Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CHẤT LƯỢNG sản PHẨM NGÀNH dệt MAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.18 KB, 46 trang )

Trang
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………......3
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM NGÀNH DỆT MAY
1.1 Sản phẩm và phân loại sản phẩm
1.1.1 Khái niệm sản phẩm…………………………………………………..5
1.1.2 Phân loại sản phẩm…………………………………………………....6
1.2 Chất lượng sản phẩm và tầm quan trọng của chất lượng sản
phẩm……………………………………………………………………………..7
1.2.1 Sự phát triển về các quan niệm chất lượng sản phẩm
1.2.2 Khái niệm chất lượng của Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO)
1.2.3 Các yếu tố phẩn ánh chất lượng sản phẩm
1.2.4 Đặc điểm chất lượng sản phẩm và những yêu cầu đặt ra trong quản trị chất
lượng
1.2.5 Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm
1.3 Phân loại chất lượng sản phẩm……………………………………….15
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm……………………18
1.4.1 Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
1.4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
1.5 Chất lượng sản phẩm ngành dệt may……………………………….19
2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM NGÀNH DỆT MAY CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1 Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm ngành dệt may
2.1.1 Khái quát về ngành dệt may…………………………………………23

1


2.1.2 Thực trạng chất lượng sản phẩm ngành dệt may …………………...25


2.2 Đánh giá chung về chất lượng sản phẩm ngành dệt may…………36
2.2.1 Những thành tựu đạt được
2.2.2 Nguyên nhân, hạn chế
3. Một số đề xuất nâng cao chất lượng sản phẩm ngành dệt may của các doanh
nghiệp Việt Nam………………………………………………………………41
KẾT LUẬN……………………………………………………………….43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..44

2


LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá đang là xu hướng phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Lịch
sử đã chứng minh rằng các quốc gia đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao đều thực hiện
đường lối mở cửa hội nhập nền kinh tế. Hội nhập không chỉ tạo điều kiện cho các nước
tiếp cận nhanh chóng với thành tựu khoa học kỹ thuật mà còn giúp cho các nước có cơ
hội tham gia vào thị trường thế giới hiện đại, tiên tiến trên cơ sở tận dụng lợi thế cạnh
tranh của mỗi nước, mỗi doanh nghiệp. Là bộ phận của thế giới, Việt Nam chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của toàn cầu hoá, đặc biệt khi chúng ta là thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới (WTO), mọi rào cản thương mại giữa các quốc gia đã được rỡ
bỏ,cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn. Khi đó chất lượng sản phẩm trở thành công cụ cạnh
tranh đắc lực của tất cả các doanh nghiệp. Hệ thống quản lý chất lượng được biết đến
như là một tổ chức, một công cụ, một phương tiện để thực hiện mục tiêu chất lượng.
Cho đến nay, ngành dệt may thời trang đã trở thành một ngành mũi nhọn của đất
nước nó rất cần thiết cho tinh thần của người dân, từ những bộ đồng phục của trẻ mẫu
giáo, học sinh cho đến những bộ quân phục công an bộ đội và thậm chí cả những bộ
trang phục của giáo hoàng … nhất là trong những ngày lễ hội, kết hôn, giáng sinh, ngày
tết chúng ta không thể thiếu được nó, nó lá sức mạnh tinh thần của mọi người. Những bộ
thời trang không những đẹp mà nó còn làm ta kiêu hãnh những lúc ta thành công trong
sự nghiệp như lễ tốt nghiệp cử nhân, kỹ sư, tiến sĩ …. Nền kinh tế càng phát triển, mức

sống được nâng lên thì yêu cầu về may mặc thời trang càng trở nên cần thiết vì vậy mỗi
sinh viên trong khoa chúng ta phải luôn luôn nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để tạo ra nhiều
mẫu có tính thẩm mỹ cao phù hợp với thị yếu của mọi người và xã hội.Vũ khí cạnh tranh
của các doanh nghiệp dệt may hiện nay là: chất lượng, giá cả, và thời gian. Trong đó,
chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển
của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Cần phải khẳng định chất lượng được coi là vũ
khí cạnh tranh của các doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá. Chất lượng đem lại
thương hiệu và giúp thương hiệu Việt Nam thâm nhập và khẳng định được mình trên thị
trường thế giới. Chất lượng hiện nay không đơn giản chỉ là một sản phẩm hoàn thiện,
đầy đủ chức năng, đẹp, đáp ứng được mọi yêu cầu kỹ thuật, mà là độ thoả mãn của khách

3


hàng. Vì thế chất lượng được coi trọng ở tất cả các khâu từ thiết kế, sản xuất đến phân
phối.
Từ những lý do trên em xin chọn đề tài: “ Chất lượng sản phẩm ngành dệt may
của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam” làm đề tài đề án của mình.
Đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm ngành dệt
may
Chương 2:Thực trạng chất lượng sản phẩm ngành dệt may tại các doanh nghiệp ở
Việt Nam
Chương 3:Một số đề xuất nâng cao chất lượng sản phẩm ngành dệt may của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Để hoàn thành được đề án môn học này, em được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo
Nguyễn Thị Phương Linh, em mong cô góp ý thêm để bài đề án của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
1.1 Sản phẩm và phân loại sản phẩm
1.1.1 Khái niệm sản phẩm
Trong quá trình phát triển của loài người nhờ có hoạt động lao động sản xuất đã làm
chuyển hóa các nguồn tài nguyên thành sản phẩm có ích.Mỗi một sản phẩm được sản
xuất ra đều nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của con người. Như vậy sản phẩm
chính là đầu ra hay kết quả của hoạt động lao động con người.
Theo C.Mác: Sản phẩm là kết quả của quá trình lao động dùng để phục vụ cho việc
làm thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, người ta quan niệm
sản phẩm là bất cứ cái gì đó có thể đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại lợi nhuận.
Theo Quản trị marketing Sản phẩm là bất cứ cái gì có thể đưa vào thị trường để tạo
sự chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng nhằm thỏa mãn một nhu cầu hay ước muốn.
Nó có thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm, tổ chức và ý tưởng.
Theo TCVN ISO 9000:2007 sản phẩm được định nghĩa là:” kết quả của các hoạt
động hay các quá trình “ Theo quan niệm này, sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ là những vật phẩm vật chất cụ thể mà còn bao gồm cả các dịch vụ.Những sản
phẩm vật chất cụ thể trong doanh nghiệp bao gồm những nguyên vật liệu đã chế biến,
các chi tiết, bộ phận, sản phẩm dở dang trong từng công đoạn sản xuất và sản phẩm đã
được hoàn chỉnh. Các dịch vụ có thể là cung cấp các thông tin cần thiết cho khách hàng;
các dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng thiết bị; bảo đảm an toàn lao động; các dịch vụ kế toán
tài chính xây dựng chiến lược; kế hoạch sản xuất, tổ chức nhân sự, quản lý marketing…
Tóm lại, tất cả những gì là kết quả từ các hoạt động của doanh nghiệp tạo ra dù để bán
cho khách hàng hay tiêu dùng nội bộ trong doanh nghiệp đều là sản phẩm.
Có thể khái quát hóa định nghĩa sản phẩm theo hình thức dưới đây:

5



Nguyên vật liệu
được chế biến
Yếu tố vật
chất hữu hình
Chi tiết, bộ
phận

Quá trình
hoạt động

Đầu ra kết
quả

Sản phẩm hoàn
chỉnh

Yếu tố vô
hình

Dịch vụ:
-Thông tin
-Khái niệm
-Hoạt động
phục vụ

1.1.2 Phân loại sản phẩm
Việc phân loại sản phẩm là rất cần thiết. Đối với doanh nghiệp mỗi cách phân loại
giúp cho hoạt động quản lý, theo dõi đánh giá, nghiên cứu thiết kế phát triển sản phẩm

mới, xây dựng chiến lược , chính sách phát triển sản phẩm, cơ cấu sản phẩm sản xuất
….Việc phân loại sản phẩm còn tạo cơ sở cho việc xấy dựng hệ thống tiêu chuẩn, kinh tế
kỹ thuật cho công tác quản lý của nhà nước và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Do tính đa dạng của sản phẩm sản xuất nên có rất nhiều cách phân loại khác nhau,
căn cứ vào các tiêu chí khác nhau.Chẳng hạn sản phẩm có thể được phân loại theo:
-Chức năng, công dụng của sản phẩm dựa trên cơ sở sản phẩm nhằm mục đích gì?
-Đặc điểm công nghệ sản xuất chẳng hạn công nghệ dệt thoi, dệt kim, dệt không
kim; trong viễn thông như công nghệ vi ba; công nghệ 3D,4D…
-Nguồn gốc nguyên liệu sử dụng ví dụ đồ gỗ, đồ da, đồ nhựa, kim khí…
Cách phân loại phổ biến nhất là căn cứ vào công dụng của sản phẩm theo công dụng.
Theo công dụng người ta lại chia sản phẩm thành các nhóm theo các yếu tố cụ thể khác
6


nhau như mục đích, lĩnh vực sử dụng, đối tượng và điều kiện sử dụng, thời gian sử
dụng...
Theo mục đích sử dụng chia sản phẩm thành dùng để đáp ứng nhu cầu của sản
xuất, sản phẩm để tiêu dùng.Những sản phẩm dùng để đáp ứng nhu cầu sản xuất là
những tư liệu sản xuất dùng để sản xuất và chế biến tiếp như công cụ máy móc thiết bị,
công nghệ, nguyên vật liệu.Nhóm sản phẩm tiêu dùng là những sản phẩm cuối cùng đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cuối trực tiếp hằng ngày của người tiêu dùng…
Đối với các nhóm sản phẩm trên các doanh nghiệp phải có những giải pháp trọng
tâm khác nhau để đảm bảo cho sản phẩm sản xuất ra phù hợp với mục đích và yêu cầu
của người sử dụng.
Trong nhóm sản phẩm tiêu dùng, căn cứ vào thời gian sử dụng lại chia thành các sản
phẩm tiêu dùng thường xuyên như thực phẩm, sản phẩm may mặc…và sản phẩm lâu bền
là các loại thiết bị dùng trong sinh hoạt có tuổi thọ và thời hạn sử dụng kéo dài trong
nhiều năm. Thuộc tính chất lượng của mỗi loại sản phẩm này cũng được người tiêu dùng
quan tâm ở mức độ khác nhau. Thực phẩm lại chia thành thức ăn gạo, rau, thịt cá, đồ
uống. Đồ uống lại chia thành nước giải khát không ga, giải khát có ga, rượu bia…Cứ như

vậy sự phân loại sản phẩm thành những nhóm nhỏ với những đòi hỏi cụ thể riêng biệt về
giá trị sử dụng, yêu cầu bảo quản, quản lý…
Đối với những sản phẩm có cùng chức năng, công dụng đáp ứng một mục đích tiêu
dùng nhất định, lại do các doanh nghiệp khác nhau sản xuất và cung cấp, với mức độ
chất lượng và độ tin cậy khác nhau, để phục vụ công tác quản lý, phân biệt các loại sản
phẩm có nguồn gốc sản xuất từ những đơn vị khác nhau và để bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng, các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng yêu cầu mỗi doanh nghiệp phải
sử dụng nhãn phẩm riêng biệt…
1.2 Chất lượng sản phẩm và tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm
1.2.1 Sự phát triển về các quan niệm chất lượng sản phẩm

