CÁC HỌC THUYẾT KINH KẾ CỦA
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
I . HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương hay trường phái coi trọng thương mại là hệ thống
tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XV, phát triển
tới giữa thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất phong kiến tan rã,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời, gắn liền với nó là quá
trình tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, tước đoạt nền sản xuất nhỏ và tích luỹ
tiền tệ...tạo điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. C.Mác cho rằng,
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản cần phải có 2 điều kiện: một là, phải tích luỹ
một số tiền lớn vào tay giai cấp tư sản để tổ chức sản xuất kinh doanh theo
lối tư bản chủ nghĩa; hai là, phải có một tầng lớp người lao động bị mất hết tư
liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động, trở thành người lao động làm thuê.
Trong thực tiễn, thời kỳ đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản
xuất chưa phát triển nên để có tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động
thương mại, đặc biệt là thương mại không ngang giá. Do đó, đã nảy sinh và
phát triển một khuynh hướng và chính sách kinh tế coi trọng thương mại, hay
còn gọi là chủ nghĩa trọng thương.
Thời kỳ này sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ra đời, nhưng giai cấp tư sản còn
non yếu, chưa nắm được chính quyền. Sự ra đời của chủ nghĩa trọng thương như
một vũ khí lý luận nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến đã lỗi thời.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, càng làm cho sản
xuất và trao đổi hàng hoá phát triển, do đó không chỉ thị trường trong nước phát
triển mà còn hình thành thị trường thế giới và hệ thống kinh tế thế giới. Những
phát minh khoa học, mà đặc biệt là những phát hiện lớn về địa lý ở thế kỷ XV,
như năm 1492, Crixtốp Côlông đã tìm ra Châu Mỹ và đường sang Châu Á. Năm
1496, Vaxcôđơ Gamma đi vòng quanh Châu Phi đã tìm ra đường sang Ấn Độ
Dương; rồi việc phát hiện ra các mỏ vàng ở châu Mỹ (Chủ yếu ở Mêxicô và
Pêru) đã làm cho mậu dịch thế giới phát triển mạnh, mở ra cho các nước Tây Âu
những khả năng làm giàu. Do đó, trung tâm mậu dịch Châu Âu được chuyển từ
Địa Trung Hải sang Đại Tây Dương, các nước Anh, Pháp, Hà Lan giữ vai trò
chính trong sự phát triển mậu dịch, du thương để chuyển vàng từ Châu Mỹ về
Châu Âu. Thời kỳ này, thương nghiệp có vai trò quan trọng đối với việc làm
giàu của các nước Tây Âu; thương nghiệp từ chỗ chỉ đóng vai trò môi giới giữa
những người sản xuất nhỏ, nhưng sự phát triển mới của sản xuất đã tạo ưu thế
cho thương nghiệp, nó chi phối cả công nghiệp và nông nghiệp. Do đó, đã nảy
sinh khuynh hướng cho rằng của cải được sản sinh ra trong thương mại, mua
bán, trao đổi và dẫn tới hình thành tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương.
