QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – LIÊN XÔ
Bình Định, 05/2016
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử quan hệ ngoại giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và sau này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX,
quan hệ với Liên Xô có một vị trí quan trọng đặc biệt. Sự hợp tác cũng như sự giúp
đỡ to lớn của Liên Xô trong gần nửa thế kỷ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi
của cách mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa 2 nước.
Việc nhìn nhận lại mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô không chỉ giúp ta hồi tưởng về
thời thịnh vượng của hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà còn nhận được những
bài học quý báu về công tác đối ngoại cũng như cảm nhận được tình nghĩa sâu đậm
giữa hai quốc gia - dân tộc.
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO VÀ CÁC GIAI
ĐOẠN TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ
1. NHỮNG TIỀN ĐỀ
Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được mở đầu bằng sự ra đời của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 và kết thúc bằng sự sụp đổ của Nhà nước Xô
Viết năm 1991 và sau sự kiện nhà nước Xô Viết tan rã, mối quan hệ lại được tạo
dựng giữa Việt Nam và Liên bang Nga, quốc gia kế tục Liên Xô. Trong gần 70
năm tồn tại, quan hệ Việt Nam - Liên Xô có thể chia làm 4 giai đoạn: 1945 - 1950,
1950 - 1990, 1991 - 2000, 2001 đến nay. với các mức độ gắn kết khác nhau.
2. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN XÔ
2.1. Giai đoạn 1945-1954
Sự hình thành quan hệ Việt Nam - Liên Xô gắn liền với tên tuổi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh - người đặt nền móng cho mối quan hệ đó. Vào những năm 20
của thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc trên hành trình vạn
dặm đi tìm con đường cứu nước đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo tiếng
gọi của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Hoạt động lâu năm trong QTCS nên Người có
thời gian dài gắn bó với đất nước Liên Xô. Khi trở về nước và lãnh đạo thành công
Cách mạng tháng Tám, vào ngày 22/09/1945, tiếp đó là ngày 21/10/1945, với tư
cách là nguyên thủ của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã
gửi 2 bức công điện cho Đại nguyên soái Xtalin đề nghị Liên Xô công nhận nền
độc lập của Việt Nam và giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam. Tiếc là 2 bức công điện này
không được trả lời. Sự im lặng của Liên Xô lúc đó được lý giải bởi 2 lý do. Thứ
nhất, những năm đầu sau Chiến tranh Thế giới thứ II, mối quan tâm lớn nhất của
Liên Xô là củng cố các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu còn khu vực Đông Nam
Á xét về chính trị còn khá xa so với lợi ích trước mắt của Liên Xô; thứ hai, theo
thỏa thuận tại hội nghị Ianta (02/1945) và hội nghị Pôxđam (07/1945) giữa các
nước đồng minh, Việt Nam và Đông Dương vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền
thống của các nước phương Tây. Lúc này, Liên Xô đang muốn tranh thủ Pháp để
Pháp không đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh nên Liên Xô không
muốn đụng chạm đến quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Vì thế, trong giai đoạn này,
quan hệ ngoại giao giữa 2 nước vẫn chưa được thiết lập.
2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô giai đoạn 1950- 1991
2.1.1. Giai đoạn 1950 - 1954
Cùng với những thay đổi trong tương quan lực lượng Việt Nam - Pháp theo chiều
hướng ngày càng có lợi cho Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cùng với sự ra đời của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa và sự thiết lập quan hệ ngoại giao
giữa 2 nước Việt Nam - Trung Quốc vào ngày 18/01/1950, quan hệ ngoại giao Liên
Xô và Việt Nam đã chính thức được thiết lập 30/01/1950. Tuy nhiên, quan hệ mới
chỉ ở mức độ “khởi động”. Tháng 02/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Liên
Xô nhưng đó là cuộc gặp không chính thức. Sự ủng hộ của Liên Xô với Việt Nam
trong giai đoạn này tập trung ở các lĩnh vực sau đây:
a. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao: Với tư cách là Ủy viên thường trực Hội
đồng bảo an Liên Hợp Quốc, tháng 02/1952, Liên Xô phủ định đề nghị của chính
quyền Bảo Đại xin ra nhập tổ chức này. Tháng 09/1952, Liên Xô đề nghị Hội đồng
bảo an kết nạp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào Liên Hợp Quốc nhưng bị Anh,
Pháp, Mỹ phủ quyết.
