SỰ TIẾP XÚC VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI PHÁP
Sau hai công trình bằng chữ Quốc ngữ của A. de Rhodes là quyển Từ
điển và Phép giảng tám ngày từ 1651 đến năm 1838, là năm quyển Từ điển
Taberd ra đời, không thấy có quyển sách nào được in bằng chữ Quốc ngữ,
mặc dầu những cố gắng tìm kiếm của Cordier, Thanh Lãng (Đinh Xuân
Nguyên). Những vẫn tìm được những bản viết tay của cha Philippe Bỉnh từ
1797 đến 1830 (21 bản thảo), do Thanh Lãng giới thiệu. Đặc biệt quan trọng
là quyển Từ điển của Pigneau de Beshaine, tức Giám mục d’Adran, người đã
cộng tác với Gia Long. Tôi đã được đọc bản photocopy quyển này (niên đại
1772) ở Viện Hán Nôm khi nghiên cứu ngôn ngữ Truyện Kiều. Tôi nhận thấy
chính cách phiên âm của Pigneau de Beshaine mà Taberd đã theo trong quyển
Từ điển của mình năm 1838 là cách phiên âm ta quen dùng hiện nay chứ
không phải cách phiên âm của A. de Rhodes. Tiếc rằng từ điển này dịch tiếng
Việt ra tiếng Latinh nên đối với đa số người Việt thì Huỳnh Tịnh Của với
quyển từ điển tiếng Việt (2 tập) năm 1895-1896 mà đến nay vẫn có giá trị, lại
là người phổ biến và chuẩn hoá văn tự mới.
Khi Đô đốc Rigault de Genouilly lấy Sài Gòn (tháng 2-1859), ông thấy
ở đấy có một trường trung học d’Adran, trong đó học sinh học chữ Quốc ngữ
và tiếng Latinh nhưng không biết tiếng Pháp. Năm 1861, trường này đổi tên
là Trường Thông ngôn (Collefge des Interpreftees) mà Hiệu trưởng là Trương
Vĩnh Ký vào năm 1866. Quyển từ vựng hải quân, Gabriel Aubaret, một người
khá khách quan, biết trọng người Việt và văn hoá Việt. Nó chỉ vẻn vẹn 174
trang. Số học sinh của Trường Thông ngôn lúc đầu là 40 người, nhưng vào
thời Charner làm Thống đốc Nam Kỳ đã tăng lên một ngàn người (1861).
Tờ báo tiếng Pháp ra đời đầu tiên là tờ Bulletin officiel de l’Expesdition
de la Cochinchine (1862) (Công báo của Bộ Viễn chinh Nam Kỳ) để công bố
các tin tức và mệnh lệnh cho người nước ngoài. Chế độ thi cử kiểu cũ bị bỏ ở
Nam Kỳ năm 1865 vầ tờ Gia Định báo là tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ
ra đời ngày 15-4-1865. Đó là tờ Nguyệt san, 4 trang mà mục đích theo Đô đốc
Roze là “phổ biến sự tiến bộ trong công nghiệp nông thôn”. Người phụ trách
là Trương Vĩnh Ký, nhưng người viết nhiều nhất là Huỳnh Tịnh Của và có
một số bài của Tôn Thọ Tường. Trương Vĩnh Ký là người thông thao nhiều
ngôn ngữ, giỏi Hán học, đã công bố trên một trăm công trình, trong đó có bảy
mươi công trình bằng chữ Quốc ngữ. Hiện nay, cũng chưa ai biết đích xác ai
sáng tạo ra thuật ngữ “chữ Quốc ngữ” để gọi cách Latinh hoá này của tiếng
Việt. Năm 1886, khi Paul Bert chết, Ký xin về hưu viết sách cho đến khi chết
(1898). Tuy là người Công giáo, ông vẫn bảo vệ di sản Khổng giáo cho rằng
có thể kết hợp Khổng giáo với những tư tưởng phương Tây. “Tôi đi với họ
(người Pháp) nhưng không thuộc về họ. Đó là số phận và sự an ủi của tôi”.
Lời này, trong bức thư Ngô Vĩnh Long dẫn, ông gửi cho một người bạn chính
là tấn bi kịch của rất nhiều người vì nhiều hoàn cảnh khác nhau phải cộng tác
với Pháp.
2. Trong giai đoạn đầu, mặc dầu có những tờ báo bằng Quốc ngữ kế tiếp
tờ Gia Định báo (chấm dứt năm 1897) như tờ Nhật trình Nam Kỳ, ra đời năm
1897, tờ Nam Kỳ địa phận (báo Công giáo, đặc biệt tờ Nông cổ mính đàm
(1897-1924)(2), đồng thời mặc dầu chính phủ khuyến khích, cấp học bổng cho
người học tiếng Pháp, số người học ở Nam Bộ ở mọi cấp ở Nam Kỳ năm 1904
chỉ có 3 vạn người. Sau khi Pháp đã chiếm cả nước, người Pháp muốn biến
tiếng Pháp thành ngôn ngữ chung của 5 xứ Đông Dương, báo chí bắt đầu phát
triển ở Bắc Kỳ. Tờ Đăng cổ tùng báo, bên cạnh phần chữ Hán do Đào Nguyên
Phổ phục trách, có phần Quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh đảm nhiệm. Giai đoạn
1900-1908 là giai đoạn đổi mới sôi nổi, thay đổi hẳn tình thế: số người biết chữ
Quốc ngữ tăng lên nhanh chóng trong phong trào yêu nước làm thực dân lo sợ,
và đàn áp. Từ khoảng 1910, xuất hiện một tầng lớp mới, có khuynh hướng
phương Tây, biết tiếng Pháp, xuất thân từ các trường trung cấp y học, sư phạm,
kỹ nghệ. Xu hướng cải cách chống Pháp biểu lộ trong những tờ Đăng cổ tùng
2
báo, Đại Việt tân báo (1905) của Ernest Babut ở Bắc, một người bạn của Phan
Châu Trinh, và tờ Lục tỉnh tân văn của Gilbert Chiểu, một tư sản dân tộc ở
miền Nam.
Nhận thấy nguy cơ Tân thư gây nên, thực dân Pháp lần này chủ trương
tự mình giới thiệu văn hoá Đông, Tây, để chuyển sự tiếp xúc theo hướng có
lợi cho mình. Nguyễn Văn Vĩnh, được giao nhiệm vụ phụ trách cùng một lúc
hai tờ báo là Trung Bắc tân văn và Đông Dương tạp chí đều ra đời vào năm
1913. Mục đích của tờ Đông Dương tạp chí là dịch những công trình tiêu biểu
của văn hoá Pháp ra tiếng Việt. Thực ra, Nguyễn Văn Vĩnh không gặp may.
Tuy thông thạo tiếng Pháp và các bản dịch của ông dễ hiểu, Việt Nam; nhưng
không thiếu một vốn Hán học đủ để nâng tiếng Việt lên một trình độ mới, cao
hơn. Ông chỉ dịch thành công một số tiểu thuyết. Ông không có ham thích tư
biện của triết học, mà chỉ thiên về thực tế nên tiếng Việt ông sử dụng qua dịch
thuật tuy có thanh thoát hơn nhưng chưa đổi mới. Dầu sao, nghị định năm
1910 của Thống sứ Bắc Kỳ cũng đã khẳng định một điều quan trọng: từ nay
mọi văn kiện chính thức, tức là mệnh lệnh, quyết định, đều phải dịch ra chữ
Quốc ngữ, và chữ này được dùng trong hành chính và giao tiếp. Nó đánh dấu
sự thay đổi thái độ của người Pháp từ trước đến giờ vẫn xem tiếng Việt là thứ
tiếng thấp hèn. Theo kinh nghiệm một người làm ngôn ngữ học kiếm sống
bằng nghề dịch thuê, tôi thấy khả năng diễn đạt của một người phát triển
nhanh nhất qua cách dịch. Nó bắt người ta phải luôn luôn xoay sở trong
những tình huống mới mà ngôn ngữ mình chưa có cách diễn đạt. Tiếng Việt
cũng vậy. Nó hết sức tài giỏi trong phạm vi tình cảm. Sang phạm vi lý luận
thì nó yếu. Khi dịch tiếng Pháp nó bắt buộc phải xoay sở để đối phó với cái
ngôn ngữ trừu tượng nhất thế giới, mà lại rất chính xác, cho nên nó tìm được
nhiều chiêu thức mới để đạt đến tính một nghĩa, mà đồng thời lại Việt Nam.