7


Khái niệm chất lượng sản phẩm đã xuất hiện từ lâu, ngày nay được sử dụng phổ
biến và rất thông dụng hằng ngày trong cuộc sống cũng như trong sách báo. Chất lượng
sản phẩm là một phạm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật,
kinh tế và xã hội.
Do tính phức tạp đó nên hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng
sản phẩm. Mỗi khái niệm đều có những cơ sở khoa học nhằm giải quyết những mục tiêu,
nhiệm vụ nhất định trong thực tế. Đứng trên những góc độ khác nhau và tùy theo mục
tiêu, nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể đưa ra những quan
niệm về chất lượng xuất phát từ người sản xuất, người tiêu dùng, từ sản phẩm hay từ đòi
hỏi của thị trường.Căn cứ vào những đặc điểm chung từ định nghĩa ta có thể phân thành
các nhóm sau :
 Quan niệm chất lượng siêu hình cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của

sản phẩm. Đại diện cho cách tiếp cận này là Barbara Tuchman:”Chất lượng là sự tuyệt
hảo của sản phẩm “.Điều này hàm ý rằng sản phẩm chất lượng là những sản phẩm tốt
nhất. Quan niệm này mang tính triết học , trừu tượng chỉ có ý nghĩa đơn thuần trong

nghiên cứu.
 Quan niệm xuất phát từ sản phẩm: Chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc

tính đặc trưng của sản phẩm đó. Quan niệm này đồng nghĩa chất lượng sản phẩm với số
lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm có thể có nhiều thuộc
tính hữu ích nhưng không được ngươi tiêu dùng đánh giá cao


Theo quan niệm của các nhà sản xuất: Chất lượng sản phẩm là sự hoàn hảo và phù hợp
của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách đã xác định
trước.



Xuất phát từ người tiêu dùng: Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp của sản phẩm với mục
đích sử dụng của người tiêu dùng.



Xuất phát từ giá trị :Chất lượng được hiểu là đại lượng đo bằng mối quan hệ giữa lợi ích
thu được từ tiêu dùng sản phẩm với chi phí phải bỏ ra để đạt dược lợi ích đó. Theo A.P
Vilavilov: “Chất lượng là một tập hiwpj những tính chất của sản phẩm chứa đựng mức
độ thích ứng của nó để thảo mãn những nhu cầu nhất định theo công dụng của nó với
8


những chi phí xã hội cần thiết” .Theo Bohn: “Chất lượng là mức độ hoàn hảo tại một
mức giá chấp nhận được và khống chế được sự thay đổi ở một mức chi phí hợp lý “.



Xuất phát từ mục làm tăng khả năng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chất lượng là
việc tạo ra những thuộc tính của sản phẩm mang lại lợi thế cạnh tranh phân biệt nó với
sản phẩm cùng loại trên thị trường.



Quan niệm chất lượng tổng hợp: Ngày nay người ta thường nói đến chất lượng tổng hợp
bao gồm: chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ sau khi bán và chi phí bỏ ra để đạt
được mức chất lượng đó .Quan niệm này đặt chất lượng sản phẩm trong mối quan hệ
chặt chẽ với chất lượng của dịch vụ , chất lượng các điều kiện giao hàng và hiệu quả
củaviệc sử dụng các nguồn lực.
1.2.2 Khái niệm chất lượng sản phẩm của Tổ chức quốc tế vè tiêu chuẩn hóa
(ISO)
Để giúp cho hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp được thống nhất,
dễ dàng, Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000, phần
thuật ngữ 9000 đã đưa ra định nghĩa: "Chất lượng sản phẩm là mức độ thỏa mãn của một
tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu". Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay
mong đợi được nêu ra hay tiềm ẩn. Do tác dụng thực tế của nó, nên định nghĩa này được
chấp nhận một cách rộng rãi trong hoạt động kinh doanh quốc tế ngày nay. Định nghĩa
chất lượng trong ISO 9000 là thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách
quan của sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng sản phẩm nhưng tựu chung lại
thì chúng phải bao gồm những khía cạnh sau:
- Chất lượng sản phẩm phải là một tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện
tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm;
- Chất lượng sản phẩm phải thể hiện trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả
mãn tới mức nào yêu cầu của thị trường;
- Chất lượng sản phẩm phải gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu thị trường về
các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.


9


1.2.3 Các yếu tố phản ánh chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được đánh giá thông qua các chỉ tiêu, các thông số kinh tế- kỹ
thuật cụ thể. Với mỗi sản phẩm cụ thể vai trò của các nhóm chỉ tiêu trong đánh giá chất
lượng là khác nhau. Vì vậy đánh giá chất lượng phải sử dụng phạm trù sức nặng để phân
biệt vai trò của từng chỉ tiêu đối với chất lượng sản phẩm
Những chỉ tiêu chung nhất phản ánh chất lượng sản phẩm gồm:
- Các thuộc tính kỹ thuật: phản ánh công dụng chức năng của sản phẩm. Nhóm này
đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng tác dụng chủ yếu của sản phẩm được
quy định bởi các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cấu tạo về đặc tính cơ, lý, hoá của
sản phẩm. Các yếu tố này được thiết kế theo những tổ hợp khác nhau tạo ra chức năng
đặc trưng cho sản phẩm và hiệu quả của quá trình sử dụng sản phẩm đó;
- Các yếu tố thẩm mỹ: đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức, dáng vẻ,
kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện tính cân đối, màu sắc, trang tri, tính thời trang;
-Tuổi thọ của sản phẩm: Đây là yếu tố đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ
được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian
nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ
bảo dưỡng quy định. Tuổi thọ là một yếu tố quan trọng trong quyết định lựa chọn mua
hàng của người tiêu dùng;
-Độ tin cậy của sản phẩm: Độ tin cậy được coi là một trong những yếu tố quan trọng
nhất phản ánh chất lượng của một sản phẩm và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng
duy trì và phát triển thị trường mình;
- Độ an toàn của sản phẩm: những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng, vận hành sản
phẩm, an toàn đối với sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc
phải có đối với mỗi yếu tố sản phẩm trong điều kiện tiêu dùng hiện nay. Khi thiết kế sản
phẩm phải luôn coi đây là tiêu chí cơ bản không thể thiếu được của sản phẩm;
-Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm: Cũng giống như độ can toàn, mức độ gây ô
nhiễm được coi là một yếu tố bắt buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ khi đưa

