HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA AĐAM SMITH
I- TIỂU SỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA AĐAM SMITH
1. Những tiền đề kinh tế - xã hội
Vào thế kỷ XVI ở nước Anh đã diễn ra cuộc cách mạng ruộng đất,
quá trình này vẫn tiếp diễn trong thế kỷ XVII, XVIII. Những năm 60 của
thế kỷ XVIII cuộc cách mạng công nghệ ở Anh bắt đầu và kết thúc trong
những năm 20 của thế kỷ XIX. Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho
chủ nghĩa tư bản Anh phát triển mạnh mẽ và vững chắc, nước Anh đã
trở thành “công xưởng” của thế giới, các nhà tư bản giàu lên nhanh
chóng. Thương nghiệp xuất khẩu đã phụ thuộc vào công nghiệp, công
nghiệp được đưa lên hàng đầu. Các chính sách của chủ nghĩa trọng
thương không còn thích hợp với sự phát triển mới của công nghiệp. Vấn
đề ruộng đất, nông nghiệp ở Anh đã được giải quyết trên cơ sở của chủ
nghĩa tư bản.
Sự phát triển của nền công nghiệp Anh đã phá vỡ những hạn chế
của chế độ phong kiến, khuynh hướng chống phong kiến trở nên mạnh
mẽ hơn và triệt để hơn. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã tin tưởng
vào tính chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến. Họ
cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn. Đại biểu tư tưởng của giai
cấp tư sản trong giai đoạn này là Ađam Smith, ông là nhà tư tưởng tiên
tiến muốn thủ tiêu tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản
phát triển, kêu gọi tích luỹ và phát triển lực lượng sản xuất theo chủ
nghĩa tư bản. K.Marx coi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của công
trường thủ công.
2. Tiểu sử của Ađam Smith (1723 – 1790)
A.Smíth xuất thân từ một gia đình viên chức thuế quan ở
Kiếccanđi, một thành phố nhỏ của xứ Scốtland. Lúc đầu A.Smíth học ở
trường đại học Glasgow, sau đó học ở trường đại học Oxford. Sau khi
tốt nghiệp đại học, ông nghiên cứu và giảng dạy ở Edinburgh và
Glasgow trong 13 năm. Ông giảng về thần học, luân lý học, luật học,
lôgíc, chính trị trong đó có đề cập đến nhiều vấn đề kinh tế. Các bài
giảng của A.Smith được nhiều người quan tâm. Trong quá trình dạy học
A.Smíth còn nghiên cứu nhiều về văn học, vật lý học, thiên văn học, như
vậy A.Smíth có kiến thức rất sâu rộng:
Năm 1759 A.Smíth xuất bản cuốn “Lý luận đạo đức”. Với cuốn
sách này đã làm cho ông nổi tiếng.
Năm 1765, A.Smíth đi du lịch Châu Âu, ông đã tiếp xúc được với
những người trọng nông ở Pháp. Những quan điểm của trường phái
trọng nông đã ảnh hưởng nhiều tới ASmíth.
Sau khi ở Pháp về 1766, ông xin nghỉ việc và tập trung nghiên cứu
kinh tế. Năm 1776 ông xuất bản tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và
nguồn gốc của tài sản các dân tộc”. Tác phẩm này đã làm cho ASmít nổi
tiếng trên thế giới.
3. Thế giới quan, phương pháp luận của Ađam Smith
Thế giới quan của A.Smíth - chủ yếu là duy vật. Ông tiến xa hơn
những người đi trước là đã phân tích tính khách quan của các quy luật
kinh tế, coi quy luật kinh tế là vô địch. Nhưng chủ nghĩa duy vật ở ông
mang tính tự phát máy móc. Ông chưa hiểu về phép biện chứng.
