Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Sự thích nghi văn hóa của người raglai trong bối cảnh đô thị hóa ở xã phước đại, huyện bác ái, tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.14 KB, 38 trang )

1
TÁC GIẢ: Nguyễn Thị Anh Thư (CN)
Trần Thị Châu Minh Hạnh Vũ Ngọc
Thanh Thảo Hoàng Minh Thảo Nguyễn
Lê Thanh Thuỷ

TÓM TẮT
Raglai là một dân tộc trong số 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, địa bàn cư trú
chủ yếu của tộc người này tập trung ở tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận, những vùng có khí hậu khắc
nghiệt, ít mưa thừa nắng khiến cho đời sống của bà con gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta
phải thừa nhận rằng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, quá trình đô thị hoá nhanh với việc xây dựng
các công trình giao thông, thủy lợi, định canh, định cư, quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa v.v...
đang đẩy nhanh tiến độ biến đổi toàn diện cả về hình thức lẫn nội dung văn hóa truyền thống. Với
hơn 85% dân số là đồng bào Raglai, Phước Đại, được coi là xã trung tâm, nơi tọa lạc của các trụ sở
hành chính huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận, đây cũng chính là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá
trình đô thị hóa.
Ctf cấu tổ chức xã hội
Sự thay đổi trước tiên có thể nhận thấy, đó chính là ở cơ cấu tổ chức xã hội
Xã hội Raglai chỉ đơn giản gồm nhiều Palay. Những già làng ở đây kể lại rằng ngày xưa
những gia đình có họ hàng với nhau như cô, dì , chú, bác, ông, bà....thì dựng nhả ở gần nhau, cách
nhau từ 3Om cho đến 45- 50m tạo thành một Palay.
Palay là đơn vị hành chính cao nhất. Trong mỗi Palay thì tính tự trị được thể hiện rõ nét, có
nghĩa là mọi hoạt động lớn nhỏ đều giải quyết trong phạm vi Palay. Palay chính là không gian xã hội
lớn nhất, là trung tâm sinh hoạt kinh tế, chính trị xã hội và văn hoá của một cộng đồng mang tính độc
lập. Trên Palay chưa thấy có tổ chức xã hội hay đơn vị hành chính nào cao hơn.
Ngày nay hầu như các Palay truyền thống của người Raglai đã không còn nữa mà họ đang
sống theo đơn vị hành chính hiện hành dưới huyện là xã, dưới xã là các thôn. Thôn là đơn vị hành
chính nhỏ nhất và là tập hợp của nhiều Palay trước đây.
Do chưa bao giờ hình thành một nhà nước tập trung để quản lý và điều hành xã hội nên qua
quá trình nghiên cứu và khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng, hình thức quản lý xã hội người Raglai
vẫn còn mang đậm nét truyền thống nhưng lại cũng thích nghi nhanh chóng với loại hình tổ chức và


quản lý xã hội hiện đại. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc có sự phối hợp giữa cách quản lý xã
hội theo luật pháp và theo luật tục.
Sự thích nghi trong đời sống văn hóa tỉnh thần
về tôn giáo, đồng bào Raglai ở xã Phước Đại hiện nay đa số thờ hình Bác Hồ, tín ngưỡng của
họ vẫn giữ được những nét truyền thống của tín ngưỡng đa thần nhưng chỉ tồn tại ở lớp người già
còn đã phai nhạt dần ở giới trẻ.
Lễ hội: Người Raglai ở Xã Phước Đại vốn dĩ có rất nhiều lễ hội, tuy nhiên do đời sống vẫn
còn nhiều khó khăn cùng với quá trình đô thị hóa nên nhiều lễ hội đã bị lược bỏ, hay đơn giản hóa.


2
Bên cạnh đó,người Raglai ở đây còn biết hợp tác với các cấp chính quyền. Ngày nay, trước
khi mỗi lễ hội diễn ra, họ đều báo cáo với chính quyền ở xã. Thêm vào đó, trong những buổi lễ hội,
đều có sự tham gia của cán bộ địa phương xã Phước Đại và huyện Bác Ái. Hay ngược lại, những lễ
hội nào mà do chính quyền đứng ra tổ chức, nhân dân Raglai xã Phước Đại đều tham dự rất đông.
Trong cuộc sống hàng ngày, một bộ phận người dân bước đầu làm quen và có nhu cầu theo
dõi thời sự, hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật phổ thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
như đài, tivi, và các phương tiện nghe nhìn khác như băng, đĩa, karaoke.
Có một điều tiến bộ mà chúng tôi nhận thấy rằng, cha mẹ người Raglai đều mong muốn con
cái của mình học hành đến nơi đến chốn. Nếu lúc trước, người Raglai có suy nghĩ là sinh con ra để
có thêm lao động làm rẫy, sau này lớn lên nuôi cha mẹ lại, thì ngày nay quan điểm đó đã thay đổi.
Họ đã quan tâm đến việc học hành của con cái hơn. Nhiều người đã nhận thấy rằng “Có nhiều cái
chữ trong bụng thì lòng dạ con người sáng ra sẽ làm được nhiều việc tốt có ích cho gia đình và xã
hội”
Cùng với sự tiến bộ trên, người Raglai đã thay đổi nhận thức về mặt sinh con. Theo truyền
thống,người Raglai quan niệm rằng: “con gái là để làm giống” là người duy trì và phát triển nòi giống
của gia đình, dòng họ,là người thừa kế sống với cha mẹ suốt đời và chăm sóc cha mẹ khi họ về già.
Thế nhưng đã có sự biến chuyển về mặt nhận thức. Gia đình người Raglai bây giờ chỉ sinh từ 2 đến
3 con dù gái hay trai. Đó là nhờ sự tuyên truyền thành công “kế hoạch hóa gia đình” của Đảng và
nhà nước.

Phụ nữ khá tích cực tham gia sinh hoạt Hội phụ nữ vì họ có cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau.
Ngoài ra, họ còn có cơ hội vay vốn bằng sự tín chấp của Hội. Chi hội phụ nữ ở thôn tổ chức họp mỗi
tháng một lần để thông báo tình hình hoạt động của hội và các thành viên trao đổi kinh nghiệm giúp
nhau làm kinh tế.
Một sổ giải pháp đề xuất:
Vai trò của già làng vẫn còn có những ảnh hưởng nhất định đối với bà con ở đây, vì vậy muốn
thực hiện việc quản lý tốt thì chính quyền, Đảng và Nhà nước cần phải vận động và coi già làng như
là một cánh tay trong vấn đề tuyên truyền, vận động, giải thích các chính sách...cũng cần phải có sự
hóa hợp giữ luật pháp và luật tục Raglai, phát huy những luật tục phù hợp với Pháp luật hiện hành và
từng bước tuyên truyền để bà con nhận ra sự không phù hợp của một số luật tục, hướng bà con sống
và làm việc không trái theo pháp luật, đảm bảo sự an toàn về mặt trật tự xã hội.
Cách tốt nhất để lưu giữ kho tàng văn hóa tinh thần đó là chữ viết. Khi đã có được hệ thống
chữ viết riêng thì việc chép lại sử thi, chuyện cổ dân gian, tục ngữ, thành ngữ của người Raglai đã
giảm bớt một phần sự khó khăn. Cũng tạo thuận lợi cho việc gìn giữ bảo tồn và kế truyền văn hóa
cho các thế hệ sau.
Thuyết phục bà con tin rằng kết hôn của những người gần gũi về huyết thống sẽ gây ra nhiều
hệ quả cho thế hệ con cháu như là giảm trí tuệ chậm phát triển bị dị dạng mắc một số bệnh về di
truyền mà thầy thuốc không thể chữa được.


3
Cần có những biện pháp nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh người Raglai, giảm tỉ lệ
học sinh bỏ học. Ngoài ra cũng tạo nhiều điều kiện cho phụ nữ tham gia vào nhiều hoạt động sinh
hoạt cộng đồng để họ bớt rụt rè, nhút nhát, tụ tin hơn khi tiếp xúc với người lạ và bớt phụ thuộc điều này là khá khó - vào người chồng. Và quan trọng hơn hết là khi khuyến khích chị em phụ nữ
Raglai tham gia vào các hoạt động xã hội thì sẽ nâng cao được nhận thức và hiểu biết về vai trò quan
trọng của chính chị em trong gia đình. Chính họ chứ không phải ai khác là người sẽ xây dựng gia
đình mình thành một gia đình có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Như thế họ cũng đã góp một phần
vào việc xây dựng cộng đồng ngày một tốt đẹp hơn.



4

DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân Raglai đã
sát cánh cùng các dân tộc anh em tham gia tích cực và có những đóng góp vô cùng to lớn vào thắng
lợi của cả nước. Vùng cư trú của tộc người Raglai là vùng khô nóng, khí hậu khắc nghiệt, ít mưa,
thừa nắng nên đời sống kinh tế của bà con còn gặp nhiều khó khăn. Neu chỉ nhìn về mặt hình thức
từ trang phục, nhà cửa, nương rẫy, làng bản v.v...rất dễ ngộ nhận rằng văn hóa truyền thống của tộc
người Raglai hoặc nghèo nàn, hoặc đã bị mai một, hòa tan với văn hóa dân tộc khác quá nhiều,
không còn gì để nghiên cứu. Nhưng qua thực hiện công trình này, chúng tôi thấy rằng, về chiều sâu
văn hóa, tộc người Raglai đang lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, là kho tư liệu
quý giá trong việc nghiên cứu rân hóa các tộc người trong nhóm ngôn ngữ Nam đảo nói riêng và
các tộc người Đông Nam Á nói chung. Có những giá trị văn hóa, về hình thức có thể biến thiên,
nhưng về chiều sâu nội dung thì tương đối bền vững.
Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận ràng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, quá trình đô
thị hoá nhanh với việc xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, định canh, định cư, quá trình
giao lưu, hội nhập văn hóa v.v... đang đẩy nhanh tiến độ biến đổi toàn diện cả về hình thức lẫn nội
dung văn hóa truyền thống. Đối với tộc người Raglai cũng vậy, những giá trị văn hóa được vun đắp
từ nghìn đời nay, tưởng chừng như bền vững nhất đang trong giai đoạn có tốc độ mai một nhanh
chóng nhất. Do đó, cần phải có những công trình nghiên cứu về sự thích nghi văn hóa của người
Raglai trong quá trình đô thị hóa, để có định hướng phát triển đúng đắn cho đồng bào Raglai, để họ
có thể hòa nhập mà không hòa tan, vẫn giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Phước Đại, được coi là xã trung tâm, nơi tọa lạc của các trụ sở hành chính huyện. Với hơn
85% dân số là đồng bào Raglai, đây cũng chính là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của quá trình
đô thị hóa. Vì vậy, việc tìm hiểu sự thích nghi về văn hóa của đồng bào Raglai xã Phước Đại không
chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn nhằm góp phần tìm hiểu thêm về văn hóa cộng
đồng Raglai. Đó là lý do và mục đích của đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử đề tài
Những nghiên cứu về dân tộc Raglai nói chung đã được thực hiện từ lâu, tài liệu sớm nhất

