến ngày toàn thắng. Điều này thể
hiện rõ nét trong cách Trần Huy Liệu phân loại các bức thư phản ánh từng
giai đoạn cụ thể của cuộc kháng chiến, xác định tầm nhìn chiến lược và chiến
thuật của Nguyễn Trãi hướng tới mục tiêu từng bước giành thế chủ động và
mục đích cuối cùng là giải phóng dân tộc. Tiếp theo đó, các ông Đỗ Văn Hỷ,
Bùi Văn Nguyên cũng nhấn mạnh tính chiến đấu, khai thác khía cạnh nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao, binh vận “vừa đánh vừa đàm”, khẳng định nội


dung tác phẩm cũng chính là âm hưởng hào hùng của cuộc chiến tranh của
nước.
Trong chiều hướng có phần được nâng cấp cao hơn, nhiều nhà nghiên
cứu đã tập trung khảo sát từ góc độ thể loại, bút pháp, phương pháp lập luận
và đặc trưng tư duy nghệ thuật của tác phẩm. Đinh Gia Khánh xác định các
lập luận của Nguyễn Trãi đều “noi theo nhân nghĩa”, từng bức thư cũng cho
thấy rõ “tính chất tinh vi của bút pháp” và đi đến khẳng định: “Quân trung từ
mệnh tập là một tác phẩm văn học chính luận… Văn chính luận đã có truyền
thống vững chắc trước Nguyễn Trãi. Nhưng Nguyễn Trãi là người đã đưa văn
chính luận đến một trình độ cao”. Bùi Duy Tân cũng xác định Nguyễn Trãi là
nhà văn chính luận kiệt xuất”, “ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho
những mục đích chính trị, xã hội”, “phản ánh một tinh thần dân tộc đã trưởng
thành” và định hình cái mới của yếu tố văn hóa, thể hiện lý tưởng chính trị xã
hội cao”, “phản ánh trình độ phát triển cao của văn chính luận dân tộc”. Tiếp
đó, Đặng Thị Hảo đi sâu tìm hiểu phương pháp lập luận của Nguyễn Trãi từ
các khía cạnh – “cái hình thức nghệ thuật”, kiểu kết cấu rất đúng quy phạm”

(với ba “loại” luận điểm cơ bản: nhấn mạnh các mệnh đề và khái niệm đạo
đức Nho giáo truyền thống; vận dụng hình ảnh để khẳng định chân lý khách
quan rút ra từ thực tế cuộc sống; vấn đề chữ “thời” được vận dụng vào thời
cuộc…). Đồng thời, Nguyễn Huệ Chi cũng xác định tác phẩm là đỉnh cao của
dòng văn học luận chiến ngoại giao chống xâm lược”, thể hiện “một kết cấu
chặt chẽ”, “tính hệ thống của toàn bộ các vấn đề”, “cách phân loại đối tượng
sát sóng” và “tư tưởng lôgic của tác giả” đã tạo nên khả năng thuyết phục và
tính hấp dẫn của tập thư… Như vậy, việc nghiên cứu Quân trung từ mệnh tập
đã đạt kết quả khả quan ngày càng nâng cấp phương hướng tiếp cận tác
phẩm, soi sáng các giá trị nội dung và nghệ thuật, đi từ ý nghĩa lịch sử đến
vấn đề thể loại, từ cái nhìn hiện thực đến các khía cạnh hình thức, cấu trúc và
chiều sâu phương thức tư duy nghệ thuật.
Cùng với Quân trung từ mệnh tập, giới nghiên cứu gần đây xếp Bình
Ngô đại cáo vào loại văn chính luận. Hiển nhiên Bình Ngô đại cáo là “một văn


kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử lớn”, “thiên cổ hùng văn”, “bản Tuyên ngôn
độc lập thứ hai”, “bản hùng ca lẫm liệt” và thuộc “một thể loại văn bản hành
chính của nhà nước quân chủ”… Do tính quy phạm của một tác phẩm thuộc
thể cáo cho nên các phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật thường ít có
điều kiện được triển khai. Hơn nữa, bản thân cách phiên dịch, cách hiểu,
cách giải thích chiều sâu từng câu chữ văn bản Bình Ngô đại cáo cho đến nay
vẫn chưa phải đã đến độ thấu đáo. Tuy nhiên; chính nhờ giá trị tự thân mà
Bình Ngô đại cáo cứ mãi tỏa hào quang, mãi cuốn hút các nhà nghiên cứu.
Có thể nói rằng, với một tác phẩm không dài, được viết bằng lối văn biền
ngẫu chữ Hán. (74 liên, 148 vế câu), Bình Ngô đại cáo đã có được sức vang
hưởng vô cùng rộng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn hóa
và nền văn hiến dân tộc. Vì lẽ đó mà tác phẩm được các thế hệ đón nhận,
ngợi ca, bình giảng sâu sắc và được giảng dạy rộng rãi trong nhà trường.
3. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi

Có một điểm cần giới thiệu ở đây là việc tìm hiểu các sáng tác thơ ca
của Nguyễn Trãi – bao gồm cả thơ chữ Hán và thơ Nôm - không phải bao giờ
cũng rành mạch, rạch ròi. Bởi thế, với những bài viết mang tính bao quát
chung thì chúng tôi căn cứ vào yếu tố tính trội, định hướng khái quát và số
lượng thơ ca được dẫn chứng để xếp vào bộ phận nghiên cứu thơ chữ Hán
hay thơ chữ Nôm.
Về sáng tác thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, giới nghiên cứu thường
xuyên quan tâm tới Ức Trai thi tập gồm 105 bài. Ngoài loạt bài khảo cứu, trao
đổi về văn bản học, nhiều vấn đề thuộc về nội dung Ức Trai thi tập đã được
tìm hiểu kỹ lưỡng. Chủ điểm nổi bật được đề cập ở đây chính là hình bóng
con người. Nguyễn Trãi, cảnh ngộ và niềm tâm sự sâu lắng trong hồn thơ
Nguyễn Trãi. Đi theo chiêu hướng này, Miễn Trai tìm hiểu “hai cảnh ngộ, một
tâm tình của Nguyễn Trãi”, Trương Chính khám phá “những vần thơ chất
nặng suy tư, Nguyễn Huệ Chi xác định chiều sâu “niềm thao thức lớn”, Đức
Mậu mở rộng tầm suy tưởng “hồn thơ Nguyễn Trãi”… Bùi Duy Tân hoành
tráng trong văn mạch “anh hùng và cảm quan anh hùng”… Một định hướng


nghiên cứu ít nhiều khác biệt hơn là đi sâu tìm hiểu tính hàm súc và tư tưởng
mỹ học của lối thơ chữ Hán, tính đa diện và bản sắc dân tộc của thơ Ức Trai
trong bối cảnh văn hóa Đại Việt và dòng thơ chữ Hán đời Trần… Đặt trong
tiến trình phát triển chung của thơ chữ Hán thời trung đại, rõ ràng Ức Trai thi
tập của Nguyễn Trãi thể hiện là tập thơ lớn, bộc lộ sâu sắc tình cảm, bản lĩnh
và nhân cách nhà thơ. Trên phương diện nội dung và chiều sâu triết lý, thơ
chữ Hán Nguyễn Trãi đã được tìm hiểu khá sâu sắc, toàn diện. Hơn nữa, bộ
phận thơ ca này cũng được xem xét trong tương quan với dòng thơ Nôm, gắn
bó chặt chẽ với sự nghiệp thơ văn và với chính cuộc đời Nguyễn Trãi. Việc
xem xét Ức Trai thi tập vừa tách biệt, vừa gắn bó với toàn bộ sáng tác của
Nguyễn Trãi cho phép hình dung về tác giả một cách hoàn chỉnh, sâu sắc và
cụ thể.