Thực tiễn, đến hậu kỳ trung cổ phương thức sản xuất phong kiến đã tỏ ra
lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Phân công lao động đã phát triển
mạnh mẽ, tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các vùng, miền, lãnh thổ, giữa các
quốc gia, biểu hiện rõ nhất là sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Ngay từ thế
kỷ XIV đã xuất hiện rải rác các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa ở ven bờ
Địa Trung Hải. Hình thức sản xuất mới này là cơ sở phát triển sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa ở những thế kỷ XV, XVI , XVII. Vì vậy, sản xuất hàng hoá có
cơ sở vững chắc hơn và ngày càng tỏ rõ tính ưu việt của nó so với kinh tế tự
nhiên và phường hội. Trong xã hội lúc đó người ta đề cao tư tưởng tư sản, đề
cao cá nhân ... Các nhà tư tưởng thời kỳ này đã tập trung phê phán bóc lột, phê
phán sở hữu phong kiến, chống lại chế độ phong kiến và tư tưởng chống nhà thờ
cũng phát triển mạnh... Cho nên, tư tưởng kinh tế dựa trên cơ sở nền kinh tế tự
nhiên của giai cấp quý tộc, phong kiến, được phản ánh qua thần học, tôn giáo
nhằm biện hộ, bảo vệ chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời. Hay như trào lưu
CNXH không tưởng xuất hiện từ thời cổ đại đã phản ánh được đời sống cùng
cực của các giai cấp bị áp bức, bóc lột và mong muốn xây dựng được một xã hội
công bằng, nhưng chỉ là những ý nguyện không tưởng. Để đáp ứng đòi hỏi sự
phát triển mới của kinh tế hàng hoá theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa, đã nảy
sinh trào lưu tư tưởng của giai cấp tư sản bước đầu giải thích được những điều
kiện và quá trình phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng
chế độ phong kiến mà hình thức đầu tiên của nó là chủ nghĩa trọng thương.
2. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống tư tưởng kinh tế đại biểu cho tư
tưởng của tầng lớp thương nhân, trong giai cấp tư sản đang lên, ở thời kỳ tan
rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời và tồn tại trong khuôn khổ của chế độ phong
kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới phôi thai hình thành ngay
trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tư sản còn non yếu, chưa nắm được chính
quyền, cho nên phần nào chủ nghĩa trọng thương vẫn phải nhượng bộ giai cấp
quý tộc, phong kiến và trong chừng mực nào đó còn phải phản ánh lợi ích của
giai cấp phong kiến.
- Chủ nghĩa trọng thương là trường phái coi trọng thương nghiệp, coi lĩnh
vực lưu thông, trao đổi là đối tượng nghiên cứu.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời và tồn tại trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ
của tư bản, tức là quá trình tước đoạt những người sản xuất nhỏ, tập trung tư liệu
sản xuất và sức lao động, quá trình đó được thể hiện ra là quá trình tập trung tiền
tệ. Vì vậy, người ta cho rằng của cải là tiền tệ, chính vì coi trọng tiền tệ mà phái
trọng thương đã quá nhấn mạnh thương nghiệp cho rằng chỉ có thương nghiệp
mới làm cho tiền đẻ ra tiền.
Trong thực tiễn, thời kỳ này việc sản xuất đại bộ phận sản phẩm của quốc
gia vẫn còn được tiến hành dưới hình thức hiện vật, phần lớn sản phẩm chưa
mang hình thái hàng hoá. Thời kỳ này, những tổ chức phường hội còn đóng vai
trò thống trị, các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa đang hình thành và phát
triển. Khi sản xuất hàng hoá càng phát triển thì tiền tệ càng hoàn thiện các chức
năng của nó. Từ chỗ người ta chỉ chú ý đến giá trị sử dụng, coi đó là của cải, thì
nay giá trị sử dụng bị mờ đi, trước họ là một sức mạnh khác- giá trị trao đổi,
biểu hiện nổi bật nhất của nó là tiền. Vì vậy, người ta quá nhấn mạnh giá trị trao
đổi- tiền, coi tiền là đấng tối cao, thần thánh hoá nó. Nói cách khác, họ đánh giá
cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ (vàng, bạc) là tiêu chuẩn căn bản của của cải.
Xuất phát từ đó họ lý giải các vấn đề khác. Họ là những người đầu tiên nghiên
cứu của cải và phương thức làm tăng của cải của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ
của cải chủ yếu là tiền, “Một xã hội giàu có là có được nhiều tiền”; họ cho rằng,
để có tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước hết là
ngoại thương, và cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán, trao đổi
sinh ra.
- Chủ nghĩa trọng thương đã sử dụng nhà nước phong kiến để làm giàu cho
giai cấp tư sản.