nói về dân tộc này là sách Đại Nam Nhất thống chí do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, sau
dần dần được bổ sung them trong các công trình nghiên cứu sau này. về vấn đề văn hóa của người
Raglai ở Việt Nam cũng đã được đề cập đến trong rất nhiều sách, báo, bài viết như Văn hóa và xã
hội của người Raglaỉ ở Việt Nam do Phím Xuân Biên chủ biên, Trang phục truyền thống của người
Raglaỉ do Hải Liên chủ biên,


5
Luật tục các dân tộc thiểu sổ Tây Nguyên của GS. TS Phan Đăng Nhật, ngoài ra còn có chương
trình nghiên cứu của PGS. TS Hoàng Văn Việt và GS.TS Toh Goda với đề tài Đô thị hóa và sự
biến đoi vãn hóa tộc người Raglaỉ ở Việt Nam... việc nghiên cứu văn hóa của người Raglai ở quy
mô xã Phước Đại mới chỉ dừng lại ở các bài báo cáo thực tập thực tế do sinh viên lớp úc, khoa
Đông Phương thực hiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu xác định đối tượng nghiên cứu là đồng bào dân tộc Raglai ở xã Phước Đại,
huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận chịu sự tác động của quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên trong phạm vi
bài viết chúng tôi không thể nói hết tất cả mọi mặt trong đời sống văn hóa của người Raglai mà chỉ
tập trung làm rõ những sự thích nghi trong văn hóa tồ chức xã hội và văn hóa tinh thần.
4. Nguồn tư liệu
Do đây là bài nghiên cứu về văn hóa nên nhóm nghiên cứu sẽ lấy lý luận về văn hóa làm
nền tảng.
Ngoài ra, nhóm còn dựa trên các tài liệu sách, báo, các công trình, bài viết... cũng như
những tư liệu nhóm có được thông qua quá trình nghiên cứu thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đặt trong điều kiện thực tế, nhóm thực hiện đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp xã hội học cụ thể là phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp thống kê, so
sánh phân tích các thông tin và các số liệu thu thập được... làm cơ sở cho bài nghiên cứu.
Phương pháp nhân học: khảo sát điền dã, quan sát và ghi chép.
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần dẫn luận và kết luận thì bài nghiên cứu còn bao gồm 4 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đô thị hóa và quá trình đô thị hóa ở xã Phước Đại
Chương 3: Sự thích nghi của người Raglai dưới tác động của quá trình đô thị
hóa.
Chương 4: Một số giải pháp đề xuất.
7. Đóng góp của đề tài
Trước hết đề tài sẽ chứng minh được mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và phát triển,
mối quan hệ cộng sinh giữa truyền thống và hiện đại.
Đề tài còn góp phần tìm hiểu thêm về văn hóa tổ chức xã hội và văn hóa tinh thần truyền
thống của cộng đồng người Raglai xã Phước Đại qua đó còn chứng minh những sự thích nghi của
cộng đồng người Raglai xã Phước Đại trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay. Đồng thời, đề tài nêu ra
những thực trạng và đề xuất một số hướng giải quyết nhằm đóng góp cho việc gìn giữ và bảo tồn
văn hóa của người Raglai.


6

CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm về văn hóa
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo thống kê của 2 nhà nhân loại
học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn năm 1952, có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn
hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Vì vậy mà các nhà khoa học còn xếp loại định nghĩa
văn hóa theo các tiêu chí khác nhau như định nghĩa miêu tả, định nghĩa lịch sử, định nghĩa chuẩn
mực, định nghĩa tâm lí học, định nghĩa cấu trúc và định nghĩa nguồn gốc.1
Trong Đại từ điển Tiếng Việt2, hai từ văn hóa cũng được hiểu theo sáu nghĩa khác nhau.
Theo định nghĩa đầu tiên thì văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra
trong lịch sử.
Năm 1997, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về văn
hóa:

Văn hóa là một hệ thống hữu CO’ các giá trị vật chất và tinh thần do con người




^9

^9





^9

sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội.3
Tuy nhiên, những giá trị là văn hóa nhưng văn hóa không nhất thiết phải là giá trị. Giả trị
là kết quả hoạt động do sức sảng tạo của con người tạo ra ở mức độ nghệ thuật cao. Như vậy, giá
trị này phải là những sản phẩm tinh túy và có 3 thuộc tính:
■ Ben vững
■ Phổ biến
■ Kế truyền
Vậy là lại nảy sinh ra quan niệm văn hóa là kết quả của những hoạt động vật chất và tinh
thần do con người sảng tạo ra.
Như vậy, hiện nay chưa có một định nghĩa hoàn thiện về văn hóa. Đây cũng là điều hiển
nhiên vì tùy từng góc nghiên cứu khác nhau mà các nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm riêng phục
vụ cho công việc nghiên cứu của mình. Các định nghĩa này không phủ định mà bổ sung cho nhau
giúp cho con người có cái nhìn đa dạng và sâu sắc hơn về văn hóa.


Dương Huệ Linh, Quá trình hình thành và sự thích nghi văn hóa của cộng đồng người Hoa ở Australia ngày nay,
Khóa luận tốt nghiệp 2008.
2 Nguyễn Như Ý Chủ biên, Đại tù điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa-Thông Tin 1998.
3 Trần Ngọc Thêm, 1999, Cơ sởvăn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục.
1


7
Tuy nhiên, để thực hiện bài nghiên cứu này, nhóm đã đi theo hướng phân chia văn hóa làm
hai loại đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó nhóm sẽ tập trung vào sự tác động
của quá trình đô thị hóa đến đời sống văn hóa tinh thần, tìm hiểu xem quá trình đô thị hóa đã có tác
động thế nào đến văn hóa tổ chức xã hội và đời sống tinh thần của cộng đồng Raglai.
1.2 Tộc người và văn hóa tộc người
1.2.1 Tộc người
Tộc người là một tập đoàn người ổn định hoặc tương đối ổn định được hình thành trong
lịch sử dựa trên những moi liên hệ chung về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hỏa và ỷ thức tự giác dân tộc
thể hiện bằng một tộc danh chung.4
Căn cứ vào định nghĩa này có 3 tiêu chí cơ bản để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác
đó là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác dân tộc.
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện để giao dịch, nhận thức và thông báo mà còn là phương
tiện để bảo vệ, bảo tồn và phát triển các hình thái, giá trị văn hóa vật chất và tinh thần quan trọng
nhất của một tộc người (ngay cả khi tộc người đó không có chữ viết).

Một tộc người hình thành và tồn tại trong lịch sử là một hiện tượng xã hội thì ý thức tộc
người là một yếu tố vô cùng quan trọng khi xác định một tộc người hay một nhóm người thuộc về
một tộc người nào đó.
Ý thức tự giác tộc người là ý thức tự coi mình thuộc về một dân tộc nhất định được thể hiện
trong hàng loạt các yếu tố: sử dụng một tên gọi tộc người chung thống nhất, có ý niệm chung về
nguồn gốc lịch sử, huyền thoại về tổ tiên và vận mệnh lịch sử tộc người. Ý thức đó được thể hiện
trong những đặc điểm văn hóa, cùng tuân thủ theo những phong tục, tập quán, lối sống của tộc

người. Ý thức tự giác tộc người trước hết thể hiện ở tên gọi( tộc danh). Tên gọi là một đặc tính của
dân tộc. Một tộc người được hình thành có nhu cầu tự đặt ra cho mình một tên gọi riêng. Tên gọi
đó biểu thị sự thống nhất giữa các thành viên trong cộng đồng mình và dân tộc khác.
Cùng với tên gọi, những người cùng một tộc nguời đều có ý thức về nguồn gốc lịch sử của
mình, chính vì thế, dù cư trú biệt lập và cách xa nhau, họ vẫn nhớ về lai lịch gốc của mình. Ý thức
tự giác tộc người còn thể hiện ở cộng đồng tinh thần tộc người, cộng đồng kí ức về nguồn gốc và
lịch sử của dân tộc qua huyền thoại và lịch sử.
1.2.2. Văn hóa tộc người
Văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tổ vãn hóa mang tính đặc trưng và đặc thù tộc người,
nó thực hiện chức năng cổ kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người khác. 5 Đối với
người Raglai thì văn hóa tộc người của họ gồm có:

4
5

Khoa Nhân học, Nhân học đại cương, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2008
Ngô Đức Thịnh, 2006, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.