K.Marx đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của
ASmith đó là phương pháp hai mặt; một mặt, A.Smíth đi sâu tìm hiểu
bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên
trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô
tả, liệt kê, thuật lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu
hiện bề ngoài của đời sống kinh tế và do đó cũng thường dẫn ông đến
những kết luận phi lý tầm thường. Hai phương pháp này của A.Smíth
luôn sống bên nhau quyện chặt vào nhau và thường xuyên mâu thuẫn
với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu thuẫn, thiếu nhất
quán. Phương pháp luận đầy mâu thuẫn, vừa khoa học vừa tầm thường
của A.Smíth có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
II- CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA A ĐAM SMÍTH
1. Lý luận về phân công lao động
Là nhà kinh tế học thời kỳ công trường thủ công; A.Smíth chú trọng
phân tích sự phân công. Ông cho rằng cội nguồn của cải là lao động; tài
sản của xã hội phụ thuộc vào hai nhân tố:
Thứ nhất, phụ thuộc vào số người lao động trong các ngành sản xuất
vật chất. Ông có công lớn là người đầu tiên phân biệt lao động sản xuất
vật chất và lao động không sản xuất vật chất.
Thứ hai, phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công. Song đã
gắn phân công lao động với năng suất lao động.
Theo A.Smíth phân công là nguyên nhân làm tăng thêm của cải xã
hội, là “một sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát triển của lao động”.
Phân công lao động có nhiều ưu điểm: chuyên môn hoá sản xuất, phát
triển sự khéo léo, tài năng, tính tháo vát của người lao động; tiết kiệm
thời gian khi chuyển từ công việc này sang công việc khác, tạo điều kiện
để áp dụng phương tiện máy móc.
Như vậy, phân công lao động làm tăng thêm hiệu suất của lao động,
tăng năng suất lao động. A.Smíth cũng vạch ra mặt trái của sự phân
công lao động: làm cho công nhân phát triển phiến diện, mắc bệnh nghề
nghiệp...
Ông cho rằng, khả năng trao đổi dẫn tới sự phân công lao động,
mức độ phân công lại phụ thuộc vào quy mô thị trường điều kiện để
thực hiện sự phân công là mật độ dân số cao và sự phát triển của giao
thông liên lạc.
Hạn chế của A.Smíth trong lý luận về phân công lao động là xem
xét một cách phi lịch sử vấn đề phân công, ông chưa phân biệt được
phân công của công trường thủ công với phân công xã hội, do đó đã đem
những kết luận rút ra từ phân công công trường thủ công để áp dụng vào
phân công xã hội, chưa chú ý đến mặt xã hội của sự phân công. Cho
rằng, trao đổi quyết định phân công lao động, thực ra là ngược lại.
2. Lý luận về tiền tệ
A.Smíth nghiên cứu tiền tệ trước khi nghiên cứu hàng hóa, ông đã
trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ, thông qua sự phát triển của lịch sử
trao đổi. Ông cho rằng tiền chỉ là phương tiện kỹ thuật làm cho trao đổi
được thuận tiện. Việc thay thế những đồng tiền vàng và bạc bằng tiền
giấy là hoàn toàn hợp lý vì tiền giấy có nhiều ưu điểm. A.Smíth cho rằng
tiền giấy rẻ hơn, còn ích lợi thì cũng thế. Ông hiểu được tiền là một thứ
hàng hoá tách ra, nghĩa là biết được bản chất hàng hoá của tiền.
A.Smíth đã nêu lên quy luật phát hành tiền giấy: số lượng tiền giấy
phải tương đương với số lượng vàng mà tiền giấy thay thế trong lưu
thông. Ông ủng hộ và phát triển quan điểm của W.Petty về quy luật lưu
thông tiền tệ. Ông chỉ ra việc phát hành tiền giấy cần phải cho ngân hàng
đảm nhiệm, ông đánh giá cao vai trò của tín dụng coi đó là phương tiện
làm cho tư bản năng động hơn.
Lý luận về tiền tệ của A.Smíth tuy còn sơ lược nhưng đúng đắn.
Tuy nhiên ở ông còn nhiều hạn chế, Ông đã đơn giản hoá nhiều chức
năng của tiền tệ, quá nhấn mạnh chức năng phương tiện lưu thông của
tiền tệ. Ông cũng bộc lộ mâu thuẫn, một mặt, rơi vào chủ nghĩa hình
thức cho rằng tiền có thể thay thế bằng mọi thứ, mặt hkác chống lại việc
giảm giá tiền đúc.
