MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 2
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Đối tƣợng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu : .............................................. 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu : .............................................................................. 3
5. Kết cấu của bài nghiên cứu: ............................................................................ 3
CHƢƠNG 1: ĐÌNH LÀNG KIM MÃ THƢỢNG TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH
SỬ ...................................................................................................................... 4
1.1.Tổng quan vùng đất................................................................................... 4
1.1.1.Vị trí địa lý .......................................................................................... 4
1.1.2. Đời sống kinh tế văn hóa ................................................................... 5
1.2. Lịch sử đình làng...................................................................................... 7
1.2.1. Nguồn gốc Thành Hoàng Làng .......................................................... 7
1.2.2 Lịch sử hình thành tồn tại của di tích ................................................ 12
CHƢƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT TẠI ĐÌNH LÀNG KIM
MÃ THƢỢNG VÀ LỄ HỘI TẠI DI TÍCH. .................................................... 14
2.1 Giá trị kiến trúc ....................................................................................... 14
2.2 Lễ hội tại đình làng ................................................................................. 17
2.2.1Thời gian diễn ra lễ hội...................................................................... 17
2.2.2 Chuẩn bị cho lễ hội ........................................................................... 17
2.2.3 Các nghi lễ chính: ............................................................................. 18
CHƢƠNG 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ......................... 20
3.1 Thực trạng và giải pháp ........................................................................... 20
3.2. Bảo vệ và tôn tạo di tích. ........................................................................ 20
3.2.1. Bảo vệ di tích ................................................................................... 20
3.2.2. Tôn tạo di tích. ................................................................................. 23
3.3. Phát huy giá trị của di tích đình Kim Mã Thƣợng .................................. 23
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 26
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 27
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di tích lịch sử văn hóa là nơi ghi dấu những công sức, tài nghệ, ý đồ của cá
nhân hay tập thể con ngƣời trong lịch sử để lại, là quá trình kết tinh tài năng, trí
lực sáng tạo để trở thành những bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất
về lịch sử bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì
thuộc về truyền thống dân tộc tốt đẹp, về kĩ năng, kĩ xảo của con ngƣời. Các di
tích lịch sử văn hóa tiềm ẩn dƣới vẻ rêu phong, cổ kính đồng thời cũng là một
bảo tàng sống về kiến trúc điêu khắc, trang trí và cả phong tục cổ truyền, tín
ngƣỡng của ngƣời việt.Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó
với tâm hồn của mọi ngƣời dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và
mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến
trúc đình làng vì vậy mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu biểu cho kiến
trúc điêu khắc Việt truyền thống.
Là một trong 15 ngôi làng cổ của Hà Nội, Làng Kim Mã Thƣợng ( phƣờng
Cống Vị - quận Ba Đình – Hà Nội) nằm giữa một quận nội thành đông đúc của
thủ đô, vẫn lƣu lại những nét đặc trƣng của một ngôi làng Việt. Đình làng Kim
Mã Thƣợng thờ thánh Linh Lang, là một vị hoàng tử có công đánh giặc thời Lý.
Không chí có giá trị về mặt tinh thần, đình làng Kim Mã Thƣợng còn có giá trị
về mặt lịch sử. Tuy vậy, do bị tàn phá trong chiến tranh và qua nhiều lần tu sửa,
kiến trúc nơi đây không còn đƣợc nhƣ nguyên bản. Do vậy, việc nghiên cứu,
khảo sát di tích là một việc làm cần thiết. Qua những nghiên cứu khảo sát đó,
chúng ta có thể tìm hiểu thêm về lịch sử, ý nghĩa của đình làng Kim Mã Thƣợng
với ngƣời dân nơi đây, từ đó đề ra phƣơng pháp bảo tồn trùng tu di tích tối ƣu
nhất.
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu về di tích Đình làng
Kim Mã Thượng (phường Cống Vị, quận Ba Đình Hà Nội)” làm để tài tiểu
luận của mình.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu thực trạng bảo tồn, tôn tạo Đình làng Kim Mã
Thƣợng. Từ đó tiến hành phân tích, đánh giá, đƣa ra bài học kinh nghiệm trong
bảo tồn Đình làng Kim Mã Thƣợng và lễ hội Xuân tại đây. Những giải pháp đƣa
ra là nguồn tham khảo cho hoạt động bảo tồn di tích.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu :
- Đối tƣợng nghiên cứu : Đình làng Kim Mã Thƣợng ( Phƣờng Cống Vị Quận Ba Đình – Hà Nội).
- Phạm vi nghiên cứu : Khái quát kiến trúc đình làng Kim Mã Thƣợng và lễ
hội Xuân diễn ra tại đây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu :
- Phƣơng pháp nghiên cứu điền dã, ghi chép, chụp ảnh.
- Phƣơng pháp thống kê, phân tích tổng hợp từ các tƣ liệu.
- Phƣơng pháp liên ngành dân tộc học, văn hóa học, bảo tàng học, sử học.
5. Kết cấu của bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu, ngoài phần mở đầu và kết luận, đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chương 1 : Làng Kim Mã Thượng trong diễn trình lịch sử.
Chương 2: Giá trị kiến trúc- nghệ thuật của đình làng Kim Mã Thượng
và lễ hội tại di tích.
Chương3 : Thực trạng và công tác bảo tồn phát huy giá trị truyền
thống tại đình làng Kim Mã Thượng.
3
CHƢƠNG 1
ĐÌNH LÀNG KIM MÃ THƢỢNG TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1.Tổng quan vùng đất
1.1.1.Vị trí địa lý
Trƣớc đây, phƣờng Cống Vị là Trại Cống Vị thuộc Thập Tam Trại. Thập
Tam Trại là một không gian lịch sử - văn hóa hình thành nên cơ sở của nhiều
nhân tố, có cả yếu tố lịch sử, có cả yếu tố dân gian.
Theo sách “ Thập Tam Trại – Một vùng văn hóa Thăng Long – Hà Nội”
có ghi về trại Cống Vị nhƣ sau :
Đầu thế kỷ XIX thuộc tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận, phủ Quảng Đức; đầu
thế kỷ XX thuộc tổng nội, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, sau là đại lý Hoàn
Long, thành phố Hà Nội. Nay thuộc đất phƣờng Cống Vị, quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội.
Theo địa bạ Gia Long 4 (1805), trại Cống Vị có giáp giới nhƣ sau :
- Phía Đông giáp thôn Tào Mã trại Giảng Võ, lấy bờ ruộng làm giới.
- Phía Tây giáp thành Đại La lấy chân làm giới.
- Phía Nam giáp công viên điền trại Vạn Bảo, lấy bờ ruộng làm giới.
- Phía Bắc giáp công viên điền trại Vạn Bảo, lấy bờ ruộng làm giới.
Theo quan sát khách quan của ngƣời dân làng Kim Mã Thƣợng, ta có thể
thấy : Làng nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long xƣa, phía Tây giáp làng
Cống Vị, phía Đông giáp làng Liễu Giai, phía Nam giáp làng Ngọc Khánh, phía
Bắc giáp làng Vĩnh Phúc ( Ba Đình).