8
■ ngôn ngữ mẹ đẻ, tiếng Raglai (thuộc ngữ lệ nam đả()
■ trang phục
■ các tín ngưỡng và nghi lễ(lễ bỏ mả là lễ lớn nhất của người Raglai, để từ biệt lần cuối người
quá cố, từ nay giữa người sống và người chết không còn vương vấn gì nữa)
■ vốn văn hóa dân gian truyền miệng thể hiện qua các câu chuyện cổ, các diệu muá,
hát...
■ tri thức dân gian về tự nhiên, xã hội, về bản thân con người và tri thức sản xuất,
khẩu vị ăn uống, tâm lí dân tộc.
Cũng cần phải phân biệt văn hóa tộc người và văn hóa của tộc người là tổng thể những
hiện tượng văn hỏa trong diện mạo hiện tại của tộc người đó không kể các yếu tố văn hóa đó cỏ

sắc thái tộc người hay trung tỉnh về tộc thuộc.6
Chẳng hạn như hiện tượng các tộc người thiểu số ở Việt Nam trong đó có nguời Raglai tiếp
thu văn hóa mặc của Châu Âu (áo sơ mi, quần tây), nấu các món ăn theo kiểu người Việt, xây cất
nhà cửa theo kiểu người Việt ( một số người không ở nhà sàn nữa mà xây nhà) , theo một số hình
thức tôn giáo như đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành...Đây chính là hiện tượng văn hóa của tộc
người nhưng không phải là bản sắc đặc trưng của tộc người nào.
1.3 Giao lưu văn hóa và thích nghi văn hóa
Một trong những thuộc tính của văn hóa là có thể “chia sẻ” , tức là có thể giao lưu, ảnh
hưởng, vay mượn qua lại từ cộng đồng người (dân tộc, quốc gia, khu vực...) này sang cộng đồng
người khác. Giao lưu, giao tiếp văn hóa nói tóm lại là quá trình các cộng đồng người “gặp nhau”
trên cơ sở đó, tiếp nhận ở nhau những giá trị văn hóa.
Giao : nghĩa là gặp nhau, có nhiều kiểu gặp
■ Trực tiếp: đó là hiện tượng các tộc người cùng cư trú xen cài trong một địa bàn
nhất định
■ Gián tiếp: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài phim ảnh mà
các tộc người bị ảnh hưởng văn hóa của nhau
Quá trình giao tiếp này cũng xảy ra trong một thời gian dài liên tục hoặc có những lúc bị
đứt đoạn do nhiều nhân tố khác nhau.
Tiếp: là tiếp nhận dưới nhiều dạng; tự nguyện hay cưỡng bức, vô thức hay hữu thức, thể
chất hay không thể chất ( thể chất tức là thừa nhận yếu tố văn hóa mới này sinh thuộc cơ cấu văn
hóa truyền thống của mình, tiếp thu ảnh hưởng mới làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân
tộc.

Truyền thống

6

Ngô Đức Thịnh, 2006, Vãn hóa, văn hóa tộ

Nam, NXB Khoa học Xã hội.



9

rp* Ấ 1 • Ẩ

T^v Ằ •

r •

Tiêp biên --------------------------- ► Đôi mới
Giao lưu, ảnh hưởng, vay mượn còn là một nhân tố quan trọng trong qui luật truyền thống
và đổi mới của rân hóa. Đó là: Truyền thống (tradition) - Tiếp biến ( tiếp nhận-biến đổi =
Acculturation) Đổi mới (Renovation). Theo qui luật này, để đổi mới truyền thống thì có thể thông
qua con đường phát triển nội tại, do tác nhân nội sinh tức là từ truyền thống rồi đổi mới.
Tuy nhiên, trong đa phần các trường hợp thì để cái truyền thống được đổi mới đều phải qua
khâu tiếp biến tức là tiếp xúc, giao lưu, ảnh hưởng, vay mượn. Do vậy, nếu nền văn hóa nào khép
kín, ít giao lưu thì nền văn hóa đó trì trệ, phát triển chậm chạp, thậm chí còn thoái hóa nữa. Như
vậy, giao lưu vừa là thuộc tính, vừa là qui luật của sự đổi mới và phát triển của văn hóa.
Thích nghi văn hóa chính là một dạng của giao tiếp rân hóa tự nguyện. Trong quá trình
tương tác với tự nhiên, con người và xã hội, một cộng đồng tộc người có thể có sự điều chỉnh nhất
định văn hóa của mình cho phù hợp với hoàn cảnh sống.
Thích nghi là làm quen dần, phù hợp với điều kiện mới nhờ sự biến đối, điều chỉnh nhất
định.
Suy rộng ra, thích nghi văn hóa là sự biến đối, điều chỉnh nhất định trong việc sáng tạo ra
và tích lũy các giá trị vật chất và tỉnh thần của con người qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn hóa tộc người Raglai cũng không thể đi chệch qui luật giao tiếp, thích nghi văn hóa.
Cho dù hiện nay trong khu vực xã Phước Đại, người Raglai chiếm đa số (hơn 90%) thì sự ảnh
hưởng văn hóa của các dân tộc khác không phải là nhân tố, điều kiện chính làm cho người Raglai

phải điều chỉnh văn hóa của mình cho phù hợp. Nhân tố quyết định ở đây là tiến trình đô thị hóa
đang diễn ra từng ngày từng giờ ở trung tâm huyện Bác Ái, là xã Phước Đại. Đô thị hóa chỉ tương
thích với những xã hội tương đối phát triển, nó làm thay đổi toàn bộ lối sống, nếp sống, con người
sống cộng cư với nhau. Bản thân người Raglai lại chưa trải qua chế độ nhà nước, sống du canh du
cư, với nền kinh tế tự cấp tự túc thì để thích nghi với môi trường mới lại đòi hỏi một quá trình lâu
dài.

1.4 Người Raglai ở xã Phước Đại
Raglai là tộc người thuộc ngữ hệ Malayo-Polinedi của Việt Nam. Ngoài tên là Raglai nghĩa
là người miền núi, đồng bào còn có các tên gọi hoặc cách viết tên khác như: Rangglai, Rai ....

Các tài liệu khoa học đã chứng minh được họ đã có mặt và sinh sông từ cách đây rất lâu
trên các vùng núi cao tại các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, trong đó


10
tập trung đông đảo nhất ở tỉnh Ninh Thuận, huyện Bác Ái. Người Raglai ở xã Phước Đại chiếm
85% dân số toàn xã với những đặc điểm chung như sau:
Người Raglai ở xã Phước Đại như đồng bào mình ở các làng xã khác cũng sinh sống thành
từng làng (Palay). Làng vừa là đơn vị cư trú, vừa là đơn vị tổ chức xã hội truyền thống của đồng
bào. Người có địa vị cao nhất trong làng gọi là già làng (popalay). Tầng lớp thầy cúng gọi là Bijâu,
đã hình thành trong xã hội truyền thống của người Raglai. Bijâu có thể là nam hoặc nữ. Họ là những
người chữa bệnh cho dân làng bằng ma thuật, kết hợp với một vài kinh nghiệm y học dân gian và
các loại dược thảo có sẵn tại địa phương.
Bà con Raglai ở xã Phước Đại cuộc sống chủ yếu dựa vào nương rẫy. Họ trồng lúa, bắp,
khoai sắn trên những rẫy xa dưới chân núi.
Cũng như người Churu, người Raglai tính theo dòng họ nữ và người con gái có quyền thừa
kế tài sản của bố mẹ mình, theo luật tục cổ truyền.
Người Raglai ở xã Phước Đại có các dòng họ như Chameléa (họ máu), Pi Năng (cây cau),
Ka tơr (bobo), Pa-tâu, Kaya, Pơ-pyer .... Mỗi dòng họ hay mỗi chi của dòng họ có một sự tích, một

truyền thuyết riêng về nguồn gốc dòng họ của mình.
Dân tộc Raglai ở xã Phước Đại, huyện Bác Ái cũng có những nét chung như đồng bào của
họ đang sinh sống ở nhiều nơi trên đất nước. Tuy nhiên họ vẫn có những nét riêng do khoảng cách
địa lý, do điều kiện cư trú và đặc biệt, người Raglai ở xã Phước Đại được sự chăm lo của Đảng và
Nhà nước nên cuộc sống của đồng bào nơi đây đã được cải thiện rất nhiều.
Có thể nói không có đồng bào Raglai thì không có huyện Bác Ái anh hùng, cũng không có
một xã Phước Đại thay da đổi thịt như ngày nay. Nói như vậy không phải vì con số hơn 95% dân
số của huyện cũng như 85% dân số của xã là người Raglai mà còn vì những đóng góp to lớn của
đồng bào trong suốt những cuộc chiến tranh gian khổ chống hết giặc xâm lăng này đến đế quốc nọ.
Chưa có tài liệu khoa học nào cho biết chính xác người Raglai ở đây từ khi nào, nhưng có thể chắc
chắn rằng họ là những lớp cư dân sinh sống tại vùng núi trùng điệp của huyện Bác Ái ngày nay từ
rất lâu đời. Nếu như trong những cuộc kháng chiến gian nan, đồng bào Raglai ăn cơm Đảng, làm
theo lời Bác và đã hi sinh biết bao xương máu quyết giữ đất, giữ buôn làng thì khi hòa bình lập lại,
bà con lại tiếp tục chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt: nắng thì nắng quắt nắng queo, mưa thì
mưa xối mưa xả gây ra lũ lụt lớn.
Cuộc sống còn nhiều khó khăn là vậy, nhưng đồng bào Raglai ở Phước Đại, Bác Ái vẫn
lưu giữ được kho tàng văn hóa rất phong phú, đa dạng. Nó bao gồm những tri thức y học dân gian,
truyện cổ, dân ca, các phong tục tập quán tín ngưỡng cùng với những nhạc cụ nổi tiếng như Mã La,
đàn Cha-py, đàn đá, khèn bầu .... Thời gian trôi qua cùng với sự phát triển, đổi mới không ngừng
của thôn xã, có những lễ hội, tập tục đã