Chúng tôi cho rằng kết quả nghiên cứu tập thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi như trên mới chỉ là bước khởi đầu. Trong thời gian tới rất cần vận dụng
các phương pháp, thao tác nghiên cứu mới như thi pháp học, cái nhìn không
gian và thời gian nghệ thuật, ký hiệu học và ngôn ngữ văn bản… để có thể
nâng cấp trình độ nghiên cứu và tiếp nhận giá trị Ức Trai thi tập lên một tầm
cao mới.
4. Về thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi
Với Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ
lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm
đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Xem xét
giá trị tự thân cũng như vai trò, vị trí tập thơ trong toàn cảnh nền văn học
truyền thống, Quốc âm thi tập gợi mở nhiều phương hướng tiếp cận, nhiều
vấn đề lý thú về nội dung và nghệ thuật ngôn từ, về văn học và văn hóa, về
chính ý nghĩa tập thơ trong sự phát triển chung của ngôn ngữ dân tộc.
Khác với bộ phận thơ chữ Hán, Quốc âm thi tập là thơ Nôm, thơ tiếng
Việt. Vì lẽ đó mà lời thơ uyển chuyển, dung dị, gần gũi đời thường và gần với
nếp cảm nếp nghĩ dân tộc. Đây cũng là lý do khiến các thi nhân và giới nghiên
cứu cùng quan tâm viết bình giảng, bình thơ, cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi


chi tiết tới từng đề tài, từng bài thơ, thậm chí từng câu từng chữ. Đó là cả loạt
bài bình về mùa xuân, về mùa hè, về trăng, về hoa lá, về cây tùng, cây trúc,
cây chuối… Nói riêng về bài thơ Cây chuối cũng đã lôi cuốn nhiều tay thi bá
vào cuộc, đưa đến nhiều cách giảng, cách hiểu, cách mở rộng và khai thác đề
tài khác nhau như Xuân Diệu, Lê Trí Viễn, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Đình
Chú, Quang Huy, Nguyễn Thị Bích Hải, Phạm Tú Châu, Đoàn Thu Vân,
Nguyễn Phạm Hùng, v.v… có thể nói những bài bình của họ đã giúp bạn đọc
hiểu thêm vẻ đẹp và tính thẩm mỹ của thơ Nôm Nguyễn Trãi được thể hiện
thông qua những bài, những câu thơ cụ thể và sinh động bậc nhất.
So với thơ chữ Hán, tập thơ Nôm đại thành của Nguyễn Trãi có khả

năng thể hiện sâu sắc tâm hồn dân tộc, cảm quan về thiên nhiên, quê hương,
đất nước. Đây cũng chính là vấn đề nhạy cảm, dễ khơi gợi niềm yêu thương,
gắn bó cùng xứ sở, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đạt tới những
trang viết lắng sâu, ân nghĩa. Ngoài ra, nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc,
Nguyễn Trãi có thể bộc lộ các cung bậc tình cảm, các sắc thái trữ tình, thế
giới nội tâm và mọi nỗi ưu phiền một cách tự do, linh động hơn. Cảm nhận rõ
điều này, các nhà nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu những vấn đề về con
người cá nhân trong thơ, những đường biên giữa nhà tư tưởng và nhà nghệ
sĩ, tính chất đa dạng của hồn thơ và tình cảm vũ trụ với tâm hồn nhà thơ.
Bước đầu những quan niệm nghệ thuật về con người trong bối cảnh văn hóa
thời trung đại, cái nhìn tư duy về thể loại và ngay cả khả năng “vượt thời gian”
trong tư cách nhà nghệ sĩ. Nguyễn Trãi đều đã được đề cập và hứa hẹn mở
ra những chiều hướng nghiên cứu sâu sắc, mới mẻ.
Có thể nói thêm rằng, với Quốc âm thi tập, các vấn đề về ngôn ngữ, từ
loại, thể thơ, tiếng nói triết lý, tính bác học và dân gian, phong cách thơ và
đóng góp của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, việc chú giải câu chữ và phân
biệt thơ Nôm Nguyễn Trãi với thơ – Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
… đều đã được đề cập. Về điều này, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng đã có
chỉ dẫn cụ thể: “Về thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta nên quý trọng hơn nữa thơ