b. Trên lĩnh vực quân sự: Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 76 khẩu pháo 37 ly, 12
dàn hỏa tiễn Cachiusa, một số tiểu liên K50, 685 xe vận tải và số lượng lớn thuốc
ký ninh. Tuy số viện trợ này không nhiều nhưng đây là những vũ khí có sức tấn
công cao, uy lực mạnh trước kẻ thù.
c. Trên lĩnh vực văn hóa: Liên Xô đã tiếp nhận đào tạo sinh viên, thực tập sinh,
nghiên cứu sinh Việt Nam để chuẩn bị nguồn nhân lực tri thức cho Việt Nam. Từ
năm 1953, số lượng người học tập tại Liên Xô đã lên tới 200 người.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn
cuối, Hội nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương đã được mở ra. Với tư cách là một
trong hai đồng Chủ tịch của hội nghị, Liên Xô với quan điểm ủng hộ giải pháp hòa
bình ở Đông Dương có tiếng nói rất quan trọng ở hội nghị. Kết quả là hiệp định
Giơnevơ đã được ký kết. Ngay sau khi hòa bình lập lại, ngày 04/11/1954, Liên Xô
lập đại sứ quán tại Việt Nam. Từ đây, quan hệ Việt Nam - Liên Xô bước sang một
trang sử mới.
2.1.2. Giai đoạn 1955 - 1975
Giai đoạn 1955 - 1975 là giai đoạn nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng
chiến gian khổ chống đế quốc Mỹ. Ngoại giao Việt Nam bước vào trận chiến đấu
mới với những điều kiện quốc tế vừa thuận lợi, vừa khó khăn. Thuận lợi là Việt
Nam tiếp tục nhận được sự giúp đỡ ngày càng lớn của các nước XHCN, đứng đầu
là Liên Xô, Trung Quốc. Khó khăn là nền ngoại giao non trẻ của Việt Nam phải
chống chọi với nền ngoại giao siêu cường của Mỹ, phải tìm ra đối sách hợp lý để
hạn chế tác hại của sự bất hòa Liên Xô - Trung Quốc và duy trì đường lối độc lập,
tự chủ trước sức ép của các đồng minh thân cận. Trong thời kỳ này, quan hệ Việt
Nam - Liên Xô có sự khác biệt khá lớn ở 2 chặng đường nhỏ 1955 - 1964 và 1965
- 1975.
Trong giai đoạn 1955 - 1964, quan hệ Việt Nam - Liên Xô phát triển lên cao một
bước so với giai đoạn trước nhưng do Liên Xô đang mong muốn đẩy nhanh tiến
trình hòa hoãn với Mỹ để Mỹ và các đồng minh của Mỹ công nhận nguyên trạng
Châu Âu sau chiến tranh nên quan điểm của Liên Xô lúc này là giữ hiện trạng 2
miền Nam - Bắc ở Việt Nam. “Liên Xô không tán thành với việc đấu tranh vũ trang
để giải phóng miền Nam được thông qua tại hội nghị Trung ương lần thứ 15
(01/1959) và tại Đại hội Đảng III (12/1960) của Đảng lao động Việt Nam”. Quyết
tâm đánh Mỹ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phù hợp với chính sách hòa
hoãn của Liên Xô dưới thời bí thư thứ nhất Khơrusốp. Vì thế, sự giúp đỡ của Liên
Xô trong giai đoạn này khá chừng mực, chỉ để xây dựng cơ sở vật chất và điều
kiện phòng thủ cho miền Bắc. Thậm chí, bản thân Liên Xô cũng không muốn công
khai sự giúp đỡ này. Nhà sử học người Mỹ John Prađos đã khái quát về mối quan
hệ Việt Nam - Liên Xô ở giai đoạn này như sau: “Dưới thời Khơrusốp, Mátxcơva
đã tiếp Hà Nội một cách không thật giàu cảm xúc. Viện trợ và kim ngạch buôn bán
luôn ở mức khiêm tốn bởi mối quan tâm của Liên Xô chủ yếu lúc này là cải thiện
quan hệ với Hoa Kỳ”.
