SÁNG KIẾN
GIÚP HỌC SINH LỚP 5
HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Năm nghiên cứu 2015- 2016
1
Phần thứ nhất :
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học giúp học sinh hình thành và phát
triển bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và
giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy
học Tiếng Việt cung cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về
Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, văn
hóa, văn học; góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Luyện từ và câu
lớp 5 là một phân môn trong môn Tiếng Việt lớp 5 giúp học sinh nắm
được kiến thức về:
- Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ theo chủ điểm.
- Cấu tạo từ (từ đơn, từ ghép, từ láy).
- Nghĩa của từ (từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa).
- Từ loại ( danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ)
- Ôn tập về câu(câu đơn, câu ghép)
- Xác định thành phần ngữ pháp trong câu.
- Xác định câu ghép và cách nối các vế câu ghép.
- Ôn tập về dấu câu ( dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu
phẩy, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang).
- Các cách liên kết câu trong đoạn văn, bài văn.
Từ đó giúp học sinh rèn các kĩ năng lựa chọn, sử dụng từ ngữ và
dấu câu; kĩ năng xác định thành phần ngữ pháp trong câu; kĩ năng xác
định kiểu câu và đặt câu; kĩ năng liên kết câu trong văn bản. Trong quá
trình vận dụng này, các kỹ năng và kiến thức đó hoàn thiện và nâng cao
dần. Từ đó giúp học sinh mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng
tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Trên thực tế học sinh lớp tôi thường hay lúng túng khi:
2
- Phân loại từ dựa vào nghĩa: các em thường hay nhầm lẫn giữa từ
đồng nghĩa với từ nhiều nghĩa; từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
- Phân loại từ dựa vào cấu tạo: các em thường nhầm lẫn giữa từ
ghép và từ láy.
- Phân loại từ dựa vào từ loại:các em hay nhầm lẫn giữa danh từ với
động từ; danh từ với tính từ; động từ với tính từ.
- Xác định thành phần ngữ pháp trong câu: các em thường hay xác
định sai (trong một số trường hợp đặc biệt) dẫn đến nhầm câu đơn thành
câu ghép.
- Sử dụng dấu câu: các em thường hay sử dụng bừa bãi, đặt dấu câu
không đúng chỗ.
Xuất phát từ lí do trên tôi chọn sáng kiến: “Giúp học sinh lớp 5
học tốt phân môn Luyện từ và câu”.
3
Phần thứ hai:
NỘI DUNG:
1. CƠ SỞ KHOA HỌC:
Mục tiêu của dạy Luyện từ và câu ở lớp 5 là:
- Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ.
- Trang bị các kiến thức sơ giản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
văn bản; rèn kĩ năng dùng từ đặt câu, liên kết câu và sử dụng dấu câu.
-Bồi dưỡng học sinh thói quen dùng từ đúng, nói, viết thành câu; sử
dụng đúng dấu câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.
Học sinh lớp 5 tuy là lớp cuối bậc Tiểu học nhưng nhận thức của
các em vẫn còn mang tính cụ thể và rất máy móc. Các em thường nhìn
vấn đề ở “bề ngoài” nhiều hơn. Các kiến thức về luyện từ và câu ở lớp 5
tuy là những kiến thức sơ giản nhưng cũng phải đòi hỏi sự tư duy trừu
tượng. Vì vậy với tư duy mang tính máy móc, các em thường hay hiểu sai
vấn đề. Ví dụ khi hỏi các em từ “tươi tốt” là từ ghép hay từ láy thì phần đa
các em trả lời đây là từ láy vì ở từ này phụ âm đầu “t” được lặp lại. Nhưng
các em lại không hiểu từ láy âm là từ có âm đầu được lặp lại và chỉ có một
tiếng có nghĩa, tiếng còn lại chỉ là láy lại. Trong từ “tươi tôt” tiếng “tươi”
và tiếng “tốt” đều có nghĩa nên từ “tươi tốt” là từ láy.
2. NỘI DUNG CỤ THỂ:
2.1. Hướng dẫn học sinh phân loại từ dựa vào nghĩa:
Phân loại từ dựa vào nghĩa tức là giúp học sinh phân biệt được sự
khác nhau giữa từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Trên thực tế việc nhận biết về từ trái nghĩa là tương đối dễ đối với
học sinh. Phần lớn các em nhận biết và làm tương đối tốt các bài tập về
tìm từ trái nghĩa.Nhưng việc phân biệt giữa từ đồng nghĩa với từ nhiều
nghĩa và từ nhiều nghĩa với từ đồng âm thì các em gặp rất nhiều khó khăn.