Do còn nằm trong chế độ phong kiến, nên chủ nghĩa trọng thương đã
lợi dụng nhà nước phong kiến để làm giàu cho giai cấp tư sản, nhưng họ quá
đề cao vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy họ đã là
những người xa lạ với quy luật và không thừa nhận quy luật. Quan niệm của
họ về của cải là trong phạm vi quốc gia và đứng trên giác độ đó để xem xét
của cải, từ đó họ cho rằng ngoại thương mới là nguồn tăng của cải, còn nội
thương chỉ đóng vai trò giúp đỡ cho ngoại thương, theo họ, “nội thương là
hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải có
ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương”. Họ cho rằng, lao dộng của
các ngành sản xuất để xuất khẩu mới là lao động sản xuất. Như vậy, Chủ
nghĩa trọng thương không phải là một trường phái khoa học; nó còn mang
nặng tính chất kinh nghiệm, phản ánh thời kỳ ấu trĩ của khoa kinh tế chính
trị. Tuy nhiên, nó cũng không phải là trường phái kinh tế học tầm thường
như sau này xuất hiện ở kinh tế chính trị tư sản.
- Chủ nghĩa trọng thương là trường phái đầu tiên nghiên cứu quá trình phát
sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa trọng thương là lý luận đầu tiên về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nên còn kém tính lý luận, chưa khoa học, nó mới chỉ là sự phản ánh
bề ngoài nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; nó chưa coi sản xuất quyết định của cải
xã hội, mà coi lưu thông là quyết định. Tuy nhiên, Chủ nghĩa trọng thương đã
chỉ ra được quá trình phát sinh của chủ nghĩa tư bản. Nó đã đóng vai trò thúc
đẩy nhanh quá trình đó với việc đưa ra các biện pháp tước đoạt những người sản
xuất nhỏ và các nước thuộc địa. Chủ nghĩa trọng thương đã bước đầu thoát khỏi
phương pháp kinh viện giáo điều của tư tưởng kinh tế thời trung cổ- đánh dấu
một bước phát triển tất yếu của lịch sử tư tưởng kinh tế nhân loại.
II- NHỮNG TƯ TƯỞNG KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
TRỌNG THƯƠNG
Chủ nghĩa trọng thương là trào lưu tư tưởng kinh tế lớn, xuất hiện ở phần
lớn các nước Tây Âu, như ở Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và
Pháp. Song chín muồi hơn cả về mặt lý luận là chủ nghĩa trọng thương Anh và
Pháp, đặc biệt là ở Anh, chủ nghĩa trọng thương đã trải qua những giai đoạn rõ
rệt.
1. Chủ nghĩa trọng thương Anh
a- Điều kiện kinh tế - xã hội làm cho chủ nghĩa trọng thương Anh đạt
đến độ chín muồi nhất và trải qua hai giai đoạn rõ rệt
Từ thế kỷ XV- XVII, ở nước Anh nền kinh tế đã phát triển, sản xuất nhỏ
của nông dân nhanh chóng bị xoá bỏ và chuyển lên sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa. Trình độ phát triển chủ nghĩa tư bản ở Anh so với ở Pháp đã vững chắc
và chín muồi hơn. Điều đó làm cho chủ nghĩa trọng thương Anh (Kể cả kinh
tế chính trị tư bản cổ điển Anh) triệt để và chín muồi hơn ở Pháp và các nước
khác.