10


- Tính tiện dụng: Phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo
quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận bị hỏng;
- Tính kinh tế của sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng đối với những sản phẩm khi
sử dụng có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trong sử
dụng trở thành một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng và khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm trên thị trường
Ngoài ra những dịch vụ đi kèm sản phẩm, đặc biệt là dịch vụ sau khi bán đang trở
thành một trong những tiêu chí quan trọng trong thành phần chất lượng sản phẩm. Trong
nhiều trường hợp chúng đóng vai trò cơ bản cho sự thành công của doanh nghiệp trên thị
trường. Tên, nhãn hiệu, danh tiếng, uy tín của sản phẩm cũng được coi như yếu tố chất
lượng vô hình tác động lên tâm lý lựa chọn của khách hàng, thu hút sự chú ý và kích
thích ham muốn mua hàng của họ.
1.2.4 Đặc điểm chất lượng sản phẩm và những yêu cầu đặt ra trong quản trị
chất lượng
Chất lượng sản phẩm chính là kết quả của sự phối hợp thống nhất giữa lao động với
các yếu tố công nghệ, kỹ thuật, kinh tế và văn hoá xã hội. Bao hàm trong chất lượng là
một tập hợp các thuộc tính thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật đặc trưng phù
hợp với môi trường xã hội và trình độ phát triển trong từng thời kỳ;
-

Yêu cầu về sử dụng: phù hợp với mục đích và thời hạn sử dụng cả về hao mòn vật lý
và hao mòn vô hình. Để thoả mãn yêu cầu này cần phải lựa chọn nguyên vật liệu may,
các vật liệu cho phù hợp.

-

Yêu cầu về vệ sinh: Đòi hỏi các sản phẩm phải đảm bảo sự hoạt động bình thường

của cơ thể trong quá trình sử dụng, quần áo có khả năng bảo vệ được cơ thể, chống lại
được các tác động của mội trường. Đồng thời không gây độc hại cho cơ thể do những
hoá chất có sử dụng trong quá trình dệt, nhuộm, giặt, là…

-

Yêu cầu đối với quá trình gia công: kích cỡ, đường may phải phù hợp với các yêu
cầu đã được xác định theo mẫu…

-

Yêu cầu về chỉnh lý: Các chế độ giặt, ủi, hiệu chỉnh, bao gói, nhãn hiệu phải đạ hiệu
quả, phù hợp với sản phẩm…
11


- Yêu cầu về tính thẩm mỹ của sản phẩm: Phong phú về kiểu dáng, màu sắc, tính
thời trang độc đáo của sản phẩm
-

Yêu cầu về tính kinh tế của sản phẩm: Phải đạt thực hiện các biện pháp chi phí,
giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường
Sản phẩm khi đưa ra thị trường, trở thành hàng hoá phải thoả mãn được khách hàng
về cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Xuất phát từ bản chất sản phẩm luôn có hai đặc
tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng phản ánh công dụng cụ thể của sản phẩm
,làm nên tính hữu ích của nó. Và khi nói đến chất lượng sản phẩm không thể chỉ nói đến
giá trị sử dụng của sản phẩm mà phải đề cập đến cả mặt giá trị và các dịch vụ khác có
liên quan trực tiếp đến sản phẩm, thoả mãn được yêu cầu của khách hàng về mặt kinh tế;
Chất lượng sản phẩm phải được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá
trình tạo ra sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phải được xem xét trong mối quan hệ chặt

chẽ , thống nhất giữa các quá trình trước, trong và sau sản xuất: nghiên cứu thiết kế,
chuẩn bị sản xuất, sản xuất và sử dụng sản phẩm. Phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của
từng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và công nghệ liên quan đến
mọi hoạt động trong toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Chất lượng sản phẩm có tính tương đối cần được xem xét trong mối quan hệ chặt
chẽ với thời gian và không gian. Chất lượng sản phẩm không ở trạng thái cố định, mà
thay đổi theo từng thời kì phụ thuộc vào sự biến động của các yếu tố sản xuất của khoa
học- công nghê, tiến bộ kỹ thuật và yêu cầu của từng thị trường. Chất lượng sản phẩm
cần phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện và môi trường kinh doanh,
tình hình và khả năng phát triển kinh tế xã hội và công nghệ trong mỗi thời kỳ và của
từng nước, từng khu vực thị trường cụ thể;
Chất lượng được đánh giá trên cả hai mặt chủ quan và khách quan. Tính chủ quan
của chất lượng thể hiện thông qua chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi chất lượng
thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của thiết kế đối với nhu cầu của khách hàng. Nó phản
ánh nhận thức của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Nâng cao loại chất lượng này có
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Tính khách quan thể hiện thông
12


qua các thuộc tính vốn có trong từng sản phẩm. Nhờ tính khách quan này chất lượng có
thể đánh giá thông qua các tiêu chuẩn, chỉ tiêu cụ thể. Tính khách quan của chất lượng
thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của các đặc tính chất
lượng sản phẩm so với tiêu chuẩn thiết kế đặt ra. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ
vào tính chất đặc điểm và trình độ công nghệ và trình độ tổ chức quản lý, sản xuất của
các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng loại này giúp các doanh nghiệp giảm chi phí chất
lượng.
Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong những điều kiện tiêu dùng cụ thể
tương ứng với mục đích sử dụng đặt ra. Một sản phẩm có chất lượng tốt khi sử dụng
đúng mục đích, biết sử dụng đúng cách và giữu gìn bảo quản theo đúng quy định. Các
doang nghiệp cần đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin về sản phẩm và

dịch vụ đi kèm cho người tiêu dùng để khai thác hết giá trị gia tăng sản phẩm tạo ra.
1.2.5 Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm
Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, cạnh tranh trở thành một
yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai
chiến lược cơ bản là phân biệt hóa sản phẩm (chất lượng sản phẩm) và chi phí thấp. Chất
lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chấp nhận kinh tế thị trường nghĩa là chấp nhận cạnh tranh, chịu tác động của
quy luật cạnh tranh. Sản phẩm, dịch vụ muốn có tính cạnh tranh cao thì chúng phải đạt
được những mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, của xã hội về mọi mặt một
cách kinh tế nhất (sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ). Với chính sách mở cửa, tự do
thương mại, các nhà sản xuất kinh doanh muốn tồn tại thì sản phẩm, dịch vụ của họ phải
có tính cạnh tranh cao, nghĩa là doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt.
Quan tâm đến chất lượng, quản lý chất lượng chính là một trong những phương
thức tiếp cận và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên
thương trường nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