Ngày nay, phƣờng Cống vị nằm trên con phố Đội Cấn – Quận Ba Đình, là
trung tâm hành chính của thành phố Hà Nội. Làng Kim Mã Thƣợng nằm trên
ngã ba Đội Cấn – Đốc Ngữ - Bƣởi, đằng sau giáp phố Linh Lang, bên trái là
đƣờng Liễu Giai. Làng Kim Mã Thƣợng nằm giáp làng Cống Vị về phía tay
4
phải, sát với dốc Bƣởi. Từ ngõ 294 Phố Đội Cấn (P.Cống Vị, Q.Ba Đình) đi vào
khoảng gần 700m. Rẽ phải rồi đi tiếp vào 300m là cổng Trƣờng Tiểu học
Nguyễn Bá Ngọc chung Đình làng Kim Mã Thƣợng. Đây là nơi địa thế cao ráo,
là trung tâm của các ngã rẽ vào các tuyến phố lớn trong nội thành.
1.1.2. Đời sống kinh tế văn hóa
Thời xa xƣa, Làng Kim Mã Thƣợng là một ngôi làng nhỏ ngoại vi kinh
thành, lấy chân đê La Thành làm giới. Làng có truyền thống làm nông, trồng hoa
màu. Thời kỳ sơ khai, trong làng có nhiều ao hồ, đầm, thuận tiên cho việc tƣới
tiêu nông nghiệp. Sau do nhân khẩu trong làng tăng lên, đời sống kinh tế đói
kém, ngƣời dân trong làng trở nên linh hoạt hơn, họ làm đủ nghề để kiếm sống.
Đã có một thời gian ngƣời dân trong làng bỏ di tứ xứ làm ăn. Sau đó, nam giới
lập những tổ thợ xây, lâu dần trở nên lành nghề, những nhóm thợ xây bắt đầu có
tiếng trong vùng. Những ngƣời phụ nữ ở nhà tiếp tục công việc làm nông, hay
làm hƣơng ( nhang ).
Ở cổng phía Đông của làng có một cái chợ, mà ngƣời làng vẫn quen gọi là
chợ cóc. Ngày nay, chợ vẫn còn và trở nên sầm uất với nhiều hàng quán, cửa
hàng và siêu thị lớn. Chợ nay đƣợc đổi tên thành chợ Cống Vị, đặt tên theo tên
của phƣờng sở tại.
Đến thời Pháp thuộc, làng gần nhƣ trở thành trại nuôi ngựa của thực dân
Pháp. Pháp cho xây một trƣờng đấu ngựa làm nơi ăn chơi tiêu khiển cho các
quan lại, ngƣời Pháp sống tại Hà Nội tại vị trí sân Quần Ngựa ngày nay. Nghề
nông vẫn còn nhƣng không còn là nghề duy nhất, ngƣời dân trong làng lập trại
ngựa, làm các dịch vụ trên trƣờng đấu ngựa. Vì lý do đó, có một thời gian làng
đƣợc biết đến với cái tên làng Quần Ngựa hay làng Đua Ngựa. Tuy hiện nay
trong làng không còn nghể này, và cũng không còn dấu vết nào của những trại
ngựa xƣa kia, nhƣng những làng lân cận vẫn quen gọi là làng Quần Ngựa.
5
Ngày nay, cũng nhƣ nhiều ngôi làng khác trên đất Hà Nội, làng quê đã
không còn đậm nét nhƣ trƣớc, những ngôi nhà cao tầng mọc lên thay cho mái
ngói tƣờng đất xƣa kia. Ngƣời dân trong làng cũng không còn nghề làm nông,
trồng lúa. Mỗi ngƣời đã chọn cho mình một nghề nghiệp theo nhịp sống xã hội
hiên đại. Kinh tế trong làng cũng nhờ thế mà khấm khá dần lên “phố trong làng,
làng trong phố”. Đến làng Kim Mã Thƣợng ngày nay, không ai còn nhận ra diện
mạo của ngôi làng làm nông nghèo khó xƣa kia. Lối vào làng đã trở thành con
phố sầm uất, hàng quán sát nhau hai bên đƣờng. Đời sống ngƣời dân đƣợc cải
thiện, đang dần phát triển.
Theo khảo sát dân số của Ủy bán nhân dân Phƣờng Cống Vị năm 2009,
làng có khoảng 3056 nhân khẩu trên 900 hộ dân, trong đó số lƣợng lớn là trẻ em,
thanh thiếu niên đang ở độ tuổi đi học. Chính vì vậy, vấn đề trƣờng học cho các
em đang khiến các bậc cha mẹ rất quan tâm. Hiện nay, tại địa phƣơng đã có một
trƣờng tiểu học, một trƣờng cấp 3, một trƣờng dạy nghề và bổ túc văn hóa.
Nhƣng do số lƣợng học sinh khá đông, nên việc đáp ứng nhu cầu là chƣa thể
tuyệt đối. Mặc dù vậy, số lƣợng con em trong làng đỗ đạt, vào đại học và đi du
học đạt xấp xỉ 70%. Đó là một kết quả đáng mừng với ngƣời dân trong làng, với
một ngôi làng vốn khó khăn và không có nhiều kết quả trong việc khoa bảng.
Trong làng hiện tại có 4 dòng họ lớn : họ Nguyễn Đức, họ Nguyễn Đình,
họ Trần Thƣợng, họ Trần Đình. Mỗi dòng họ đều có những ngƣời con thành đạt,
có đóng góp cho sự phát triển của làng. Trƣớc đây, trong làng tồn tại nhiều mâu
thuẫn giữa các họ. Nhƣng từ sau năm 1945, tƣ tƣởng phong kiến bị dẹp bỏ, các
dòng họ lại sống hòa thuận, đoàn kết theo tƣ tƣởng của Đảng và Nhà nƣớc.
Về mặt văn hóa xã hội, đời sống tinh thần của ngƣời dân trong làng ngày
càng đƣợc nâng cao. Đƣờng làng đã đƣợc làm lại, không còn con đƣờng đất gồ
ghề xƣa kia, mả đã đƣợc làm nhựa đƣờng. Việc đi lại không còn khó khăn nhƣ
trƣớc, làng không còn tình trạng ngập úng mỗi khi mƣa lớn. Các cơ sở hạ tầng
6
cũng đƣợc cũng cố, xây mới. Dịch vụ trạm y tế cũng khá hơn, đáp ứng nhu cầu
của ngƣời dân trong làng.
Nhƣng dẫu là thời xƣa hay thời nay, ngƣời dân trong làng rất chú trọng
đến đời sống tinh thần và đời sống tâm linh. Họ luôn cho rằng đời sống tinh thần
thoải mái lành mạnh thì đời sống vật chất mới đƣợc sung túc. Vì vậy, dù trải qua
rất nhiều thế hệ, dân làng vẫn luôn chú trọng tổ chức những lễ hội tại đình làng.
Một năm làng có 2 lễ hội chính : Lễ ngày sinh của Thánh Đức Đại Vƣơng Linh
Lang (thành hoàng làng) và lễ hóa của ngài. Trong đó, ngày lễ hóa là ngày
chính, đƣợc tổ chức vào ngày 10 tháng 2 âm lịch hàng năm. Ngoài ra còn có lễ
tế trên đình làng vào những đêm 30 tháng chạp và sáng ngày mùng 1 đầu năm.