Mỗi khi trong tiếp xúc văn hoá, một ngôn ngữ phải tiếp thu những thành tựu
của một ngôn ngữ khác cao hơn mình, thì công lao đổi mới ngôn ngữ là thuộc
các nhà phiên dịch hơn các nhà văn. Do đó, các nhà làm từ điển song ngữ tức
3
là những người tổng kết các kết quả phiên dịch và tự mình phải xoay sở trước
toàn bộ các cách diễn đạt, các khái niệm xa lạ là hết sức to lớn. Không phải
ngẫu nhiêu mà Wyclif, Tyndale ở Anh, Amyot ở Pháp, Nghiêm Phục, Lâm
Thư ở Trung Quốc có địa vị xứng đáng trong lịch sử phát triển từng nước.
3. Tờ Nam Phong tạp chí gây nhiều cuộc tranh cãi nhất. Người sáng lập
tờ báo 2 tháng 1 kỳ này là Louis Marty, Chánh mật thám Đông Dương. Người
chủ bút là Phạm Quỳnh (1892-1945), hình ảnh tiêu biểu của con người thành
đạt bằng sự hợp tác với Pháp vô điều kiện, chỉ bằng ngòi bút mà đạt những
chức vụ cao nhất. Hình ảnh ấy không phải lôi cuốn một số trí thức công chức
ở thời Pháp thuộc. Tốt nghiệp trường Thông ngôn năm 1908, Phạm Quỳnh
chịu khó học chữ Hán và có một vốn Hán học vững nhưng không sâu. Nhận
thấy trí thức Việt Nam khao khát cái mới, vào thời buổi mà sự “bình định”
của Pháp đã vững chắc (phong trào Đông du bị giập tắt, cuộc vận động cải
cách bị đàn áp vào 1908-1909, Hoàng Hoa Thám sau mười năm tử chiến đã bị
giết năm 1913), chính phủ Pháp nhận thấy cần phải tạo nên một tầng lớp trí
thức cao, hợp tác với mình khác những bọn cặn bã theo mình để kiếm ăn như
ở thời các đô đốc. Tại sao nó lại không giới thiệu chính văn hoá “Đại Pháp”,
trực tiếp, chỉ cần chuyển hướng nó một chút theo con đường “toàn nhân loại”
tức là không dân tộc? Tại sao không làm điều đó khi bản thân Nho giáo Trung
Quốc dạy trung với kẻ nuôi mình, xâm lược hay dân tộc cũng đều tốt cả, miễn
là cho ăn ngon? Tại sao để họ lén lút truyền nhau những sách Tân thư? Albert
Sarraut năm 1919 thành lập trường Đại học ở Hà Nội.
Khách quan mà nói, tờ Nam Phong trong một thời gian dài đã tạo được
một tâm trạng như vậy. Nó gồm ba phần, phần tiếng Pháp chủ yếu do Phạm
Quỳnh và các “quan lớn” thuộc địa, nhưng nói giọng văn hoá, đưa củ cà rốt ra
mà giấu cái gậy, còn toàn là những bài của các nhà tư tưởng Pháp. Phần chữ
Hán do những nhà Nho quy thuận: Lê Dư, Nguyễn Bá Trác. Quan trọng nhất
là phần tiếng Việt. Nó làm nhiệm vụ giới thiệu thơ văn cổ, dịch các tài liệu cổ.
Phần này phải nói là tốt, và có những nhà nho học uyên thâm như Nguyễn
4
Đôn Phục, Nguyễn Đỗ Mục… Việc họ cộng tác với Nam Phong là để kiếm
sống bởi vì ai cũng phải sống. Sau đó, là những bài bàn về văn học, giới thiệu
tư tưởng văn hoá Đông và Tây, đặc biệt những bài dịch.
Khác Nguyễn Văn Vĩnh chống Nho giáo, Phạm Quỳnh là Tống Nho
“đặc sệt”, bướng bỉnh, thủ cựu. Con người Tây học này chống lại tư tưởng
Trung Quốc từ sau Nha phiến chiến tranh, ghét phong trào Ngũ tứ. Chính
Phạm Quỳnh đã hất cẳng Ngô Đình Diệm khỏi bộ Lại vào cái dịp ngọn gió
Nam Phong làm đổ cả 5 ông thượng thư ở Huế (1932). Cũng có thể người ta
lợi dụng việc đả vào sự kết hợp Tống Nho – Thực dân Pháp để đả vào sự kết
hợp Dòng Tiên – Đế quốc Mỹ. Nhận xét dưới đây của Trịnh Văn Thảo trong
“Việt Nam du confucianisme au communisme” theo tôi là đúng đắn hơn cả và
rất sâu sắc. Tôi dịch nó toàn bộ vì thực tình về điểm này tôi kém tác giả:
“Con đường hành động của Nam Phong kết hợp tài tình chủ nghĩa cơ
hội về chính trị (lập lại và phổ biến các bài nói của các “tư tưởng gia” của chế
độ thực dân như A. Sarraut và A. Varenne kèm theo những lời bình giải tán
dương) và chủ nghĩa bảo thủ về văn hoá tiêu biểu cho cách tiếp cận về văn
hoá trong lĩnh vực này.
“Tự biện hộ cho mình bằng chủ nghĩa nhân đạo trữ tình của một
Sarraut hay chủ nghĩa tự do tuỳ thời của một Varenne chống lại đầu cơ hẹp
hòi và phản động của những người theo “điều ước thuộc địa” (pacte colonial).
Phạm Quỳnh tìm thấy trong chủ nghĩa tự do chân chính hay giả định là chân
chính, của cả hai bên bấy nhiêu chỗ hở để bênh vực một sự hợp tác văn hoá
giữa các dân tộc nhằm đạt đến về lâu về dài một sự hợp tác chính trị thực sự.
“Tỏ ra cực kỳ tài giỏi, Phạm Quỳnh tiếp thu chủ nghĩa dân tộc và thái
độ bảo thủ về văn hoá của mình không phải ở các nhà tư tưởng phái tả (Âu
châu hay Trung Quốc) – như Phan Châu Trinh đã làm trước ông – mà ở phái
hữu của Pháp. Các tác giả ông viện dẫn tên là Pierre Loti (Nam Phong số 84,
1924 có bài tiểu truyện người chết, ký tên L. Barthou), P. Bourget (tác giả tiểu
thuyết Kẻ môn đệ), P. Deroulede, M. Barres, Leson Baudet, bài “Chủ nghĩa
5
nhân văn và văn chương hiện đại” của ông ta xuất hiện trong Nam Phong số
125 và Bergson (“Việc dạy tiếng Pháp” trong Nam Phong số 86, 1924).
“Dựa vào sự uyên bác của một Sylvain Lesvi, giáo sư Trường Cao học
Pháp và chuyên gia tiếng Hindi (Nam Phong số 68, 1923) và tính nhạy cảm
của R. Tagore (Nam Phong số 85, 86, 87 và 88 năm 1924) tác giả quyết liệt
bảo vệ nguyên tắc giáo dục dân tộc dựa trên tiếng Việt và Hán Việt là chuyển
ngữ cho đến hết trung học (Nam Phong số 118, 1927). Song việc bảo vệ này
đối với tiếng Việt không phải là một mục đích tự thân, mà chỉ là một công cụ
nhờ đó tác giả muốn thực hiện giấc mơ tân – Khổng giáo (tức Tống Nho, P.
Ngọc) để tổng hợp sự khéo làm của phương Tây với sự khéo sống phương
Đông (Nam Phong số 102, 1926). Theo ông, trạng thái bất bình to lớn mà
nhóm ưu tú bản địa cảm thấy là do tính chất chủ yếu vụ lợi, công cụ của giáo
dục Pháp-Việt, đồng thời kết hợp với tính trống rỗng về đạo đức của nó. Sự
thành công của mô hình Nhật Bản cần được đánh giá khi xét các biến cố gần
đây ở Đông Dương”.
Phạm Quỳnh tự bảo vệ mình bằng cách làm ngơ dựa trên hai thao tác:
Phạm Quỳnh đã nâng tiếng Việt lên một cấp độ mới có khả năng diễn
đạt được những tư tưởng trừu tượng. Các bài dịch của ông tuy hay nhưng
dùng quá nhiều chữ Hán. Đời sau nghĩ đến ông thấy tiếc. Ở thời nào cũng thế,
viên đạn bọc đường vẫn nguy hiểm hơn viên đạn thực. Tiêu chuẩn phân biệt
không thể xét ở lời nói. Nếu con người lao động không được xơ múi gì thì đó
là nhảm nhí.
Báo Nam Phong đã có ảnh hưởng đến mức thay thế Tân thư. Một điều
khó hiểu: tại sao cuộc vận động Ngũ tứ (1919) với bao ảnh hưởng to lớn như
vậy, gần như không có tiếng vang ở Việt Nam, một nước theo rất sát tình hình
Trung Quốc? Phải chăng vì tiếng bạch thoại là xa lạ? Phải chăng vì đã có
tờ Nam Phong? Trước khi Đặng Thai Mai giới thiệu nó với bạn đọc Việt Nam
trên tờ Thanh Nghị (1941-1945), tôi chỉ tìm thấy tiếng vọng của nó ở Phan
Khôi, Đào Duy Anh.
