BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------
HOÀNG THỊ THANH HOA
HỢP TÁC MỸ -ASEAN TRONG LĨNH VỰC AN NINH
PHI TRUYỀN THỐNG TỪ 2001 ĐẾN 2015
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.03.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Thị Vinh
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Hợp tác Mỹ -ASEAN trong lĩnh vực
an ninh phi truyền thống từ 2001 đến 2015”, tôi đã nhận được rất nhiều
nguồn động viên, giúp đỡ quý báu.
Trước tiên, tôi xin chuyển lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả những thầy cô
đã giảng dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình Cao học tại trường Đại
Học Sư Phạm Hà Nội, những người đã truyền thụ và mở mang cho tôi kho
tàng kiến thức quan trọng và quý báu trong suốt hai năm qua.
Lời cảm ơn đặc biệt, tôi xin gửi tới GS.TS Trần Thị Vinh, người đã
dành nhiều thời gian tận tình giúp đỡ và chỉ dạy cho tôi trong quá trình thực
hiện và hoàn thiện luận văn của mình
Cuối cùng, tôi rất mong những đóng góp quý báu của quý thầy cô và
các bạn để luận văn hoàn thiện hơn nữa!
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 08 năm 2015
Tác giả
Hoàng Thị Thanh Hoa
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA
:Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC
: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
ASEM
: Diễn đàn hợp tác Á – Âu
ARF
: Diễn đàn khu vực ASEAN
EU
: Liên minh Châu Âu
EAI
: Doanh nghiệp ASEAN
FTA
: Khu vực Thương mại tự do
NATO
: Tổ chức Hiệp ước phòng thủ Bắc Đại Tây Dương
NICs
: Các nước công nghiệp hoá mới
Nxb
: Nhà xuất bản
TTXVN
: Thông tấn xã Việt Nam
SEATO
: Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
WB
: Ngân hàng thế giới
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
ZOPFAN
: Khu vực hoà bình, tự do và trung lập
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An ninh phi truyền thống là một khái niệm mới, xuất hiện sau khái
niệm an ninh truyền thống. Từ những năm 90 của thế kỉ XX, tức là sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc, các học giả trên thế giới mới đề xuất khái niệm
này. Từ đó đến nay, an ninh phi truyền thống trở thành mối quan tâm lớn của
mỗi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, là một trong những chủ đề quan trọng
được các nhà khoa học nghiên cứu và luôn là đề tài nóng hổi được bàn luận
trên nhiều diễn đàn khu vực, quốc tế, cũng như trong nhiều nội dung của các
quan hệ song phương và đa phương.
An ninh phi truyền thống là một cụm từ mới, được xuất hiện chính thức
trong “Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an
ninh phi truyền thống” thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các
nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc tại
Phnôm Pênh (Campuchia) ngày 01/11 /2001. Đó là những vấn đề về các loại
tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm khủng bố và ma túy đe dọa an
ninh khu vực và thế giới, đồng thời tạo ra thách thức mới đối với hòa bình, ổn
định trong và ngoài khu vực.
Trong thời đại toàn cầu hóa, tính phức tạp và nguyên nhân sâu xa của
những vấn đề “an ninh phi truyền thống” tạo sự nhận thức và đồng thuận cao
giữa các nước ASEAN trong việc hợp tác đối thoại với các thể chế chính trị kinh tế quốc tế lớn như Liên Xô, Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ, Nhật.....
Từ tháng 11/2002, sau khi kí “Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc
về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống”, an ninh phi truyền
thống là một hướng hợp tác mới được các nước ASEAN triển khai có hiệu
quả với các nước đối thoại nhất là đối với Trung Quốc, Nhật Bản, EU và
đặc biệt là Mỹ.
Mỹ quan tâm đến Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam
Á từ sau chiến tranh thế giới hai. Trong thời kì Chiến tranh lạnh, với vị trí địa
- chiến lược quan trọng, Đông Nam Á là khu vực thu hút sự quan tâm của các
nước lớn, nhưng các mối quan hệ quốc tế ở đây đan xen lẫn nhau hết sức
phức tạp. Ý đồ chiến lược, chính sách của Mỹ không chỉ có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của các quốc gia trong khu vực mà còn tác động không nhỏ
tới quan hệ đối nội, đối ngoại của từng quốc gia. Sau khi Chiến tranh lạnh kết
thúc, vai trò của Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Mỹ phần nào
giảm sút bởi vì mục tiêu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên thế giới và ở châu
Á - Thái Bình Dương của Mỹ đã không còn là mục tiêu chiến lược hàng đầu
khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam tiến hành cải cách theo hướng
kinh tế thị trường.