13


Chất lượng sản phẩm làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua:
• Tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua:

Mỗi sản phẩm có rất nhiều các thuộc tính chất lượng khác nhau. Các thuộc tính này
được coi là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh
nghiêp. Khách hàng quyết định lựa chọn mua hàng vào những sản phẩm có thuộc tính
phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các
sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có những thuộc tính kinh tế - kỹ thuật thỏa
mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn. Bởi vậy sản phẩm có các thuộc tính chất

lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định mua hàng và nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
• Nâng cao vị thế, sự phát triển lâu dài cho doanh nghiêp trện thị trường:

Khi sản phẩm chất lượng cao, ổn định đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ
tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng vào nhãn mác của sản phẩm.
Nhờ đó uy tín và danh itếng của doanh nghiệp được nâng cao, có tác động to lớn đến
quyết định lựa chọn mua hàng của khách hàng
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nâng cao
đời sống và phát triển sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn thu
hút người mua. Mỗi sản phẩm có rất nhiều thuộc tính khác nhau. Khách hàng quyết định
lựa chọn mua những sản phẩm có thuộc tính phù hợp với nhu cầu và khả năng, điều kiện
sử dụng của mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có tính
kinh tế- kỹ thuật thoả mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn;
Khi sản phẩm có chất lượng cao, ổn định, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ
tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng vào nhãn mác của sản phẩm.
Nhờ đó uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp được nâng cao có tác động lớn đến quyết
định lựa chọn mua hàng của khách hàng. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường nhờ chất lượng cao là cơ sở cho khả năng duy trì và mở rộng thị trường, tạo sự
phát triển lâu dài cho doanh nghiệp;

14


Chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp và đánh giá năng lực của tiến bộ khoa
học- công nghệ, năng suất lao động, tổ chức quản lý. Trong nhiều trường hợp nâng cao
chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị
sử dụng, lợi ích kinh tế- xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào tăng lên, tiết kiệm các
nguồn lực cho sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp
thống nhất các loại lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi

doanh nghiệp;
Nâng cao chất lượng còn giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được thời gian và sức
lực khi sử dụng sản phẩm do các doanh nghiệp cung cấp. Nó tạo cho người tiêu dùng
những tiện lợi hơn và đáp ứng nhanh hơn, đầy đủ hơn. Suy cho cùng đó là những lợi ích
mà mục tiêu của việc sản xuất và cung cấp sản phẩm đưa lại cho con người. Bởi vậy,
chất lượng đã và luôn là yếu tố quan trọng số một đối với các doanh nghiệp và người tiêu
dùng;
Nâng cao chất lượng là giải pháp quan trọng tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng
doanh thu và tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp thống nhất các loại lợi ích
trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp. Nhờ đảm
bảo, duy trì và nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp, chủ sở hữu, người lao động,
người tiêu dùng và toàn xã hôị đều thu được những lợi ích thiết thực. Doanh nghiệp tăng
khả năng cạnh tranh, phát triển thị trường, mở rộng sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn
định cho người lao động, người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu với chi phí hợp lý, chủ sở
hữu có nguồn thu tăng và cuối cùng là Nhà nước tăng ngân sách và giải quyế những vấn
đề xã hội;
Tóm lại nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đẩy mạnh quá
trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng cao khả năng cạnh tranh,
khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam và sức mạnh kinh tế của đất nước
trên thị trường thế giới
1.3 Phân loại chất lượng sản phẩm

15


 Căn cứ vào mục tiêu cần đạt được : Chất lượng chia thành chất lượng thiết kế và chất

lượng tuân thủ thiết kế. Chất lượng thiết kế là giá trị của các tiêu chí đặc trưng trong
khâu thiết kế thông qua nghiên cứu nhu cầu khách hàng, cạnh ttranh, các đặc điểm và

điều kiện sản xuất công nghệ… Chất lượng tuân thủ thiết kế là mức chất lượng đạt được
so với tiêu chuẩn đề ra , phụ thuộc lớn vào khả năng sản xuất và trình độ đội ngũ lao,
công nghệ của doanh nghiệp.
 Căn cứ vào quy định hiện có: Chất lượng được chia thành chất lượng chuẩn, chất lượng

cho phép và chất lượng thực tế. Chất lượng chuẩn là chất lượng được phê chuẩn chấp
nhận sau khi đã thiết kế. Chất lượng cho phép là mức độ cho phép về độ lệch của các chỉ
số kinh tế- kỹ thuật so với chất lwuongj chuẩn đã phê duyệt.Chất lượng thực tế là mức
chất lượng sản phẩm thực tế sản xuất ra và được kiểm tra so sánh với chất lượng chuẩn
và chất lượng cho phép đã đề ra.
 Căn cứ vào giá trị hướng tới : Chất lượng chia thành chất lượng tuyệt hảo và chất lượng
“tối ưu”. Chất lượng tuyệt hảo là chất lượng tốt nhất dựa trên tình độ khoa học công nghệ
trong từng thời kỳ có thể đạt được. Chấ lượng “tối ưu”là chất lượng đạt được trong mối
quan hệ tương ứng giữa mức độ các thuộc tính chất lượng của sản phẩm và giá cả mà
khách hàng sẵn sang chấp nhận.
 Căn cứ vào thành phần cấu thành trong sản phẩm:Chất lượng được chia thành chất lượng