6
4. Sự đổi mới về giáo dục – Trước khi tiếp xúc với phương Tây Việt
Nam chỉ có một chế độ giáo dục: học chữ Hán để đi thi. Nó phổ biến toàn
quốc rất chặt chẽ ở chế độ thi cử, nhưng hết sức lỏng lẻo về tổ chức. Những
ông đồ, thường là học trò thi không đỗ đạt, dạy ở những nhà có máu mặt,
trước hết là dạy con cháu gia chủ rồi một số học sinh trong làng. Cách học là
học thuộc lòng, rồi tập làm câu đối, làm văn làm bài. Ở phủ, huyện có huấn
đạo, ở tỉnh có đốc học để tổ chức những kỳ thi tập dượt. Sau đó là thi.
Khi Pháp chiếm Nam Bộ, chế độ thi cử bỏ hẳn. Pháp lập trường Thông
ngôn, một số trường dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.
Mãi đến năm 1908 bắt đầu có Hội đồng cải cách học vụ quy định chế
độ giáo dục ba cấp. Ở xã thì có trường dạy chữ Hán, chữ Quốc ngữ để thi
tuyển sinh. Ai đỗ tuyển sinh thì lên phủ huyện học tiểu học. Ở tiểu học dạy
chữ Hán gồm Ngũ Kinh, Tứ Thư, Bắc Sử, và một ít Nam Sử chỉ để đọc không
phải làm văn bài, thơ phú. Sau có kỳ thi khoá sinh. Ai đỗ khoá sinh lên tỉnh
có quan đốc học dạy chữ Hán và tiếng Pháp, do các giáo viên dạy trường
Pháp-Việt kiêm nghiệm. Cứ ba năm có một kỳ thi, ai đỗ thì gọi là thí sinh và
được phép thi hương. Thi hương có thi cả chữ Quốc ngữ và chữ Pháp chia
làm 3 trường: trường nhất hỏi về kinh truyện, Bắc sử, Nam sử, trường nhì có
2 bài luận chữ Hán, trường ba thi 3 bài luận quốc ngữ và một bài dịch tiếng
Pháp. Sau đó là phúc hạch, thi 1 bài luận chữ Hán và 1 bài luận chữ Quốc
ngữ.
Như vậy là chế độ thi cử đã thay đổi hẳn để chấm dứt ở Bắc Kỳ năm
1915 và ở Trung Kỳ năm 1918.
Về việc đào tạo quan lại ở Huế có trường Giám hay Quốc Tử Giám,
trường Hậu bổ để dạy những người cai trị, hay dạy học. Có trường Quốc học
để dạy chữ Pháp. Ở Hà Nội có trường Sĩ hoạn và trường Bảo hộ(3).
Như vậy là trong giai đoạn đầu (1862-1917) ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có
sự tồn tại song song giữa một chế độ khoa cử kiểu Nho giáo, và chế độ giáo
dục của Pháp ở Nam Kỳ.
7
Từ năm 1917, toàn bộ chế độ giáo dục cả nước được đặt dưới quyền
của Toàn quyền Đông Dương, và thống nhất cả ba kỳ gồm 3 bậc:
Bậc tiểu học, gồm ba lớp đồng ấu, dự bị và sơ đẳng dạy Quốc ngữ, một
ít chữ Pháp. Sau 3 năm, thi sơ học yếu lược. Các xã chung có trường dạy 3
lớp đầu. Sau đó, học tiếp 3 năm ở các trường huyện, và tỉnh lỵ, rồi thi tiếp
học. Ở 3 lớp này tiếng Pháp là chuyển ngữ có dạy thêm tiếng Việt, chứ Hán.
Các môn lịch sử, địa lý, toán đều bằng tiếng Pháp. Ai tốt nghiệp tiểu học thi
học Cao đẳng tiểu học lúc đầu 3 năm tăng lên 4 năm. Dạy toàn Pháp văn, có
giờ Việt văn và Hán văn. Chương trình có toán, lý, hoá, sử, địa.
Bậc trung học gồm 3 năm theo 3 năm cuối của trung học Pháp. Đến
1945 chỉ có trường Trung học ở Sài Gòn, Huế và Hà Nội ai tốt nghiệp gọi là
tú tài.
Bậc đại học, thành lập 1919, lúc đầu chỉ có các trường Cao đẳng
chuyên nghiệp để giúp việc cho người Pháp ở các công sở, và là một hình
thức trung gian giữa trường Đại học và trường chuyên nghiệp. Năm 1927, H.
Gourdon yêu cầu thành lập những khoa (Y, Dược, Luật và Hành chính, Sư
phạm,…) theo mô hình Pháp, vì số người xin học bổng sang Pháp học rất
đông và có tại chỗ những trung tâm thực hành tốt và đội ngũ giảng dạy có
năng lực. Lúc đầu, có trường Cao đẳng (Y học, Dược học, Sư phạm, Công
chính, Giao thông, Thương mại, Canh nông). Sau đó, hai trường Y học và
Dược học thành đại học. Trường Luật, và Hành chính trở thành đại học Luật.
Còn các trường hậu bổ, sĩ hoạn để đào tạo quan lại kiểu cũ bị bỏ.
Để có một khái niệm về việc học thời Pháp thuộc, một bảng thống kê
dù sơ sài dưới đây sẽ có ích:
Kiểu trường
Trung học
Cao đẳng tiểu học
Tiểu học
Sơ đẳng
Năm 1940 - 1941
Số trường
Số học sinh
4
553
19
5.697
3.998
386.525
3.143
132.212
8
Năm 1943-1944
Số trường
Số học sinh
4
1.329
18
6.350
4.062
390.780
9.070
316.505
Tổng cộng
7.164
524.927
13.154
715.164 (100.000 họ
sinh trường tư)
Thống kê này lấy ở công trình đã dẫn của Trịnh Văn Thảo. Tiếc là nó
không nói đến số sinh viên ở các trường Đại học và ở các trường chuyên
nghiệp. Các trường Cao đẳng chuyên môn (Sư phạm, Công chính, Canh nông,
Thương nghiệp,…) sau đó đều bị bãi bỏ. Từ năm 1938, lại mở các trường
Nông lâm, Công chính. Ở Hà Nội có 1 trường Cao đẳng Mỹ thuật tạo được
một số người thông thạo về hội hoạ, điêu khắc. Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có
những trường công nghiệp thực hành để đào tạo những người thợ theo công
nghiệp phương Tây.
Mặc dầu số người được đào tạo theo giáo dục phương Tây không lớn
so với dân số toàn quốc, thực tế chính lớp người này đã tạo nên một sự đổi
mới về văn hoá tiêu biểu cho sự tiếp xúc văn hoá Việt-Pháp.
5. Mặc dầu thời gian chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Pháp chỉ 60
năm, có thể nói văn hoá Việt Nam đã thay đổi rõ rệt hơn, thời gian tiếp xúc
văn hoá Hán trên hai ngàn năm. Xét về bề mặt, mọi mặt của văn hoá Việt
Nam trước đây đều mang tính hình thức Trung Quốc, nhưng văn hoá Trung
Quốc không tạo nên được một sự thay đổi về hệ tư tưởng. Đó là vì Việt Nam
và Trung Quốc đều là biểu hiện của cùng một phương thức sản xuất gọi là
phương thức sản xuất châu Á, đều là những biểu hiện của nền kinh tế cống
nạp. Có sự khác nhau về trình độ, nhưng không khác nhau về bản chất. Dưới
một chế độ như vậy, người dân chỉ có quyền hưởng dụng, không có quyền sở
hữu, quyền sở hữu là của nhà vua về danh nghĩa, nhưng thực ra là để phục vụ
bộ máy quan liêu. Kết quả, không thực sự có giai cấp, nên mọi người chỉ cần
thi đỗ là làm quan, và một người làm quan thì cả họ được nhờ, và ngược lại
một người phạm tội, cả họ bị trị tội. Cũng vậy, không có hàng hoá theo nghĩa
đen của chữ này, tức là một vật mà mọi người phải mua với một giá như
nhau. Cũng không có pháp luật, theo nghĩa những quy định chung áp dụng
như nhau cho mọi người, khách quan. Ở đây, tục lệ gần như thay thế pháp
9
luật, và pháp luật chỉ chú trọng đến hình luật, tức là những quy định về sự vi
phạm tục lệ, mà hầu như không có dân luật, khi quyền lợi một người thay đổi
theo cương vị trong tôn ty, trong đó vai trò của lý lịch là cực kỳ quan trọng. Ở
một xã hội như vậy, tôn ty là tất cả, chứ không phải tài năng, sức lao động.