Ngay từ thế kỷ XIV- XV, nếu ở Pháp còn chủ yếu là địa tô hiện vật, thì ở
Anh hình thức địa tô tiền đã phổ biến, điều đó chứng tỏ quan hệ hàng hoátiền tệ ở Anh phát triển hơn ở Pháp. Chủ nghĩa tư bản ở Anh phát triển rất
sớm, sau Hà Lan. Từ thế kỷ XVI ở Anh đã tiến hành cuộc cách mạng ruộng
đất, đó là quá trình tước đoạt rất khốc liệt đối với nông dân Anh, theo Mác, đã
ghi vào lịch sử nước Anh những dòng đầy máu và nước mắt không bao giờ
phai. Ngoài ra, ở thế kỷ XV- XVI nghề nuôi cừu ở Anh đã phát triển trở thành
kinh tế hàng hoá, là điều kiện để ngành dệt, da của Anh phát triển, sản phẩm
của ngành công nghiệp này trở thành một hàng hoá có ưu thế lớn của nước
Anh trong ngoại thương. Sự phát triển công nghiệp của Anh ở thế kỷ XVI là
bước chuẩn bị quan trọng về điều kiện kinh tế- xã hội cho cách mạng tư sản
Anh. Cùng với sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Anh là sự phát triển ngoại
thương, nghề đi biển, sự bành trướng thị trường thế giới, kéo theo đó là sự
xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa, có thể nói, thế kỷ XVII là thế kỷ tước đoạt
thuộc địa lớn nhất ở Anh.
Tất cả những điều kiện trên đã làm cho chủ nghĩa trọng thương Anh phát
triển và trải qua 2 giai đoạn rõ rệt, và nó đã đóng vai trò quan trọng trong quá
trình đẩy nhanh sự phát triển của công nghiệp, thương nghiệp, mở rộng thị
trường,... làm cho nước Anh dễ dàng chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư
bản chủ nghĩa.
b. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương Anh
- Giai đoạn thứ nhất, từ thế kỷ XV- XVI
Tư tưởng trung tâm của chủ nghĩa trọng thương ở giai đoạn này là bảng
“Cân đối tiền tệ” hay còn gọi là học thuyết tiền tệ. Theo họ, “Cân đối tiền tệ” là
ngăn chặn không cho tiền ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền từ nước ngoài
về.
Đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng thương Anh giai đoạn này là Uyliam
Stơrapho (William Stafford 1554- 1612).
Ở giai đoạn này, ngoại thương Anh còn phụ thuộc vào thương nhân nước
ngoài, vì vậy họ đưa ra khẩu hiệu: Phải bảo vệ của cải tiền tệ, giảm bớt nhập
khẩu, cấm thương nhân nước ngoài mang tiền đúc của nước Anh ra khỏi nước
Anh, tất cả tiền của nước Anh phải mua hết hàng hoá ở nước Anh. Họ cho rằng,
nhà nước phải có các đạo luật nghiêm ngặt, thực hiện chính sách thuế quan bảo
hộ để giữ lại tiền, cấm xuất khẩu tiền, chỉ xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm
công nghiệp.
Tư tưởng trọng thương giai đoạn này được biểu hiện rõ nét trong quan
điểm trọng thương của Uyliam Stơrapho được trình bày trong tác phẩm “Trình
bày tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào chúng ta” (1581). Trong tác phẩm
đó, ông đã trình bày sự tranh luận giữa các tầng lớp người trong xã hội Anh lúc
bấy giờ (Từ các hiệp sỹ, thợ thủ công, Fermier đến các tu sĩ...). Tất cả các tầng
lớp đó đều kêu ca về nạn đắt đỏ và buộc tội cho người khác. Uyliam Stơrapho
cho rằng, nguyên nhân của nạn đắt đỏ đó là do nước Anh quá lệ thuộc vào nước
ngoài, rằng bán nguyên liệu với giá rẻ và mua hàng hoá với giá đắt, và nguyên
nhân chủ yếu là ở chỗ chính phủ nước Anh phát hành tiền đúc không đủ giá.
Điều đó đã làm cho đồng tiền kém đi, tiền chạy ra nước ngoài đã làm cho hàng
hoá đắt đỏ, quần chúng nhân dân nghèo đi, vì vậy phải giữ tiền lại ở nước Anh.