tổng hợp và chất lượng các thuộc tính.Chất lượng các thuộc tính dùng để chỉ chất lượng
sản phẩm được đo lường đánh giá chủ yếu dựa trên các thông số công nghệ kỹ thuật của
sản phẩm.chất lượng tổng hượp bao hàm ngoài các thuộc tính sản phẩm còn có giá cả ,
dịch vụ đi kèm, gia hàng và thời gian.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được tạo ra trong toàn bộ chu kỳ của sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm tới các khâu tổ chức mua sắm
nguyên vật liệu triển khai quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Chất lượng sản
phẩm chịu tác động của rất nhiều các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài và
những nhân tố bên trong của doanh nghiệp. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ
ràng buộc với nhau, tạo ra tác động tổng hợp đến chất lượng sản phẩm do các doanh
nghiệp sản xuất ra


16


1.4.1 Những nhân tố môi trường bên ngoài
1.4.1.1 Tình hình và xu thế phát triển kinh tế thế giới
Xu hướng toàn cầu hoá với sự tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới của mọi
quốc gia- đẩy mạnh tự do thương mại quốc tế.
Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học- công nghệ, đặc biệt là sự phát triển
của công nghệ thông tin đã thay đổi nhiều cách tư duy cũ và đòi hỏi các doanh nghiệp
phải có khả năng thích ứng;
Cạnh tranh gay gắt cùng với sự bão hoà của thị trường. Vai trò của các lợi thế về
năng suất chất lượng đang trở thành hàng đầu.
1.4.1.2 Tình hình thị trường
Đây là nhân tố quan trọng nhất, là xuất phát điểm, tạo lực hút định hướng cho sự
phát triển chất lượng sản phẩm. Sản phẩm chỉ có thể tồn tại khi nó đáp ứng được những
mong đợi của khách hàng. Xu hướng phát triển và hoàn thiện chất lượng sản phẩm phụ
thuộc chủ yếu vào đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu trên thị trường. Nhu cầu
càng phong phú đa dạng và thay đổi nhanh càng cần hoàn thiện chất lượng để thích ứng
kịp thời đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
1.4.1.3 Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra khả năng không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm. Tác động của tiến bộ khoa học công nghệ là không giới hạn, nhờ đó mà sản phẩm
sản xuất ra luôn có các thuộc tính chất lượng với những chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật ngày
càng hoàn thiện, mức thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ngày càng tốt hơn.
1.4.1.4 Cơ chế , chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia
Cơ chế quản lý kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nghiên cứu nhu cầu,
thiết kế sản phẩm. Nó cũng tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp phải nâng cao chất
lượng sản phẩm thông qua cơ chế khuyến khích cạnh tranh, bắt buộc các doanh nghiệp
phải nâng cao tính tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng. Mặt khác cơ chế quản lý
17



kinh tế còn là môi trường lành mạnh, công bằng, đảm bảo quyền lợi cho các doanh
nghiệp sản xuất đầu tư, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng
trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng sản phẩm.
1.4.1.5 Các yếu tố về văn hóa, xã hội
Những yêu cầu về văn hoá, đạo đức, xã hội và tập tục truyền thống, thói quen tiêu
dùng có ảnh hưởng trực tiếp tới các thuộc tính chất lượng của sản phẩm, đồng thời có
ảnh hưởng gián tiếp thông qua các quy định bắt buộc mỗi sản phẩm phải thoả mãn những
đòi hỏi phù hợp với truyền thống, văn hoá, đạo đức, xã hội của cộng đồng xã hội. Những
đặc tính chất lượng sản phẩm chỉ thoả mãn toàn bộ những nhu cầu các nhân nếu nó
không ảnh hưởng tới lợi ích của xã hội.
1.4.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.4.2.1 Lực lượng lao động bên trong doanh nghiệp
Chất lượng không chỉ thoả mãn nhu cầu khách hàng bên ngoài mà còn phải thoả
mãn nhu cầu khách hàng bên trong doanh nghiệp. Con người là nhân tố trực tiếp tạo ra
và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cùng với công nghệ con người giúp doanh
nghiệp đạt chất lượng cao trên cơ sở giảm chi phí. Chất lượng phụ thuộc lớn vào trình độ
chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm và tinh thần hiệp tác phối hợp
giữa mọi thành viên và bộ phận trong doanh nghiệp. Năng lực và tinh thần của đội ngũ
lao động, những giá trị chính sách nhân sự đặt ra trong mỗi doanh nghiệp có tác động sâu
sắc toàn diện đến hình thành chất lượng sản phẩm tạo ra.
1.4.2.2 Khả năng về máy móc thiết bị, công nghệ hiện có của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động trong những điều kiện xác định về công
nghệ. Trình độ hiện đại về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của doanh nghiệp
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt những doanh nghiệp tự động hoá
cao, có dây chuyền sản xuất hàng loạt. Cơ cấu công nghệ, thiết bị của doanh nghiệp và
khả năng bố trí phối hợp máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất ảnh hưởng lớn đến chất
lượng các hoạt động, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
18