Tôn ty cai trị biểu hiện thành bổng lộc, những đặc quyền theo cấp bậc. Tiền
lương thực tế không đáng kể, mà sự hưởng thụ là dựa trên bổng lộc. Toàn bộ
bộ máy nông thông sống đơn thuần bằng bổng lộc, mà không có lương. Dân
phải nộp cả thuế lẫn tô. Tô và thuế là được quy định chung cho từng làng rồi
sau đó bộ máy hào lý quy định phần đóng góp của từng hộ. Lễ là then chốt,
cái thìa khoá làm xã hội này vận hành. Người ta phải học nó từ nhỏ và phải
suốt đời theo nó. Mục đích của lễ là củng cố tôn ty bằng một hình thức đẹp,
đôi khi có vẻ dân chủ. Do đó, có họp làng, cúng tế, khao vọng, lễ hội. Dĩ
nhiên, có sự thay đổi khi triều đại Nguyễn thay thế triều đại Lê, khi ông quan
này thay ông quan khác. Nhưng các nguyên lý làm kỷ cương cho xã hội
không hề thay đổi. Chính vì vậy sự tiếp thu văn hoá Hán, xét cho cùng chỉ là
cấp những hình thức mới, có thể đẹp mắt hơn, nhưng không xảy ra hiện tượng
cấu trúc hoá lại văn hoá cũ, trước hết bằng cách giải thể cái cấu trúc cũ, tổ
chức nó lại theo một kiểu mới.
Khi tiếp xúc với Pháp, dần dần diễn ra một sự giải thế cấu trúc. Quá
trình này cho đến 1945 vẫn chưa trọng vẹn, nhưng điều cơ bản đã xuất hiện.
Việt Nam, từng bước một, rời khỏi phương thức sản xuất châu Á để nhập vào
guồng máy chung của thế giới.
Trước hết, là sự ra đời những thành phố. Văn hoá Việt Nam trước đây
là văn hoá làng mạc. Một thành phố chỉ có giá trị chính trị, quân sự và là
trung tâm cai quản một vùng nông thôn rộng lớn. Nó có thành luỹ để bảo vệ,
trong đó có quan lại, quân đội, các kho lúa, kho tiền, kho hàng hoá. Còn phố
xá, dân buôn dứt khoát nằm ngoài sự che chở này. Các phố xá chỉ là cái đuôi
của nông thông để bán các sản phẩm của nông thông (nông phẩm, đồ thủ
công) mà dân thành phố cần. Ai làm chủ thương nghiệp? Nội thương, ngoại
10
thương là do quan lại điều khiển, những con người như Trương Phúc Loan ở
thế kỷ XVIII, chẳng biết gì thương nghiệp, nhưng có quyền. Vật bán ra chưa
phải hàng hoá, chỉ là quà tặng ,cái để bắt chẹt ai cần nhưng không có thế lực.
Cả một hệ thống quan lại bắt chẹt dân buôn.
Có một sự thay đổi cơ bản. Ở nông thôn, nó biểu hiện rõ nét nhất ở
Nam Bộ. Ở đây, làng mạc không phải là những ốc đảo có luỹ tre bao bọc mà
nhà cửa chạy dài theo các đường giao thông thuỷ, bộ. Sản xuất là để bán
không phải để tự túc. Đồng tiền trở thành vật ngang giá cho mọi hàng hoá. Có
nền kinh tế hàng hoá. Thành thị điều khiển nông thôn. Không có thổ ngữ. Từ
Bình Thuận đến Cà Mau nói cùng một phương ngữ. Không có sự phân biệt
giữa dân địa phương và dân ngụ cư. Không những chế độ tư hữu xuất hiện,
mà chính nó trở thành thước đo về giá trị độc lập đối với địa vị xã hội, lý lịch.
Điều này đã từng gây phẫn nộ khi những con người được đề cao là một
chú khách ở “pên Tàu” sang, mà quá khứ rất hèn kém; khi đó là một “chú
Mán”, một me Tây, một con đĩ, thậm chí những tên vô lại, lưu mạnh ăn bám
vào thực dân, đàn áp đồng bào, vơ vét ruộng đất của nông dân. Với sự xuất
hiện đồng tiền làm bá chủ, thì mọi tệ nạn do đồng tiền gây nên cùng xuất
hiện. Nhưng văn hoá học cần xét văn hoá độc lập với đạo đức. Điều quan
trọng nhất là văn hoá từ chỗ là quà tặng trở thàn hàng hoá, một đối tượng để
kiếm tiền. Quà tặng này có thể là lớn như điện thời Angkor, lăng tẩm Huế, có
thể là nhỏ như một bài thơi, nhưng mục đích dẫn tới việc sáng tạo không phải
là để kiếm tiền, mà để có được một ân huệ, và đối tượng nhận quà tặng là rất
hẹp. Còn văn hoá hàng hoá lại có mục đích thoả mãn yêu cầu một số người
càng đông càng tốt, để đem đến thu nhập cho người chế tạo, tổ chức. Nó là
một bộ phận của kinh doanh văn hoá. Cùng một vật, tuỳ giai đoạn lịch sử, có
thể thuộc hai văn hoá khác nhau. Một cung điện xây dựng lên để phục vụ một
ông vua, chỉ là văn hoá quà tặng. Nhưng khi nó trở thành đối tượng cho khách
du lịch tham quan thì lập tức nó chuyển thành văn hoá hàng hoá. Và để lấy
11
tiền hàng triệu du khách, sẽ có sự thiết kế thích hợp (đường sá, giao thông,
khách sạn, quảng cáo, vật lưu niệm để bán, người hướng dẫn v.v…).
Điều này đã xảy ra đối với việc học. Trước kia, việc học thực hiện chủ
yếu ở nông thông. Mục đích của nó là đào tạo những người bảo vệ trật tự cũ,
chế độ cống nạp, cái tôn ty đã có. Giờ đây, những người được đào tạo theo
một khuynh hướng khác hẳn. Họ chỉ biết tiếng Việt và tiếng Pháp (ở những
mức độ khác nhau), không biết chữ Hán đủ để đọc sách cổ. Họ hiểu Pháp và
phương Tây hơn là Việt Nam và Trung Quốc. Họ có óc phê phán đối với quá
khứ, và không chấp nhận kinh tế cống nạp. Họ coi trọng chế độ tư hữu, thích
tự do, dân chủ, và xã hội theo pháp luật. Nếu như Nho giáo vẫn còn địa vị
trong gia đình, thì họ thấy rõ nó đã mất địa vị trong xã hội. Đối với những
người từ trình độ cao đẳng tiểu học trở lên, thì vai trò của văn hoá Pháp là chủ
đạo. Có một sự đứt đoạn ở thế hệ sinh sau 1910. Khi họ hai mươi tuổi thì ảnh
hưởng Nho giáo đã rất phai nhạt trong xã hội thành thị. Mọi người đều nhận
thấy một điều hiển nhiên là phải chuyển sang hệ tư tưởng phương Tây với tự
do, bình đẳng, pháp luật, dân chủ.
Con người trước sự chuyển biến to lớn này là Phan Châu Trinh (18721926). Công trình tiếng Việt tốt nhất về ông là tác phẩm của GS. Huỳnh Lý (4),
anh rể của tôi. Chính Phan Bội Châu đã viết cảm tưởng của mình năm 1926,
sau khi người bạn lớn qua đời: “Than ôi! Ông có thứ cho tôi chăng? Đón ông
về nước, tôi tiễn chân ông đến Hương Cảng, ông cầm tay dặn mấy lời sau hết:
“Từ thế kỷ XIX về sau, các nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng
của một nước gửi trong tay một số người đông, chứ không thấy nước nào
không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ! Thế mà nay bác còn dựng cờ
quân chủ lên hay sao?”. Ông nói thế, lúc đó tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã
hơn hai mươi năm rồi, lời ông càng lâu càng nghiệm. Tôi mới biết cái óc suy
nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông”. Phỏng ngày nay
ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay ông mới
được!”.