chữ Nôm, tiếng ta của Nguyễn Trãi, đó là vốn rất quý của văn học dân tộc.
Bình luận về thơ tưởng không bằng đọc một vài câu thơ:
Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu…
Thơ của Nguyễn Trãi hay là như vậy! Vườn văn học của nước nhà có
những hoa quả đẹp và thơm ngon, thế mà chúng ta hình như chưa thấy hết
giá trị; tiếng nói của chúng ta có cái giàu và đẹp của nó, phải biết yêu nó,
dùng nó, trau dồi nó, vì sao phải đi mượn đâu đâu”.
Nhìn chung, có thể nói Quốc âm thi tập đã được nghiên cứu khá toàn

diện, tương xứng với tầm vóc, giá trị và vị trí tác phẩm, trong tiến trình văn
học sử dân tộc.
5. Nguyễn Trãi trên tư cách danh nhân văn hóa thế giới
Mỗi danh nhân văn hóa thế giới trước hết và bao giờ cũng phải là danh
nhân của một dân tộc cụ thể.
Trên từng phương diện khác nhau, Nguyễn Trãi đều đã được đinh vị
bởi những cống hiến hết sức lớn lao đối với lịch sử văn hóa nước nhà. Trước
hết, ông là “người anh hùng của dân tộc”, “nhà văn và anh hùng dân tộc”,
“người trí thức từ tinh hoa của dân tộc”. Nhìn nhận một cách khái quát,
Nguyễn Trãi được xem xét trong “bối cảnh văn hóa Việt Nam” và “trên tiến
trình lịch sử văn hóa nước nhà”. Trong phạm vi văn học, Nguyễn Trãi được
tìm hiểu từ góc độ “nhà văn, nhà thơ vĩ đại, độc đáo”, “thể hiện được những
tình cảm” sâu sắc nhất của dân tộc”, “ảnh hưởng và địa vị trong văn học Việt
Nam” hướng tới xác định “vị trí của Nguyễn Trãi trong lịch sử văn học Việt
Nam”; đồng thời vai trò của ông trong quá trình phát triển lịch sử văn học
cũng được đặt trong mối liên hệ, so sánh với nhà thơ – danh nhân người Ý
Đantê (Dante Alighieri, 1265 -14.9.1821), người được Ăngghen đánh giá là
“nhân vật khổng lồ”, “nhà thơ cuối cùng của thời Trung cổ và nhà thơ đầu tiên
của thời đại mới” đã cho thấy vị trí khai sáng vô cùng lớn lao của Nguyễn Trãi
đối với lịch sử văn hóa văn học dân tộc.


Ngoài việc được giới thiệu, nghiên cứu rộng rãi ở nhiều nước, vị trí
Nguyễn Trãi còn được định vị bằng “thời đại Nguyễn Trãi” và đặt trong tương
quan trên bình diện quốc tế. Nhà nghiên cứu người Nga N.I. Nhiculin cảm
nhận sâu sắc “số phận Nguyễn Trãi thật tuyệt vời và bi thảm”, và nhận ra thơ
Nôm Nguyễn Trãi mang dấu ấn văn hóa khu vực rõ nét: “Thơ Nguyễn Trãi
bằng chữ Nôm có đặc điểm là tính cô đọng, sự không nói hết ý là lối ám dụ.
Những đặc điểm này cũng tiêu biểu cho thơ ca Viễn Đông nói chung”. Nhà
văn người Hung Tôđôri Đeduê cũng đồng cảm với Nguyễn Trãi “nhà thơ xa”