Tuy nhiên, chặng đường tiếp theo 1965 - 1975 đã chứng kiến sự thay đổi về chất
trong quan hệ hai nước và sự giúp đỡ của Liên Xô là vô cùng to lớn. Đó có thể
xuất phát từ những lí do sau:
Thứ nhất, khi Mỹ bị cả nhân loại lên án vì đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham
chiến ở miền Nam Việt Nam và dùng chiến tranh phá hoại để hủy diệt miền Bắc
theo chiến lược “chiến tranh Cục bộ” thì Liên Xô không thể tiếp tục chính sách hòa
hoãn với Mỹ bằng mọi giá. Điều đó sẽ làm thế giới nghi ngờ về khả năng và trách
nhiệm của Liên Xô trong việc bảo vệ đồng minh. Hơn nữa, việc Liên Xô tích cực
ủng hộ Việt Nam cũng sẽ là một con bài để Liên Xô thương lượng với Mỹ trong
những vấn đề liên quan đến lợi ích của mình. Thứ hai, sau khi bí thư thứ nhất
Khơrusốp bị lật đổ (1964), ban lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Liên Xô đứng
đầu là Brêgiơnhép đi theo lập trường ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ. Thứ ba, khi mâu
thuẫn Liên Xô - Trung Quốc đang ngày càng căng thẳng thì việc Liên Xô tích cực
ủng hộ Việt Nam làm Trung Quốc không thể nắm trọn vấn đề Việt Nam để rồi đơn
phương mặc cả với Mỹ. Thứ tư, quan hệ Việt Nam - Liên Xô chặt chẽ làm tăng uy
tín của Liên Xô vì lúc này đánh Mỹ đã trở thànhthước đo lương tri, phẩm giá con
người và tinh thần quốc tế vô sản. Kết quả là, trong chuyến thăm chính thức Việt
Nam tháng 2 năm 1965, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng A.N Côxưghin tuyên bố:
“Từ nay, Liên Xô hoàn toàn ủng hộ các cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của
Việt Nam” . Trong vòng 10 năm (1965 - 1975) giữa Việt Nam và Liên Xô có 51
cuộc gặp cấp cao từ ủy viên Bộ Chính trị trở lên. Quan hệ chính trị mật thiết đã tạo
điều kiện cho quá trình hợp tác song phương về ngoại giao, kinh tế, văn hóa và đặc
biệt là ở lĩnh vực quân sự - điều cần nhất cho Việt Nam khi phải chiến đấu trực
diện với Mỹ. Từ năm 1965, Liên Xô đã viện trợ nhiều vũ khí quân sự hiện đại cho
Việt Nam như tên lửa “đất đối không” (Việt Nam vẫn gọi là SAM II), các loại máy
bay phản lực, súng phòng không... Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam khoảng trên
2 tỷ rúp hàng viện trợ quân sự. Cùng với việc viện trợ vũ khí, Liên Xô đã đào tạo
giúp Việt Nam đội ngũ cán bộ quân sự tài giỏi để vận hành các vũ khí hiện đại đó.
Trong diễn văn ngày 23 tháng 9 năm 1967, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Côxưghin
đã nói: “Những người Xô Viết đang giúp đỡ và tham gia vào cuộc đấu tranh anh
hùng của nhân dân Việt Nam và thấy rằng, vũ khí viện trợ cho nhân dân Việt Nam
đang được những bàn tay tin cậy sử dụng, rằng vũ khí đó đang giáng trả kẻ xâm
lược một cách đích đáng”. Bên cạnh sự giúp đỡ to lớn và công khai đó, vì lợi ích
của mình, Liên Xô cũng chấp nhận đề nghị của Mỹ nên đã thuyết phục Việt Nam
đi vào đàm phán với Mỹ. Trên tinh thần hợp tác chặt chẽ, thấu hiểu và tôn trọng
lẫn nhau, giai đoạn 1965 - 1975 là giai đoạn hợp tác rất hiệu quả giữa 2 nước. Sự
giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong giai đoạn này là một trong những nhân tố dẫn đến
thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
1.2.3. Giai đoạn 1975 - 1991
Với thắng lợi vĩ đại mùa xuân 1975, lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới
và quan hệ giữa 2 nước tiếp tục được củng cố, phát triển trên một tầm cao mới.
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê
Duẩn đã đi thăm hữu nghị chính thức Liên Xô để cảm ơn sự giúp đỡ to lớn mà
Liên Xô đã dành cho Việt Nam như lời nhắn nhủ của Hồ Chủ tịch trong bản Di
chúc lịch sử. Tuyên bố chung của 2 nước khi đó đã khẳng định: “Cuộc đi thăm này
đã mở ra 1 giai đoạn quan trọng trên con đường tiếp tục củng cố và phát triển toàn
diện mối quan hệ anh em giữa Việt Nam và Liên Xô”. Ba năm sau, ngày 31/
11/1978, tại Mátxcơva đã diễn ra 1 sự kiện chính trị trọng đại quan hệ 2 nước: Việt
Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện. Hiệp ước này có ý
nghĩa đặc biệt trong hoàn cảnh quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam Campuchia xấu đi nghiêm trọng và chiến tranh với 2 nước đó đã xảy ra. Sau sự
kiện ngày 03/11/1978, quan hệ Việt Nam - Liên Xô phát triển mạnh mẽ trên tất cả
các lĩnh vực. Liên Xô dành cho Việt Nam nguồn viện trợ vô cùng to lớn. Chỉ trong
vòng 5 năm (1976 - 1980), khối lượng viện trợ đã bằng cả 20 năm trước đó (1955
-1975).
Đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, do tình hình quốc tế và mỗi nước, những
nhân tố mới bắt đầu xuất hiện trong quan hệ Việt Nam - Liên Xô. Năm 1985, Đại
hội Đảng lần thứ XVII của Đảng Cộng sản Liên Xô chính thức thông qua đường
lối cải tổ. Ở Việt Nam, Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
thông qua đường lối đổi mới. Khi cả 2 nước cùng tiến hành đổi mới, trong chuyến
thăm Liên Xô của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (tháng 05/1987), hai bên ra
Tuyên bố chung khẳng định sẽ duy trì và phát triển sự hợp tác. Đáng chú ý là ngay
cả khi lâm vào khủng hoảng kinh tế (1986 - 1990), Liên Xô vẫn viện trợ cho Việt
Nam 8,7 tỷ rúp - gần 14 tỷ đôla theo giá hối đoái chính thức). Tuy nhiên, từ năm
1990, do sự thay đổi trong chủ trương đối ngoại của mỗi nước và khó khăn về kinh
tế của Liên Xô, liên minh Việt Nam - Liên Xô đứng trước những thử thách lớn.
Hai bên đều nhận định rằng, không thể duy trì mãi phương thức “xin - cho” và “đã
tới lúc phải lúc phải chuyển sự hợp tác kinh tế - thương mại theo chiều hướng dựa
trên các chuẩn mực quốc tế chung” như Đại sứ Liên Xô Khamidumin phát biểu
vào tháng 12 năm 1990 khi sang nhận chức tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế
thì hai bên không có cơ hội thực hiện chủ trương mới đó vì sự tan rã của Liên bang
Xô Viết đã diễn ra vào năm 1991.
1.2. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1991 - 2000
Vào cuối năm 1991, Liên Xô giải thể,15 nước cộng hòa thành viên của Liên Xô
trở thành những quốc gia độc lập, có chủ quyền, chủ thể pháp lý quốc tế. Riêng
Liên bang Nga trở thành nước kế thừa Liên Xô trong các mối quan hệ quốc tế,
trong đó có quan hệ với Việt Nam. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX là
những năm khó khăn nhất, khi quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga rơi vào trạng
thái ngưng trệ, suy giảm mạnh trên tất cả các lĩnh vực, mà nguyên nhân chủ yếu
bắt nguồn trước hết từ việc cả hai bên đều xác định lại các lợi ích quốc gia và các
ưu tiên đối ngoại. Đối với Nga, những năm này, Nga theo đuổi chính sách đối
ngoại “định hướng Đại Tây Dương”, còn Việt Nam gặp khó khăn trong việc nhận
diện “đối tác mới” khi Nga trở nên “vừa quen, vừa lạ” với Việt Nam. Hơn nữa, vào
những năm này, Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu cho việc cải thiện quan hệ với các
nước láng giềng, các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thêm vào đó, những thay
đổi quá nhanh của tình hình quốc tế cùng với cơ chế quan hệ truyền thống bị đổ
vỡ, cơ chế mới chưa kịp thiết lập, đã cản trở sự phát triển của quan hệ hai nước.
Từ giữa những năm 90, quan hệ Việt Nam - Nga bắt đầu khởi sắc nhờ những nỗ
lực của hai nước trong việc tạo dựng khuôn khổ pháp lý mới cho quan hệ song
phương. Hai nước đã ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga vào tháng 6-1994 nhân
chuyến thăm chính thức Nga của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đây là văn bản pháp lý
thay thế Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam ký kết năm 1978.
Hiệp ước này xác định các nguyên tắc mới cho quan hệ Việt Nam - Nga, đó là: tôn
trọng chủ quyền quốc gia, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; bình đẳng và cùng có lợi. Như phát biểu của Thủ tướng Võ
Văn Kiệt sau khi hiệp ước này được ký kết, “chúng ta trở lại tình hữu nghị cũ
nhưng không phải theo kiểu cũ, mà phải phát triển trên cơ sở quan hệ mới”
Trên thực tế, kể từ đây, quan hệ Việt Nam - Nga bắt đầu có những tiến triển tích
cực, ngày càng được nâng lên tầm cao mới về chất. Nhiều hiệp định, văn bản hợp
tác trên các lĩnh vực khác nhau đã được ký kết, vừa tạo cơ sở pháp lý, vừa đề ra
các phương hướng và biện pháp thúc đẩy tiến trình hợp tác toàn diện hơn giữa hai
nước Việt Nam và Nga. Hai bên bắt đầu phối hợp hợp tác trong các diễn đàn đa
phương, các tổ chức quốc tế.