12
Lớn hơn Nguyễn Ái Quốc 16 tuổi, đỗ Phó bảng năm 1901, cùng một
khoá với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phục Nguyễn Ái Quốc, ông là linh hồn
phong trào duy tân cả nước. Tôi nhận thấy những lời đánh giá dưới đây của
GS. Huỳnh Lý là khách quan và đúng đắn:
“Trên con đường cứu nước, Phan Châu Trinh là một nhân vật hiếm hoi
đã có quan hệ với hầu hết những khuynh hướng, nhân vật chính trị quan trọng
nhất phong trào giải phóng dân tộc một phần tư đầu thế kỷ XX từ Phan Bội
Châu, Trần Quý Cáp, các sĩ phu phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Hoàng
Hoa Thám cho đến Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh
v.v… Ông là người lặn lội ra Bắc gặp các yếu nhân của Đông Kinh nghĩa
thục, lên Phồn Xương gặp Đề Thám, sang Nhật gặp Phan Bội Châu, rồi sau
này khi phải sống ở Pháp, Phan Châu Trinh trở thành hạt nhân tập hợp những
người Việt Nam yêu nước khác…”.
Xét theo quan điểm hiện đại, quan điểm của Phan Châu Trinh là quan
điểm tư sản dân tộc. Nếu như quan điểm này được Pháp chấp nhận, như Anh
đã chấp nhận đối với Gandhi, thì Việt Nam tránh được 30 năm binh lửa mà
Pháp, Mỹ cũng đỡ hao tiền, tốn của, mất hàng chục vạn thanh niên, mà kết
quả là xôi hỏng bỏng không, chế độ thực dân cũ và mới bị sụp đổ. Nhưng
nhắc chuyện quá khứ làm gì?
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc là ba giai đoạn
khác nhau cùng biểu hiện sự chuyển biến của một bản sắc văn hoá thống nhất,
trong đó Nho giáo Việt Nam (không phải Nho giáo Trung Quốc) có vị trí nhất
định. Phan Bội Châu, trong khi chủ trương bạo động, khởi nghĩa, vẫn còn chờ
đợi sự giúp đỡ của Nhật, Trung Quốc, vẫn còn duy trì chế độ quân chủ, dù
đây là chế độ quân chủ lập hiến kiểu Nhật Bản. Trong “Pháp – Việt liên hiệp
hậu chi tân Việt Nam”, Phan Châu Trinh đã thấy rõ dó là cách “đuổi hổ cửa
trước, rước hùm cửa sau”, sẽ đưa tới cảnh “dịch chủ, tái nô” (thay đổi chủ, lại
bị nô lệ lần nữa). Ông chủ trương “Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”
(làm chí khí nhân dân vững mạnh, trí tuệ nhân dân mở mang, đời sống nhân
13
dân dồi dào). Chủ trương không bạo động, dựa vào Pháp cầu tiến bộ chẳng
qua là chiến thuật để “tự lực khai hoá”, tranh thủ thời gian để đi đến tự trị và
giành độc lập. Phan Châu Trinh cùng với Nguyễn Ái Quốc, trong năm 1921
cùng ở nhà của Phan Văn Tường số 6 Villa des Gobelins. Ba người nhiều lần
đến cả chi bộ Đảng Xã hội theo Đệ tam quốc tế (sau này là Đảng Cộng sản
Pháp). Phan Châu Trinh không hề chống lại chủ nghĩa cộng sản. Bức thư ông
gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922 viết: “Bấy lâu nay tôi cùng anh và anh
Phan (Phan Văn Trường P.N) đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ anh cũng
không ưu cái phương pháp khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh của tôi; còn
tôi lại không thích cái phương pháp ngoại ngoạ chiêu hiền, đãi thời đột nội
(nằm ngoài nước chiêu tập những người tài giỏi, đợi thời xông vào nước) của
anh, và cả cái phương pháp dùng lý thuyết thâu nhân tâm của anh Phan. Bởi
phương pháp bất hoà, mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng người hủ nho
thủ cựu, cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả… Thực
tình ,từ trước tới nay, tôi chẳng hề khinh thị anh, mà tôi còn phục anh nữa là
khác”. Như vậy là sự khác nhau chỉ là ở biện pháp, còn mục đích cứu nước là
thống nhất: “Bởi vậy, tôi thành tâm mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp
cũ kỹ kia đi để mà mưu đồ đại sự, tôi cầu chúc anh thành công và hy vọng
bọn mình cùng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở”.
Hai nhà nho lớn nhất thế kỷ này, cuối cùng đều đi đến chủ nghĩa xã hội.
Phan Bội Châu viết Chủ nghĩa xã hội, xem đó là con đường cứu nước. Phan
Châu Trinh, cuối cùng nhận thấy thực dân Pháp không chấp nhận bất kỳ sự
cải cách nào có lợi cho nhân dân Việt Nam, lời trối trăng cuối cùng của ông
với Huỳnh Thúc Kháng là: “Độc lập của dân tộc ta sau này sẽ cậy có Nguyễn
Ái Quốc”. Bài Đạo đức và luân lý Đông Tây(1925) kết luận: “Nay nước ta
muốn độc lập, tự do phải có đoàn thể, phải truyền bá chủ nghĩa xã hội”.
Phan Châu Trinh, Phó bảng Phan Văn Trường (1878-1933), tiến sĩ luật,
Nguyễn An Ninh (1900-1943) cử nhân luật, tuy không vào Đảng cộng sản
đều là những người hướng về chủ nghĩa xã hội, và làm thành khâu nối của
14
truyền thống văn hoá yêu nước sang giai đoạn mới. Không những thế, khi
Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội
(1925), tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản, ta thấy trong hàng ngũ của nó là
những nhà nho (cử nhân Hồ Tùng Mậu, tú tài Đặng Thúc Hứa, Đặng Tử
Kính…) và con cái họ chiếm địa vị nổi bật.
Như vậy là sự tiếp xúc văn hoá với Pháp đã dẫn tới một kết quả cực
đoan, do chỗ thực dân Pháp ngoan cố, không chấp nhận một sự san sẻ quyền
lợi nào hết. Nó chỉ muốn có những tay sai. Nó đã phản bội văn hoá của Pháp.
Nó không hiểu người Việt Nam, do bản sắc văn hoá của mình quy định, sẵn
sàng tiếp nhậ văn hoá Pháp, và biết nhân nhượng, nhưng không chịu mất
nước làm nô lệ cho ai hết. Một khi thực dân không chấp nhận, thì Việt Nam
sẵn sàng đi con đường để đạt đến mục đích bất chấp mọi khó khăn gian khổ.
Kết quả là Việt nam, vượt lên khỏi văn hoá tư bản chủ nghĩa để đi con đường
cách mạng, tới chủ nghĩa xã hội.
6. Chế độ giáo dục của Pháp thực tế đã đổi mới nhận thức của dân tộc.
Điều này là nằm ngay trong bản chất của văn hoá Pháp.
Đặc điểm của văn hoá Pháp là một chủ nghĩa duy lý nhìn đối tượng ở
khía cạnh toàn nhân loại, chống mọi giáo điều, đề cao cá nhân, chấp nhận đối
thoại, và đòi hỏi sự phân tích triệt để. Nó là thứ văn hoá đối lập triệt để với
văn hoá truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc, còn triệt để hơn văn hoá
Mỹ và văn hoá Anh. Nếu như văn hoá Mỹ còn có chỗ gần với văn hoá truyền
thống Việt Nam là tính thực dung, chấp nhận cái siêu logic miễn là có lợi; nếu
như văn hoá Anh còn có chỗ gần là lấy kinh nghiệm làm nền tảng, thì văn hoá
Pháp gạt bỏ tính vụ lợi, cái siêu logic, mà đòi hỏi sự hiển nhiên và logic, sự
sáng rõ về lập luận, và sự thấu triệt về phân tích: Xét về nguồn gốc, nó tiêu
biểu bởi Montaigne ở thế kỷ 16, khi ông lấy chính mình làm đối tượng nghiên
cứu, và phát hiện ra cái toàn nhân loại qua sự phân tích cá nhân Montaigne.
Sang thế kỷ 17, nó chuyển thành xu hướng cổ điển với tham vọng tìm hiểu cái
bất biến ở con người bất chấp dân tộc, thời đại và hoàn cảnh. Sang thế kỷ 18,
15
nó chuyển thành phong trào ánh sáng với chủ nghĩa bách khoa toàn thư, và
mang một nội dung xét lại. Nó chống lại toàn bộ quá khứ về chính tị, xã hội,
nhân danh những nguyên lý mới mang tính toàn nhân loại: dân chủ, tự do,
bình đẳng. Nó nêu lên ba nguyên lý sẽ làm chủ thế giới cho đến ngày nay:
Khoa học, tiến bộ, chủ nghĩa nhân đạo. Đó là cái thế kỷ mà văn hoá Pháp làm
bá chủ thế giới, quý tộc châu Âu nói tiếng Pháp. Từ chỗ xét lại quá khứ về lý
luận, nó đi đến chỗ đưa các nguyên lý nó phát hiện được vào thực tế, và dẫn
tới cuộc cách mạng vĩ đại 1789, một trang mới mẻ xán lạn trong lịch sử loài
người. Nhưng văn hoá Pháp vẫn có những nhược điểm mang tính bản chất.