Ngƣời dân làng Kim Mã Thƣợng vẫn luôn tự hào về ngôi làng nhỏ bé của
mình. Làng dẫu không có truyền thống khoa bảng, không có nhiều tiến sỹ đỗ đạt
nhƣng có một truyền thống cách mạng lớn và tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau
của những ngƣời dân trong làng đã ăn sâu vào máu thịt, trở thành truyền thống
của làng. Thế hệ trẻ ngày nay đang đƣợc giáo dục theo truyền thống đó, để dù
mỗi thế hệ đi qua lịch sử cội nguồn sẽ không phai mờ, phát huy giá trị tốt đẹp
của ông cha.
1.2. Lịch sử đình làng
1.2.1. Nguồn gốc Thành Hoàng Làng
Trong tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, Thành Hoàng Làng đóng một vai trò
rất quan trọng. Thành hoàng làng quyết định phúc họa của một làng và thƣờng
đƣợc thờ ở đình làng. Thành hoàng làng là ngƣời có công với dân, với nƣớc, lập
làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Cũng giống nhƣ
truyền thống thờ ông bà tổ tiên có ban thờ tại mỗi tƣ gia, Thành Hoàng Làng
đƣợc thờ ở đình (cũng có nơi thờ ở miếu). Tín ngƣỡng thờ Hoàng Làng thƣởng
đƣợc thể hiện trong các lễ hội Xuân hoặc Tết cổ truyền. Lễ hội, nhất là lễ hội thờ
Hoàng Làng thực chất là chiếc cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, là sự giao lƣu
7
văn hóa các làng xóm với nhau, là nét văn hóa đặc trƣng trong sinh hoạt văn hóa
làng, là sự kết tình giữa hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể trong tâm thức dân gian, tâm
thức truyền thống của ng dân.
Cũng chính vì vai trò của Thành Hoàng Làng trong tâm thức của mỗi ngƣời
con đất Việt rất quan trọng nhƣ vậy, nên đình làng cũng là một nơi thiêng liêng
và cũng là nơi có nhiều chức năng trong đời sống cộng đồng của ngƣời dân.
Trƣớc năm 1945, đình làng là nơi diễn ra các công việc của làng nhƣ thu thuế,
phạt vạ, bắt lính … Đình làng là nơi thờ phụng Hoàng Làng và trở thành một
biểu tƣợng văn hóa tâm linh của mỗi ngƣời dân quê Việt. Làng nào cũng có
đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành Hoàng làng
nhƣng cũng đồng thời trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi
sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều diễn ra ở đình với sự
chứng kiến của Thành Hoàng.
Theo các sắc phong, thần phả của đình để lại thì đình thờ 3 vị Thành hoàng
là: Bố Cái Đại Vƣơng, Linh Lang Đại Vƣơng và quan Thái Giám Hoàng Phúc
Trung. Các vị thần này đều có liên quan đến các sự kiện lịch sử lớn diễn ra trong
vùng.
Bố Cái Đại Vƣơng (tức Phùng Hƣng) sinh ngày 5/1/ 761 (25/11 Canh Tý)
trong gia đình mấy đời là Hào trƣởng quê ở Đƣờng Lâm, Ba Vì, Sơn Tây, Hà
Nội. Tƣơng truyền ông có sức khỏe phi thƣờng, vật nổi trâu, đánh đƣợc hổ, cõng
thuyền nặng đi hàng chục dặm đƣờng. Đƣợc mọi ngƣời trong vùng mến phục.
Vào những năm (766 -779) quyền thống trị nhà Đƣờng ở nƣớc ta do Cao Chính
Bình nắm giữ, thi hành chính sách tàn bạo, bóc lột thậm tệ, khiến nhân dân phẫn
nộ. Ông cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa chống lại,
chỉ sau một thời gian ngắn quân sĩ đã lên tới hàng vạn ngƣời. Cuộc chiến kéo dài
hơn 20 năm, vào năm Ất Hợi (795) đánh tan quân xâm lƣợc, ông lên nắm quyền
trị vì đƣợc 7 năm. Đến ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (802) ông mất, con trai
8
là Phùng An nối ngôi, tôn ông lên làm Bố Cái Đại Vƣơng và xây lăng mộ ở phía
tây phủ thành Tống Bình, thuộc địa phận làng Kim Mã.
Quan thái giám Hoàng Phúc Trung (tức Quý Công) sinh ngày 13 tháng 01
năm 1026 (Bính Dần) quê ở làng Lệ Mật. Năm 16 tuổi ông đã đƣợc vua Lý Thái
Tông (1028 – 1054) vời vào triều làm Giám quan. Trong một lần vãn cảnh trên
sông Đuống, thuyền của công chúa chẳng may bị đắm, rất nhiều ngƣời xuống
tìm xác nàng mà không thấy. Ông đã xin vua cho phép đƣợc xuống tìm và đã
vớt đƣợc. Vua ban thƣởng, phong làm “Thái giám nội thị tự khanh” và ân
thƣởng nhiều vàng bạc, lụa nhƣng ông không nhận, chỉ xin nhà vua cho dân
nghèo ở làng Lệ Mật sang khai khẩn vùng đất phía Tây kinh thành, dựng nên 13
làng trại (Thập tam trại, trong đó có làng Kim Mã). Đến ngày 10 tháng 10 năm
1119 (Kỷ Hợi) đời vua Lý Nhân Tông ông bị bệnh và mất ở kinh đô hƣởng thọ
93 tuổi. Với công lao to lớn lập trại an dân nhà vua đã cho lập đền miếu thờ ông
ở nhiều nơi trong 13 làng trại và sắc phong ông làm “Thành hoàng Thái giám
Linh Chƣơng Đại Vƣơng, thƣợng đẳng phúc thần”.
Đình làng Kim Mã Thƣợng thờ Đức Đại Để Linh Lang Đại Vƣơng. Về
nguồn gốc của Ngài có rất nhiều truyền thuyết đƣợc kể lại, trong đó, thánh tích
của làng có viết : “Xưa nước Việt Nam, đức thánh tổ mở vận Hoàng Đô, hơn
2000 năm vua Hùng lấy hiệu trải tới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều là dòng
giống vua sáng nước Nam ta”
Dựng nghiệp lớn trị thiên hạ đến 8 đời, vua nhà Hậu Lý truyền ngôi đến
vua Thánh Tông. Vua có đức rộng tài cao, to lớn hơn các vị anh quân khác, vì
thế Đấng thiên để ban cho hoàng gia sinh ra bậc thánh.
Xƣa, vào thời vua Lý Thái Tông ở giáp Đông Đoàn, xã Bồng Lai, tổng
Thƣợng Trì, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, xứ Sơn Tây, có gia đình họ Nguyễn
húy Thực vợ là Lê Thị Năng vốn dòng họ gia thế hảo hữu, lại có lòng thánh, tính
tình chất phác, tuổi cao vân chƣa có con.
9
Một hôm Thái Bà nằm ở nơi chính tầm, phòng lan mơ màng thiếp đi, chợt
thấy đám mây ngũ sắc đuổi sao thái âm, Thái Bà ngửa mặt xem thì thấy sao thái
âm rơi vào miệng. Thái Bà king ngạc tỉnh dậy kể và đem điều mộng nói với
chồng. Ông Thực vui mừng : Nêu quả nhƣ điều mộng tất trời cho sinh con quý.