1.3. Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga giai đoạn 2001 đến nay
Sự kiện đầu tiên đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là chuyến thăm Việt Nam đầu
tiên của một nguyên thủ quốc gia Nga (kể cả thời Liên Xô) - chuyến thăm của
Tổng thống Liên bang Nga V. Pu-tin (tháng 3-2001). Trong khuôn khổ chuyến
thăm này, hai nước đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược cùng nhiều
văn kiện hợp tác quan trọng khác, xác định khung khổ pháp lý mới cho hợp tác
Việt Nam - Nga trên cơ sở tin cậy, chặt chẽ và lâu dài. Tính từ thời điểm lịch sử
này, nhờ quyết tâm chính trị cao của hai nước, hợp tác chiến lược Việt Nam - Nga
ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại những thành công rất đáng khích lệ trên tất cả
các lĩnh vực.
Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao, các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước diễn ra
khá thường xuyên, tạo ra những chuyển biến quan trọng trong các lĩnh vực khác.
Chỉ trong các năm 2012 - 2014, hai nước đã tiến hành nhiều chuyến thăm lẫn nhau
ở cấp cao nhất: năm 2012 có chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
Chủ tịch Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga V. I. Mát-vi-ên-cô, Thủ tướng
Nga Đ. Mét-vê-đép; năm 2013, có các chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng thống V. Pu-tin; năm 2014, có các
chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Đu-ma quốc gia (Hạ
viện) S. E. Na-rư-xkin. Hoạt động ngoại giao được triển khai tích cực trên cả 3
kênh (ngoại giao nhà nước, ngoại giao chính đảng và ngoại giao nhân dân), các
lĩnh vực hợp tác cũng ngày càng được mở rộng. Cơ chế đối thoại chiến lược Việt
Nam - Nga được thiết lập và bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 11-2008. Hiện nay,
hai bên có các cơ chế đối thoại thường niên, như Đối thoại chiến lược ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cấp thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đối thoại chiến lược quốc
phòng cấp thứ trưởng,...
Nhằm đưa quan hệ Việt Nam - Nga phát triển thực chất hơn, hai nước đã xác lập
khuôn khổ hợp tác mới là đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 7 năm 2012 nhân
chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Khuôn khổ hợp tác này
mang đến một luồng sinh khí mới cho sự phát triển của quan hệ hai nước. Chuyến
thăm Việt Nam của Tổng thống V. Pu-tin (tháng 11-2013), của Chủ tịch Đu-ma
quốc gia S.E. Na-rư-xkin (tháng 12-2014) và chuyến thăm Nga của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng (tháng 11-2014) cũng là nhằm nhìn nhận lại kết quả phát triển
quan hệ giữa hai nước kể từ khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, từ
đó cùng thỏa thuận các biện pháp cụ thể để củng cố, nâng cao hơn nữa hợp tác Việt
Nam - Nga trong thời gian tới.
Ngoài những vấn đề quan hệ song phương, lãnh đạo hai nước thông qua các cuộc
gặp chính thức tại mỗi nước và bên lề các hội nghị, diễn đàn, các tổ chức quốc tế,...
bàn thảo nhiều vấn đề chính trị - an ninh quốc tế mà hai bên cùng quan tâm, tạo
nên sự đồng thuận cao trong nhiều vấn đề quốc tế nóng bỏng. Trên thực tế, hợp tác
chiến lược Việt Nam - Nga đã trở thành một nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng tích
cực tới tình hình Đông Nam Á và toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trên lĩnh vực kinh tế, nhờ lực đẩy của hợp tác chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh
tế Việt Nam - Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, những bước tiến về chất
trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong thương mại, đầu tư và năng lượng.