Các em thường rất hay bị nhầm lẫn giữa từ đồng nghĩa với từ nhiều nghĩa
4
và từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.Vì vậy, khi dạy phần này giáo viên cần
giảng để học sinh nắm được:
- Từ đồng nghĩa khác từ nhiều nghĩa và từ nhiều nghĩa khác từ đồng
âm ở chỗ:
+Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoàn toàn hoặc có
nghĩa gần giống nhau. Nhưng các từ đồng nghĩa phát âm khác nhau. Ví
dụ: từ “đất nước” với từ “non sông” là hai từ đồng nghĩa hoàn toàn (tức là
có nghĩa giống nhau hoàn toàn) khi dùng có thể thay thế cho nhau.Thế
nhưng khi phát âm hai từ này lại khác nhau.
+Từ nhiều nghĩa là những từ có một nghĩa gốc và một hay một số
nghĩa chuyển. Nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với
nhau. Ví dụ: hai từ “xuân” trong câu thơ sau là từ nhiều nghĩa:
Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Từ “xuân” thứ nhất là nghĩa gốc chỉ mùa đầu tiên trong năm, mùa
này rất đẹp, thời tiết ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc. Còn từ “xuân” thứ
hai là chỉ sự tươi đẹp.
Như vậy từ đồng nghĩa và từ nhiều nghĩa khác nhau ở chỗ: từ đồng
nghĩa khi phát âm thì khác nhau nhưng nghĩa lại giống nhau hoặc gần
giống nhau; còn từ nhiều nghĩa thì phát âm giống nhau nhưng về nghĩa
thì có mối liên hệ với nhau.
+Từ đồng âm là những từ phát âm giống nhau nhưng có nghĩa khác
nhau hoàn toàn. Ví dụ: Tôi tôi vôi, từ “tôi” thứ nhất là đại từ chỉ người, từ
“tôi” thứ hai là động từ chỉ hoạt động cho vôi sống vào nước.
Như vậy từ nhiều nghĩa khác từ đồng âm ở chỗ: từ nhiều nghĩa phát
âm giống nhau và về nghĩa bao giờ cũng có mối quan hệ với nhau; từ
đồng âm phát âm giống nhau nhưng nghĩa lại khác nhau hoàn toàn. Vì
vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần lưu ý nhấn mạnh để học sinh
nắm được những điểm khác nhau cơ bản đó. Từ đó, giúp học sinh khắc
phục được những nhầm lẫn này.
5
2.2. Hướng dẫn học sinh phân biệt từ ghép với từ láy:
Việc phân biệt từ ghép với từ láy học sinh thường rất hay nhầm lẫn.
Bởi vì học sinh Tiểu học rất máy móc, các em thường chú ý đến dấu hiệu
“bề ngoài” nên thường cho rằng những từ có tiếng lặp lai phụ âm đầu thì
đều là từ láy chứ các em lại không quan tâm đến việc nghĩa của các tiếng
trong từ đó. Ví dụ: các từ ghép: châm chọc, tươi tốt, nhỏ nhẹ, phương
hướng…học sinh thường nhầm cho đây là từ láy vì các từ này đều có phụ
âm đầu lặp lại nhưng hai tiếng trong các từ này đều có nghĩa.Muốn học
sinh tránh được nhầm lẫn giáo viên cần nhấn mạnh điểm khác nhau giữa
từ ghép và từ láy là: ở từ ghép hai tiếng trong từ đều có nghĩa (như ở ví dụ
trên trong từ “tươi tốt” tiếng “tươi” và tiếng “tốt” đều có nghĩa nên mặc
dù hai tiếng này có phụ âm đầu lặp lại nhưng vẫn là từ ghép) còn ở từ láy
chỉ có một tiếng có nghĩa còn tiếng còn lại chỉ là láy lại của tiếng kia (ví
dụ: từ “tươi tắn” tiếng “tươi” có nghĩa còn tiếng “tắn” không có nghĩa nên
từ “tươi tắn” là từ láy).
2.3. Hướng dẫn học sinh phân loại từ dựa vào từ loại:
Phân loại từ dựa vào từ loại là giúp học sinh phân biệt sự khác nhau
giữa danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ; và đặc biệt là giúp học
sinh thấy được sự chuyển loại của từ trong từng văn cảnh cụ thể.
Trong thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh thường cảm thấy khó khi
xác định các danh từ chỉ hiện tượng, khái niệm hoặc các động từ chỉ trạng
thái (trong trường hợp này các em thường nhầm sang tính từ). Đặc biệt
các em thường nhầm lẫn trong trường hợp có sự chuyển loại của từ.