3. Lý luận về giá trị
A.Smíth có công lớn khi ông phân biệt được giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi. Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao
đổi và đã kịch liệt phê phán lý luận về lợi ích của Caliton và Tuýecgô,
ông khẳng định ích lợi không có liên hệ gì tới giá trị trao đổi, A.Smíth
nói rằng - không khí chẳng có chút gì giá trị, mặc dù nó rất có ích.
A.Smíth đã nêu hai định nghĩa về giá trị hàng hoá; định nghĩa thứ nhất
giá trị là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đây là
khái niệm đúng đắn về giá trị. A.Smíth còn nêu định nghĩa thứ hai về giá trị
của hàng hoá là do lao động quyết định, mà lao động đó có thể mua bán, đổi
lấy hàng hoá.
Ở định nghĩa thứ nhất, A.Smíth tỏ ra là người đứng vững trên cơ sở
lý thuyết về giá trị lao động nhưng định nghĩa thứ hai lại bộc lộ sự lẫn
lộn giữa lao động sống và lao động quá khứ.
Khi bàn về các bộ phận cấu thành giá trị của hàng hoá, A.Smíth cho
rằng trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là
ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của mọi giá trị trao
đổi. A.Smíth coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là nguồn gốc đầu tiên
của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Nhưng ông lại sai lầm khi
coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi.
Ông đã lẫn lộn vấn đề hình thành giá trị và vấn đề phân phối giá trị, ông
xem thường tư bản bất biến (c), coi giá trị chỉ có (v + m). A.Smíth đã
biến các bộ phận thu nhập từ giá trị thành nguồn gốc của giá trị, tức là
giá trị của hàng hoá do tiền lương, lợi nhuận địa tô quyết định. A.Smíth
giải thích luẩn quẩn rằng giá trị là do giá trị quyết định. A.Smíth đã sai lầm
cho rằng, trong xã hội trước chủ nghĩa tư bản, giá trị do lao động quyết
định còn trong chủ nghĩa tư bản, giá trị do thu nhập quyết định.
A.Smíth đã chú ý tới việc xác định lượng giá trị của hàng hoá, ông
cho rằng lao động là tiêu chuẩn để đo lường giá trị. Ông đề cập tới lao
động giản đơn và lao động phức tạp có ảnh hưởng khác nhau đến lượng
giá trị của hàng hoá.
A.Smíth đã phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả thị trường. Theo
A.Smíth giá cả tự nhiên là giá cả ngang với mức cần thiết để trả cho địa
tô, tiền công và lợi nhuận của tư bản theo các tỷ suất tự nhiên (mang tính
khách quan). Giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá, chịu ảnh
hưởng của biến động cung cầu, của yếu tố độc quyền và chính sách của
chính phủ, giá cả tự nhiên là trung tâm, giá cả thị trường phải hướng về
giá cả tự nhiên. Giá cả tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên
của mỗi bộ phận cấu thành nó. Khi giải thích về giá cả tự nhiên, A.Smíth
chưa thấy được trong điều kiện tư bản tự do cạnh tranh, giá cả tự nhiên
được quy định bởi giá cả sản xuất. Ông chưa chỉ ra được giá cả sản xuất
gồm chi phí sản xuất của tư bản cộng với lợi nhuận bình quân.
Công lao chủ yếu của A.Smíth về lý luận giá trị là đã phân biệt được
giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, hơn nữa ông đã cho rằng lao động là
“thước đo thực tế của giá trị”. Song ở ông vẫn còn có những sai lầm và hạn
chế về lý luận này.
4. Lý luận về phân phối
Phân phối thu nhập là điểm trung tâm và là cơ sở xuất phát giải
quyết các vấn đề lý luận trong học thuyết kinh tế của A.Đam Smith. Ông
đã lấy học thuyết về thu nhập để giải thích các quan hệ phân phối, kết
cấu giai cấp và mâu thuẫn giai cấp.