Về thương mại, nếu năm 1994, kim ngạch thương mại hai chiều chỉ đạt khoảng
300 triệu USD, năm 2000 hơn 363 triệu USD, thì từ năm 2007 đến nay, con số đó
đã vượt mốc 1 tỷ USD, năm 2012 đạt 3,7 tỷ USD; năm 2013 là 4 tỷ USD(4) và
trong năm 2014 tính đến hết tháng 9 đạt hơn 2 tỷ USD. Đáng chú ý là từ một nước
nhập siêu, kể từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu xuất siêu sang Nga. Hai nước quyết
tâm thúc đẩy thương mại hai chiều đạt 7 tỷ USD năm 2015 và trên 10 tỷ USD vào
năm 2020. Việt Nam và các nước thuộc Liên minh Hải quan (Nga, Bê-la-rút, Cadắc-xtan), sau 8 phiên đàm phán, đã thống nhất ký Thông báo về kết thúc cơ bản
đàm phán và tiếp tục thúc đẩy quá trình trao đổi, tham vấn nội bộ để nhanh chóng
hoàn tất những vấn đề kỹ thuật còn lại để có thể ký Hiệp định Thương mại tự do
(FTA) vào đầu năm 2015. Việc ký kết FTA giữa Việt Nam và ba nước thuộc Liên
minh Hải quan hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho các nước
thành viên và sẽ là bước đột phá mở đầu cho việc hình thành mối liên kết kinh tế
chặt chẽ giữa các bên, đồng thời mở ra các hướng hợp tác mới với các nước, các tổ
chức kinh tế bên ngoài khu vực.
Về đầu tư, tính đến hết tháng 6-2014, Nga có 101 dự án đầu tư ở Việt Nam đang
hoạt động với tổng số vốn đăng ký là 2,05 tỷ USD, đứng thứ 18/101 nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Điểm mới đáng chú ý là đầu tư của Việt Nam vào
Nga trong vài năm gần đây tăng nhanh, từ 100 triệu USD năm 2008 lên hơn 2,5 tỷ
USD hiện nay, với 20 dự án, trong đó có đầu tư khai thác các mỏ dầu khí của Nga.
Ngoài ra có hơn 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ 100% vốn của người Việt đang hoạt
động sản xuất, kinh doanh khá hiệu quả tại Nga.
Năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống, được coi là hiệu quả nhất, đem lại
nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước Việt Nam và Nga trong nhiều năm qua. Hiện
nay, hợp tác về năng lượng được coi là lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa chiến lược
với cả hai nước, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực dầu khí và điện hạt nhân. Điều
đáng nói là giờ đây hợp tác dầu khí Việt Nam - Nga có sự phát triển mang tính đột
phá về quy mô và lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh Liên doanh Vietsovpetro
và Gazprom, Rosneft đang gia tăng sự hiện diện ở Việt Nam, còn có liên doanh
Rusvietpetro, Vietgazprom, Gazpromviet đang mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu
khí ở cả Việt Nam và Nga. Với Việt Nam, lĩnh vực hợp tác này không chỉ có ý
nghĩa về kinh tế, mà cả về an ninh, về bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo. Về
điện hạt nhân, hai nước đã ký kết Hiệp định liên chính phủ về việc Nga cấp tín
dụng cho Việt Nam xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận I. Dự án này
đang được triển khai theo đúng tiến độ đã được thỏa thuận, và năng lượng nguyên
tử sẽ đóng vai trò là một trụ cột mới làm nền móng cho quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện Việt Nam - Nga.
An ninh - quốc phòng là lĩnh vực hợp tác có bề dày truyền thống giữa hai nước và
tiếp tục phát triển sâu rộng trong những năm gần đây. Quan hệ hợp tác quốc phòng
và kỹ thuật quân sự Việt Nam - Nga được đánh giá là ổn định, vững chắc, đạt hiệu
quả cao. Một trong những kết quả mới về chất trong hợp tác kỹ thuật quân sự là
việc Việt Nam đang triển khai sản xuất các trang thiết bị kỹ thuật quân sự tiên tiến
với sự tham gia của các công ty Nga. Hai nước cũng chia sẻ thông tin tình báo liên
quan đến an ninh khu vực và thế giới (nhất là các hoạt động khủng bố), tăng cường
hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống.