Vì vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần giúp học sinh hiểu,
nắm chắc khái niệm và sự khác nhau cơ bản của các loại từ này:
+Danh từ là những từ chỉ sự vật ( người, vật, hiện tượng, khái niệm
hoặc đơn vị). Khi dạy bài này giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ khái
niệm: từ chỉ sự vật là gì? ( Từ chỉ sự vật gồm: người, vật, hiện tượng, khái
6
niệm, đơn vị). Thông thường những danh từ chỉ người, vật học sinh
thường dễ nhận biết. Nhưng những từ chỉ hiện tượng, khái niệm, đơn vị
học sinh thường cảm thấy khó hiểu vì vậy giáo viên cần giải thích kĩ, nếu
cần có thể lấy ví dụ cụ thể để học sinh dễ hiểu.
+ Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật. Thực tế
đối với những từ chỉ hoạt động học sinh thường dễ nhận biết. Nhưng đối
với những từ chỉ trạng thái học sinh thường khó nhận biết hơn. Vì vậy, khi
dạy phần kiến thức này giáo viên cần lưu ý giải thích kĩ hơn; nếu học sinh
vẫn chưa hiểu thì giáo viên cần lấy ví dụ cụ thể để học sinh dễ hiểu.
* Đặc biệt trong trường hợp có sự chuyển loại của từ tôi thường
hướng dẫn học sinh xác định từ đó trong từng văn cảnh cụ thể vì có những
từ trong trường hợp này nó là danh từ nhưng trong trường hợp khác nó lại
là động từ. Ví dụ từ “suy nghĩ” trong câu: “Những suy nghĩ của Nam thật
chín chắn”. Từ “suy nghĩ” này là danh từ. Nhưng từ “suy nghĩ” trong câu:
“Tối qua, tôi suy nghĩ rất nhiều”. Từ “suy nghĩ” lại là động từ.
2.4. Hướng dẫn học sinh xác định thành phần ngữ pháp trong
câu và xác định kiểu câu câu:
Xác định thành phần ngữ pháp trong câu là giúp học sinh xác định
đúng trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ. Học sinh có xác định đúng thành phần
ngữ pháp trong câu thì mới xác định đúng kiểu câu là câu đơn hay câu
ghép. Trên thực tế có nhiều học sinh xác định nhầm trạng ngữ thành vế
câu thứ nhất. Ví dụ có hai câu:
Câu thứ nhất: “Làng quê tôt đã khuất hẳn nhưng tôi vẫn đăm đắm
nhìn theo”. Ở câu này các em dễ xác định được đúng thành phần ngữ pháp
tức là tìm được vế câu thứ nhất là “Làng quê tôi đã khuất hẳn”, vế câu thứ
hai là “tôi vẫn đăm đắm nhìn theo” hai vế câu này được nối với nhau bằng
quan hệ từ nhưng nên các em sẽ dễ dàng nhận ra đây là câu ghép.
Câu thứ hai: “ Khi làng quê tôi đã khuất hẳn, tôi vẫn đăm đắm nhìn
theo”. Ở câu này nhiều em xác định nhầm là “Khi làng quê tôi đã khuất
hẳn” là vế câu thứ nhất, “tôi vẫn đăm đắm nhìn theo” là vế câu thứ hai nên
7
các em cho rằng đây là câu ghép. Nhưng trong trường hợp này “Khi làng
quê tôi đã khuất hẳn” là trạng ngữ, “tôi” là chủ ngữ, “vẫn đăm đắm nhìn
theo” là vị ngữ nên câu này là câu đơn. Hoặc câu: “Tôi đến thì nó đã đi
rồi” và câu: “Lúc tôi đến, nó đã đi rồi”. Ở câu thứ nhất “Tôi đến” là vế
câu thứ nhất, “nó đã đi rồi” là vế câu thứ hai nên câu này là câu ghép. Còn
ở câu thứ hai: “Lúc tôi đến” là thành phần trạng ngữ, “nó” là chủ ngữ, “đã
đi rồi” là vị ngữ nên câu này là câu đơn. Như vậy, nếu học sinh xác định
sai thành phần ngữ pháp trong câu thì dẫn đến xác định sai kiểu câu.
Trong trường hợp này giáo viên chỉ cho học sinh “mẹo” để phân biệt đó
là: nếu không có từ “khi, lúc” thì “Làng quê tôi đã khuất hẳn” hoặc “Tôi
đến” là một vế câu nhưng khi có từ “khi, lúc” ở trước thì vế câu thứ nhất
này lại chuyển thành trạng ngữ.
2.5. Hướng dẫn học sinh hiểu tác dụng của từng loại dấu câu và
sử dụng đúng dấu câu:
Trên thực tế nhiều khi học sinh học thuộc lòng tác dụng của dấu
câu nhưng lại không sử dụng đúng dấu câu. Nguyên nhân là do các em chỉ
học thuộc lòng chứ chưa hiểu tác dụng của dấu câu hoặc do các em chưa
có ý thức sử dụng đúng dấu câu. Sử dụng sai dấu câu là rất nguy hiểm vì
nhiều khi sử dụng sai dấu câu dẫn đến làm người đọc hiểu sai ý của câu.