trong thời gian mà không ngăn cách trong không gian”. Đến ông Tổng Giám
đốc Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc cũng trân
trọng đánh giá Nguyễn Trãi là “sứ giả của dân tộc Việt Nam”, “thành viên kiệt
xuất của cộng đồng loài người”, và đi đến khẳng định: “Sáu trăm năm sau, nỗi
thao thức cạnh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi
thao thức canh cánh bên lòng của tất cả những người yêu công lý và nhân
đạo trên đời này”.
Trải qua sáu thế kỷ tiếp nhận, nghiên cứu và phát huy các mặt giá trị
tinh thần mà Nguyễn Trãi để lại, có thể nói các thế hệ đã nối tiếp tìm hiểu và
hoàn chỉnh dần chân dung người anh hùng – danh nhân văn hóa Nguyễn
Trãi. Ngay dưới thời phong kiến, vào các thế kỷ XV XIX, các nhà trí thức nho
sĩ đã nhận ra nỗi oan khiên, thấu hiểu tấm lòng Nguyễn Trãi và đày công sưu
tầm, biên soạn, chỉnh lý các tác phẩm của ông. Chính họ cũng là những
người nồng nhiệt biểu dương tài năng công đức và đóng góp lớn lao của ông
đối với lịch sử và văn hóa dân tộc. Bước sang thế kỷ XX, tác phẩm của
Nguyễn Trãi được phát hiện trở lại, được phiên dịch và nghiên cứu ngày càng
đầy đủ toàn diện hơn. Có thể khẳng định vào thập kỷ sáu mươi đã hình thành
cả một cao trào nghiên cứu Nguyễn Trãi, bao quát các vấn đề sưu tầm, phiên
dịch văn bản, đi sâu nghiên cứu các phương diện nội dung văn chính luận,
thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm. Tiếp đến năm 1980, vào dịp Nhà nước Việt Nam
và Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc kỷ niệm rộng
đi ở các nước nhân 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi (1380 - 1980) với tư cách
danh nhân văn hóa thế giới, thì các nhà hoạt động văn hóa lại có điều kiện


tập hợp đội ngũ và tìm hiểu sâu sắc thêm về Nguyễn Trãi. Vào khoảng thời
gian này, các vấn đề tiểu sử, sự nghiệp văn học, văn bản tác phẩm, nội dung
tư tưởng Nho giáo, tính nhân văn, ý thức dân tộc và nhiều phương diện khác
nữa đã được đề xuất và bàn bạc sôi nổi. Một điều đang chú ý khác nữa là tên
tuổi và tác phẩm Nguyễn Trãi được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế

giới, hấp dẫn nhiều bạn bè quốc tế cùng quan tâm tìm hiểu.
Đồng hành với thời đại Hồ Chí Minh và cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, tên tuổi người anh hùng văn hóa Nguyễn Trãi đã
vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hòa nhập vào tinh hoa giá trị văn hóa nhân
loại.
Nhìn lại toàn cảnh bức tranh nghiên cứu thơ văn Nguyễn Trãi qua sáu
thế kỷ, đặc biệt là những thành tựu trong thế kỷ XX, chúng ta có thể khẳng
định được vị trí vững chắc của Nguyễn Trãi trong nền văn hóa dân tộc và
toàn nhân loại. Song vẫn còn biết bao công việc cần phải tiếp tục như xác
minh và hệ thống hóa lại các nguồn tư liệu, phiên dịch và tiến tới xây dựng
một bộ “toàn tập Nguyễn Trãi” hoàn chỉnh hơn, nghiên cứu sâu sắc và toàn
diện hơn các phương diện nội dung và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Trãi. Đó
hẳn vẫn còn là vấn đề đang đặt ra trước thế kỷ XXI, gợi mở và hứa hẹn
những kết quả nghiên cứu thật sự khoa học, mới mẻ.
NGUYỄN HỮU SƠN

NIÊN BIỂU NGUYỄN TRÃI
1380

– Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh tại dinh quan Tư đồ Trần

(Canh Thân)

Nguyên Đán (1325 – 1390) ở Thăng Long, nay thuộc Hà
Nội…
– Cha: Nguyễn Ứng Long (tức nguyễn Phi Khanh), hiệu Nhị
Khê (1356 – 1429). Người làng Chi Ngại, huyện Phượng
Sơn; lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương); sau dời đến làng Ngọc Ổi, huyện Thượng Phúc, lộ



Đông Đô (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh
Hà Tây). Thi đỗ thái học sinh (tiến sĩ) đời Long Khánh thứ 2
nhà Trần (Gian Dần - 1374).
– Mẹ: Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán và là học trò
Nguyễn Phi Khanh.
– Quân Chiêm Thành sang đánh Thanh Hóa, Nghệ An.
(1381)

– Thi thái học sinh.