Đƣợc ít lâu Thái Bà có thai, đến kỳ sinh đƣợc 1 gái, hôm ấy là 15 tháng 3 năm
Đinh Sửu (1037) phong tƣ yểu điệu, mắt phƣợng lung linh, môi son má phấn,
thân có mùi thơm. Cha mẹ rát yêu, tròn 3 tháng đặt tên là Hạo Nƣơng.
Một hôm vua Thánh Tông ngự ra chơi ở ngoại thành, nhác thấy Hạo
Nƣơng dung nghi rất đẹp. Vua thầm nghĩ : đây không phải hạng ngƣời thƣờng
mà có đƣợc, không phải con gái ở chốn bồng doanh thì cũng là kiều nƣơng ở nơi
lâu uyển. Vua đẹp lòng sai sứ thần vời Hạo Nƣơng để hỏi cƣới làm vợ, lập làm
cung phi thứ 9. Về cung ít lâu có thai và sinh đƣợc 1 con trai đúng giờ Thân
ngày 13 tháng Chạp năm Ất Mùi ( 1055) khôi ngô tuấn tú khác thƣờng, sau lƣng
có 28 nốt hồng nhƣ vẩy lân, trƣớc ngực nhƣ điểm 7 hạt châu. Sinh đƣợc 7 ngày
vua đặt tên là Hoàng Chân.
Đến năm 17 tuổi vào năm Nhâm Tý vua cha Lý Thái Tông băng hà, Thái
tử Càn Đức tuổi lên ngôi lấy niên hiệu là Nhân Tông. Vua nhà Tống ở phƣơng
Bắc rất mừng cho là thời cơ tốt để đánh chiên nƣớc Nam ta. Nhà Tống ráo riết
động binh, tích cực tăng cƣờng binh lực, tích trữ lƣơng thảo, đóng chiến hạm,
thu thêm thuyền của dân, lập thủy binh. Thành Ung Châu cũng đƣợc xây đắp
thêm kiên cố - Châu Khâm, Châu Liêm dƣợc tăng cƣờng củng cố trở thành
những quân cảng trọng yếu, đòn trại san sát.
Cuối năm Bính Thìn ( 1076) để phục thù, nhà Tống ồ ạt đƣa 10 vạn bộ
binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn phu do những viên tƣớng lừng danh Bình Liêu Nhƣ
Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy vƣợt biên giới kéo đến bờ Bắc sông Cầu. Giặc
Tống nhiều lần bắc cầu phao, đóng bè lớn đổ quân qua sông cầu hòng đánh
chiếm Thăng Long đều bị quân ta đánh bại thảm hại. Quân sỹ của giặc đều bị
10
tiêu diệt. Quách Quỳ không dám nghĩ đến chuyện tấn công. Y ra lệnh, ai bàn
đánh, sẽ chém. Nắm đƣợc tình hình đich nao núng, theo lệnh của quốc phụ thái
úy Lý Thƣờng Kiệt, hoàng tử Hoàng Châu cùng hoàng tử Chiêu Văn lại chỉ huy
hạm thuyền từ Vạn Xuân ngƣợc dòng sống Kháo Túc, lợi dựng đêm tối bất ngờ
đánh thẳng vào phòng tuyến phía Đông của giặc Tống. Bị đánh bất ngờ cả
doanh trại giặc Tống chìm trong khói lửa, phần bị chết, phần bị bắt, tan vỡ dần,
số còn lại tìm đƣờng tháo chạy về nƣớc. Trong trận này, soái thuyền của hoàng
tử Hoàng Chân bị súng bắn đá của giặc bắn trúng, nƣớc tràn vào khoang, thuyền
chao đảo dữ dội. Chủ soái Hoàng Chân vẫn hiên ngang tay cầm kim bài, tay cầm
kiếm chỉ huy quân sĩ đánh giặc cho tới khi thuyền chìm, hoàng tử Hoàng Chân
hy sinh. Hôm đó là ngày mồng 10 tháng 2 năm Đinh Tỵ (1077). Hoàng tử
Hoàng Chân hy sinh anh dũng, song chiến công của ngƣời đã góp phần to lớn
cùng toàn quân toàn dân Đại Việt đánh thắng giặc Tống xâm lƣợc, vua Lý Nhân
Tông bèn bàn phong mỹ tự Linh Lang Đại Vƣơng, Thƣợng đẳng phúc thần, xây
đền thờ Ngƣời ngay trên đền điện cũ của Ngƣời, tọa lạc trên gò Long Đầu thuộc
làng Thủ Lệ phía Tây thành Thăng Long nay gọi là đền Voi Phục, để muôn đời
cúng tế.
Sang đời Trần, giặc Nguyên Mông xâm lƣợc nƣớc ta Đức Thánh Linh
Lang hiển linh phù trợ vua nhà Trần đánh giặc, đƣợc vua nhà Trần phong sắc :
Bình vƣơng Mông thƣợng đẳng phúc thần.
Sang đời Lê Trang Tông đức thánh Linh Lang hiển linh phù trợ vua Lê
tảo mạc thanh thị, thống nhất bờ cõi đƣợc vua Lê Trang Tông sắc tặng gia phong
: Phối đồng thiên địa, vạn cổ lƣu truyền.
Ghi nhớ công ơn to lớn của Hoàng tử Hoàng Chân, Linh Lang đại Vƣơng,
Thƣợng đẳng phúc thần cùng với 269 làng trại trong cả nƣớc, nhân dân Thập
Tam Trại ( Tổng Nội) phía tây Kinh thành Thăng Long đã xây đình tôn thờ Ngài
là Thành Hoàng Làng của cả Tổng.
11
1.2.2 Lịch sử hình thành tồn tại của di tích
Để ghi nhớ công ơn của các vị thành hoàng đối với cộng đồng, ngƣời dân
Kim Mã Thƣợng xƣa đã xây dựng ngôi đình bề thế để con cháu hƣơng khói
thƣờng xuyên lƣu truyền hậu thế.Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau
nhƣ thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh mà ngôi đình đã bị hƣ hại rất nhiều. Công
trình kiến trúc khi khởi dựng không còn tồn tại, đình Kim Mã Thƣợng hiện nay
mang đậm dấu ấn nghệ thuật thời Nguyễn và những lần trùng tu sửa chữa về sau
đã tạo nên diện mạo kiến trúc nhƣ hiện nay.
Đối với thành Thăng Long xƣa nay là thủ đô Hà Nội, đức Thánh Linh Lang
đƣợc tôn vinh là 1 trong 4 vị thánh trấn giữ kinh thành.
Học tập và noi gƣơng công đức cao cả của ngƣời
Nƣớc có giặc kiên trung giết giặc
Hết lòng vì xã tắc muôn dâ
Trọn đời vì nƣớc quên dân
Sắc phong thƣợng đẳng phúc thần tối linh.
Ở Thập Tam Trại, thánh Linh Lang đƣợc thờ ở 6 nơi, 4 nơi thờ chính là
Thủ Lệ, Vạn Phúc, Kim Mã Thƣợng, Hào Nam. Ngoài ra, đình Kim Mã Hạ và
Ngọc Khánh phối hợp thờ với các vị thần khác. Các vị thành hoàng luôn giữ vai
trò quan trọng đối với cộng đồng, đƣợc cộng đồng tôn thờ qua từng thế hệ tại
ngôi đình chung của cộng đồng.