11
không còn như tục ngủ thảo, lễ ăn Đầu lúa mới ... nhưng những gì thuộc về nguồn cội vẫn được
trân trọng giữ gìn.
CHƯƠNG 2
ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở XÃ PHƯỚC ĐẠI
2.1 Khái niệm đô thị hóa
Một trong các khuynh hướng định cư lâu đời của loài người là đô thị hoá. Quá trình đô thị
hoá ra đời vào lúc nền canh tác nông nghiệp đã ở trình độ khá cao như đã có thuỷ lợi, thảnh lập kho

tàng lưu trữ và phân bố lương thực... tức là vào khoảng 2.000 năm trước công nguyên. Các khu vực
đô thị lúc đầu thường mọc lên ở dọc bờ sông thuận tiện giao thông, nguồn nước. Sự hình thành các
đô thị gia tăng mạnh mẽ nhờ các tiến bộ về công nghiệp của thế kỷ trước và hiện nay. Các đô thị là
thị trường lao động rộng lớn của dân cư có mức sống cao với điều kiện giao thông và dịch vụ thuận
lợi.
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị (chuyển từ lối sống phân tán sang lối
sống tập trung). Đồng thời đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông
nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị
mở rộng. Đô thị hóa với những đặc điểm cụ thể sau đây:
s Hình thành và mở rộng qui mô đô thị với hạ tầng kỹ thuật hiện đại dẫn đến sự chuyển
biến kinh tế từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch
vụ.
■S Tăng nhanh dân số đô thị trong tổng số dân cư, dẫn đến thay đổi cơ cấu giai cấp,
phân tầng xã hội.
■S Chuyển từ lối sống phân tán ( mật độ dân cư thấp) sang lối sống tập trung (mật độ
dân cư cao)
s Chuyển từ lối sống nôngnghiệpsang lối sống đô thị, từ văn hóa làng xã
sang văn hóa đô thị, từ văn minh
nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Đây là đặc trưng phản ánh đặc tính văn hóa-xã hội của môi trường đô thị. Lối sổng
là một trong những đặc trưng căn bản để phân biệt xã hội nông thôn với xã hội đô
thị.
Đô thị hóa nông thôn:
“Đô thị hóa nông thôn được hiểu là quá trình tổ chức lại sự phân bố dân cư và những yếu
tố vật chất, làm chuyển hóa những khuôn mẫu của đời sống xã hội, phổ biến đời sống
đô
thị tới các vùng nông thônvà toànxã hội” (Thành Đức, Sự biến đổi văn hóa
trong quá trình đô thị hóa ở bốn xã vùng ven thị xã Vĩnh Long, LVTS VH, 2006, tr. 18)
2.2 Đô thị hóa ở xã Phước Đại
Như đã trình bày ở trên, quá trình đô thị hóa diễn ra ở những khu vực thuận lợi về mọi mặt

cho sự phát triển đời sống, kinh tế...Là một quá trình chuyển biến phức tạp, đòi hỏi có thời gian.
Trong quá trình đô thị hóa đòi hỏi con người phải thay đổi, chuyển động theo sự thay đổi, chuyển
động của nó. Điều này có nghĩa là nơi nào có hiện tượng đô thị


12
hóa thì nơi ấy đòi hỏi một lối sống khác, một cách ứng xử văn hóa khác. Với vị trí của xã Phước
Đại và những điều kiện hiện nay của xã thì chưa thể gọi đây là 1 quá trình đô thị hóa. Nhưng với
những sự thay đỗi đó đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế của đồng bào Raglai từ đó dẫn đến
sự thay đổi trong văn hóa tinh thần để tồn tại và thích ứng.

Xã Phước Đại nằm ở trung tâm huyện Bác Ái, nơi tọa lạc các đơn vị hành chính của huyện.
Chính vì vậy, từ khi huyện Bác Ái được tái thành lập cuối năm 2000 thì bộ mặt của xã cũng thay
da đổi thịt, cơ sở hạ tầng và điều kiện phát triển thuận lợi hơn các xã khác của huyện. Năm 2006,
Phước Đại là xã duy nhất trong huyện được xếp loại thoát khỏi chương trình 135 giai đoạn 2, với
lý do chủ yếu là xã đã được đầu tư đầy đủ cơ sở hạ tầng điện đường trường trạm, có chợ trung tâm
của huyện.Phước Đại sẽ trở thành thị trấn trong tương lai.
(Theo báo cáo tong hợp theo dõi đói nghèo của 2 xã Phước Đại, Phước Thành, huyện Bác
Ái, tỉnh Ninh Thuận )
Đất đai:
Diện tích đất tự nhiên của xã là 5,774 ha, chiếm 5.6% diện tích đất của huyện, trong đó có
832 ha đất Nông nghiệp, 4333 ha đất Lâm nghiệp.7
Dân tộc và dân sổ:
Theo thống kê của xã năm 2007,dân số của xã là 3,188 người, 631 hộ gia đình, trong đó
dân tộc Raglai chiếm 82% số hộ, còn lại là dân tộc Kinh. Tỉ lệ đồng bào Raglai chiếm đến 82% dân
số chính vì vậy sự thay đổi phát triển của xã đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống đồng bào Raglai.
Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ:
S Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông của xã khá tốt.
Khoảng cách từ trung tâm xã tới trạm y tế, trường học, chợ,., không vượt quá 1 km. Các

tuyến đường chính đã được trải nhựa. Xã có đài phát thanh, có phòng thông tin...

Hệ thống kênh mương của hồ Song sắt đang được xây dựng - đây là niềm hy vọng lớn nhất
của người dân, từ đó sẽ có điều kiện sản xuất ổn định và áp dụng KHKT (làm lúa 2 vụ, làm bắp
lai...) và khai hoang thêm diện tích canh tác.
98% hộ sử dụng điện lưới quốc gia. Xã chỉ còn 10% hộ gia đình sống trong nhả tạm (trong
khi đó những xã khác con số thấp nhất là 18%).8

Báo cáo tổng hợp theo dõi đói nghèo của 2 xã Phước Đại, Phước Thành, huyện Bác Ái,
tỉnh Ninh Thuận, tr.4
7


13
■S Các dịch vụ xã hội Giảo dục
Sự cải thiện về giáo dục trẻ em là điểm sáng của công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Bác Ái,
xét về khía cạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Hiện nay, ở xã đã có trường
mẫu giáo, trường tiểu học và trường PTCS. Học sinh đi học đều được hỗ trợ học phí và đồ dùng
học tập.
Trẻ em ngày càng thích đi học hơn vì trường học đã khang trang hơn, sách vở sẵn có hơn;
mặt khác các thầy cô giáo cùng với cán bộ thôn và Hội Phụ nữ thường xuyên tới nhà vận động trẻ
đi học, nhiều khi phát cả bánh kẹo để “dụ” trẻ đến trường.
Dịch vụ y tế
Các thôn đều có trạm y tế thôn làm công tác tuyên truyền, vận động bà con. Bác Ái là huyện
miền núi vùng cao (khu vực 3) nên thẻ Bảo hiểm Y tế được phát miễn phí cho 100% người dân. Xã
Phước đại là trung tâm huyện nên trang thiết bị y tế cũng như nguồn nhân lực cũng tốt hơn. Người
dân được hưởng dịch vụ tốt hơn. Đa số đồng bào Raglai được phỏng vấn đều cho rằng dịch vụ y tế
đã tốt hơn. Lý do chính là y bác sĩ tại các trạm xá nhiệt tình hơn, chuyên môn giỏi hơn và khi đau
bệnh, thuốc men tại trạm cũng đầy đủ hơn.
Sự thay đỗi về Ctf cấu kỉnh tế

•S Nông nghiệp
Nông nghiệp vẫn là ngành nghề chính của trên 90% thành viên hộ gia đình thuộc diện điều
tra.
Nguồn thu nhập của người dân Raglai đã có thay đổi theo hướng đa dạng hóa. Một số người
đã được tập huấn và áp dụng các kỹ thuật thâm canh vào trồng lúa nước, bắp lai, bông, điều và chăn
nuôi bò, dê.
■S Yiệc làm phi nông nghiệp tăng
Thời gian qua, một loạt các công trình về giao thông, nhà cửa, thủy lợi, đặc biệt là hồ Song
Sắt được xây dựng trên địa bàn đã tạo một khối lượng lớn việc làm thuê ngắn hạn cho người dân
và trở thành một nguồn thu nhập đáng kể của nhiều hộ gia đình nghèo (phụ hồ, vác đá, đổ nhựa
đường... tiền công 20-45.000 đồng/ngày tùy công việc). Phước Đại có khoảng 200 người đi làm
công trình, có khi 1 tuần, có khi 1 -3 tháng, “hết việc lại về làm rẫy”.

Báo cáo tổng hợp theo dõi đói nghèo của 2 xã Phước Đại, Phước Thành, huyện Bác Ái,
tỉnh Ninh Thuận, tr.4
8


14
Điều kiện đường sá, thông tin liên lạc tốt hơn khiến cho xu hướng dịch chuyển lao động đi
làm công, làm thuê ra ngoài xã đang tăng lên trong nhổm nam thanh niên: Đi gần sang xã khác
trong huyện, sang huyện khác như Ninh Sơn làm dưa, làm mì cao sản, chăn bò thuê...; hoặc đi xa
đến tỉnh khác như đi Đắc Lắc, Lâm Đồng làm cà phê, làm cỏ vườn...

Thời gian qua, số lượng hàng quán tại chỗ đã tăng lên đáng kể. Riêng thôn Tà Lú 1 đã có
trên 15 quán. Quán vừa là nơi thu mua các sản phẩm của người dân, từ đậu, bắp, khoai mì, đào cho
đến cây ăn trái, bò, gà vịt, gùi thậm chí cả phân bò... Quán cũng là nơi bán đủ loại tạp hoá như bột
ngọt, mì ăn liền, cá khô, quần áo...
Khi đường xá tốt hơn và điều kiện kinh tế hộ đã được cải thiện, người dân trong xã, đặc
biệt là đồng bào Raglai có cơ hội tiếp cận với nhiều kênh mua bán hơn, như nhóm buôn bán rong

và chợ huyện, chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào mua bán (chịu) với hàng quán tại chỗ bị thiệt
thòi nhiều như trước. Tập quán mua bán của bà con địa phương đã được cải thiện “bán không chỉ
theo ca, lon như trước nữa mà dân đã biết bán theo cân, lợi hơn”, “đã biết hỏi giá chợ, giá bán rong
được hơn thì bán”.
2.3 Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến đời sống đồng bào Raglai
Xã Phước Đại là xã có thương mại, dịch vụ phát triển nhất ở Huyện Bác Ái. Cùng với sự
đầu tư cơ sở hạ tầng, đường xá, và các dịch vụ xã hội khác...(như đã kể trên) đã làm cho cuộc sống
đồng bào Raglai có những thay đổi đáng kể. Đồng bào tiếp cận với buôn bán, dịch vụ, tập quán
mua bán thay đổi, biết bán theo cân lấy tiền. Đời sống kinh tế của người dân được cải thiện, điều
kiện đi lại, tiếp xúc với thông tin đại chúng...dễ dàng hơn...