(Tân Dậu)
1382

– Quân Chiêm Thành sang đánh Thanh Hóa.

(Nhâm Tuất)
1383
(Quý Hợi)
1384

– Chế Bồng Nga sang đánh Quảng Oai. Vua Trần Phế Đế
bỏ chạy khỏi kinh đô Thăng Long.

– Thi thái học sinh.

(Giáp Tý)
1385

– Triều Minh sai sứ sang xin 20 nhà sư. Mùa thu, Trần


(Ất Sửu)

Nguyên Đán cáo quan về nghỉ ở Côn Sơn. Trần Thị Thái
qua đời, thọ 39 tuổi.
– Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.
– Anh hùng dân tộc Lê Lợi sinh (ngày 6 tháng tám âm lịch)

1387
(Đinh Mão)
1388
(Mậu Thìn)

– Thượng hoàng Trần Nghệ Tông giao Hồ Quý Ly (1336 –
107) chức Đồng bình chương sự.
– Hồ Quý Ly cùng Nghệ Tông mưu giết Phế Đế và đưa con
út Nghệ Tông là Ngung lên làm vua, tức Trần Thuận Tông.

1389

– Nguyễn Thanh, Nguyễn Ky khởi nghĩa ở Thanh Hóa; sư

(Kỷ Tỵ)

Phạm Sư Ôn nổi dậy ở vùng Quốc Oai - Hà Tây. Chế Bồng
Nga đánh ra Thanh Hóa. Hồ Quý Ly và quân nhà Trần rút
chạy.


1390


– Quân dân nhà Trần đánh quân Chiêm Thành ở sông

(Canh Ngọ)

Hoàng Giang (?). Chế Bồng Nga tử trận. Trần Nguyên Đán
mất, thọ 65 tuổi. Khoảng cuối đời ông có thơ cảnh báo nguy
cơ triều chính suy vi.

1392
(Nhâm Thân)

– Đại hạn. Triều đình cầu lời nói thẳng.
– Hồ Quý Ly soạn 14 thiên Minh đạo công kích Nho giáo và
dâng Nghệ Tông.

1393

– Thi thái học sinh…

(Quý Dậu)

– Thi tuyển quan lại.

1394
(Giáp Tuất)

– Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất vào tháng mười hai
âm lịch (tháng 1–1395).


1396

– Hồ Quý Ly soạn sách Thi nghĩa và viết bài tựa bằng chữ

(Bính Tý)

Nôm. Phát hành loại tiền giấy “Thông bảo hội sao” và định
phép thi tứ trường. Nâng cho chất lượng giới tăng lữ và
lệnh cho các sư chưa đến 50 tuổi phu hoàn tục.
– Hồ Quý Ly thi hành phép hạn điền.

1397
(Đinh Sửu)

– Trần Thuận Tông ra chiếu dụ về việc lập trường học và
chức Giáo thụ ở các phủ, lộ.
– Hồ Quý Ly ép Thuận Tông dời đô từ Thăng Long
về Thanh Hóa.

1398
(Mậu Dần)

– Hồ Quý Ly ép Thuận Tông ban bố chiếu truyền ngôi cho
Thái tử Án (tức Trần Thiếu Đế) để đi tu tiên.

1399

– Hồ Quý Ly buộc Thuận Tông ra ở quán Ngọc Thanh

(Kỷ Mão)


thuộc thôn Đạm Thủy (Đông Triều - Hải Dương, nay thuộc
tỉnh Quảng Ninh) và phải chịu chết.
– Nguyễn Nhữ Cái bạo động ở vùng sông Đà.

1400

– Hồ Quý Ly ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình, đặt

(Canh Thìn)

niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu. Ngay sau
đó lại nhường ngôi cứ con thứ là Hồ Hán Thương.


– Thi thái học sinh, Nguyễn Trãi đỗ cùng Lý Tử Tấn,
Nguyễn Mộng Tuân, v.v… cộng 20 người.
1401
(Tân Tỵ)

– Hồ Hán Thương ban hành chính sách hạn nô.
– Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, ra làm
quan với nhà Hồ, giữ chức Viện Hàn lâm kiêm Tư nghiệp
Quốc tử giám.
– Nguyễn Trãi được bổ dụng chức Ngự sử đài Chánh
chưởng.