Đình làng Kim Mã Thƣợng thuộc trại Kim Mã đƣợc xây vào đầu thế kỷ
XIX trên một khu đất cao ráo, đình quay về hƣớng Đền Thủ Lệ, với ý nghĩa thờ
vọng Đức Thánh Linh Lang. Đình đƣợc xây nhờ vật phẩm và tiền của của những
ngƣời dân trong làng. Nhất là các dòng họ lớn trong làng. Thủa ban đầu đình
làng có nhiều đơn nguyên kiến trúc và khoảng sân rộng phía trƣớc. Nhƣng do
đình bị phá trong kháng chiến chống Pháp nên đã mất đi trạng thái ban đầu.
Đình làng Kim Mã Thƣợng có lịch sử khoảng gần 300 năm, trong chiến tranh
12
khu đình trở thành nơi đóng quân của bộ đội và bị giặc Mỹ đánh phá, sau đó
đình làng này lại đƣợc cho mƣợn làm trƣờng học. Đến năm 1991 đình mới đƣợc
khôi phục lại và trở thành nơi thờ cúng của dân làng. Năm 1995, đình đƣơc
trùng tu, tôn tạo lại nên đã mang một dáng vẻ hiện đại hơn.
13
CHƢƠNG 2
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT TẠI ĐÌNH LÀNG KIM MÃ
THƢỢNG VÀ LỄ HỘI TẠI DI TÍCH.
2.1 Giá trị kiến trúc
Về mặt tạo hình, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, đình làng là
gƣơng mặt của nền kiến trúc Việt cổ. Nó không chỉ là công trình oai nghiêm và
đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà
còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc bởi ít
phải chịu ảnh hƣởng của kiến trúc ngoại sinh. Đặc biệt, qua một thời gian dài
nghiên cứu, chắt lọc, ngƣời ta còn phát hiện từ đình làng một kho tàng những tác
phẩm điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam mà sự khéo léo, tài tình của những ngƣời
thợ đƣợc thể hiện trên từng nét vẽ, chạm khắc. Xét trên mặt bằng tổng thể, trƣớc
đình làng luôn là ao đình (tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều
hàng cây cổ thụ. Đây là hai yếu tố quan trọng trƣớc tiên tạo nên diện mạo đình
làng mà các kiến trúc gia nƣớc ngoài thƣờng gọi là “nền kiến trúc họa cảnh”.
Tòa đình chính (đại đình) thƣờng là một căn nhà lớn lợp ngói mũi kiểu bốn mái
xòe rộng ra ôm lấy đất. Thế nhƣng, bốn tàu mái cao rộng đó không trở nên nặng
nề nhờ bốn góc có bốn tầu đao cong vút nhƣ nâng các tàu mái bay bổng. Kiểu
mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc truyền thống Việt Nam, khác
hẳn với kiểu tàu hộp hay giả tàu của nền kiến trúc Trung Hoa mà ta thƣờng thấy
trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế.
Với đình làng Kim Mã Thƣợng, với tính chất đa chức năng nhƣ những ngôi
đình khác trên nƣớc Việt, đình đƣợc xây ở khoảng đất rộng, cao ráo phía đầu
làng. Trƣớc đây, phía trƣớc sân đình có một ao rộng, nƣớc sạch trong, đƣợc coi
là thứ nƣớc nguồn trong sạch nhất của làng. Nhƣng khi đất nƣớc đã hết chiến
tranh, tập trung vào xóa đói giảm nghèo, làng đành lấp ao nƣớc đi thành một
14
khoảng đất trống rộng xây dựng trƣờng cho con em trong làng theo học. Kể từ
đó, làng và trƣờng chung sân chung cổng. Dẫu vậy, khoảng sân phía trƣớc đinh
khá rộng rãi, cao ráo, đất tốt. Trên khoảng sân này trông nhiều loại cây, cây nào
cũng sum suê cành lá. Đó hẳn là nơi đất tốt, vạn vật thích nghi, là nơi đẹp nhất
trong làng đƣợc làm nơi Thánh ngự.
Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ phƣơng Đông, dựa
trên sự liên kết của các bộ vì. Sức nặng của tòa nhà do cột trong vì đảm nhiệm
nên khi ấy, tƣờng nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ ngăn
che nắng mƣa, gió bão. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc đình
làng Việt cổ là một không gian mở, mỗi khi làng có việc, cửa bích bàn bốn mặt
đình đƣợc dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình càng trở nên thông
thoáng. Đình làng Kim Mã Thƣợng tuy không đƣợc mở 4 mặt đình nhƣ đình
làng truyền thống nhƣng mặt tiền của đình lại rất thông thoáng với khoảng sân
rộng trồng nhiều cây, đặc biệt là 2 cây cổ thụ vẫn đứng hiên ngang từ bao đời
nay nhƣ che chắn cho ngôi đình – ngôi nhà thiêng liêng của cả làng.
Đình làng Kim Mã Thƣợng đƣợc thiết kế theo kiểu chữ Đinh , đƣợc nằm
cao hơn mặt sân đề phòng ngập úng.Mái đình thẳng, mạnh, không có nhiều chi
tiết trang trí tạo cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát. Để bƣớc vào đình ngƣời ta
phải bƣớc lên bậc tam cấp bằng đá và bƣớc qua bậc thềm lát đá nâu trầm. Ngoài
thềm của ngôi đình có 2 cột bằng gỗ , tuy nhiên không điêu khắc trang trí mà chỉ
để một màu nâu trầm tạo vẻ trang nghiêm. Bên trong đình thiết kế theo kiểu
Tam quan, đƣợc xây theo kiểu lòng thuyền. Gian giữa là bàn thờ chính thờ Đức
Thánh Linh Lang, đƣợc lát gạch nâu trầm, mùa hè mát, mùa đông khô ráo,
không gian mộc mạc, thành kính. Gian bên trái là gian thờ Đức Thánh Hiền,
gian bên phải là gian thờ Bác Hồ và là nơi treo bằng khen cách mạng và giấy
chứng nhận di tích của nhà nƣớc. Hai gian bên này đƣợc xây cao hơn gian chính
giữa, tạo nên cấu trúc lòng thuyền truyền thống của các ngôi đền hình chữ Đinh
15
. Đằng sau là gian hậu cung, là nơi để tƣợng Đức Thánh Linh Lang. Đây là nơi
trang nghiêm tôn kính nhất, một năm chỉ mở 2 lần vào ngày lễ hội.
Ở đình làng, chúng ta rất dễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều
đƣợc chạm khắc trang trí. Ngoài các hình rồng, phƣợng, hoa lá, ta thƣờng gặp
trong nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng hình ảnh những ngày hội làng,
những khung cảnh lao động nhọc nhằn hay bức vẽ thể hiện tình yêu mẹ con,
chồng vợ và cả những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất
cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế hệ mai sau hiểu và cảm đƣợc
không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời xƣa, đồng thời là bản sắc của
nền kiến trúc cổ Việt Nam – một bản sắc văn hóa và lịch sử sâu sắc nhất. Tuy
vậy, ở đình làng Kim Mã Thƣợng, do cấu trúc cũ đã bị phá hủy hoàn toàn trong
chiến tranh, công trình mới đƣợc xây dựng mang đậm màu sắc hiện đại. Những
họa tiết trang trí chủ yếu tập trung ở cột đình. Đó là hình con rồng mang phong
cách của thế kỷ 21 nhƣng cũng có đôi nét của hình tƣợng rồng thời Lý Trần.