A.Smith chia xã hội tư bản thành 3 giai cấp; giai cấp những người
chiếm hữu ruộng đất, giai cấp các nhà tư bản (cả tư bản công nghiệp,
thương nghiệp, nông nghiệp) và giai cấp công nhân.
Công lao của A.Smith là đã gắn ba giai cấp đó với ba hình thức thu
nhập: địa tô, lợi nhuận và tiền lương.
- Về tiền lương. A.Smith cho rằng, trước chủ nghĩa tư bản, tiền
lương là sản phẩm trọn vẹn của lao động. Trong xã hội tư bản, tiền
lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần của
sản phẩm lao động. Ông chỉ rõ mâu thuẫn giữa các nhà tư bản và công
nhân, “công nhân muốn lĩnh được càng nhiều càng tốt, còn chủ thì
muốn trả công ít càng hay”. Giải quyết mâu thuẫn này, lợi thế đều
thuộc về tư bản, công nhân ở vào thế bất lợi. Ông tán thành trả tiền
lương cao. A.Smíth cho rằng, tiền công không thể hạ thấp quá một
giới hạn nhất định, phải bảo đảm cho công nhân cuộc sống để họ lao
động, phải để cho “những người nuôi xã hội phải nhận được một số
thức ăn, quần áo và nhà ở khả dĩ có thể chịu được”. Một xã hội không
thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành
viên của nó nghèo nàn và khổ sở.
A.Smíth cho rằng, hai yếu tố quyết định mức tiền lương là cầu về
lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh hoạt thiết yếu. Lượng cầu về lao động quyết định mức tư liệu sinh hoạt, giá cả quy định số tiền
công mà công nhân nhận được. Từ luận điểm này, ông xác định sự khác
nhau giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa. Theo ông, sự
khác nhau về tiền lương giữa các loại lao động là do: tính chất dễ chịu
hay khó chịu của công việc; mức độ khó khăn và đắt đỏ trong việc dạy
nghề, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của công việc;
mức độ tín nhiệm; khả năng thành đạt; tình hình di chuyển lao động;
A.Smíth chỉ ra mức tiền công trung bình ở mỗi nước hay mỗi địa
phương là do trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh và tính chất
đặc biệt của ứng dụng lao động và tư bản.
A.Smíth có nhiều luận điểm đúng đắn về tiền lương, ông đã chỉ rõ
cơ sở kinh tế của mâu thuẫn giai cấp. Tuy nhiên, ở ông vẫn còn một số
hạn chế coi tiền lương là phạm trù vĩnh viễn là giá cả của lao động chưa
thấy được tiền lương là giá cả sức lao động.
- Về lợi nhuận và lợi tức
Theo A.Smíth, lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm
do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động đem lại. Theo cách giải
thích của A.Smíth thì lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là những hình thái
khác nhau của giá trị thặng dư. K.Marx đánh giá cao A.Smíth đã nêu
được nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư, đẻ ra từ lao động... Luận
điểm này của A.Smíth là thành tựu cao nhất của kinh tế chính trị tư sản
cổ điển trong thời kỳ tiến bộ của nó.
Tiến bộ hơn chủ nghĩa trọng nông, A.Smíth cho rằng không chỉ có
lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận.
A.Smíth chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận: tiền công; quy
mô tư bản ứng trước; lĩnh vực đầu tư; sức cạnh tranh giữa các nhà tư
bản; sự can thiệp của nhà nước. Ông đã nhìn thấy “khuynh hướng
thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau” của tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút
và cho rằng tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp.
Khi nói về lợi tức, A.Smith cho rằng, lợi tức là một bộ phận của lợi
nhuận, được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản đi vay được trả bằng
cách lấy vào lợi nhuận thuần tuý và do mức lợi nhuận thuần tuý quyết
định. Đó là quan điểm đúng, nhưng ông chưa phân tích một cách đầy đủ.