Thực tế xã hội, con người không đơn giản đến mức có thể quy bằng những sơ
đồ hình học, và khi làm thế, ta có những sơ đồ chết cứng và giả tạo. Kết quả
là, cái chế độ nó dựng lên, dù với nhiệt tình cách mạng cao nhất, cứ sụp đổ
trước thực tế, dẫn tới cái trái ngược là một đế chế chuyên chế; rồi cứ thế, mấy
cuộc cách mạng diễn ra trong thế kỷ 19, mà con người lao động mà nó bênh
vực vẫn cứ đói khổ. Sự thất vọng này dẫn những chiến sĩ ưu tú nhất của nó tới
chủ nghĩa xã hội, rồi chủ nghĩa cộng sản.
Không nền văn hoá nào chống chủ nghĩa thực dân bằng văn hoá Pháp,
thế mà cái nghịch lý vẫn diễn ra: nước Pháp có một đế quốc rộng lớn nhất thế
giới sau nước Anh, và để bảo vệ đế quốc, nó phải gánh tai hoạ của hai cuộc
chiến tranh thế giới, để rồi sau đó, hao tiền tốn của, chết hàng chục vạn thanh
niên, rồi bị trắng tay.
Nền văn hoá mà Pháp dạy ở các trường, có thể nói không quá đáng đã
đảo ngược lại toàn bộ truyền thống văn hoá Việt Nam. Trước hết, bởi công cụ
của nó là sự phân tích, điều mà một nhà Nho không thể biết được trừ khi anh
ta am hiểu Phật giáo. Để viết chữ Hán, hay chữ Nôm, chẳng phải phân tích
đây là danh từ hay động từ, chủ ngữ hay vị ngữ. Chỉ cần học thuộc lòng một
số kiểu câu, rồi theo đó mà đặt. Đến khi nào nhạy cảm với tiết tấu, lập tức từ
chỗ mới là một học sinh nhớ sách, anh ta trở thành một tác gia có thể vẫy
vùng bằng ngọn bút. Đó là giai đoạn gọi là “hoá”. Có người học mãi không
16
hoá, nên văn viết khô khan, sáo rỗng. Có người chỉ vài năm là “hoá”, và trở
thành một thứ pháp sư. Sách Nho giáo không có cái gì gọi là định nghĩa cả.
Những chữ “nhân”, “hiếu”,… chẳng qua là những kiểu ứng xử thay đổi tuỳ
theo hoàn cảnh, những chữ “âm”, “dương”, “lý”, “khí” là những kiểu quan hệ.
Từ đầu đến cuối, người học chỉ biết phục tùng không thể có thái độ “tự do phê
phán”. Đây là lối giáo dục duy trì nguyên vẹn các thể chế của quá khứ. Nó
không thể hình dung sự tiến bộ, sự biến đổi thực tế, sự cải tạo thế giới. Nó
thèm khát sự ổn định, sự im lìm, dù đó là sự ngưng trệ. Dĩ nhiên, giáo dục này
không biết đến cá nhân, mà tập trung vào việc xây dựng nhân cách. Chữ nhân
cách ở đây là đúng nghĩa từ “persona” của tiếng Latinh, tức là cái mặt nạ mà
diễn viên đeo, qua đó người xem biết cương vị xã hội, tư cách của nhân vật
kịch. Một diễn viên có thể đeo nhiều “persona”. Cũng vậy, nhân cách khong
phải cái tôi sẵn có, mà qua cách đối xử của tôi với những người khác, người
ta nắm được nhân cách của tôi. Tuỳ theo đối tượng có quan hệ với tôi mà tôi
là cha, là con, là thầy, là trò, là quan, là dân v.v… Qua các cách đối xử phù
hợp, hay không phù hợp, với những tiêu chuẩn được chọn, mà tôi có nhân
cách, hay thiếu nhân cách, có nhân cách cao, hay thấp. Xét cho cùng, đạo Nho
yếu về chủ nghĩa nhân đạo. Muốn có chủ nghĩa nhân đạo, ít nhất phải chấp
nhận có một yếu tố chung cho tất cả mọi người, và chỉ cho con người mà thôi,
rồi trên cơ sở yếu tố chung ấy mà xây dựng học thuyết. Đạo Nho phân biệt
“quân tử” và “tiểu nhân” một cách dứt khoát “Quân tử là gió, tiểu nhân là cở”
(Luận ngữ) tách biệt hẳn người cai trị với người lao động.
Dưới đây tôi tự phân tích những cảm nghĩ tôi đã trải qua, khi chuyển từ
chữ Hán tôi học trong gia định sang chữ Pháp, rồi giải thích nó bằng triết học.
Cái lạ đối với anh chàng Việt Nam là một danh từ chỉ là danh từ mà
thôi, không thể là cái gì khác (một tính từ, động từ…), rồi danh từ ấy đã là
chủ ngữ thì chỉ có thể là thế, không thể nào là vị ngữ chẳng hạn. Nhưng muốn
viết hay nói một câu tiếng Pháp thì trước hết phải phân tích ngữ pháp. Rồi sau
đó phải phân tích logic, trong đó câu phụ chỉ thời gian chỉ có thể là thế, không
17
thể thể là cái gì khác. Rồi sau khi đọc một bài văn, lại phải phân tích ý chính,
ý phụ, nội dung, hình thức. Đối với ai học tiếng Latinh hay tiếng Hy Lạp thì
sự phân tích này là quan trọng vô cùng. Rồi cứ thế, đến phân tích tác phẩm, tư
tưởng, phong cách, triết học v.v… Đó là thao tác đầu tiên, bên ngoài ngó rất
bình thường, nhưng vô cùng quan trọng, sẽ khiến người Việt Nam có một thói
quen mới mà cha ông anh ta không biết: quy đối tượng ra thành yếu tố.
Điều mới thứ hai là thái độ phê phán. Cái học của Pháp rất khác cái học
cổ xưa ở điểm: giáo viên trình bày khách quan, và cho phép học sinh có ý
kiến độc lập, ý kiến này có thể khác ý kiến giáo viên. Xưa kia thì khác, mọi ý
kiến Tống Nho cho là đúng, thì học sinh cũng phải cho là đúng; mọi ý kiến
không phải ở bản thân nó, mà ở cương vị xã hội của người nói. Giờ họ thấy
một chàng Rousseau chẳng có một cương vị xã hội nào vẫn có thể là người
mở đường cho cách mạng. Tình hình Trung Quốc trước nhà Tần cũng thế:
Khổng tử, Tăng tử, Mạnh tử, Tuân tử đều chỉ là những chàng cù bơ cù bất.
Nhưng từ nhà Tần về sau không còn tình trạng này nữa. Giấc mơ Rousseau sẽ
ám ảnh mọi học sinh Việt Nam. Từ nay, một chàng trẻ tuổi Việt Nam sẽ chọn
một trong hai con đường mà anh ta cho đều là cao quý. Hoặc là tiếp tục con
đường giải phóng đất nước, hoặc là đổi mới văn hoá. Dĩ nhiên, con đường thứ
hai có thể mang tính cơ hội. Nhưng nó cũng có thể là một ham muốn tha thiết,
chân thành. Và cũng chính vì vậy, trong giai đoạn 1930-1940 có những tác
phẩm có giá trị đến nay vẫn đầy sức sống.
Điều mới thứ ba là một loại nguyên lý trước đây không hề có trong chế
độ cũ: khoa học, dân chủ, tự do, pháp luật, tiến bộ, kinh tế thị trường, tập
trung chng quanh khái niệm cá nhân. Nó là đối lập lại hệ thống nguyên lý cổ
xưa: tôn trọng quy phạm, quân chủ, tôn ty, lễ, cương thường, kinh tế tự túc
theo cống nạp, tập trung chung quanh khái niệm nhân cách. Diễn ra một quá
trình đảo ngược giá trị. Đối tượng xưa tôn thờ thì nay bị đả kích thậm tệ: vua
quan, hào lý, tôn ty trong gia đình. Trào lưu này đi từ thành thị đến thôn quê,
và vào tận gia đình là tế bào của xã hội. Nó xuất phát từ tầng lớp tân học, rồi
18
kéo theo tiểu thương, nông dân, công nhân. Nó biểu hiện thành một cuộc vận
động văn hoá rất tiêu biểu vào những năm 1930-1940. Điều này sẽ xét ở
chương sau, trong đó văn hoá Pháp trải qua một độ khúc xạ rất độc đáo.