Hình tƣợng rồng đƣợc chạm khắc tinh xảo quấn mình quanh cột từ dƣới lên biểu
tƣợng cho hình ảnh làng đang vƣơn lên mạnh mẽ trong thời đại mới. Đầu rồng
có mào lửa lớn đầy uy nghi. Thân rồng lớn, có vẩy nhƣ nửa hình tròn xếp đều
đặn tạo vẻ duyên dáng uyển chuyển, nhƣng đuôi rồng dài và nhọn lại tạo nên vẻ
mạnh mẽ, hiên ngang. Hình tƣợng rồng cuộn đƣợc đặt giữa những họa tiết mây
cuộn tạo nên một hình ảnh hừng hực sức sống, nhƣ thế đứng của làng đang
muốn vƣơn tới tƣơng lai tƣơi sáng. Chân cột đƣợc kê bằng bệ bê tông chắc chắn.
Nhƣ vậy, 2 chiếc cột phía bên trong đình đã tạo cho khách thập phƣơng và
những ngƣời đến làm lễ một không gian đầy uy nghi, thành kính khi bƣớc vào
trong đền, nhƣng dƣờng nhƣ cũng có cảm giác tràn đầy năng lƣợng.
16
2.2 Lễ hội tại đình làng
2.2.1Thời gian diễn ra lễ hội
Mỗi năm, cứ độ qua rằm tháng giêng là lúc cả làng Kim Mã Thƣợng chộn
rộn chuẩn bị cho lễ hội. Trẻ con thì vui mừng vì lễ hội là dịp đình làng đông vui
nhất, là dịp mà cả làng gặp mặt nhau, chuyện trò, tất bật lo cho đám giỗ lớn nhất
trong làng. Ngƣời lớn lại bận rộn lo việc chuẩn bị sao cho chu đáo, để lễ hội
đƣợc diễn ra trang trọng, suôn sẻ, mọi lễ lạt đƣợc đầy đủ, chính tể. Dƣờng nhƣ
ngƣời dân làng Kim Mã Thƣợng ai nấy đều tạm gạt đi những bề bộn của cuộc
sống hiện đại, trở về với sự sôi động của mùa lễ hội.
Mỗi năm có 2 lễ hội đƣợc tổ chức ở đình làng Kim Mã Thƣợng: ngày sinh
và ngày hóa của Đức Thánh Linh Lang. Lễ hội chính là ngày hóa của Ngài, diễn
ra vào ngày mồng 10 tháng 2 hàng năm. Tuy vậy, đám rƣớc sẽ bắt đầu vào chiều
ngày hôm trƣớc ( chiều ngày mồng 9 tháng 2 ). Vào ngày này, mỗi dòng họ, mỗi
gia đình lại sắm lễ, chuẩn bị một cỗ mang lên đình. Trƣớc là để thắp hƣơng kính
cẩn lên Thành Hoàng Làng, sau là cả làng và khách thập phƣơng cùng nhau thụ
lộc hƣởng chung.
2.2.2 Chuẩn bị cho lễ hội
Lễ hội đƣợc coi là ngày giỗ quan trọng nhất của cả làng, vì vậy phải đƣợc
chuẩn bị kỹ lƣỡng. Mỗi dòng họ đề có một mâm cúng, đƣợc gọi là “lễ”. Dù là
khó khăn đến mức nào, một lễ cũng phải phải đủ một thủ lợn quay óng vàng,
một mâm xôi đỗ dẻo thơm, vàng ƣơm, hai chai rƣợu ngon, một mâm sắp đầy
ngũ quả cùng vàng hƣơng . Họ nào giàu hơn chuẩn bị cả một con lợn sữa quay
căng mập, vàng ƣơm. Xôi đỗ phải là xôi đỗ xanh do chính tay ngƣời phụ nữ
khéo léo nhất trong họ nấu, xôi phải dẻo, phải thơm, đƣợc ép trên một mâm
đồng. Lễ quả nhất thiết phải có ngũ quả, và không đƣợc thắp hƣơng dƣa hấu. Vì
ngƣời dân ở đây quan niệm dƣa hấu là tƣợng trƣng cho “ xanh vỏ đỏ lòng”, lòng
ngƣời không sống thật với nhau. Lễ phải do một trƣởng nam thành đạt của một
17
gia đình trong họ dâng lên Thánh. Thành đạt ở đây là một gia đình hạnh phúc,
con cái đề huề, ngoan ngoãn, học tốt, không có vết tích xấu trong dòng họ. Với
lễ đầy đủ nhƣ vậy, họ mong Thành Hoàng Làng sẽ phù hộ cho con cháu trong
họ năm nay làm ăn phát đạt, đƣợc nhiều lộc, gặp nhiều may mắn và hạnh phúc.
Bên cạnh việc chuẩn bị một lễ cho đầy đủ, chu đáo, trƣởng họ cũng phải lo
việc trên đình. Trƣớc ngày diễn ra lễ hội, trƣởng nam của các dòng họ lớn trong
làng họp trên đình, lo việc mời quan khách, chuẩn bị văn tế, chuẩn bị kiệu rƣớc
thánh ...
2.2.3 Các nghi lễ chính
Ngày trƣớc ngày lễ hội, chiều ngày mùng 9 tháng hai âm lịch, đám rƣớc bắt
đầu rƣớc thành từ đền Voi Phục ( đền Thủ Lệ) về đình làng. Đây gọi là lễ Tế
Yết. Đám rƣớc đƣợc dẫn đầu bởi ông chủ tế, ăn mặc chỉnh tề, áo the khăn xếp
dẫn trống và tù và. Ngay sau là kiệu Bát Cống long trọng rƣớc tƣợng thánh, kiệu
đƣợc đội Bát Bửu đi kèm bảo vệ 2 bên. Đội Bát Bửu gồm 2 ngƣời đàn ông cao
lớn, cần đao đi 2 bên bảo vệ Ngài. Đi sau lễ rƣớc là một đội múa sinh tiền rƣớc
kiệu hoa. Đội múa này là những nam thanh nữ tú xinh đẹp, ngoan ngoãn đƣợc
chọn ra từ trƣớc, và nhảy múa theo nhịp nhạc bát âm vui mừng đƣợc rƣớc Thánh
về ngự tại làng. Đi cuối cùng của đám rƣớc là một đội trống giong cờ mở, có
đầy đủ các nhạc cụ truyền thống. Đám rƣớc tạo nên một không khí rộn rã cho cả
làng, mong chờ đến ngày lễ hội.
Sáng ngày mùng 10, là ngày lễ chính, đội tế Nam tập trung từ sáng sớm.
Buổi tế bao gồm các thành phần không thể thiếu đó là đội tế nam và đội dâng
hƣơng. Đội tế nam gồm từ 16 – 23 ngƣời, là những ngƣời đàn ông đã có gia
đình, đã thành đạt trong cuộc sống đƣợc dòng họ cử ra.