Vì vậy, việc rèn cho học sinh có thói quen sử dung đúng dấu câu trong các
bài tâp đặt câu, viết một đoạn văn hay một bài văn là rất cần thiết đối với
giáo viên. Muốn làm được điều đó giáo viên cần giải thích để học sinh
hiểu rõ tác dụng của từng dấu câu và sự “nguy hiểm” nếu sử dụng sai dấu
câu. Mặt khác, giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở học sinh sử dụng
đúng dấu câu trong khi làm bài tập hoặc khi viết văn để tạo cho các em
thói quen sử dụng đúng dấu câu.
3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:
Năm học 2012 – 2013 tôi đã áp dụng sáng kiến “Giúp học sinh
lớp 5 học tốt phân môn Luyện từ và câu” vào giảng dạy ở lớp 5A Trường
Tiểu học Thị trấn Hàng Trạm và đã thu được kết quả sau:
8
-Đầu năm học tôi đã kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh các kiến thức
về Luyện từ và câu ở lớp 5A Trường Tiểu học Thị trấn Hàng Trạm và thu
được kết quả:
Tổng số học sinh:20 em. Trong đó:
Giỏi: 5 em chiếm 25%
Khá: 12 em chiếm 60%
Trung bình: 3 em chiếm 15%
-Cuối năm học tôi lại kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh các kiến
thức đó và thu được kết quả:
Tổng số học sinh: 20 em. Trong đó:
Giỏi: 10 em chiếm 50%.
Khá: 10 em chiếm 50%.
Không có học sinh Trung bình và học sinh Yếu.
Trong kì thi học sinh Giỏi cấp Huyện vừa qua lớp tôi có 5 học sinh
tham gia dự thi học sinh Giỏi môn Tiếng Việt thì cả 5 em đều được giải
Ba.
Trong kì thi học sinh Giỏi cấp Tỉnh, lớp tôi có 4 em tham gia dự thi
học sinh Giỏi môn Tiếng Việt và kết quả như sau:
Giải Ba: 1em.
Giải Khuyến khích: 1em.
Công nhận học sinh Giỏi cấp Tỉnh: 2em.
9
Phần thứ ba:
KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT:
1. KẾT LUẬN CHUNG:
Việc áp dụng sáng kiến “Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Luyện
từ và câu” vào giảng dạy đã giúp học sinh lớp tôi khắc phục được những
khó khăn trong việc phân loại từ, xác định thành phần ngữ pháp trong câu
và xác định kiểu câu; rèn thói quen sử dụng đúng dấu câu khi đặt câu và
khi viết văn. Từ đó giúp tôi có cơ sở để bồi dưỡng học sinh giỏi.
Để giúp học sinh học tôt phân môn Luyện từ và câu thì giáo viên
phải hiểu và nắm chắc được những kiến thức trong chương trình; thường
xuyên nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với
đối tượng học sinh mà lớp mình đang dạy.
Giáo viên cần kết hợp nhiều hình thức dạy học trong một giờ Luyện
từ và câu, học sinh phát huy được tính tích cực của mình, chủ động trong
hoạt động học tập, các em đều tham gia vào giờ luyện tập, chú ý theo dõi
bạn chữa bài, để sửa bài.
Khi luyện tập kết hợp với hoạt động cá nhân tất cả học sinh đều phải
làm việc, giáo viên có thể bao quát lớp nhắc nhở học sinh để học sinh phải
tập trung suy nghĩ làm bài.
Tạo cho lớp học sinh động, gây hứng thú trong học tập cho các em,
các em được phát biểu nhiều hơn.
Dạy tiết học đạt hiệu quả giáo viên phải biết kết hợp các hình thức tổ
chức, phương pháp giảng dạy thích hợp, linh hoạt giúp học sinh tiếp thu
bài tốt.
2. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUÂT:
Để giúp việc day học được tốt hơn, tôi đề nghị cấp trên:
10
- Quan tâm hơn đến cơ sở vật chất, trang bị thêm thiết bị, đồ dùng
học tập.
- Tổ chức các lớp tập huấn để giáo viên học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ.
Trên đây là sáng kiến về dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5 mà
tôi áp dụng vào giảng dạy trong năm học 2012-2013. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến quý báu và chân thành của Hội đông đồng xét sáng
kiến các cấp. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hàng Trạm, ngày 2 tháng 5 năm 2013
Người viết
Trịnh Thị Minh Thảo
11
Ý kiến của Hội đồng xét sáng kiến
Trường Tiểu học Thị trấn Hàng Trạm:
Ý kiến của Hội đồng xét sáng kiến
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Thủy
12