PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người
không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần
xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “đức, trí, thể, mỹ”ở những mức độ
khác nhau. Thông qua Lịch sử, các em không chỉ thấy được quá trình phát triển
của, địa phương, quê hương, đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là cả xã hội loài
người. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng trong việc hình thành, bồi dưỡng
nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy, so với các môn học khác thì
môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đối với thế
hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu,
ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà còn góp phần định hình
cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống, vận dụng kinh nghiệm vào
cuộc sống.
Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ,
nhưng hiện nay, việc dạy học Lịch sử chưa phát huy tốt vai trò của mình và một
thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch
sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, bắt buộc, thiếu chính xác, thiếu
hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự
kiện, niên đại, khô khan...Lịch sử là một khoa học nghiên cứu về quá khứ mà
quá khứ là những cái đã qua không thể thay đổi, cũng không thể chứng kiến nên
chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do
bản thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy
được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ
môn khoa học, cần phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa
tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình
1
trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không
khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi chọn đề tài "tích hợp kiến thức liên
môn trong giảng dạy Bài 15- tiết 2: “II.Sự phát triển văn hóa thời Trần”.
Lịch sử 7” để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp
liên môn để giải quyết một vấn đề lịch sử cụ thể. Nhằm giúp giáo viên lịch sử có
thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử một cách sinh động, giúp cho học sinh
hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chương trình lịch sử cấp THCS.
2
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1- Cơ sở lý luận:
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy
học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy
học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các
môn học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học,
tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với
nhau “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng
tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm
của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái
toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này”
Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức
liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình
thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm
giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn
còn gặp nhiều khó khăn lúng túng.
2- Cơ sở thực tiễn:
Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu
biết về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con
người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ
thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô
khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch
sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được
sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không
3
nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội,
về kiến thức liên môn.
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho
giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử,
kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi
giáo viên dạy sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn
phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật,
khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm
bài giảng.
II- NỘI DUNG CỤ THỂ:
1.Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 7 trường THCS Yên Hòa.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp sưu tầm tài liệu
- Phương pháp phân tích,tổng hợp, khái quát.
- Dạy thử nghiệm trên lớp.
3- Một số nội dung tích hợp cụ thể:
Tôi sẽ sử dụng kiến thức một số môn có vấn đề liên quan tích hợp vào một số
nội dung của Bài 15: “Sự phát triển kinh tế, văn hóa thời Trần”- Tiết 2: “Sự phát
triển văn hóa”. Cụ thể:
3.1 Tích hợp với môn Ngữ Văn:
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong
việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến
thức trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết
để thu hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới.
Để tạo nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến
thức văn học vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài
giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Văn Học và Lịch Sử có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho
môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có
thể nhận thức một cách rõ ràng.Như vậy sử dụng tích hợp kiến thức văn học
4
trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ
lâu bài học mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho
học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình.
Trong bài “Sự phát triển văn hóa”tôi sẽ tích hợp kiến thức văn học vào
mục “Đời sống văn hóa”, “Văn học”, “Giáo dục và khoa học – kỹ thuật”.
Khi dạy mục “1.Đời sống văn hóa” đến phần địa vị Nho giáo ngày càng
phát triển, nhiều nhà nho được Triều đình coi trọng trong đó đặc biệt là thầy
giáo Chu Văn An. Chúng ta sẽ sử dụng văn bản “Người thầy đạo cao đức
trọng” trong chương trình văn học lớp 8 để giới thiệu về chu Văn An: Chu Văn
An nổi tiếng là một thầy giáo giỏi, tính tình cứng cỏi, không màng danh lợi. Học
trò theo ông rất đông, nhiều người đỗ cao và giữ chức vị cao trong triều. Đến đời
vua Dụ Tông, tin dùng bọn nịnh thần, ông nhiều lần can ngăn nhưng vua không
nghe, cuối cùng ông trả lại mũ áo từ quan về quê...
Khi dạy mục”2. văn học” chúng ta sẽ sử dụng kiến thức văn học lớp 10
“Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX” để nói về Văn học
chữ Hán và văn học chữ Nôm:
Văn học chữ Hán
- là các sáng tác bằng chữ Hán
Văn học chữ Nôm
- Là các sáng sáng tác bằng chữ
của người Việt.
nôm của người Việt.
- Ra đời tồn tại và phát triển cùng
- Xuất hiện vào khoảng cuối thế
với quá trình hình thành và phát
kỷ XVIII, tồn tại , phát triển đến
triển của văn học trung đại.
thời kỳ văn học trung đại.
- Thể loại: Hịch, cáo, chiếu, biểu,
- Thể loại : chủ yếu là thơ.
thơ đường luật...
- Ví dụ: Truyện Kiều, Lục Vân
- Ví dụ: Bình Ngô đại cáo, Hịch
Tiên, thơ Nôm Đường luật...
tướng sĩ
Khi giới thiệu cho học sinh về Trần Quốc Tuấn và tác phẩm “Hịch tướng sĩ”
chúng ta sẻ sử dụng kiến thức văn 8 với văn bản “Hịch tướng sĩ” :
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa, chỉ giận chưa thể xẻ thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân ta
5
phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm...” Nội
dung tác phẩm khích lệ tinh thần hi sinh vi nước, lòng trung quân ái quốc, khích
lệ lòng căm thù giặc của quân sĩ. Đồng thời thể hiện sự quan tâm mọi mặt, cùng
nhường cơm sẻ áo, đồng cam cộng khổ, xông pha trận mạc vào sinh ra tử cùng
với quân sĩ...