Lý luận về lợi nhuận và lợi tức của A.Smíth có nhiều luận điểm
đúng đắn, khoa học. Tuy nhiên ở ông còn có những hạn chế như không
thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, lợi nhuận do
toàn bộ tư bản đẻ ra. Ông còn cho rằng trong lĩnh vực sản xuất cũng như
trong lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau; chưa thấy được
vai trò cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng làm chậm tốc độ chu chuyển của
tư bản đã dẫn tới tỷ suất lợi nhuận giảm.
- Về địa tô: A.Smíth có hai luận điểm về khái niệm địa tô: Một là
địa tô là “khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động” là kết quả của
việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; hai là, địa tô là “tiền trả về việc sử
dụng đất đai”, phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai”. Như vậy,
ông đã phát hiện được độc quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện chiếm
hữu địa tô. Cả hai luận điểm trên đã phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp
địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp.
Quan hệ giữa địa tô và giá cả, A.Smíth cho rằng “quy mô của địa tô
nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm”, ông coi địa tô là kết quả
của giá cả độc quyền.
Về các hình thức địa tô, A.Smíth đã phân biệt được địa tô chênh
lệch do màu mỡ đất đai và vị trí của đất đai đưa lại nhưng ông không đi
sâu nghiên cứu địa tô - chênh lệch II.
A.Smíth có nhiều luận điểm đúng đắn, khoa học về địa tô đã chỉ
ra mức tô trên mảnh đất ruộng là do thu nhập của mảnh ruộng đó
đưa lại; chỉ rõ địa tô trên những ruộng canh tác cây lương thực quyết
định địa tô trên ruộng trồng cây khác. Song ông vẫn còn những sai
lầm và hạn chế: coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn, có những kết luận
trái ngược nhau: một mặt, coi địa tô là kết quả của giá cả cao; mặt
khác, ông coi địa tô là một bộ phận cấu thành giá cả. A.Smíth chưa
hiểu được địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối; ông còn
cho rằng năng suất lao động nông nghiệp cao hơn năng suất lao
động công nghiệp do nông nghiệp có sự giúp đỡ của tự nhiên.
5. Lý luận của A.Smíth về tư bản
Lý luận về tư bản là một trong những phần quan trọng trong lý luận
kinh tế của A.Smíth. A.Smíth cho rằng vật phẩm tiêu dùng không phải là
tư bản, tư bản là tư liệu sản xuất nhưng cũng không phải mọi tư liệu sản
xuất đều là tư bản, chỉ có tư liệu sản xuất do lao động tạo nên mới là tư
bản. Ông nói rằng bộ phận tài sản đem lại lợi nhuận mới là tư bản.
A.Smíth đã phân biệt tư bản với ý nghĩa toàn dân (tư bản xã hội) và
tư bản với ý nghĩa cá nhân (tư bản cá biệt). Ông đã có công làm cho
phạm trù tư bản trở thành phổ biến, ông cho rằng tư bản là bộ phận của
cải được dùng cho mọi ngành sản xuất kinh doanh. Những thiếu sót của
ông là đã lẫn lộn vật biểu hiện tư bản với bản thân tư bản, đồng nhất tư
liệu sản xuất với tư bản.
Phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động. A.Smíth cho rằng, tư
bản lưu động là tư bản mang lại thu nhập cho người chủ của nó do kết
quả của việc bán hàng hoá. Tư bản lưu động gồm có: tiền, dự trữ lương
thực, nguyên vật liệu bán thành phẩm và thành phẩm. Ông cho rằng tư
bản của thương nhân thuộc về tư bản lưu động. Tư bản cố định là tư bản
đem lại lợi nhuận, “không chuyển từ tay kẻ sở hữu này qua tay kẻ sở
hữu khác, không lưu thông”. Tư bản cố định bao gồm: máy móc, công
cụ lao động, các công trình xây dựng đem lại thu nhập, công trình cải tạo
đất đai và những năng lực có ích của dân cư. Nghiên cứu lý luận về tư
bản cố định và tư bản lưu động. K.Marx cho rằng, A.Smíth có bước tiến
hơn so với phái trọng nông, nhưng cũng có một bước lùi so với trường
phái này. Bước tiến của A.Smíth là ở chỗ ông đã khắc phục được những
hạn chế của phái trọng nông, chỉ nói tới tư bản cố định và tư bản lưu
động trong nông nghiệp, còn A.Smíth xác định mọi ngành sản xuất đều
có tư bản cố định và tư bản lưu động, đã nêu được định nghĩa về hai loại
tư bản này. Bước thụt lùi của A.Smíth so với trường phái trọng nông là ở
chỗ những người trọng nông đã nêu ra khoản ứng trước đầu tiên và
khoản ứng trước hàng năm, còn A.Smíth thì lẫn lộn giữa tư bản dùng
trong sản xuất và tư bản trong lưu thông. Do đó, ông không phân biệt
được tư bản lưu động và tư bản lưu thông. Phương pháp phân chia tư
bản lưu động và tư bản cố định cũng không đúng đắn và không nhất
quán dựa vào đặc tính của vật thể để phân chia: Đứng im là cố định,
chạy như tàu biển là lưu động.