Những cán bộ huyện, xã cũng có sự tham gia của đồng bào Raglai như đồng chí Chủ tịch
xã Pinăng Phước, cô Chamalea Bich Phanh..., trưởng thôn, già làng là đồng bào Raglai. Chính vì
vậy qua các cuộc họp thôn, họp làng ý thức của đồng bào càng được nâng cao.
Chính những thay đổi đó dẫn đến việc thay đổi để thích nghi trong đời sống của người
Raglai ở cả khía cạnh vật chất cũng như tinh thần.


15

CHƯƠNG 3
CỘNG ĐỒNG RAGLAI THÍCH NGHI VỚI QUÁ TRÌNH
ĐỒ THỊ HÓA
Sự thay đổi trước tiên có thể nhận thấy, đó chính là ở cơ cấu tổ chức xã hội
3.1 Thích nghi trong văn hóa tỗ chức xã hội
3.1.1 Mô hình tổ chức xã hội truyền thống
Tổ chức xã hội là một thiết chế xã hội do con người tạo ra để duy trì sự ổn định cuả xã hội.
Theo thời gian thì thiết chế này cũng thay đổi và có những bước phát triển mới.

Trong xã hội người Raglai cũng vậy, tổ chức xã hội từ khi chưa có ánh sáng của Đảng và

lúc hiện đại có sự khác biệt rõ rệt. Trong phạm vi phần này, nhóm sẽ nghiên cứu về tổ chức xã hội
truyền thống của người Raglai tại xã Phước Đại, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận.
Việc nghiên cứu cách thức tổ chức xã hội của người Raglai là một điều rất khó khăn do
trong một thời gian dài, cộng đồng Raglai đã chịu sự tác động to lớn của các cuộc chiến tranh ác
liệt khiến cho họ bị phân tán và tổ chức xã hội truyền thống gần như bị xáo trộn hoàn toàn.Theo
nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó, thì so với người láng giềng Chăm đã hình thành nhà
nước để tổ chức và quản lý xã hội, cộng đồng Raglai vẫn được tổ chức theo hình thức xã hội nguyên
thủy. Xã hội chưa hình thành các giai cấp, các quan hệ xã hội dựa trên nguyên tắc bình đẳng công
bằng. Mọi chuyện trong cộng đồng được giải quyết dựa theo luật tục - một quy chế gồm những
điều kiêng cự cấm kỵ do các thành viên trong xã hội đề ra.
Theo tất cả các công trình nghiên cứu về tộc người Raglai, thì đều thống nhất quan điểm
cho rằng Palay là đơn vị cư trú truyền thống, một thiết chế xã hội cơ bản của xã hội cổ truyền người
Raglai. Điều này cũng tương tự đối với cộng đồng Raglai ở xã Phước Đại.

XÃ HỘI
RAGLAI


16

Palay
Palay trước hết là môt thuật ngữ để chỉ địa bàn cư trú mà thường dịch ra tiếng Việt có
nghĩa là làng, xóm. Nhóm chúng tôi cũng đã thăm hỏi về ý nghĩa của Palay thì rất ít người biết
nên không có cơ sở chính xác để kết luận, chỉ biết từ này xuất phát từ cách gọi của các dân tộc ít
người ở Tây Nguyên như Bana, Chăm, Ê-Đê...., họ đều gọi làng, xóm là Palay.
Xã hội Raglai chỉ đơn giản gồm nhiều Palay. Những già làng ở đây kể lại rằng ngày xưa
những gia đình có họ hàng với nhau như cô, dì , chú, bác, ông, bà....thì dựng nhả ở gần nhau, cách
nhau từ 3 Om cho đến 45- 50m tạo thảnh một Palay.
Palay là đơn vị hành chính cao nhất. Trong mỗi Palay thì tính tự trị được thể hiện rõ nét,
có nghĩa là mọi hoạt động lớn nhỏ đều giải quyết trong phạm vi Palay. Palay chính là không gian

xã hội lớn nhất, là trung tâm sinh hoạt kinh tế, chính trị xã hội và văn hoá của một cộng đồng mang
tính độc lập. Trên Palay chưa thấy có tổ chức xã hội hay đơn vị hành chính nào cao hơn.
Cff cấu tỗ chức
Qua những lời kể của các già làng như Pinăng Khánh (72t, già làng thôn Ma Hoa), Chamalé
Liệu ( 67t, Đảng viên, già làng của thôn Tà Lú 1); hay trưởng thôn Tà Lú 3..., chúng tôi được biết
vào thời xưa, cũng giống như đa phần cộng đồng người Raglai ,thì người Raglai ở xã Phước Đại
sống tập trung trên các ngọn núi, và lập thành một Palay và thường thì những người có chung
“huyết thống” sẽ sống chung với nhau. Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh từ huyết thống vì đây là yếu tố
quan trọng quyết định việc hình thành một Palay. Bởi trong một Palay chỉ được gồm những gia
đình thuộc một dòng họ, tức là dòng họ theo “ mẫu hệ” (phần sau). Cho nên không nhất thiết phải
đông gia đình mà có khi chỉ bốn gia đình cũng lập thành một Palay. Những Palay này ngăn cách
bằng các đặc điểm tự nhiên những con sông, con suối, quả đồi thậm chí có thể là gốc
cây.v.v...Người ta thường đặc tên cho các Palay này theo địa bàn cư trú, theo tên tuổi con sông,
theo núi; hoặc sự tích liên quan đến lịch sử hình thành Palay. Ví dụ: Palay MaTy, Palay Tá Lú...


17
Lãnh thổ mỗi Palay rất rộng, thường chiếm cả một vùng gồm nhiều ngọn núi, cũng
có làng chỉ chiếm một quả núi, thậm chí có làng chỉ chiếm một phần núi tuỳ theo từng
vùng từng nơi. Từ Palay này đến Palay khác thường cách khá xa, gần nhất cũng phải 5
đến 10 km, có nơi các Palay cách nhau cả một ngày đường đi bộ.
Khu dân cư thường thường được bố trí tuỳ theo địa hình, có khi nhà ở được bố trí
ở trên núi, có nơi lại ở lưng chừng núi, cũng có các Palay nằm ở lưng chừng núi hay các
thung lũng.
Trên lý thuyết, đứng đầu những Palay là Po-Palay. Po-Palay phải là người có “Po
wát”, tức là người có tài năng, uy tín, được nhiều người kính trọng, là người nói được
làm được, thường là người có công khai phá đất đầu tiên hoặc là người có nhiều tài sản
nhất hay dũng cảm nhất, thậm chí đó có thể là thầy cúng, (theo lời cô Mấu Thị Bích
Phanh- cựu phó chủ tịch UBND huyện Bác Ái). Các Po-Palay giải quyết các vấn đề dựa
vào luật tục.

Vỉ dụ: nếu người chồng bỏ vợ thì phải đền cho gia đình vợ số trâu, bò tương
đương với số con của mình (vỉ dụ: 2 người con- 2 con trâu, ............... )........
Đứng đầu

PO-PALAY

PALAY

Ngoài Po-Palay, còn có một người gọi là Po-Chưq (chủ núi) là người thông thuộc ranh giới
của đất đai thuộc phạm vi mình quản lý trong đó có ruộng, nương rẫy thuộc sở hữu gia đình, sở
hữu dòng họ, sở hữu cộng đồng. Phạm vi quản lý của Po Chưq thường trùng khớp với địa giới của
Palay nhưng cũng có trường hợp gồm nhiều Palay.
Một nhân vật khác cũng được nhắc tới trong tổ chức quản lý xã hội truyền thống của cộng
đồng người Raglai đó là Po Charanã (chủ xử việc) là người chủ trì các cuộc Peq Charanã (phân xử
sự việc) lớn nhỏ trong Palay. Đây là người am hiểu sâu sắc phong tục tập quán, nắm rõ những điều
kiêng cữ, cấm kỵ của dân tộc mình và quan trọng hơn là người có cuộc sống mẫu mực, có đạo đức
và là người có uy tín trong một Palay.
Bijâu : hay còn gọi là thầy cúng, ông là người chăm lo việc thờ cúng, nghi lễ trong
làng.
Như vậy có thể thấy qua chức danh và chức trách thì việc quản lý xã hội cộng đồng người
Raglai cũng đã có sự phân công, bổ nhiệm theo từng công việc.
3.1.2 Tỗ chức xã hội trong sự thích nghi với đời sống mới.
a, Hệ thống quản lý xã hội có sự tham gia của con người dân tộc
Quá trình đô thị hóa đã có một tác động mạnh mẽ tổ chức quyền lực của xã hội người Raglai
ở xã Phước Đại. Từ khi chuyển từ vùng núi xuống sống tập trung thành trong một địa bàn. Mô hình
tổ chức xã hội truyền thống đã từng bước bị thay thế bởi cơ