Ông chỉ ra các biện pháp để giữ tiền lại ở nước Anh là: Cấm nhập khẩu hàng
hoá xa xỉ và một số hàng hoá khác; thực hiện chế định thương mại và mở rộng
chế biến len,...; Chính phủ phải đình chỉ việc phát hành tiền đúc không đủ giá;
Cấm trả cho thương nhân nước ngoài lượng tiền nhiều hơn nhà nước quy định;
Cấm xuất khẩu tiền tệ và buộc thương nhân nước ngoài phải chi tiêu toàn bộ số
tiền thu được trên nước Anh.
Như vậy, Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này mới chỉ hiểu tiền với chức
năng phương tiện cất trữ, chưa hiểu được bản chất của tiền và quy luật lưu thông
tiền tệ. Do đó tư tưởng của những người trọng thương giai đoạn này là ngăn
chặn không cho tiền ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền từ nước ngoài về
càng nhiều càng tốt, và chủ yếu là dùng biện pháp hành chính của nhà nước để
trực tiếp can thiệp vào lưu thông tiền tệ.
- Giai đoạn thứ hai, từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII.
Tư tưởng trung tâm của chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này là “học
thuyết trọng thương”. Sự thay thế học thuyết tiền tệ bằng học thuyết trọng
thương là do sự đòi hỏi của phát triển sản xuất hàng hoá, sự phát triển của
thương nghiệp trong nước và thế giới, theo C.Mác, học thuyết trọng thương là
Chủ nghĩa trọng thương thực thụ. Bởi vì, nếu học thuyết tiền tệ chỉ chú trọng
đến lưu thông tiền tệ, thì học thuyết trọng thương còn chú trọng cả lưu thông
hàng hoá. Học thuyết trọng thương còn đưa ra các biện pháp phát triển nội
thương, mở rộng xuất khẩu, tán thành nhập khẩu hàng hoá nước ngoài với
quy mô lớn, khuyến khích phát triển công nghiệp chế tạo các sản phẩm xuất
khẩu...Nguyên tắc nổi tiếng trong giai đoạn này là: bán nhiều, mua ít, như vậy
tiền tự nó sẽ chạy vào trong nước, không cần đến các biện pháp hành chính
của nhà nước. Học thuyết trọng thương đã đặt vấn đề không phải là giữ khối
lượng tiền tệ có sẵn trong nước mà là làm tăng lượng tiền tệ trong nước...
Đại biểu của chủ nghĩa trọng thương Anh giai đoạn này là Thomas Mun,
(1571- 1641). Ông là thương nhân và là một trong những viên giám đốc của
công ty Đông Ấn và đã bảo vệ hành động bóc lột của công ty đó. Ông đã viết
một số tác phẩm bàn về kinh tế, như “bàn về việc buôn bán giữa Anh và Đông
Ấn” (1621), “Sự giàu có của nước Anh trong mậu dịch đối ngoại” (1630). Tác
phẩm này đã được Mác gọi là kinh thánh của chủ nghĩa trọng thương.