Khi giới thiệu về Trần Quang Khải với bài thơ “Phò giá về kinh” chúng ta sẽ sử
dụng kiến thức văn lớp 7 với văn bản “Phò giá về kinh”:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.
Ý nghĩa của bài thơ: Thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình
thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.
Khi giới thiệu về Trương hán Siêu và bài “Phú sông bạch Đằng” chúng ta
sẽ sử dụng kiến thức văn lớp 10 với văn bản “Bạch Đằng giang phú”: bài thơ thể
hiện cảm xúc của tác giả trước Bạch Đằng giang cũng như những chiến công
trên sông Bạch Đằng...
Dạy đến phần 3. “Giáo dục và khoa học – kỹ thuật”, khi đề cập đến lĩnh
vực y học ta sẽ sử dụng kiến thức văn 6 kể lại câu chuyện về y đức của Tuệ Tĩnh
. Còn khi nói về Hồ Nguyên Trừng chúng ta cũng sử dụng kiến thức văn lớp 6
trong văn bản “ Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” để mở rộng kiến thức.
3.2 Tích hợp với môn Mĩ thuật:
Không những môn Lịch sử chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức với môn
Ngữ văn mà còn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức môn Mĩ thuật.
Trong bài này chúng ta tập trung vào việc cho học sinh xem các tranh, ảnh về
nghệ thuật kiến trúc điêu khắc thời Trần và đưa ra các câu hỏi cho học sinh thảo
luận:
Khi tiến hành dạy mục 4 “Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc” giáo viên sẽ
đưa các hình ảnh về tháp Phổ Minh, thành Tây Đô, Hoàng thành Thăng Long,
hình ảnh về tượng hổ,sư tử....cho học sinh quan sát theo nhóm và nêu những
6
nhận xét của mình. Giáo viên cũng có thể cho các nhóm vẽ phác họa “hình đầu
rồng men lục” trong một vài phút sau đó cho nhận xét.
4- Hiệu quả của sáng kiến:
Khi thực hiện giảng dạy tích hợp kiến thức môn Ngữ văn, Mĩ thuật vào bài dạy
này tôi thấy hiệu quả đáng kể: Áp dụng ở lớp 7A tôi thấy không khí học của các
em sôi nổi, hào hứng hơn hẳn và quan trọng hơn sau bài dạy này tôi đã tiến hành
kiểm tra 15 phút ngay tiết tiếp theo ở cả hai lớp 7A và 7B. Lớp 7B không tích
hợp liên môn, kết quả điểm kiểm tra đã có sự khác biệt giữa hai lớp ( trình độ
học sinh hai lớp tương đương nhau), cụ thể như sau:
Lớp 7A
Lớp 7B
Điểm giỏi
3/32 (9.4%)
Điểm giỏi
1/32 (3.1%)
Điểm khá
12/32 (37.5%)
Điểm khá
7/32 (21.9%)
Điểm trung bình
15/32 (46.8%)
Điểm trung bình
22/32 (68.7%)
Điểm yếu
2/32 (6.3%)
Điểm yếu
2/32(6.3%)
III- KẾT LUẬN
Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung
và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả
đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thấy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào,
không phải phần nào cũng thực hiện được.
Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học
Sử như hiện nay, không chỉ đổi mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy
nghĩ của mọi người, của xã hội về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con
người. Hơn nữa, để cải thiện chất lượng dạy và học môn Sử hiện nay không phải
chỉ có giáo viên cố gắng mà học sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập và
cần có sự quan tâm của cả xã hội.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
7
- Nhà trường tạo điều kiện tiến hành các cuộc họp trao đổi chuyên môn
giữa các giáo viên để các giáo viên bộ môn có điều kiện giúp đỡ nhau trong
công việc tích hợp.
- Thiết kế lại nội dung chương trình - sách giáo khoa các môn học theo
hướng tích hợp.
- Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được
yêu cầu học tập tích hợp.
- Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ
mục tiêu đến nội dung, PP để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên khi thực
hiện chương trình tích hợp.
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh
giá theo hướng tích hợp.
- Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn
hoc.
Trên đây là những đề xuất của tôi trong việc tích hợp kiến thức liên môn
vào giảng dạy bộ môn Lịch sử trong các nhà trường THCS. Đồng thời mạnh dạn
đưa ra một số nội dung tích hợp môn ngữ văn và mỹ thuật vào giảng dạy bài 15
phần II. “Sự phát triển văn hóa thời Trần” trong chương trình lịch sử lớp 7. Hy
vọng vấn đề tôi đưa ra trong sáng kiến này sẽ phần nào góp phần giúp cho các
đồng nghiệp có thêm kinh nghiệm.
Những kinh nghiệm của tôi chắc chắn còn có thiếu sót cũng mong bạn bè, đồng
nghiệp và người đọc bổ sung góp ý. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Yên Hòa ngày 25/11/2014
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Na
8