18
cấu mới. Ngày nay hầu như các Palay truyền thống của người Raglai đã không còn nữa mà họ đang

sống theo đơn vị hành chính hiện hành dưới huyện là xã, dưới xã là các thôn. Thôn là đơn vị hành
chính nhỏ nhất và là tập hợp của nhiều Palay trước đây.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hệ thống quản lý xã hội Việt Nam hiện nay là : Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo- Nhà nước thực thi công việc quản lý và người dân tham gia thông
qua các tổ chức chính trị-xã hội và các tổ chức quản lý quần chúng.
Có thể nói mô hình cơ cấu này đã thay thế hoàn toàn tổ chức cũ, sở dĩ như vậy là hiện nay
bà con người Raglai không còn sống rải rác trong rừng hay trên núi nữa mà đã tập trung trong một
địa bàn nhất định, hơn nữa hiện nay họ sống trong một đất nước đa dân tôc nhưng thống nhất dưới
sự lãnh đạo của một Đảng, vì vậy điều dĩ nhiên là một bộ máy hành chính hoàn thiện sẽ thay thế
hoàn toàn cơ cấu tổ chức xã hội cũ. Toàn xã Phước Đại hiện có 5 thôn : Tà Lú l,Tà Lú 2, Tà Lú 3,
Ma hoa và Châu Đắc. Đảng ủy là tổ chức chính trị đứng đầu các xã ngày nay. Đảng bộ xã có nhiệm
vụ:
• Đề ra chủ trương nhiệm vụ chính trị của Đảng và thực hiện có hiệu quả.
• Lãnh đạo chính quyền nhằm thực hiện tốt tất cả các lĩnh vực: kinh tế, quốc
phòng, an ninh, rân hoá, giáo dục ..........
• Lãnh đạo nhân dân tập trung thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội....
Mặc dù đây là mô hình hoàn toàn theo người Việt, tuy nhiên không vì thế mà người Việt
nắm vai trò cốt cán trong bộ máy chính quyền mà tất cả các bí thư chi bộ ở xã Phước Đại qua các
thời kì đều là người Raglai. Như vậy, không những thể hiện sự bình đẳng dân tộc mà còn là biện
pháp để giúp cho việc đi sâu sát vào đời sống của bà con được thực hiện tốt hơn.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân trong xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân của xã và cơ
quan huyện Bác Ái. Các đại biểu trong Hội đồng nhân dân xã là người Raglai chiếm 95%, giống
như Hội đồng nhân dân cấp Huyện, Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng là quyết định và giám
sát.
ủy ban nhân dân: có nhiệm vụ quản lý toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức và thực hiện những
nghị quyết và quyết định của Hội đồng nhân dân. Chủ tịch ủy ban nhân dân xã Phước Đại hiện nay
là đồng chí Pinăng Phước, là một người con của dân tộc Raglai.
Các tổ chức chính trị xã hội khác như hội phụ nữ, hội nông dân... cùng cộng tác với Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân nhằm thực hiện việc quản lý được tốt hơn. Các tổ chức chính

trị xã hội được tổ chức theo giới, độ tuổi hay nghề nghiệp, hoạt động trực tiếp dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Hiện nay, những người tham gia lãnh đạo các tổ chức này đều là người Raglai, điển hình
như chủ tịch hội phụ nữ xã là cô Ka Dá Thị Lính...

Hỗ trợ cho công việc của ủy ban nhân dân là các trưởng thôn- là những cá thể tình nguyện
tham gia vào bộ máy hành chính Nhà nước theo sự ủy thác của quần chúng nhân


19
dân. Bên cạnh trưởng thôn còn có phó thôn và già làng. Có thể xem đây là hình thức gần gũi nhất
của xã hội truyền thống Raglai. Theo khảo sát, trưởng thôn là người có vai trò rất quan trọng đối
với người dân nói chung và người nghèo nói riêng, để được cung cấp và xử lý thong tin. Hầu hết
các việc cho vay tiền ngân hang, mua hàng trợ giá- trợ cước, nuôi bò rẽ của định canh định cư...đều
do trưởng thôn làm giúp. Ngoài trưởng thôn, khi đi đến các thôn tìm hiểu thong tin chúng tôi cũng
được người dân chỉ đến nhà của các già làng, tất cả chúng tôi đều thấy một sự phấn khởi khi tìm
đến, và xem xem liệu già làng ngày nay có khác gì so với những Po-Palay của truyền thống không.
Già làng là người được tất cả các thành viên trong làng chọn trong số những người đàn ông
cao tuổi và được nể trọng nhất làng (ở thôn Tà Lú 1, già làng là ông Chamalé Liệu, 67 tuổi,....).
Trong xã hội truyền thống, già làng là người quyết định mọi công việc trong làng, ông phải là người
có kinh nghiệm sản xuất, hiểu biết về lịch sử, phong tục của làng và dân tộc mình. Già làng còn là
người hướng dẫn dân trong làng tổ chức sản xuất và đời sống. Nhưng trong xã hội ngày nay, già
làng không phải là nhân vật chủ chốt, quyết định mọi công việc trong làng của mình, ông chỉ là
người tham vấn cho thôn, xã, cùng họ quản lý, điều hành các công việc trong phạm vi địa bàn của
mình. Tuy nhiên, già làng ngày nay vẫn phải là người hiểu biết sâu rộng về phong tục tập quán, là
người có kinh nghiệm trong việc thờ cúng, tổ chức nghi lễ cưới, ma chay...Bên cạnh đó, già làng
bằng uy tín của mình luôn hỗ trợ thôn để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, xích mích trong
làng cũng như các công việc như tuyên truyền các đường lối chính sách của Đảng vào đời sống
nhân dân, góp phần đưa đồng bào dân tộc Raglai có đời sống tốt đẹp hơn, hiện đại hơn nhưng vẫn
giữ được bản sắc của mình.
Có nghĩa là, dù cho có bộ máy chính quyền, không còn nữa những palay mà thay bằng các

thôn, thì người Raglai vẫn giữ cho mình những nét truyền thống, tuy nhiên để thích nghi thì cả
truyền thống và hiện đại đều có những sự điều chỉnh cho phù hợp. Chính quyền đã có những thay
đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, cụ thể là phần lớn người Raglai nắm giữ những chức vụ trong
bộ máy chính quyền, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm tăng cường
sự tham gia của cấp cơ sở và người dân, như các qui chế và phân cấp, dân chủ cơ sở, giám sát cộng
đồng... không những thế thì vai trò của già làng vẫn còn rất quan trọng dù không phải là người nắm
vị trí tối cao nữa.
b, Cơ chế điều hành có sự phổi hợp giũa truyền thống và hiện đại
Do chưa bao giờ hình thành một nhà nước tập trung để quản lý và điều hành xã hội nên qua
quá trình nghiên cứu và khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng, hình thức quản lý xã hội người Raglai
vẫn còn mang đậm nét truyền thống nhưng lại cũng thích nghi nhanh chóng với loại hình tổ chức
và quản lý xã hội hiện đại. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc có sự phối hợp giữa cách quản
lý xã hội theo luật pháp và theo luật tục.
Luật tục của người Raglai: người Raglai có riêng cho mình những luật tục: đó là những
điều kiêng cự, cấm kỵ được ông bà tổ tiên đề ra và truyền cho các thế hệ sau này, là cơ sở để giữ
vững chuẩn mực đạo đức, tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Luật tục Raglai bắt đầu từ
những lời răn dạy trở nên có hiệu lực cao hơn bằng các quy


20
ước chặt chẽ với các hình thức phạt phân minh. Ví dụ, trong quan hệ gia đình thì tội loạn luân bị
cho là nặng nhất....
Luật tục Raglai đã có bề dày lịch sử và có ảnh hưởng sâu sắc đến cộng đồng người Raglai.
Không thể tránh khỏi những luật tục mang tính rườm rà, lỗi thời nhưng nó cũng đã từng đóng vai
trò quan trọng trong việc quản lý xã hội cộng đồng người Raglai. Hiện nay, hệ thống quản lý nhà
nước xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập từ Trung ương đến các cấp địa phương, tất cả đều hoạt
động theo hiến pháp và pháp luật hiện hành. Đối với những người Raglai hiện nay, đơn vị cơ sở
của xã hội là Palay và việc quản lý điều hành theo Palay là không còn nữa, cũng không còn những
chức danh chủ làng, chủ núi, chủ xử việc như xưa nhưng dân làng vẫn còn tuân giữ và tôn trọng
các luật tục, những người am hiểu về luật tục vẫn rất được bà con tín nhiệm, bầu lên để đảm trách

các công việc của cộng đồng.
Một thực tế xảy ra là, bà con Raglai mặc dù sống dưới chế độ quản lý của Đảng và Nhà
nước, vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc. Hầu hết các sự việc xảy ra đều được giải quyết theo
luật tục, ví dụ như các vụ xích mích xảy ra giữa hai gia đình thường không phải nhờ đến sự can
thiệp của luật pháp mà chỉ đưa ra phân xử theo luật tục, và kết quả phân xử đều được người dân
đồng ý và chấp hành theo đúng quy định của luật tục. Đi đến tìm hiểu thực tế, chúng tôi vẫn còn
thấy được tính hiệu lực của luật tục trong đời sống bà con Raglai. Lấy ví dụ trong hôn nhân gia
đình, khi luật pháp quy định độ tuổi kết hôn nữ từ 18, nam từ 20 nhưng theo luật tục thì nam nữ ở
độ tuổi từ 14 trở lên đã có thể kết hôn, điều này là trái với pháp luật hiện hành nhưng vẫn xảy ra,
các gia đình vẫn cho con kết hôn sớm không cần đăng ký kết hôn.... Khi được hỏi các đôi vợ chồng
này đều nói độ tuổi của mình đều ở trong độ tuổi được phép kết hôn. Trong địa bàn xã có rất nhiều
trường hợp như vậy.
Qua thời gian và qua quá trình sang lọc, những luật tục dần loại bỏ cũng như tự điều chỉnh
để thích nghi với luật pháp của chế độ chính trị hiện đại.Không phủ nhận vai trò luật tục, chính
quyền đặc biệt là chính quyền cấp xã cần phải có những biện pháp nhằm vận dụng luật tục một
cách khéo léo, phù hợp xen vào cùng pháp luật để thực hiện việc quản lý có hiệu quả hơn. Điều này
cũng đang được tiến hành từng bước. Trong đợt khảo sát, chúng tôi cũng đã nghe nói tới có nhiều
trường hợp chính quyền cơ sở đã ủy thác cho người được dân làng tín nhiệm đứng ra chủ trì các
cuộc phân xử sự việc theo luật tục nhưng không hề trái với pháp luật.
Với chủ trương xây dựng, thực hiện đời sống văn hóa cơ sở, các làng văn hóa được hình
thành, chủ trương vận dụng luật tục truyền thống vào việc xây dựng quy ước làng văn hóa được
tiến hành và đã nhận được sự đồng tình ủng hộ từ phía bà con. Đây không chỉ là một việc làm thể
hiện tinh thần kế thừa những điều hay, tích cực trong văn hóa dân gian mà còn là việc làm góp phần
chứng minh cho chính sách bình đẳng dân tộc, đường lối chấn hưng văn hóa dân tộc trước tình hình
mới.
Sự phát triển của đất nước nói chung và của tỉnh Ninh Thuận nói riêng đã dẫn đến sự thay
đổi trong bộ mặt đời sống tinh thần của người dân trong đó có cả bà con người