Tư tưởng trọng thương giai đoạn này được biểu hiện rõ nhất trong quan
điểm trọng thương của Thomas Mun. Ông đã phê phán gay gắt học thuyết tiền
tệ, đồng thời phát triển lý luận về bảng “Cân đối thương mại”. Ông cho rằng,
“Cân đối tiền tệ” không phải là chính, mà “Cân đối thương mại” mới là chính,
do đó xuất khẩu phải nhiều hơn nhập khẩu. Ông coi ngoại thương là công cụ
bình thường và tốt nhất để làm cho đất nước trở nên giàu có và tích luỹ tiền tệ;
rằng không có phương pháp nào khác để kiếm tiền, trừ thương mại, thương mại
là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của một quốc gia. Ông cho rằng, nếu
xuất khẩu vượt quá giá trị nhập khẩu thì quỹ tiền tệ của nước Anh sẽ tăng lên, do
đó hàng năm cần bán hàng hoá cho người ngoại quốc với số tiền lớn hơn số tiền
chúng ta dùng mua hàng của họ. Theo ông, muốn làm được điều đó thì phải mở
rộng cơ sở nguyên liệu của công nghiệp; nâng cao chất lượng hàng hoá nước
Anh; xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán, tức là thực hiện thương mại trung
gian mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này, bán dắt ở nước khác... Ông
cho rằng, việc giữ tiền lại trong nước Anh không làm tăng thêm lượng cầu ở
nước ngoài đối với hàng hoá nước Anh; việc thừa thãi tiền trong nước thậm chí
có hại và làm cho hàng hoá tăng giá. Từ đó, ông đưa ra hai công thức khái quát
về hoạt động thương mại nhằm thu tiền về nước Anh:
H1 – T – H2 , trong đó H1> H2
T1 - H - T2 , trong đó T2> T1
Ông còn cho rằng, tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào bảng “Cân đối thương mại”
Tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này vẫn mang đặc trưng
cơ bản của chủ nghĩa trọng thương, như đánh giá cao vai trò của tiền tệ, đề
cao hoạt động thương mại, và họ cho rằng, lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông
mua bán, trao đổi sinh ra... Tuy nhiên, họ có những tiến bộ hơn so với chủ
nghĩa trọng thương giai đoạn đầu. Họ đã phê phán gay gắt những nguyên tắc
của học thuyết tiền tệ và xây dựng học thuyết trọng thương với bảng “Cân đối
thương mại”: Xuất siêu. Đồng thời đưa ra các giải pháp để thực hiện xuất siêu
là: giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá, bán hàng hoá với giá
thấp, phát triển công nghiệp, cho tự do buôn bán, xuất khẩu tiền tệ với mục
đích thương nghiệp... Tư tưởng của họ đã quan tâm đến mối quan hệ giữa lưu
thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá, ở một góc độ nhất định họ đã nhìn thấy
vai trò của công nghiệp đối với thương nghiệp. Họ vẫn coi nhà nước là một
công cụ đắc lực để làm tăng của cải, song các biện pháp hành chính của nhà
nước được thay thế dần bằng các biện pháp kinh tế...
2. Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp
Vào thế kỷ XVI – XVII, ở Pháp chế độ phong kiến đã phát triển mạnh mẽ
và trở thành điển hình, thời kỳ này ở Tây Âu còn phổ biến là địa tô lao dịch, thì
ở Pháp đã bóc lột dưới hình thức địa tô hiện vật. Mặc dù, Pháp bước vào con
đường chủ nghĩa tư bản muộn hơn Anh, nhưng công trường thủ công tư bản ở
Pháp đã phát triển vượt xa ở Ý và Tây Ban Nha... Những điều đó, đã làm cho
chủ nghĩa trọng thương Pháp có những đặc điểm riêng, có động cơ quý tộc
mạnh và khá chín muồi hơn so với các nước khác. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng
thương Pháp không trải qua hai giai đoạn rõ rệt, chưa chín muồi và kém triệt để
so với chủ nghĩa trọng thương Anh, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong
quá trình thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của nền kinh tế Pháp lúc bấy giờ.
Đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng thương Pháp là Môncrêchiên và Cônbe.