Lễ tế đƣợc diễn ra từ sáng sớm, khi mà bình minh mới ló rạng vì ngƣời ta
cho rằng đây là khoảnh khắc đẹp nhất trong ngày, không khí trong sạch nhất và
lòng ngƣời cũng thanh thản nhất. Đội tế gồm chủ tế, Đông Xƣớng và Tây
18
Xƣớng. Đây là 2 ngƣời sẽ hô cho đội tế làm lễ. Đông xƣớng hô lệnh để quan
viên sắp lễ, Táy xƣớng hô lệnh đi và nghỉ. Đứng 2 bên bàn thờ là Thị Lệnh bảo
vệ. Dọc theo 2 bên gian chính của đình là 2 bàn đã chuẩn bị sẵn đồ lễ, quan viên
đứng 2 bên chuẩn bị sẵn sàng dâng lễ theo tiếng hô của Đông xƣớng. Dâng lễ
đầu tiên là 2 cây nến ( nhất thiết phải có) đƣợc coi là ngọn đèn dẫn đƣờng cho
đám tế, cũng nhƣ chứng minh cho tấm lòng trong sạch của con dân trong làng.
Theo sau là hƣơng nhang đã đốt và chƣa đốt. Lần lƣợt các lễ của các dòng họ
đƣợc kính cẩn dâng lên ngài. Vòng 2, đội tế lần lƣợt dâng hƣơng, Á hiến lễ, Đọc
văn trúc, Trung hiến lễ, Sơ yếu lễ. Đứng ngoài cửa đình, trên bậc thềm là bồi tế
cầm đao đứng yểm bên ngoài, ngăn không cho xấu xa vào trong khi đang cúng
tế.
Sau khi đã thông báo toàn dân khai mạc, trƣởng ban tổ chức lễ hôi đọc
chƣơng trình lễ hội, giới thiệu các quan khách đến dự gồm có sở văn hóa và đại
diện 13 làng trại và những làng lân cận. Sau đó, trƣởng ban di tích đƣợc giới
thiệu lên đọc thần phả và dâng hƣơng. Sau đó là hội ẩm phƣớc, các vị khách
mời, con dân trong làng cùng khách thập phƣơng thụ lộc. Sau đó, các vị cao tuổi
thực hiện lễ Hóa Trúc (hóa vàng).
19
CHƢƠNG 3
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
3.1 Thực trạng và giải pháp
Hiện nay, đình làng Kim Mã Thƣợng cơ sở vật chất còn khá tốt do mới
đƣợc tôn tạo, trùng tu vào năm 2005. Nhƣng vẫn còn một vấn đề lớn mà nhiều
năm nay chƣa đƣợc giải quyết. Đó là thực trạng trƣờng học chung với đình làng.
Ông Nguyễn Phú Chút, một phụ huynh có cháu học ở trƣờng Nguyễn Bá Ngọc
than: “Thấy thầy trò Trường Nguyễn Bá Ngọc học cạnh đình làng mà thấy
chạnh lòng. Đây là hai môi trường hoàn toàn khác biệt, đình làng là nơi thờ
cúng linh thiêng cần thanh tịnh, trong khi học sinh ngoài giờ học lại muốn được
vui chơi nô đùa… Do vậy để trường học chung sân đình làng là rất không hợp
lý”. Đó là một trong những bất hợp lý hiện tại đang diễn ra tại đình làng Kim
Mã Thƣợng. Không khí trầm mặc của đình làng buộc lòng bị xen lẫn bởi môi
trƣờng giáo dục. Nhƣ vậy, gây quấy nhiễu không gian thanh tịnh của nơi thờ
cúng, và cũng làm xáo trộn công tác giáo dục trong nhà trƣờng. Hiện nay,
trƣờng và ban quản lý di tích vẫn đnag chờ Ủy ban quận xét duyệt để trƣờng
đƣợc chuyển đến mặt bằng mới.
3.2. Bảo vệ và tôn tạo di tích.
3.2.1. Bảo vệ di tích
3.2.1.1. Vấn đề bảo vệ di tích trong luật di sản văn hóa.
Yêu cầu về việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích đƣợc nêu rõ trong điều 34
luật di sản văn hóa nhƣ sau:
Giữ gìn tối đa các yếu tố cấu thành nên di tích.
Lập quy hoạch, dự án trình cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phê duyệt, trừ
trƣờng hợp sửa chữa nhỏ không ảnh hƣởng tới yếu tố cấu thành di tích. Đối với
di tích cấp tỉnh, phải đƣợc sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền
20
về văn hóa, thể thao và du lịch cấp tỉnh.Đối với di tích quốc gia và di tích quốc
gia đặc biệt, phải đƣợc sự đồng ý bằng văn bản của bộ trƣởng Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch.
Công bố công khai quy hoạch, dự án đã đƣợc phê duyệt tại địa phƣơng nơi
có di tích.
Đồng thời điều 34 cũng quy định:
Tổ chức, cá nhân chủ trì lập quy hoạch, dự án hoặc chủ trì tổ chức thi công,
giám sát thi công dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải có giấy chứng
nhận đủ điều kiện hành nghề đối với tổ chức và chính chỉ hành nghề đối với cá
nhân.
Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch,
dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.
Bộ trƣởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành quy chế bảo quản, tu
bổ, phục hồi di tích và quy chế cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề,
chứng chỉ hành nghề cho các đối tƣợng quy định tài điều khoản 2 này.
Dựa vào những điều trong Luật Di Sản Văn Hóa mà chúng ta tiến hành
bảo quản, tu bổ cho phù hợp không gây tổn hại nhiều cho di tích.
3.2.1.2. Các phương án bảo vệ di tích.
Căn cứ vào hiện trạng và giá trị của di tích, đồng thời xét thây tình hình
thực tế ở địa phƣơng, để bảo vệ tốt di tích đình Kim Mã Thƣợng cần có phƣơng
án cụ thể nhƣ sau:
Lập hồ sơ khoa học trình UBND thành phố ra quyết định xếp hạng di tích.
Phê duyệt biên bản thành lập tổ bảo vệ và quy định khu vực bảo vệ di tích
theo bản vẽ của hồ sơ khoa học.
Tu sửa kịp thời những hạng mục hƣ hỏng nhẹ làm ảnh hƣởng đến di tích.
Nghiên cứu phục hồi, xây đựng thêm cây xanh đẻ tạo cảnh quan môi trƣờng
và không gian văn hóa của di tích (cần phải có quy hoạch trƣớc khi trồng ).
21
Cần có nội quy, biển hƣớng dẫn khách tham quan
Khi có điều kiện từng bƣớc khôi phục lại nhà hậu cung, và một số sinh hoạt
văn hóa tâm linh, văn hóa truyền thống tại di tích theo quy hoạch và đè án đã
đƣợc phê duyệt
Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về giá trị lịch sử văn hóa
nghệ thuật và pháp lệnh bảo vệ di tích lịch sử văn hóa.
Cử ngƣời trông nom, bảo vệ ngôi đình, tránh đẻ xảy ra những hành động
xâm hại cảnh quan di tích.Nâng cao ý thức cho quần chúng nhân dân về tầm
quan trọng của di tích đình làng đối với đời sống lịch sử, văn hóa, xã hội
Vận động tất cả quần chúng nhân dân trong làng tham gia bảo vệ đình làng
của mình. khen thƣởng cho cá nhân có đóng góp tích cực trong việc xây dựng,
bảo vệ di tích, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với những kẻ phá hoại, xâm lấn
trái phép, làm tổn hại tới mĩ quan di tích.