21

Raglai. Trong phạm vi của bài nghiên cứu, chúng tôi xin trình bày một số nét tiêu biểu trong sụ
thích nghi về văn hóa tinh thần.
3.2 Sự thích nghỉ trong đời sống văn hóa tỉnh thần
3.2.1 Tín ngưỡng và tôn giáo
Khái niệm về tín ngưỡng:
Theo Giáo su Đặng Nghiêm Vạn (trong quyển Lý luận về Tôn giáo và tình hình Tôn giáo
ở Việt Nam, trang 87, 88): “Ở nuớc ta, thuật ngũ tín nguỡng có thể có hai nghĩa. Khi ta nói tụ do
tín nguỡng, nguời ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung {belief, believe, croayance) hay
niềm tin tôn giáo {belief believe, croayance religieuse). Nếu hiểu tín nguỡng là niềm tin thì có một
phần ở ngoài tôn giáo; nếu hiểu là niềm tin tôn giáo {belief believe theo nghĩa hẹp, croyance
religieuse) thì tín nguỡng là một bộ phận cấu thảnh chủ yếu nhất của tôn giáo”.
Nhu vậy, ta thấy tín nguỡng, tin tuởng nguỡng mộ, hay là niềm tin, là điều kiện cần phải
có, là điều kiện tiên quyết để cho tôn giáo mở rộng và tồn tại, hay cũng có nghĩa tôn giáo muốn mở
rộng tồn tại, phải cứu cánh ở tín nguỡng9
Khái niệm về tôn giáo:
Tôn giáo bao gồm một hệ thống niềm tin, tin vào các lục luợng siêu nhiên, vô hình, các bậc
thần thánh, mang tính thiêng liêng, đuợc chấp nhận một cách tụ giác, tác động qua lại một cách siêu
thục, nhằm lý giải những vấn đề nơi trần thế cũng nhu ở thế giới khác. Niềm tin đó đuợc biểu hiện
đa dạng, theo từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý, môi truờng văn hóa và phụ thuộc vào từng tôn
giáo, vận hành bằng những lễ nghi, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội,
tôn giáo khác nhau.
Mỗi tôn giáo đuợc cấu thành và tồn tại từ 4 yếu tố:
Giáo chủ - Thiên chúa giáo thì giáo chủ là chúa trời. Hồi giáo thì giáo, giáo chủ là thánh
Allah. Phật giáo thì giáo chủ là Thích Ca Mâu Ni. Đạo giáo thì giáo chủ là Lão - Trang
Giáo lý - Các kinh sách giải thích về sang thế, các kinh sách về giới luật, hành đạo.
Giáo hội - tổ chức các tín đồ theo đạo. Đây là yếu tố niềm tin, điều kiện để duy trì, mở rộng
tôn giáo.
Giáo đường - Nơi tôn thờ thần tuợng, nơi giảng kinh thuyết pháp của mỗi tôn
giáo.
Trong 4 yếu tố trên đây, thì yếu tố niềm tin có ý nghĩa quyết định, để tôn giáo tốn tại và mở

rộng.
Tôn giáo cửa người Raglai xã Phước Đại'.
Điều đặc biệt ở đây là toàn bộ nguời Raglai không theo một loại tôn giáo nào cả . Có rất
nhiều lý do để giải thích hiện tuợng này.

9

Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.


22
Thứ nhất, đã theo một tôn giáo, như đã trình bày ở trên, thì phải tuân thủ đầy đủ 4 yếu tố
giáo chủ, giáo hội, giáo lí, giáo đường. Tuy nhiên, trong điều kiện lo “cái ăn, cái mặc” còn chưa
xong như hiện nay thì theo đuổi một tôn giáo quả là gần như không tưởng.

Thứ hai, đối với một dân tộc không có chữ viết, trình độ dân trí thấp ( chỉ có một số ít người
tốt nghiệp đại học) thì việc học và hiểu giáo lý phức tạp của một tôn giáo nào đó cũng là cả một
vấn đề khó khăn.
Thứ ba, việc người Raglai xã Phước Đại không theo đạo Phật hay Bà la môn của người
Chăm theo ý kiến của chú Pinăng Thuyên, cán bộ phòng văn hóa thông tin là do trước đây, giữa
người Chăm và người Raglai có mối hiềm khích với nhau. Vua Chăm hay các chúa đất người Chăm
thường bắt người Chăm phải cống nạp cho họ. Do mâu thuẫn này nên sự truyền bá tôn giáo của
người Chăm và người Raglai không diễn ra.
Thứ tư, người Raglai ở xã Phước Đại nói riêng và ở Bác Ái nói chung đã đi theo cách mạng
từ rất sớm .Theo chú Liệu chủ tịch Hội Cựu Chiến binh xã là từ thời kháng Nhật, trong họ đã hình
thành một niềm tin vào Đảng, Bác Hồ. Họ không cần sự cứu rỗi của tôn giáo nữa. Theo họ, nhờ ơn
Đảng, Bác Hồ và sự hy sinh của cha ông mình trong kháng chiến chống Nhật, Pháp, Mỹ mà họ có
cuộc sống hòa bình như ngày nay. Vì vậy, ngày nay, nhiều gia đình Raglai đã thờ Đảng và Bác Hồ.
Tín ngưỡng của người Raglai
Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người, đặc biệt đối

với những loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và cũng là loại hình văn hóa chủ đạo ở khu vực Đông
Nam Á. Người Raglai là một trong các tộc người gốc Nam Đảo ở Việt Nam, cơ tầng văn hóa của
họ chi phối bởi văn hóa Đông Nam Á, do đó tín ngưỡng bản địa của người Raglai là tín ngưỡng đa
thần hay còn gọi là tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”, nghĩa là muôn loài, mọi vật quanh họ đều có
linh hồn, có thần linh là Yàc cai quản. Do đó, trong xã hội truyền thống, người Raglai thờ rất nhiều
thần: thần núi (Yang chớ), thần rừng (Yang gla giai), thần lúa (Yang Paday) v.v...
Như đã nói ở trên, văn hóa của người Raglai cũng bị chi phối bởi văn hóa Đông Nam Á.
Mặt khác, khu vực Đông Nam Á là một trong những cái nôi của nghề trồng lúa nước nên người
dân nơi đây thường có tư duy tổng hợp. Đặc điểm này dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng đa thần.
Thêm vào đó, ruộng nước biểu trưng cho âm tính. Do đó cư dân khu vực trồng lúa nước rất trọng
nữ, tôn thờ nữ thần và thờ mẫu (đạo mẫu).
Vỉ thế, người Raglai vẫn duy trì được chế độ mẫu hệ. Đây là một trong những rường cột cơ
bản để gìn giữ, níu kéo được văn hoá dân tộc truyền thống Raglai. Hiện nay, người Raglai xã Phước
Đại vẫn giữ được những phong tục gắn với chế độ mẫu hệ như trong hôn nhân gia đình (tục cưới
chồng, ở rể, con theo họ mẹ), trong quyền thừa kế (con gái út được quyền thừa kế).
Tuy nhiên, ngày nay tín ngưỡng đa thần chỉ còn đậm nét ở lớp người già nhưng đã phai nhạt
dần ở lớp người trẻ. Lòng tin và sự thờ cúng các vị thần đã giảm đi.


23
3.2.2 Lễ hội
Trải qua quá trình lịch sử, văn hóa của người Raglai chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hóa
của các dân tộc cận cư, cộng cư như Việt, Chăm, Chu ru... Trước đây, một số nhả nghiên cứu văn
hóa Raglai nhận định rằng, văn hóa cổ truyền Raglai đã mất mát nhiều và chịu ảnh hưởng nặng
của văn hóa của người Việt, người Chăm, nhất là hình thức thể hiện như trang phục, nhà cửa,
công cụ lao động, nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực...
Tuy nhiên, cộng đồng người Raglai xã Phước Đại cũng đã xây dựng cho riêng mình một
không gian văn hoá đậm nét riêng biệt với những nghi thức và tập tục đặc trưng, và qua các hoạt
động văn hoá truyền thống này, phần nào phác hoạ được đời sống tinh thần của cư dân nơi đây.
Vì vậy cần phải nghiên cứu lễ hội để có những bước phát triển đúng đắn trước sự tác động của