a- Môngcrêchiên (Antoine Montchretien: 1575 - 1629)
Cương lĩnh kinh tế và tư tưởng trọng thương của Môngcrêchiên được thể
hiện trong cuốn sách “Bàn về khoa kinh tế chính trị”. Ông là người đầu tiên
nêu ra thuật ngữ kinh tế chính trị để đặt tên cho môn khoa học mới này; ông
coi môn kinh tế chính trị là một môn khoa học mới để đề ra những quy tắc
thực tiễn cho hoạt động kinh tế. Ông nói nhiều đến nông dân và cho rằng họ
là chỗ dựa của nhà nước, rằng tài sản của đất nước không chỉ là tiền, mà còn
là số dân, đặc biệt là số dân nông nghiệp, do đó nhà nước phải chăm lo tới
nhân dân. Ông lên án sự xa hoa nếu nó dẫn tới việc tiêu dùng hàng hoá nước
ngoài, ông ủng hộ việc dùng hàng nội địa, vì để nhân dân có việc làm. Theo
ông, thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều nghề khác nhau; lợi nhuận
thương nghiệp là chính đáng vì nó bù lại sự rủi ro trong buôn bán. Ông cho
rằng, nhiệm vụ chủ yếu của chính phủ là mở mang đất nước và làm cho nó
giàu có. Từ đó ông đề nghị phải lập những công trường thủ công theo mẫu
nước ngoài để dân lang thang có việc làm, thực hiện bảo vệ của cải tự nhiên
của đất nước, chống những mưu mô của người nước ngoài, cho rằng thương
nhân nước ngoài như những cái bơm hút của cải của nước Pháp. Ông coi lợi
ích của quốc gia và của nhà vua là một và cho rằng tiền là sợi dây thần kinh
của chiến tranh...
Như vậy, tất cả các tư tưởng của Môngcrêchiên đều phản ánh tư tưởng
trọng thương, song chưa khắc phục được sự ảnh hưởng của học thuyết tiền tệ và
không triệt để, đặc biệt là những luận điểm của ông về xã hội.
b. Cônbe (Jean Baptiste Colbert: 1618 - 1683)
Cônbe là bộ trưởng tài chính và là nhà hoạt động quốc gia Pháp. ông là một
trong những người sáng lập ra công ty Đông Ấn. Ông là người trực tiếp chỉ đạo
chính sách ngoại giao và cai quản tình hình nước Pháp từ năm 1663 – 1683. Ông
đã đề xướng ra một hệ thống chính sách kinh tế của nước Pháp trong vòng 100
năm, hệ thống đó được gọi là: “Chủ nghĩa Cônbe”. Nó phản ánh sự phá sản của
chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.
Tư tưởng trọng thương của Cônbe thể hiện rất rõ khi ông cho rằng: Khối lượng
tiền tệ ở trong nước đã quy định của cải và sức mạnh chính trị, quân sự của một
nước; nước Pháp làm giàu bằng cách lấy được tiền của bất cứ nước nào, phải xuất
siêu ngoại thương, nội thương là sự hỗ trợ cho ngoại thương. Ông ủng hộ công
nghiệp Pháp, ban hành các chính sách nhằm phát triển công trường thủ công tư bản
và phường hội, nhưng lại làm cho sản xuất nông nghiệp của Pháp bị sa sút và làm
cho nông dân Pháp bị phá sản. Mục đích các chính sách kinh tế của Cônbe là nhằm
kiếm nhiều tiền cho nhà nước Pháp. Theo Cônbe, để làm được việc đó thì nhà nước
phải can thiệp vào kinh tế bằng việc đưa ra hệ thống các chính sách, như thuế nhập
khẩu cao, cấm xuất khẩu nguyên liệu, xây dựng nhiều ngành công nghiệp mới, thành
lập các công ty ngoại thương, quy định mức tiền công tối đa trả cho công nhân và lãi
suất cho vay tối thiểu...
Như vậy, Cônbe đã áp dụng lý luận của chủ nghĩa trọng thương để xây
dựng hệ thống chính sách của nhà nước Pháp nhằm bảo hộ công trường thủ
công tư bản, phát triển công nghiệp để tích luỹ vàng... nhưng các chính sách
đó lại làm cho sản xuất nông nghiệp của Pháp bị phá sản. Đó cũng chính là
nguyên nhân làm cho chủ nghĩa trọng thương Pháp bị tan rã và dẫn tới sự ra
đời của chủ nghĩa trọng nông ở Pháp.
3. QUÁ TRÌNH TAN RÃ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Vào nửa cuối thế kỷ XVII, chủ nghĩa trọng thương bắt đầu bị tan rã, bởi vì,
thời kỳ này công trường thủ công tư bản đã phát triển khá mạnh; nó trở thành
phổ biến và đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XVIII, làm cho kết cấu kinh tế và xã hội
thay đổi. Giai cấp tư sản đã lớn mạnh hơn, đã ít cần đến sự bảo hộ của nhà nước.