Một điều cần thấy là bọn thực dân Pháp là một chuyện, còn những
người Pháp truyền bá văn hoá Pháp là một chuyện. Dĩ nhiên, là có những thầy
Pháp có tư tưởng thực dân, nhưng dù óc thực dân họ có nặng đến đâu họ cũng
phải thừa nhận học sinh Việt Nam cực kỳ thông minh, học giỏi, về trí tuệ
chẳng thua gì người Pháp. Họ cũng phải biết trọng những con người trẻ tuổi ở
dưới quyền cai trị của Pháp, chỉ vì một sai lầm về đường lối, chứ cái lớp
người này không phải sinh ra để mãi mãi chịu lệ thuộc. Một số khác vẫn trung
thành với văn hoá Pháp, và được chính người Việt quý trọng. Những người
Việt Nam chân chính biết trọng những người Pháp chân chính, và chính
những người này đã góp phần tạo nên nhân cách họ. Họ biết vượt qua những
thành kiến về tôn giáo, dân tộc, phong tục. Càng thấm nhuần tinh thần quốc
tế, họ càng biết trọng những nhân cách cao quý. Và hoàn cảnh một nước Việt
Nam mở cửa càng cho phép họ biểu lộ trung thực hơn thái độ sòng phẳng
này. Mặt khác, trong cuộc đua tài hằng ngày về học vấn với học sinh Pháp,
học sinh Việt Nam dần dần mất cái mặc cảm tự ti dân tộc. Họ hiểu văn hoá
Pháp và nước Pháp khác cha anh họ. Họ hiểu, để đổi mới dân tộc, phải đổi
mới văn hoá theo con đường châu Âu. Là những người mà đầu óc là những
ông thầy Pháp, không phải những ông thầy Trung Hoa, họ không chủ trương
một thứ văn hoá lấy phương Đông làm thể lấy phương Tây làm dụng, họ thiên
về một văn hoá cả thể và dụng đều châu Âu, chủ yếu đều Pháp, nhưng được
Việt Nam hoá cả về nội dung lẫn hình thức.
7. Đây là văn hoá hàng hoá bán ở thị trường đem về tiền để nuôi người
làm ra nó ( văn nghệ sĩ) và những tổ chức xuất bản, phát hành, chứ không
phải văn hoá quà tặng chỉ dành cho một người để tranh thủ một thiện cảm,
hay một ân huệ. Thước đo của nó là số lượng bán ra, đồng tiền thu về. Xuất
hiện một lớp người mới mà trước đây không hề biết đến. Đó là lớp nghệ sĩ
19
sống gần như đơn thuần bằng lao động trí óc bán ra thị trường. Nếu như trước
đây đã có những nhà văn rất lớn, nhưng họ chẳng kiếm được đồng xu nhuận
bút nào hết. Họ viết vì thôi thúc nội tâm, muốn lưu danh hậu thế, chứ không
hề nghĩ đến thù lao. Người nhận quà tặng tặng lại một món quà, đãi họ một
bữa ăn, một chai rượu. Con người đầu tiên đi con đường này là một nhà Nho,
Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939). Mặc dầu Hồ Biểu Chánh (1885-1938) xuất
bản đến 63 quyển tiểu thuyết và nổi tiếng là nhà văn lớn ở Nam Bộ, nhưng
nghề viết văn của ông vẫn là nghề tay trái của một ông đốc phủ sứ. Phải đến
Nguyễn Khắc Hiếu mới có con người:
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều,
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
(Hầu trời)
Một khi văn hoá là hàng hoá, không còn là quà tặng, thì nội dung của
nó cũng thay đổi. Nội dung của văn hoá quà tặng là sự trao đổi tâm tình giữa
tác giả với người tặng quà. Văn thơ Nguyễn Khuyến là thí dụ cụ thể của văn
hoá quà tặng. Người này đến xin đôi câu đối, người khác yêu cầu vịnh điều gì
đấy. Tác gia bộc lộ tâm sự trước một đối tượng cá biệt (Hội Tây, Tiến sĩ
giấy). Đối tượng cá biệt ấy có thể cực kỳ đa dạng (bữa ăn, gặp bạn, phong
cảnh…), và nội dung của bài là liên quan tới cảm nghĩ của tác giả với người
tặng (mừng bạn thi đỗ, lấy vợ, một kỷ niệm giữa hai người). Về hình thức,
loại văn học quà tặng thiên về những hình thức cố định, có quy phạm chặt chẽ
và ngắn. Nó không chứng minh gì, bởi vì tôi chỉ nói những điều mà hai ta đều
biết. Nếu ta soát lại văn học cổ Trung Quốc và Việt Nam thì thấy tình trạng
này rất rõ.
Còn văn hoá hàng hoá lại rất khác. Hàng hoá là để bán cho số đông, và
bán được hay không là căn cứ vào nhu cầu của một số đông cần được thoả
mãn. Do đó, tôi phải nâng mọi cái cá biệt lên thành cái phổ biến cho mọi
20
người. Tôi phải chứng minh, phải lý luận, phải trình bày đầu đuôi chu đáo.
Tôi phải thuyết phục. Kết quả, hình thức phải dài không nằm trong một khuôn
khổ có sẵn, và phải cố gắng đổi mới về hình thức để tạo vẻ mới mẻ cho hàng
hoá. Hàng hoá này cần đền những người bình và phê bình. Người bình chủ
yếu là khen, nêu lên những mặt tốt để cho việc thưởng thức càng thêm thú vị.
Còn người phê bình giới thiệu một quan điểm đánh giá riêng, qua đó tác phẩm
chỗ này được tán dương, chỗ kia có thể bị công kích. Và phê bình văn nghệ
làm thành một yêu cầu cấp thiết đến mức có nhiều người chỉ sống bằng phê
bình.
Sự phân chia này không đến nỗi rạch ròi. Vào thời trước, vẫn có những
tác phẩm theo xu hướng hàng hoá khi mục đích của nó là kêu gọi. Thí
dụ Bình Ngô đại cáo, thơ văn Phan Bội Châu. Vào thời đại ngày nay vẫn có
những tác phẩm quà tặng. Thí dụ Ngục trung nhật ký là quà tặng của tác giả
cho chính mình. Nhưng dẫu sao, sự phân biệt này cũng rất quan trọng, và
thường không được chú ý đến.
Người tạo ra, đổi mới văn hoá cũng khác trước. Trước kia, chủ yếu là
triều đình và quan lại. Triều đình có những bộ phận chuyên trách làm sử, viết
các chiếu biểu, sắc phong, soạn các sách để phổ biến. Sau đó, đến các quan
lại. Ngoài công việc chính là cai trị, họ có thì giờ rảnh viết sách, làm văn thơ.
Bây giờ thì khác. Tất cả mọi công trìh do triều đình, quan lại làm đều không
có tác dụng đối với người Việt Nam, vì uy tín chính trị của triều đình quan lại
đã mất. Trong lớp tân học, số người làm quan, làm công chức khá đông,
nhưng dù cho họ học cao, họ cũng không có địa vị về văn hoá đối với nhân
dân. Chỉ có những người sống trực tiếp bằng lao động trí óc, hoặc là lao động
tự do (thầy thuốc, thầy giáo), không gắn liền trực tiếp với chính quyền, mới
có uy tín thực sự đối với dân. Lần đầu tiên, ta thấy xuất hiện ở Việt Nam hình
ảnh người trí thức phương Tây, vị thầy của nền văn hoá mới từ Phong trào
Phục hưng đến giờ, kẻ thay thế tầng lớp tăng lữ của nhà thờ Thiên Chúa giáo.
21
Cũng như những người anh của họ ở phương Tây, họ là thị dân hoặc
được thị dân hoá, và có những tư tưởng chung của tầng lớp thị dân: thích tự do,
bình đẳng ,dân chủ, kinh tế thị trường, đề cao cá nhân, và ra sức gây ảnh hưởng
tới dư luận bằng hai công cụ là sách và báo, để tạo nên một thứ quyền lực độc
lập với chính trị. Nhưng họ lại khác trí thức phương Tây ở một điểm rất căn
bản. Họ sinh ra trong một nước thuộc địa, và chưa bao giờ có địa vị gì về chính
trị. Họ không thể có tham vọng chính trị, bởi vì trong hoàn cảnh của họ, muốn
theo đuổi tham vọng này thì phải theo Tây, chống lại dân tộc, cụ thể nhất là
chống lại những người Cộng sản. Họ thừa biết không phải họ, mà những người
Cộng sản mới là người đại diện cho phong trào cứu nước, bởi vì từ sau Xô –
Viết Nghệ – Tĩnh họ thấy ngoài Đảng cộng sản Đông Dương ra, không ai có
thể lôi cuốn đông đảo quần chúng chống thực dân bằng chính sức mạnh của
quần chung. Dù họ có thành kiến với chủ nghĩa cộng sản, họ cũng phải nhận
thấy rằng chút tự do ngôn luận mà họ được hưởng không phải do họ giành
được bằng đấu tranh, mà do chỗ thực dân gượng nhẹ đôi chút để họ khỏi bị chủ
nghĩa cộng sản lôi cuốn. Họ hiểu cái giá trị mới của mà người Việt Nam có
được, bắt thực dân nể sợ là xuất phát từ Đảng cộng sản. Cho nên cuộc vận
động văn hoá 1930-1940 phần nào giống như cuộc vận động văn hoá ở Đức
sau Cách mạng Pháp 1789. Những người như Goethe, Kant không có đủ dũng
khí làm cách mạng trong thực tế, như Robespierre, Saint Just, nên chuyển sang
cách mạng trong tư duy, cố nhiên trong phạm vi chế độ quân chủ kiểu Phổ còn
chấp nhận được. Xem báo Phong Hoá, Ngày nay ta thấy có tình trạng này. Hai
tờ báo này đả kích lung tung nhưng không dám đụng đến lông chân những
người Cộng sản. Không một bài thơ, bài báo nào dám chống lại Cộng sản. Có
một tình trạng đồng mưu im lặng (conspiration du silence) đầy ý nghĩa.