1.4.2.3 Nguồn nguyên liệu và hệ thống cung ứng
Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào cấu thành sản phẩm và hình
thành các thuộc tính chất lượng. Đặc điểm và chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng sản phẩm.Mỗi loại nguyên vật liệu khác nhau sẽ hình thành những
đặc tính chất lượng khác nhau. Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hoá của nguyên liệu là cơ
sở quan trọng cho ổn định chất lượng sản phẩm.
1.4.2.4 Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
Chất lượng của hoạt động quản lý phản ánh chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp.Sự phối hợp, khai thác hợp lý giữa các nguồn lực hiện có để tạo ra sản phẩm lại
phụ thuộc vào nhận thức, sự hiểu biết về chất lượng và quản lý chất lượng, trình độ xây
dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, chính sách mục tiêu kê hoạch chất lượng
của các bộ phận quản lý doanh nghiệp.
1.5 Chất lượng sản phẩm ngành dệt may
Dệt may là một ngành sản xuất vật chất thuộc nhóm ngành công nghiệp nhẹ sản
xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu may mặc của con người như sợi, vải, quần áo. Ngành
dệt may gắn liền với nhu cầu thiết yếu của con người.
Để đánh giá chất lượng sản phẩm ngành dệt may , các doanh nghiệp ngành dệt may
đã sử dụng một số tiêu chuẩn như:
1.5.1 Tiêu chuẩn về quy cách, quy định các dãy số, chi tiết, bộ phận nguyên vật
liệu
- Tiêu chuẩn về thông số, kích thước cơ bản của đối tượng như size áo sơ mi, quần
âu,size áo jacket, căn cứ vào đặc trưng vận hành hoặc đặc trưng cơ bản của đối tượng,
doanh nghiệp quy định các dãy thông số, kích thước cơ bản của sản phẩm, chi tiết ,bộ
phận, nguyên vật liệu.. trên cơ sở đó lập nên các kiểu, loại , dạng cụ thể cho từng sản
phẩm.
- Chi tiết về kiểu loại sản phẩm
19



- Chi tiết về dạng quy định kiểu dáng và kích thước sản phẩm
- Tiêu chuẩn về màu sắc
1.5.2 Tiêu chuẩn về yêu cầu kỹ thuật
Đó là những tiêu chuẩn quy định những yêu cầu cơ bẩn về vấn đề sử dụng sản
phẩm thoải mái, sang trọng , lịch thiệp…và các yêu cầu đối với nguyên liệu để tạo ra sản
phẩm.
1.5.3 Tiêu chuẩn về phương pháp thử
Tiêu chuẩn này quy định phương pháp xác định các đặc trưng sử dụng của sản phẩm
nhằm đảm bảo sự đánh giá thống nhất và chính xác sản phẩm qua các đặc trưng của nó.
Các phương pháp thử cần tiêu chuẩn các chỉ tiêu về chất lượng được quy định trong các
tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật hay các văn bản pháp chế kỹ thuật, những tiêu chuẩn này
gồm có :
-Nguyên tắc và nội dung phương pháp thử
- Phương tiện và điều kiện thử
- Chuẩn bị thử
- Tiến hành thử
- Phương pháp tính toán
- Đánh giá tính toán
- Biên bản thử nghiệm
1.5.4 Tiêu chuẩn về bao gói , nhãn mác, vận chuyển và bảo quản
Đây là các chỉ tiêu yêu cầu về bao gói : ví dụ hộp dựng áo sơ mi, túi in tên công ty
cho khách hàng, hình thức vận chuyển…
1.5.5 Tiêu chuẩn về nguyên tắc và thủ tục
20


Đây là những tiêu chuẩn quy định những nguyên tắc, phương pháp thủ tục, yêu
cầu cần thiết về kinh tế, kỹ thuật nhằm đảm bảo cho các quá trình hoạt động được thống
nhất. Các loại tiêu chuẩn chủ yếu trong nhóm này là tiêu chuẩn về quy phạm, quy tắc,

quy trình hoạt động, cơ cấu tổ chức, trách nhiệm của từng bộ phận.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM DỆT MAY CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1 Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm ngành dệt may
2.1.1 Khái quát ngành dệt may
Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật, đội ngũ lao động
có tay nghề ngày càng chiếm tỉ lệ lớn và sự ưu đãi từ các chính sách nhà nước, ngành dệt
may đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hòa, vừa đảm bảo
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

21


Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2014 giá trị xuất khẩu dệt may đạt 20,91
tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2013. Đây là tốc độ tăng trưởng đáng ngưỡng mộ đối
với mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai cả nước
Theo thống kê mới nhất của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, ngành dệt may đã tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 2,5 triệu lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao
động gián tiếp (thuộc các ngành công nghiệp phụ trợ, kho bãi, vận chuyển…). Với mức
thu nhập trung bình 4,5 triệu đồng/tháng/người, tương đương 54 triệu đồng/năm thì tổng
quỹ lương chi trả cho 2,5 triệu lao động trực tiếp trong 1 năm là 135 ngàn tỷ đồng (tương
đương 6,7 tỷ USD) là một con số không nhỏ, đóng góp đáng kể vào chi tiêu xã hội và
tăng trưởng kinh tế.
Năng lực sản xuất: Ngành dệt may Việt Nam có năng lực sản xuất cao. Ngành may
hiện có 4.424 doanh nghiệp (tính đến 31/12/2013), sử dụng khoảng 2,5 triệu lao động.
Sản phẩm may đạt 4 tỷ đơn vị. Ngành dệt may còn có các sản phẩm khác bao gồm bông
xơ 8000 tấn, sợi 900 nghìn tấn, vải 1,5 tỷ m2. Tỷ lệ nội địa hóa chung toàn ngành đạt
khoảng 50%.

Năng lực xuất khẩu: Năng lực xuất khẩu của ngành dệt may cũng rất đáng nể.
Riêng trong năm 2014 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 20,91 tỷ USD, chiếm gần
14% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, là mặt hàng xuất khẩu số 1 của Việt Nam cho
đến năm 2012, từ năm 2013 đứng thứ 2 (sau điện thoại di động). Việt Nam là nước xuất
khẩu dệt may lớn thứ 4 thế giới, chiếm 4,92% giá trị xuất khẩu dệt may toàn cầu năm
2014, sau Trung Quốc, Bangladesh, Italia. Cả nước có trên 3.100 doanh nghiệp xuất khẩu
dệt may, trong đó 1,2% doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, 3,25%
doanh nghiệp đạt trên 50 triệu USD, 30% doanh nghiệp đạt trên 1 triệu USD (số liệu
năm 2014).
Hiện nay, ngành dệt may đang đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở phát triển vững chắc
thị trường nội địa. Thị trường nội địa với hàng triệu khách hàng tiềm năng đang là cơ hội
lớn với các doanh nghiệp dệt may. Các sản phẩm may mặc nội địa ngày càng được người
tiêu dùng ưa chuộng. Những năm gần đây, hàng dệt may tiêu thụ nội địa tăng trung bình
22