Kêu gọi các tổ chức, cá nhân đóng góp kinh phí để tu sửa đình làng, lƣu giữ
giá trị tốt đẹp của di tích đƣợc lâu bền.
3.2.1.3. Cơ sở pháp lý bảo vệ di tích.
Trƣớc năm 1945, Đình Kim Mã Thƣợng đƣợc sự bảo vệ của làng Kim Mã
Thƣợng.
Từ năm 1945-2001 Đình Kim Mã Thƣợng đƣợc bảo vệ theo các văn bản
sắc lệnh, nghị định, pháp lệnh di tích của nhà nƣớc ban hành nhƣ:
Sắc lệnh số 65/SL ban hành ngày 23 tháng 11 năm 1945 do chủ tịch Hồ Chí
Minh ký.
Nghị định 519/NĐ-TTg do thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ký.
Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa ngày 4 tháng 4 năm
1984 do chủ tịch hội đồng nhà nƣớc Trƣờng Chinh ký.
Từ năm 2002 đình Kim Mã Thƣợng đƣợc bảo vệ theo luật di sản văn hóa
( luật số 28/2001-QH10) và Nghị định số 92/2002/NĐ ngày 11 tháng 11 năm
22
2002 của thủ tƣớng Chính Phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Di
Sản Văn Hóa.
3.2.2. Tôn tạo di tích.
Để di tích tồn tại đƣợc lâu dài, ngoài việc bảo vệ chúng ta càn phải tiến
hành tôn tạo di tích. Xây dựng, phúc hồi lại những kiến trúc đã bị phá hủy trên
cơ sở đảm bảo tính nguyên gốc cho di tích, phải đƣợc các cơ quan chức năng có
thẩm quyền quyết định, lựa chọn những ngƣời thợ có tay nghề cao, vận động
nhân dân góp sức mình vào việc tôn tạo di tích. Tiến hành thanh tra, kiểm tra
trong suốt quá trình tu sửa và tôn tạo.
Trồng thêm cây xanh để tạo không gian mát mẻ cho di tích. Cử ngƣời
thƣờng xuyên trông nom, bảo vệ di tích; khi ngôi đình có dấu hiệu xuống cấp thì
kịp thời báo cáo lên cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét. Tiến hành gia
công, sửa chữa những lỗ hổng cho di tích.
3.3. Phát huy giá trị của di tích đình Kim Mã Thƣợng
Đình làng Kim Mã Thƣợng là một trong những ngôi đền có lâu đời của
thành phố Hà Nội. Để gìn giữ và phát huy đƣợc giá trị lâu đời ấy, trƣớc hết mỗi
ngƣời dân trong làng phải có ý thức giữ gìn thật tốt. Giữ gìn trƣớc hết về mặt
tinh thần, sao cho truyền thống ông cha không phai nhạt dần qua các thế hệ. Sau
đó, giữ gìn về mặt vật chất, không để cơ sở vật chất của nhà trƣờng bị xâm hại.
Bên cạnh đó, ban quản lý di tích nên tạo điều kiện cho công tác nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu bảo tồn di tích bằng cách dựng lại lịch sử đình, cung
cấp những kiến thức ban đầu về làng, về đình làng, về nguồn gốc, xuất xứ, ý
nghĩa cũng nhƣ giá trị tâm linh, xã hội của đình làng Kim Mã Thƣợng. Ngoài ra,
các hoạt động giáo dục con em về truyền thống quê hƣơng cũng nên đƣợc ủng
hộ và phát triển
Bên cạnh việc bảo vệ di tích, chúng ta phải tính đến việc phát huy giá trị
của nó bằng cách xây dựng phƣơng án sử dụng hợp lý nhất nhƣ là:
23
Có bản thuyết minh đầy đủ, súc tích về nội dung giá trị của di tích để tổ bảo
vệ có điều kiện giới thiệu, hƣớng dẫn cho du khách nhằm phát huy tốt giá trị của
di tích.
Xây dựng di tích thành tụ điểm hoạt động văn hóa giáo dục truyền thống
văn hóa của địa phƣơng, phuc vụ cho du lịch di tích- danh thắng của Hà Nội
Khi có điều kiện phục hồi lại tòa hậu cung và đồ tế khí đẻ sớm có điều kiện
nghiên cứu, khôi phục lại một số hoạt động văn hóa và văn hóa tâm linh lành
mạnh vốn có trƣớc đây đã bị gián đoạn trong một khoảng thời gian dài và thậm
chí bị lãng quên không còn đƣợc tổ chức nữa.
Đầu tƣ kinh phí để xây dựng và phục hồi một phần di tích đã bị hƣ hỏng,
đồng thời tạo cảnh quan xung quanh di tích đƣợc xanh, sạch đẹp, thoáng đãng
thu hút khách tham quan.
Khi có điều kiện xây dƣng bộ sách giới thiệu về di tích đình làng Kim Mã
Thƣợng, xây dựng trang web riêng cho di tích nhằm quảng bá giá trị của nó với
tất cả mọi ngƣời.
24
KẾT LUẬN
Làng Kim Mã Thƣợng là một trong những ngôi làng lâu đời trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Trải qua hàng trăm năm xây dựng và phát triền, làng đã tích
tụ trong mình những giá trị văn hóa lịch sử. Đình làng Kim Mã Thƣợng đƣợc
xây lại hoàn toàn vào thế kỷ 20, mang trong mình dáng dấp kiến trúc hiện đại
nhƣng vẫn còn lƣu giữ những nét đẹp của thời phong kiến. Đình làng Kim Mã
Thƣợng đã đƣợc công nhận là Di Tích Lịch Sử Văn Hóa năm 2005.
Về kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Kim Mã Thƣợng đƣợc trùng tu nhiều
lần nên không còn nhiều đơn nguyên kiến trúc mang phong cách của thời kỳ
trƣớc. Tuy vậy, nét đặc sắc đƣợc tập trung thể hiện ở 2 cột đình với hình ảnh con
rồng thời Lý mạnh mẽ oai phong. Các đơn nguyên kiến trúc tuy đƣợc làm lại
trong thời đại mới nhƣng cũng có những nét mô phỏng lại kiến trúc thời xƣa.
Điều đó thể hiện sự tôn trọng lịch sử và cũng thể hiện nét cổ kính của đình làng
Việt Nam nói chung.
Lễ hội đình làng Kim Mã Thƣợng là một trong những lễ hội quan trọng
trong đời sống tinh thần của ngƣời dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.Việc tổ
chức lễ hội rất công phu với nhiều nghi lễ long trọng. Đối với ngƣời dân làng
Kim Mã Thƣợng nói riêng, không chỉ là dịp để họ bày tỏ lòng thành kính với
Thành Hoàng Làng mà còn là dịp để làm sống lại những nét văn hóa truyền
thống, từ đó giáo dục cho lớp trẻ về truyền thống ông cha.
Tóm lại, đối với ngƣời dân làng Kim Mã Thƣợng, Đình làng là một nơi
thiêng liêng, có ý nghĩa lớn trong đời sống tinh thần của họ. Do vậy, cần có
những biện pháp tôn tạo, bảo tồn hợp lý để gìn giữ và phát triển những giá trị
văn hóa, giá trị lịch sử của ngôi đình hàng trăm năm tuổi này.
25