Quan hệ Việt Nam - Nga trên các lĩnh vực khác, như khoa học - kỹ thuật, văn hóa giáo dục cũng ngày càng phát triển thông qua các cơ quan, như Trung tâm Nhiệt
đới Việt Nam - Nga, Trung tâm khoa học và văn hóa Nga tại Việt Nam, Hội hữu
nghị Việt Nam - Nga, Hội hữu nghị Nga - Việt,... Việt Nam là nước được Nga cấp
học bổng lớn nhất (không kể các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG) về đào tạo tại các trường đại học của Nga và hiện có gần 5.000 sinh viên
Việt Nam đang theo học ở Nga(5). Hai nước cũng đã thỏa thuận thành lập Đại học
Công nghệ Việt - Nga tại Việt Nam trên cơ sở tín dụng của Nga. Các hoạt động
giao lưu văn hóa giữa hai nước diễn ra sôi nổi hằng năm và luân phiên, trong đó có
việc tổ chức Những ngày văn hóa Nga tại Việt Nam, Những ngày văn hóa Việt
Nam tại Nga, giao lưu gặp gỡ thầy trò Xô - Việt, Tuần phim Nga tại Việt Nam,...
Cộng đồng đông đảo người Việt tại Nga cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
kết nối hai nền văn hóa Việt - Nga.
Một điểm sáng mới là hợp tác trong lĩnh vực du lịch, khi lượng khách Nga sang
Việt Nam tăng trung bình hằng năm hơn 30%. Nga tiếp tục là một trong 10 thị
trường tăng trưởng hàng đầu về du lịch của Việt Nam. Năm 2012, Việt Nam đón
176.000 lượt khách Nga (gấp đôi so với năm 2011), năm 2013 con số đó lên tới
298.126 lượt (tăng hơn 70% so với năm 2012), 6 tháng đầu năm 2014 là gần
194.000 lượt (tăng gần 20% so với cùng kỳ năm 2013).
II. Vai trò của quan hệ Việt Nam – Liên Xô đối với sự phát triển mỗi nước
2.1. Đối với Việt Nam
Với truyền thống “ơn ai một chút để bên dạ này”, Việt Nam không bao giờ quên
sự giúp đỡ to lớn về mọi mặt của Liên Xô và luôn ghi nhận đó là một nhân tố quan
trọng góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Về phương diện ngoại
giao, bằng uy tín, quyền hạn của một ủy viên thường trực Liên Hợp Quốc, bằng vai
trò trụ cột trong hệ thống XHCN, Liên Xô luôn tìm cách nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Về phương diện quân sự, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, 80 - 85% vũ khí hạng nặng mà Việt Nam dùng để đương đầu với kẻ thù là do
Liên Xô viện trợ. Về phương diện kinh tế, quan hệ thương mại Việt Nam - Liên Xô
chiếm 70% hoạt động ngoại thương Việt Nam. Ngoài sự hợp tác kinh tế, Liên Xô
còn dành cho Việt Nam sự viện trợ to lớn để duy trì nền kinh tế Việt Nam trong
thời gian chiến tranh cũng như trong thời gian hòa bình lập lại. Phần lớn viện trợ
của Liên Xô dành cho Việt Nam là viện trợ không hoàn lại. Về phương diện văn
hóa - giáo dục, Liên Xô luôn quan tâm đào tạo nhân lực cho Việt Nam. Trong từng
ấy năm gắn bó, hàng chục ngàn sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh đã được
tiếp nhận nền học vấn bài bản của mái trường Xô Viết. Lực lượng trí thức đó đã có
những đóng góp đáng kể trong sự phát triển của nền khoa học kĩ thuật Việt Nam và
là cầu nối vững chắc cho tình hữu nghị giữa 2 dân tộc.
2.2. Đối với Liên Xô
Sự hợp tác, giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua không chỉ
xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản và sự tương đồng về ý thức hệ mà còn mang
lại cho Liên Xô những lợi ích nhất định, góp phần nâng cao vị thế của Liên Xô trên
trường quốc tế.
Thứ nhất, từ chỗ không có vị trí ở Đông Nam Á nói riêng, Châu Á nói chung,
thông qua mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, Liên Xô đã dần xác lập, củng cố địa
vị của mình ở khu vực này và trở thành đối trọng của Mỹ ở địa bàn này - điều rất
cần thiết với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Thứ hai, việc viện trợ vũ khí cho Việt Nam cũng là cơ hội để Liên Xô thử nghiệm
vũ khí mới trên chiến trường. Đồng thời, Liên Xô cũng thu thập được những thông
tin mới nhất về vũ khí của Mỹ khi nghiên cứu chiến lợi phẩm trên chiến trường
Việt Nam. Từ đó, Liên Xô tìm cách điều chỉnh vũ khí của mình trong cuộc chạy
đua vũ trang với Mỹ.
Thứ ba, khi viện trợ cho Việt Nam đánh Mỹ, Mỹ đã bị sa lầy ở Việt Nam thì đó
cũng là cơ hội để Liên Xô củng cố tiềm lực của mình trên nhiều lĩnh vực.