10-15%/năm. Riêng tiêu thụ nội địa hàng dệt may trong năm 2014 đã đạt 70 ngàn tỷ
đồng. Trước đây, các doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng tới việc nghiên cứu phát triển thị
trường, bị động trong việc sáng tạo thiết kế mẫu mã và bao bì sản phẩm. Vì vậy nhiều
đoạn khúc thị trường còn bỏ trống, tạo điều kiện cho nhiều sản phẩm ngoại xâm nhập
vào thị trường trong nước khiến bỏ trống thị trường nội địa với hàng triệu khách hàng
tiềm năng.
Hiện nay, ngành dệt may đã từng bước nỗ lực đầu tư cho sản xuất, tích cực mở
rộng kênh phân phối để chiếm lĩnh thị phần, đẩy lùi hàng nhập ngoại kém chất lượng.
Một số thương hiệu đã khẳng định trên thị trường trong nước như May 10, May Việt
Tiến, Gấm Thái Tuấn, Dệt Kim Đồng Xuân, áo sơ mi An Phước... Không chỉ đứng vững
trên thị trường trong nước mà còn giúp ngành dệt may Việt Nam tạo dựng tên tuổi trên
thị trường nước ngoài. Hiện nay, các doanh nghiệp đều tập trung hướng đến các thương
hiệu thời trang cao cấp như: Grusz của May 10, Merriman của Hòa Thọ, Mattana của
Nhà Bè… Đây là bước đi táo bạo của ngành dệt may, là sự biến đổi cả về lượng và chất,

giúp người tiêu dùng có thêm nhiều lựa chọn đối với sản phẩm dệt may Việt Nam chất
lượng cao.
-Theo một số doanh nghiệp trong ngành dệt may, những tháng đầu năm 2016, đơn
hàng xuất khẩu có dấu hiệu chững lại, đặc biệt đơn hàng giảm trong quý I và đầu quý II.
Một số doanh nghiệp dệt may lớn thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam
Hình 1: Thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

Nguồn: (Theo Bộ Công Thương )
23


-Theo Bộ Công Thương, 5 tháng đầu năm 2016, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt và
may mặc ước đạt 8,6 tỷ USD, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2015.Dự báo, đến hết
tháng 6, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 7,5 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ, tiếp tục
là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cả nước.
-Bộ Công Thương cũng thừa nhận các doanh nghiệp ngành dệt may đang gặp khó
khăn trong việc tìm kiếm các đơn hàng mới, đặc biệt là các đơn hàng áo sơ mi, quần,
jacket.
-Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2016 tăng
trưởng khá, nhưng chủ yếu là do sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI.
Trong những năm gần đây ngành công nghịêp dệt may đã có những bước tiến
vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khoảng 30%/năm, trong lĩnh vực xuất
khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm và chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Tính đến nay cả nước có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may, trong đó doanh
nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 370 doanh
nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 221 doanh nghiệp.
-Thực tế cho thấy ngành dệt may nói chung đang phải đối mặt với một loạt các vấn
đề khó khăn. Các chuyên gia đều cho rằng 3 yếu tố khiến hàng dệt may của Việt Nam
không thể cạnh tranh với các nước là chính sách tỷ giá cố định, tiền lương tối thiểu và lãi
vay ngân hàng.

Theo các chuyên gia nước ngoài, hiện Việt Nam là quốc gia được đánh giá có năng
lực cạnh tranh cao tại chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu. Và chọn Việt Nam làm Trung
tâm sản xuất hàng dệt may XK đang là đích đến của nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
Năm 2014, đã có gần 20 dự án FDI mới đầu tư vào lĩnh vực dệt may. Như vậy, cùng với
dư địa phát triển lớn đến từ thị trường thế giới, ngành dệt may có nhiều cơ hội bứt phát
trong năm 2015. Với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định như hiện nay, ngành dệt may
không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với mục tiêu phục hồi đà tăng trưởng kinh tế mà
còn đảm bảo cân bằng cán cân thương mại của Việt Nam. Do vậy ngành sẽ còn nhận

24


được nhiều sự quan tâm, đầu tư hỗ trợ chiến lược từ Chính phủ cũng như các nhà đầu tư
nước ngoài.
Tương lai, ngành dệt may sẽ trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi
nhọn của nước ta trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa.
2.1.2 Thực trạng chất lượng sản phẩm ngành dệt may ở các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam
2.1.2.1 Chất lượng sản phẩm ngành dệt may được phản ánh qua các thuộc tính
Nhu cầu về sản phẩm Dệt may ngày càng tăng lên theo mức độ tăng thu nhập của
người dân. Khi thu nhập đủ cao để đáp ứng mọi nhu cầu thiết yếu của con người thì hàng
Dệt may không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu mặc, mà còn để đáp ứng nhu cầu về
thời trang, nhu cầu được mặc đẹp của mọi người. Như vậy, khi đời sống của cư dân ngày
càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm dệt may càng nhiều, đặc biệt là sản phẩm
có chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi ngành Dệt may phải không ngừng đổi mới, đồng thời
thúc đẩy ngành phát triển không ngừng.
Chất lượng là tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều thành phần, nhiều bộ phận hợp
thành, chất lượng được hình thành trong tất cả các công đoạn của quá trình. Vì vậy, nó
cần phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình trước, trong và sau sản
xuất.

Hiện nay các thương hiệu trong nước hiện chưa đủ tầm vóc; còn các thương hiệu
tên tuổi nước ngoài chưa bản địa hóa được tới mức phù hợp với đa số vóc dáng và “gu”
thẩm mỹ của người Việt. Vì thế cuộc cạnh tranh trên thị trường may mặc nội địa lúc này
dồn vào kiểu dáng và chất liệu.

25


×