8. Trường Viễn Đông Bắc cổ, lẽ ra phải gọi là Trường Viễn Đông Pháp
(école Francaise d’Extrême-Orient), thành lập vào năm 1890 có thể xem là
tiêu biểu cho văn hoá Pháp. Ngày 15-12-1888, Toàn quyền Đông Dương ra
nghị định thành lập Phái đoàn Khảo cổ học thường trực tại Đông
22
Dương (Mission Archéologique Permanente en Indochine), ngày 20-11-1890
đổi tên là Trường Viễn Đông Bác cổ phụ trách việc bảo vệ và sắp xếp các di
tích, hiện vật lịch sử – văn hoá. Nó đã phát hiện nhiều di tích bị lãng quên như
khu vực đền đài Angkor ở Campuchia, các tháp Chàm ở Trung Bộ, nhiều di
tích chưa được nhắc đến trong bộ Đại Nam nhất thống chí (1909), là bộ địa lý
lớn nhất của Việt Nam do Cao Xuân Dục chủ biên. Các nhà bác học Pháp tiến
hành những cuộc khai quật khảo cổ học, và thiết lập nền móng cho khảo cổ
học ở Đông Dương, và tiến hành những sự khảo sát về ngôn ngữ học, dân tộc
học, fonklo, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục, làng xã… và để lại những tác
phẩm nổi tiếng, góp phần đào tạo những nhà ngôn ngữ học, dân tộc học,
fonklo học, địa lý học, sử học, khảo cổ học… Việt Nam. Có thể nới trong
truyền thống khoa học xã hội và khoa học nhân văn Việt Nam hiện nay, công
lao của Trường thực sự không nhỏ. Điều này là rất quan trọng đối với người
Việt. Người Việt trước kia làm khoa học chủ yếu bằng con đường tự học là
chính. Chỉ sau Cách mạng 1945, mới có một số người được đào tạo có bài
bản ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng cả hai loại người này để nghiên cứu
ở Việt Nam đều phải dựa vào một công trình tương tự được thực hiện trên đất
Việt Nam, hầu hết là của người Pháp.
Với sự đóng góp của một số học giả làm việc tại trường, (Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoa, Trần Văn Giáp, Nguyễn
Thiệu Lâu), trường đã tiến hành nghiên cứu các làng xã Việt Nam, và thu về
một khối tư liệu đồ sộ bao gồm hầu hết các làng xã ở đồng bằng trung du Bắc
Kỳ, các tỉnh miền núi nhưng chưa đầy đủ về các tỉnh Trung Kỳ và Nam Kỳ,
cùng với các hương ước các tục thờ cúng. Đồng thời, trường tiến hành dập
các văn bia (hơn 200.000 đơn vị), sưu tập được 50% đầu sách gồm 16.164
cuốn và trên một vạn văn bia được dập. Đây là một đóng góp to lớn, bên cạnh
các Viện bảo tàng ở Hà Nội, ở Đà Nẵng. Sự đóng góp của các nhà văn hoá là
to lớn.
23
Nhưng đóng góp lớn nhất của văn hoá Pháp ở Việt Nam không phải là
những đồ vật, những tác phẩm, mà cái tinh thần Pháp, tuy điều này ít ai để ý.
Thứ nhất, là óc phân tích. Truyền thống Nho giáo không biết phân tích.
Còn truyền thống Phật giáo, tuy phân tích rất giỏi, nhưng không phải để tìm
ra những yếu tố độc lập khách quan, rồi kết hợp chúng lại thành những cấu
trúc đặc thù làm nền tảng cho khoa học. Trái lại, nó phân tích để phủ định mọi
tồn tại. Do tiếp thu văn hoá Pháp, người Việt làm quen với phân tích.
Thứ hai, là óc duy lý. Văn hoá Pháp lấy duy lý luận làm nền tảng. Nó
chỉ chấp nhận cái gì được lý trí xác nhận. Nó có thể lầm lẫn trong việc lựa
chọn, cũng như trong việc xác nhận, chuyện đó là bình thường. Nhưng bất kỳ
cái gì nó theo cũng phải được lý trí xác nhận thì nó mới chịu. Còn văn hoá
xưa là văn hoá mô hình. Con người phục tùng các môt hình: những mô hình
cho người con, người chồng, người vợ, người dân… Nghệ thuật, văn học,
khoa học đều vâng theo những mô hình. Khi chấp nhận óc duy lý, mọi mô
hình cũ đều tan rã, bắt đầu được xây dựng lại theo lý trí.
Thứ ba, là óc phê phán. Vì văn hoá xưa xây dựng trên mô hình, nên nó
không chấp nhận phê phán, mà chỉ chấp nhận óc tuân thủ. Với óc phê phán,
văn hoá Việt Nam sẽ phê phán tất cả.
Hậu quả của ba xu hướng này, tuy bắt nguồn từ văn hoá Pháp, nhưng
lại dẫn tới điều mà người Pháp không thể ngờ. Đó là chủ nghĩa xã hội. Người
Việt Nam là động vật yêu nước. Lợi ích kinh tế cá nhân chẳng thu hút được
nó; trái lại quyền lợi đất nước đối với nó là tất cả. Từ xưa Trần Bình Trọng đã
khẳng định “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Cho nên
cái mới mà văn hoá Pháp đưa đến (óc duy lý, óc phân tích, óc phê phán) đã
đưa những đứa con lỗi lạc nhất của đất nước tới chủ nghĩa Marx, ở đấy trình
độ duy lý, phân tích, phê phán là triệt để nhất, quyết liệt nhất. Không phải
ngẫu nhiên mà nhiều con người lỗi lạc nhất của Đảng cộng sản lại xuất thân
từ các trường do Pháp đào tạo. Và toàn là học sinh xuất sắc nhất. Trong một
cuộc họp của Trường Quốc học Huế tôi gặp Phạm Vân Đồng, Võ Nguyễn
24
Giáp, Tạ Quang Bửu, Tố Hữu và người ta nhắc đến Nguyễn Chí Diễu, Trần
Phú, và bao người khác nữa. Bác Hồ cũng học ở đây. Đây là chỉ mới một
trường.
Bây giờ chúng ta bước vào một cuộc tiếp xúc văn hoá mới. Nước Pháp
đã khác trước, và nước Việt Nam cũng khác trước. Hơn mọi nước, nước Pháp
có lợi thế: một nước Việt Nam hiểu văn hoá Pháp, và những lớp người tuy
cầm súng đánh thực dân Pháp, nhưng vẫn hiểu rằng thực dân Pháp bôi nhọ
văn hoá Pháp; trái lại, trong di sản văn hoá của họ, có sự đóng góp rất lớn của
văn hoá Pháp.
Chú thích
1. Phần viết về chữ Quốc ngữ là dựa vào các quyển Colonialism and
Language Policy in Vietnam (Chế độ thực dân và chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam) của John de Francis, Mouton Publishers – The Hague – Paris – New
York, 1977 do hai giáo sư Grant Evans và Christopher Hutton của trường Đại
học Hongkong tặng.
2. Mính đàm là nói chuyện bên chén nước trà. Tôi không hiểu chữ này
chính nhờ anh Tạ Trọng Hiệp mà biết. Cụ Huỳnh Thúc Kháng lấy biệt hiệu là
“Mính Viên”, tức là “Vườn chè”.
3. Đào Duy Anh. Việt Nam văn hoá sử cương, Quan hải tùng thư xuất
bản, Huế, 1938.
4. Huỳnh Lý. Phan Châu Trinh, thân thế và sự nghiệp, Nhà xuất bản Đà
Nẵng, 1993.
25