Thứ tư, khi tích cực ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ, uy tín và địa vị của Liên Xô được
nâng cao trên trường quốc tế và trong hệ thống các nước XHCN vì đã thực hiện
nghĩa vụ với đồng minh và góp phần kiến tạo hòa bình thế giới. Nhờ đó, khả năng
hòa giải, đàm phán với phương Tây của Liên Xô cũng được nâng cao.
III. Các bài học rút ra trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Trong hoàn cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam
- Liên Xô mang lại cho ngoại giao Việt Nam nhiều bài học quý giá, cụ thể như sau:
- Khi giữa các nước lớn có liên quan tồn tại mâu thuẫn thì nước nhỏ phải giữ thế
trung dung, quyết không bị lôi cuốn vào vòng xoáy hệ lụy. Trên thực tế, khi sự bất
đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng sâu sắc, Đảng ta vừa kiên trì hàn gắn
sự rạn nứt, vừa chủ trương giữ thế cân bằng chiến lược, không ngả về bên này
chống bên kia, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng Việt Nam để tranh thủ
sự giúp đỡ của hai bên. Kết quả là, tuy bất đồng sâu sắc với nhau nhưng cả Liên
Xô và Trung Quốc đều tích cực ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ. Đánh giá cao bản lĩnh
của Việt Nam trong việc xử lý tam giác Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô, nhà sử
học người Mỹ John Prađos viết: “Trên đời có ít nhất 1 nơi Xô - Trung hợp tác hòa
thuận, đó là Việt Nam”
- Trong quan hệ với các nước lớn, một mặt ta phải cố gắng duy trì sự hợp tác chặt
chẽ, mặt khác vẫn phải giữ vững sự độc lập, tự chủ của mình, không bao giờ vì vấn
đề viện trợ mà chấp nhận những điều làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia - dân
tộc.Khi đất nước có chiến tranh và phải xây dựng XHCN trong những điều kiện hết
sức khó khăn, Việt Nam rất cần sự giúp đỡ của các nước đồng minh. Vì thế, ta
thường xuyên thông báo và giải thích cho họ chủ trương, đường lối của mình để họ
thấu hiểu quan điểm của ta. Mặt khác, ta luôn duy trì sự độc lập, tự chủ trong
đường lối dù điều đó đôi lúc dẫn đến sự không hài lòng của đồng minh. Rõ ràng,
trong quan hệ quốc tế, ta luôn phải tỉnh táo nhìn ra tính duy lợi của nó để vừa trân
trọng sự giúp đỡ của các nước khác, vừa thận trọng để không bị ai thao túng dẫn
đến sự phụ thuộc, lệ thuộc.
- Quan hệ của nước ta với các nước khác, kể cả các nước cùng chung thể chế chính
trị vẫn là mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh. Sự duy lợi trong quan hệ quốc tế
là một thực tế hiển nhiên nên nếu ta không có thực lực, không có gì để nước khác
trông đợi và làm lợi cho họ thì không thể có sự hợp tác chặt chẽ, cơ sở của mọi sự
bền vững trong quan hệ quốc tế luôn là hai bên cùng có lợi. Quan hệ Việt Nam Liên Xô ở từng giai đoạn đã có mức độ gắn kết khác nhau nhưng nhìn chung là bền
chặt vì đảm bảo nguyên tắc đó.
KẾT LUẬN
Tóm lại, quan hệ Việt Nam - Nga đã lưu giữ được những giá trị tốt đẹp từ quá khứ,
trong đó giá trị lớn nhất, đáng trân trọng nhất, theo Tổng thống V. Pu-tin, “đó là sự
tôn trọng lẫn nhau, là quan hệ truyền thống tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau, biết trân
trọng sự giúp đỡ vô tư không hề vụ lợi của các đối tác thủy chung”. Tổng thống
Nga khẳng định, đó sẽ là “điều còn mãi, không bao giờ thay đổi”, là “sự ủy thác
tinh thần cho các thế hệ công dân hôm nay và mai sau của hai đất nước chúng ta”,
và là “sự bảo đảm tính kế thừa và sự bền vững cho mối quan hệ hướng đến tương
lai”. Những nhận định khái quát, cô đọng này của nguyên thủ quốc gia Nga đã nói
lên tất cả, và chúng ta hoàn toàn có cơ sở để dự báo rằng, mối quan hệ Việt Nam Nga trong tương lai sẽ bền chặt hơn, sự hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực trên cơ
sở hai bên cùng có lợi sẽ ngày một sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân hai nước, tác động tích cực tới cục diện hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới./.