Nếu trước đây thương nghiệp chi phối công nghiệp, công nghiệp phục vụ
thương nghiệp , thì bây giờ vai trò của công nghiệp đã được tăng lên so với
thương nghiệp, dẫn tới người ta hướng tới sản xuất nhiều hơn. Lợi ích của giai
cấp tư sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Những công
trường thủ công tư bản đã bắt đầu mang lại nhiều vàng hơn cả những mỏ vàng
tự nhiên. Sự tích luỹ ban đầu của tư bản kết thúc, thay vào đó là thời kỳ tích luỹ
tư bản, tức là sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cũng trong giai đoạn này, những tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương với
quan niệm nguồn gốc của của cải duy nhất là tiền, nguồn gốc sự giàu có của một
quốc gia, dân tộc là dựa vào thương mại... đã tỏ ra lỗi thời, bế tắc, không đáp ứng
được những đòi hỏi mới của sản xuất, các vấn đề cần thiết đặt ra phải lý giải là
những vấn đề về sản xuất hàng hoá và sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Tư
tưởng của chủ nghĩa trọng thương với thể chế sản xuất nghiêm ngặt thông qua
việc giữ độc quyền ngoại thương với sự bảo hộ của nhà nước đã mâu thuẫn với tư
tưởng tự do thương mại của các nhà tư sản công nghiệp, nông nghiệp và nội
thương. Do đó, lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương đã bị phê phán và đòi hỏi
phải thay thế bằng lý thuyết khác.
*
*
*
Chủ nghĩa trọng thương bước đầu đã thoát khỏi phương pháp kinh viện,
giáo điều của tư tưởng kinh tế thời Trung cổ, từ bỏ việc tìm kiếm sự công bằng
xã hội, những lời giáo huấn luân lý được trích dẫn trong kinh thánh, vì vậy so
với các nguyên lý trong chính sách kinh tế của thời kỳ Trung cổ, những tư tưởng
kinh tế của chủ nghĩa trọng thương là một bước phát triển tất yếu, to lớn của lịch
sử tư tưởng kinh tế. Hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra
những tiền đề lý luận kinh tế nhất định, chẳng hạn, họ cho rằng: sự giàu có
không chỉ là những giá trị sử dụng mà còn là giá trị, là tiền; mục đích hoạt động
của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận; và họ đã có tư tưởng về vai trò của nhà
nước can thiệp vào kinh tế với các chính sách thuế quan bảo hộ...
Tuy nhiên, những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương thường ít tính lý
luận, chưa biết đến các quy luật kinh tế, nó chỉ là những lời khuyên, thực tiễn về
chính sách kinh tế. Chủ nghĩa trọng thương lúc đầu chỉ quan tâm đến cái nổi bật
nhất trong lưu thông đó là tiền, nhưng sâu hơn họ đã nhận thấy đó là lưu thông
hàng hoá và chủ nghĩa trọng thương dừng lại ở đó, vì nếu tiếp tục người ta sẽ đi
đến lĩnh vực sản xuất. Điều đó sẽ phủ nhận ngay điểm xuất phát của họ là nguồn
gốc của của cải ở trong lưu thông. Như vậy, họ chưa coi sản xuất quyết định của
cải xã hội mà coi lưu thông là quyết định. Họ mới chỉ hiểu được thế nào là tiền
với hai chức năng của nó là phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ... Sự
thực, họ chưa hiểu được bản chất của giá trị hàng hoá, của quy luật giá trị, không
hiểu được sự ngang giá, do đó họ cho rằng, lợi nhuận là do mua rẻ, bán đắt mà
có... Những điền này nói lên sự phá sản của Chủ nghĩa trọng thương không chỉ là
tất yếu về mặt lịch sử mà cả về mặt lôgíc.