1402

– Hồ Hạn Thương đem quân đánh Chiêm Thành, phong


(Nhâm Ngọ)

Nguyễn Vi làm Chiêu dụ sứ, Nguyễn Bằng Cử làm Đông
chiêu dụ sứ.

1405
(Ất Dậu)

– Sứ nhà Minh sang đòi đất Lộc Châu (Lạng Sơn). Nhà Hồ
nhượng 59 thôn ở Cổ Lậu cho vua Minh.
– Bộ Lễ thi cử nhân, lấy đỗ 170 người.
– Thi quan lại.
– Hồ Quý Ly biếm Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ
Thăng Hoa, lấy Phong quốc giám quả cán là Nguyễn Ngạn
Quang làm Tuyên phủ sứ kiêm Chế trí sứ trấn Tân Ninh.
– Hồ Quý Ly làm bài thơ Tứ Thăng Hoa lộ Tuyên phủ sứ
Nguyễn Ngạn Quang (Ban cho Nguyễn Ngạn Quang,
Tuyên phủ sứ lộ Thăng Hoa).
– Một người tên là Ông Kiều vì đem phổ biến bài thơ do Hồ
Quý Ly làm ra để răn dạy Hán Thương và Nguyên Trừng
mà bị giết….
– Hồ Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh đốc thúc đắp thành
Đa Bang (Hà Tây) chuẩn bị chống quân Minh.

1406

– Hàn Quan và Hoàng Trung chỉ huy 5.000 quân mượn

(Bính Tuất)


tiếng đưa Trần Thiêm Bình là con cháu nhà Trần về nước.
Quân nhà Hồ mai phục ở biên giới đánh tan đạo quân Minh,


giết Thiêm Bình.
– Mùa thu, nhà Minh chia các tướng Trương Phụ đánh qua
cửa ải Pha Lũy (Nam Quan), Chu Vinh qua ải Chi Lăng,
Mộc Thạnh đánh qua vùng biên ải Vân Nam.
1407

– Quân Minh chiếm Đông Đô, bắt được cha con Quý Ly và

(Đinh Hợi)

Hán Thương ở ghềnh Chẩy Chẩy, núi Thiên Cầm, cửa biển
Kỳ La (Hà Tĩnh), đổi nước ta làm quận Giao Chỉ và sáp
nhập vào lãnh thổ nhà Minh.
– Trương Phụ buộc Nguyễn Phi Khanh gọi Nguyễn Trãi ra
hàng và quân thúc tại thành Đông Quan.
– Nhà Minh tìm bắt người tài giỏi đưa về Kim Lăng, trong
đó có Nguyễn Phi Khanh.
– Trấn Quỹ, tức Giản Định Đế, con thú hai của Trần Nghệ
Tông, khởi nghĩa chống quân Minh, kéo quân đánh ra Đông
Đô nhưng thua trận phải rút vào Nghệ An.
– Tháng mười, Lê Cảnh Tuân (? – 1416) gửi cho bạn là Bùi
Bá Kỳ bức Vạn ngôn thư (Thư vạn lời), bị giặc Minh phát
hiện, phải trốn tránh.

1408

(Mậu Tý)

– Nghĩa quân Trần Quỹ thắng lớn ở Bô Cô (Ý Yên, Nam
Định).

1409

– Trần Quỹ nghe lời dèm pha nghi Quốc công Đặng Tất và

(Kỷ Sửu)

Tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân lộng quyền nên
tìm cách giết đi.
– Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị (con Đặng Tất và Nguyễn
Cảnh Chân) bỏ Trần Quỹ, đem quân từ Thuận Hóa ra
Thanh Hóa tôn Trần Quý Khoáng (cháu Nghệ Tông) lên làm
vua, đặt niên hiệu Trùng Quang. Một tháng sau, nghĩa quân
đón Trần Quỹ về tôn làm Thái thượng hoàng, thống nhất
lực lượng chống giặc.


×