quá trình đô thị hóa.
Phần lễ và phần hội
Cũng như các dân tộc khác, lễ hội của người Raglai ở xã Phước Đại cũng bao gồm phần
lễ và phần hội.
về nghi lễ: Mỗi nghi lễ đều phải có một số lễ vật nhất định. Thường lễ vật bắt buộc chung
cho các lễ hội là phải có thịt gà, thịt heo và rượu. Ngoài ra còn có các nông sản như cua, cơm,
canh v.v... Các đồ đạc được bày ra trên nhà sàn để tế thần linh.
Là cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, tín ngưỡng dân gian của người Raglai là tín ngưỡng
đa thần. Người Raglai ở xã Phước Đại cũng tin rằng có rất nhiều thần linh ngự ở khắp mọi nơi:
thần núi, thần suối, thần sông, thần mặt trời, thần mưa, thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp...
mặc dù các yàng đều vô hình nhưng luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Raglai, ban
cho mùa màng tươi tốt, cho con người khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã
tụ tập về thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ cho con cháu làm ăn. Vỉ vậy, trong các lễ hội của
người Raglai ở đây không thể nào thiếu các nghi lễ để cúng tổ tiên và thần linh.
Lễ còn là sự đánh dấu một sự kiện trong năm, ơn trả nghĩa đền đối với tổ tiên, đối với các
yàng đã nhớ lời cầu khẩn trong lễ cúng năm trước mà ban cho được mùa, trước khi hưởng thụ
thành quả lao động. Lễ hội còn là dịp để bà con trong dòng tộc nội, ngoại ở các nơi tụ hội về gặp
mặt, thăm hỏi nhau. Mâu thuẫn trong gia tộc nếu có cũng được hòa giải từ các cần hút cắm chung
trong một ché rượu cần cúng tổ tiên.
Trong lễ hội của người Raglaiở xã này, việc ăn chỉ đóng vai trò phụ, uống rượu cần là
chính, do vậy ở các lễ hội như lễ ăn lúa mới, đám tang, lễ bỏ mả họ làm ít nhất trên 30 ché rượu
cần.
Chủ lễ của người Raglai là các thầy cúng (Bijau). Xưa kia, làng nào cũng có thầy cúng.
Những năm sau 1975, với việc hạn chế cúng lễ, cho đó là mê tín dị đoan, nhiều thầy cúng được
vận động bỏ nghề. Điều đáng nói là ngày nay, sau mấy chục năm vận động, hình thức, quy mô
các lễ hội có giảm, nhưng niềm tin của bà con Raglai vào thần linh (yàng) vẫn không thay đổi. VI
vậy họ vẫn duy trì các lễ nghi nông nghiệp truyền thống. Chỉ có lễ cúng chữa bệnh là giảm hẳn,
thỉnh thoảng mới có thầy cúng hành nghề một cách lén lút. Để làm thầy cúng phải học thuộc các
bài khấn, tế truyền miệng và các nghi thức, động tác cúng.



24
Phần hội: Sau khi các thầy cúng làm xong các nghi lễ cúng kính, đội mã la bắt đầu múa
vòng tròn và đánh trống, chiêng và mã la. Dẩn đầu là người đánh trống lớn, ăn mặc chỉnh tề từ
ngoài sân đi vào nhà, theo sau là 7 nhạc công mã la (bộ mã la Raglai được coi như một gia đình
mẫu hệ, mã la mẹ và các mã la con gái: mã la con cả, mã la con giữa, mã la con thứ, mã la con út).
Họ vừa nhảy múa vừa đánh hàng trăm điệu mã la. Mọi người mời nhau uống rượu cần trong không
khí vui vẻ. Nhiều thanh niên mang theo các nhạc cụ của mình như kèn môi, khèn bầu và tâm sự với
nhau bằng các âm thanh nhạc cụ và các làn điệu hát giao duyên rất phong phú như các điệu: manhi,
hari, sari, mayeng, kathơng, doh dăm da ra... Mọi người uống rượu cần, đánh mã la, nhảy múa suốt
đêm... Như vậy có thể nói phần hội vẫn còn được bảo tồn cho đến ngày nay.
Người Raglai ở Xã Phước Đại vốn dĩ có rất nhiều lễ hội, tuy nhiên do đời sống vẫn còn
nhiều khó khăn cùng với quá trình đô thị hóa nên nhiều lễ hội đã bị lược bỏ, hay đơn giản hóa.
Bên cạnh đó,người Raglai ở đây rất biết hợp tác với các cấp chính quyền. Ngày nay, trước
khi mỗi lễ hội diễn ra, người Raglai đều báo cáo với các cấp chính quyền ở xã Phước Đại. Thêm
vào đó, trong những buổi lễ hội, đều có sự tham gia của cán bộ địa phương xã Phước Đại và huyện
Bác Ái. Hay ngược lại, những lễ hội nào mà do chính quyền đứng ra tổ chức, nhân dân Raglai xã
Phước Đại đều tham dự rất đông.
Sau đây là một ví dụ điển hình về lễ hội người Raglai ở xã Phước Đại.
Lễ tuần mả
Lễ tuần mả thực chất là lệ củng mang ý nghĩa tiễn biệt mãi mãi, người còn sống sẽ quên
hẳn người chết và để lỉnh hồn của người chết có chỗ định cư ổn định, khỏi đi lang thang nay chỗ
này mai chỗ khác , vỉ họ đã được siêu thoát, về veri tổ tiên, ông bà của dòng họ.
Nghi lễ tiễn biệt người chết này có nhiều tên gọi khác nhau.
Thứ nhất: lễ tuần mả: “tuần” có nghĩa là thời gian tiến hành nghi lễ trong một tuần.
Thứ hai: lễ bỏ mả: “bỏ” có nghĩa là đoạn tuyệt với linh hồn người chết.
Thứ ba: lễ từng mả: “từng” đó chỉ là do cách phát âm của địa phương mà chữ “tuần” lại
được đọc trại thành chữ “từng”.
Lễ tuần mả xuất hiện như một nghi thức để người sống đoạn tuyệt và từ nay họ sẽ an tâm
hơn đối với linh hồn người chết. Sau khi làm xong lễ tuần mả, họ có thể định canh định cư ở bất cứ

đâu mà không sợ ông bà quở trách vì chưa làm tròn nghĩa vụ của người con, người cháu trong gia
đình.
Khi trong gia đình có người chết, gia đình sẽ báo cho dân làng và họ hàng biết bằng cách
đánh trống, mã la hay khóc to... Ngày nay, thì gia đình sẽ mời thêm cán bộ xã, huyện đến chứng
kiến lễ tuần mả.
Nếu ngày xưa, thời gian để xác trong nhà là 7 ngày, thì bây giờ thì người ta chôn sau 1
ngày. VI người Raglai xã Phước Đại đã nhận thấy sự bất tiện khi để xác quá lâu trong nhà.Cùng
với sự thích nghi với quá trình đô thị hóa, phương tiện thông tin liên lạc,


25
con cháu, họ hàng ở xa cũng có thể về kịp tham dự, không còn phải chờ đợi nhiều ngày như trước.
Sau khi làm các thủ tục của lễ tuần mả, mọi người sẽ cùng ăn uống say sưa với nhau 1 tuần.
Trong tuần này, mọi người trong họp đông đủ cùng nhau hút thuốc, ăn thịt, uống rượu cần.... Đối
với người Raglai, từ 10-11 triệu chỉ là lễ tuần mả vừa và trung bình. Nhiều người Ragalai còn làm
lễ tuần mả lớn phải tốn chi phí trên 20 triệu. Chính vì vậy, nhiều gia đình phải bán rất nhiều bò để
làm lễ tuần mả, mặc dù đời sống vật chất vẫn rất khó khăn. Ngày nay, dưới sự vận động của chính
quyền, lễ tuần mà đã được tinh giản rất nhiều để giảm gánh nặng chi phí cho bà con Raglai. Cụ thể
như các nghi lễ thì vẫn còn, nhưng phần “hội” tức là phần đãi tiệc, ăn uống đã được đơn giản bớt.
3.2.3 Nghệ thuật
Hầu hết đồng bào Raglai ở xã Phước Đại đã quên trang phục truyền thống của mình. Trang
phục phụ nữ Raglai hiện nay ảnh hưởng của trang phục phụ nữ Chăm như váy, khăn thổ cẩm. Đối
với đàn ông thì mặc trang phục của người Kinh, quấn khăn Chăm, đa số là trang phục bộ đội cũ.
Các cơ quan chức năng như Sở Văn hóa thông tin, Hội Văn nghệ dân gian, Hội Văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số mở ra các hội thảo, xây dựng các công trình nghiên cứu trang phục Raglai và
phục hồi một số trang phục nhưng xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Ngôn ngữ Raglai là một trong những rường cột để bảo tồn văn hóa. Nhờ bảo tồn được ngôn
ngữ riêng mà người Raglai đang lưu giữ được kho tàng truyện cổ dân gian, chuyện kể, sử thi, tục
ngữ, thành ngữ, câu đố dân gian hết sức phong phú và đa dạng. Bộ chữ viết Raglai đang được gấp
rút hoàn thành để đưa vào phổ biến và sử dụng là một trong những biện pháp quan trọng để bảo tồn

văn hóa Ra giai.
Kho tàng âm nhạc dân gian, hệ thống các bài hát lễ, hát cúng mang tính shaman giáo cùng
với hệ thống nhạc cụ dân gian, dân tộc Raglai vẫn còn khá phong phú như mã la, cồng chiêng, đàn
đá, các loại khèn bầu, kèn môi, các loại trống, sáo V.V.. Điều đáng lo ngại là những nghệ nhân sản
xuất và biết sử dụng ngày càng ít đi. Lớp trẻ Raglai ở xã Phước Đại đã và đang làm quen với âm
nhạc hiện đại, đặc biệt là tiếp cận rất nhanh với những dòng nhạc có tính chất kích động, có thể là
do tính ‘lửa Tây Nguyên” còn đọng trong tố chất âm nhạc Raglai, là gen di truyền âm nhạc trong
dòng máu tộc người. Những đêm lễ hội bỏ mả, thay vì đánh mã la, uống rượu cần thì ngày nay, đa
số thanh thiếu niên lại uống rượu đế, nhảy theo nhạc disco.
Trong cuộc sống hàng ngày, một bộ phận người dân bước đầu làm quen và có nhu cầu theo
dõi thời sự, hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật phổ thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
như đài, tivi, và các phương tiện nghe nhìn khác như băng, đĩa, karaoke.
Sự mai một của các loại hình văn học nghệ thuật là đáng suy nghĩ. Nghệ thuật diễn xướng
trường ca-sử thi đang rơi rụng dần. Đây là nghệ thuật truyền miệng, rất dễ mất đi nếu không còn
môi trường tồn tại và không được ghi chép lại.
Thực ra ngoài mã la (tiếng Raglai gọi là char), dân tộc Raglai còn có nhiều nhạc cụ khác
như đàn đá, trống da nai (xa gơ), kèn bầu (xa ra ken), đàn chapi, kannhi, kateh....


×