6. Lý luận về tái sản xuất
A.Smíth dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao động để xây dựng lý
luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hoá bao gồm các thu
nhập: tiền - công, lợi nhuận, địa tô. Theo ông “tiền công, lợi nhuận và
địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào... tổng giá trị trao
đổi hay giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ
phận đó”. Như vậy tổng giá trị của hàng hoá chỉ có ( v + m), chỉ bằng
giá trị mới sáng tạo ra, còn bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản
xuất đã bị A.Smíth loại ra khỏi giá trị của hàng hoá. Ông coi giá trị của
tư liệu sản xuất nằm trong tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Sai lầm của
A.Smíth là ông lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm với giá trị mới sáng
tạo ra; ông không thấy được tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá, không thấy được sự chuyển dịch giá trị cũ và sự sáng tạo ra
giá trị mới. A.Smíth đã vấp phải vấn đề cần phải phân biệt trong lý luận,
đó là hai hình thức lao động, một thứ cung cấp những vật phẩm tiêu
dùng, còn một thứ cung cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng
(máy móc, công cụ). Lênin cho rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa
nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho
sản xuất. Như vậy, A.Smíth đã có một bước tiến dài so với những người
trước ông. Ở ông đã có mầm mống thiên tài về sự phân chia nền sản
xuất thành hai khu vực. Chính K.Marx đã bắt gặp “gợi ý” của A.Smíth
và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản phẩm
xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng, K. Marx
đánh giá cao A.Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích luỹ thì
phải giành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận
điểm này của A.Smíth nói rõ nguồn gốc của tích luỹ tư bản là lao động.
Nhưng ông đã phạm sai lầm cho rằng việc tích luỹ tư bản chỉ là việc
biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản
bất biến phụ thêm.
Lý luận tái sản xuất của A.Smíth đã đề cập đến sản phẩm - chia làm
hai nhóm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; giá trị sản phẩm gồm có
c + v + m, phân chia nền sản xuất xã hội 2 khu vực, nhưng phân tích lý
giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này phải chờ đến Mác mới giải
quyết được.
Trong tất cả các vấn đề nghiên cứu của A.Smíth đều chứa đựng mâu
thuẫn. Điều này do ông một mặt, cố gắng xâm nhập vào cái sinh lý nội
tại bên trong của xã hội tư bản; mặt khác cố gắng miêu tả những hình
thái sinh động biểu hiện bên ngoài của xã hội. Lý luận kinh tế của ông
vừa chứa đựng những nhân tố khoa học, vừa chứa đựng những nhân tố
tầm thường.
Công lao lớn nhất của A.Smíth là đã đưa khoa học kinh tế chính trị
thành một hệ thống.
Câu hỏi ôn tập
1. Đồng chí hãy trình bày nội dung học thuyết giá trị lao động của
A. Smith. Tính hai mặt trong phương pháp luận của A. Smith được thể
hiện như thế nào trong học thuyết giá trị lao động?
2. Trình bày nội dung của học thuyết về bàn tay vô hình của A.
Smith? Học thuyết này có vị trí như thế nào trong hệ thống học thuyết
kinh tế tư sản hiện đại?