Bước vào thế kỷ XXI, đặc biệt là từ sau sự kiện khủng bố tại Mỹ ngày
11/9/2001, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu và phát động cuộc chiến
chống khủng bố. Chống khủng bố đã trở thành ưu tiên số một, quan trọng hơn
bao giờ hết đối với nước Mỹ trong cả hai nhiệm kỳ của Tổng thống G. Bush
và cũng chính nó đã tạo ra những đổi thay trong chiến lược toàn cầu của Mỹ
nói chung, chính sách đối với châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á nói
riêng. Sự kiện 11/9 đã buộc chính quyền G. Bush phải xem xét lại chính sách
Đông Nam Á của mình. Sự hoạt động của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, mối
liên hệ của chúng với tổ chức Al Qaeda là đe dọa lớn nhất đối với an ninh của
Mỹ. Đông Nam Á đã trở thành một trong những mặt trận chính trong cuộc
chiến chống khủng bố của Mỹ. Thông qua hoạt động chống khủng bố, Mỹ
tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực đồng thời lôi kéo, gây áp lực với
các nước nhằm tập hợp lực lượng hình thành “liên minh chống khủng bố” do
Mỹ cầm đầu. Với sự nổi lên của các vấn đề an ninh truyền thống và phi
truyền thống trong khu vực, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ thực
hiện chính sách “xoay trục”, trở lại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong
đó có Đông Nam Á. Đây là điểm đáng quan tâm nhất của tình hình thế giới
những năm đầu thế kỷ XXI, tác động trực tiếp đến các quốc gia ở khu vực
Đông Nam Á.
Hợp tác Mỹ - ASEAN trong vấn đề an ninh phi truyền thống được tăng
cường xuất phát từ thực tế lịch sử phát triển sôi động, đa dạng, phức tạp của
thế giới của những năm đầu thế kỉ XXI. Mối đe dọa của an ninh phi truyền
thống đối với an ninh quốc gia, khu vực và an ninh toàn cầu là rất lớn. Điều
đó đòi hỏi, chính phủ các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế ngày càng
tăng cường hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Những phân tích trên cho thấy việc nghiên cứu về “Hợp tác Mỹ
-ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống từ 2001 đến 2015” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Nghiên cứu đề tài này không chỉ làm rõ
thực chất nội dung chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á mà còn
góp phần vào việc xây dựng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho các đối sách
trong chính sách đối ngoại ASEAN với Mỹ nói chung và của Việt Nam với
Mỹ nói riêng về những vấn đề liên quan ở khu vực Đông Nam Á trong việc
giải quyết những vấn đề an ninh phi truyền thống.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn vấn
đề “Hợp tác Mỹ -ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống từ 2001 đến
2015” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề an ninh truyền thống đã được nhiều người đề cập và nghiên
cứu. Tuy nhiên, khái niệm “an ninh phi truyền thống” là một khái niệm còn
mới mẻ chỉ được chú ý từ sau những năm 90 của thế kỉ XX và đặc biệt là
những năm đầu của thế kỉ XXI. Do vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ nên
cho đến nay, có một số ít học giả trong và ngoài nước nghiên cứu vấn đề này
ở những góc độ khác nhau và nội dung khác nhau.
Cuộc hội thảo khoa học tại Hà Nội do Học viện Quan hệ quốc tế tổ
chức từ ngày 26-28/8/1999 với chủ đề “Những cách nhìn nhận mới về an
ninh” và cuộc hội thảo tại New Zealand từ 31/3 – 2/4/2001 với chủ đề “An
ninh con người Châu Á – Thái Bình Dương” có thể xem là những nỗ lực
quan trọng của giới khoa học trong và ngoài nước nhằm nghiên cứu vấn đề an
ninh phi truyền thống.
Các công trình đã được xuất bản thành sách phải kể đến :
“Mỹ đã thay đổi chiến lược toàn cầu”của Lý Thực Cốc , Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 1998, trong đó nêu lên các chiến lược của Mỹ đối với
các khu vực trên thế giới và sự tranh giành ảnh hưởng của Mỹ và Liên Xô
trước đây và những dự đoán cho tương lai của Mỹ .
Năm 2005, Hồ Châu có bài viết “Chiến lược Á- Âu của Mỹ từ sau
chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ địa – chính trị” đăng trên tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu. Nội dung chính được đề cập trong bài viết đó là phân tích chính
sách của Mỹ đối với lục địa Âu – Á sau hơn 10 năm Chiến tranh lạnh kết
thúc dưới góc nhìn địa – chính trị. Từ đây Mỹ đã hình thành một chiến lược
khá quan trọng đó là tăng cường sức mạnh quân sự cho khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, gia tăng ảnh hưởng tại khu vực này....
“Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau Chiến tranh
lạnh” của tác giả Lê Khương Thuỳ. Đã trình bày bối cảnh quốc tế và sự hình
thành chiến lược toàn cầu mới của Mỹ. Chính sách của Mỹ trong lĩnh vực
kinh tế, quân sự, chính trị đối với ASEAN thời kì Chiến tranh lạnh (19671975) và sau Chiến tranh lạnh (1991-1995). Những điều chỉnh có tính chất
chiến lược của Mỹ và của ASEAN. Các biện pháp thực hiện chính sách của
Mỹ trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế....
Cuốn sách “Vai trò của Mỹ ở Châu Á : Quan điểm của học giả Mỹ và
Châu Á”(2009) Han Sung Joo, Tommy Koh, C. Raja Mohan (chủ biên) ...;
Dịch: Lê Khương Thuỳ ; Lưu Ánh Tuyết , Nxb Khoa học xã hội . Đã nêu tổng
quan quan điểm của Châu Á về vai trò của Mỹ đối với khu vực năm 2008, vai
trò của Mỹ ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Nam Á. Những chính sách của
Mỹ đối với Châu Á - Thái Bình Dương, khủng hoảng môi trường ở Châu Á
và chính quyền Mỹ mới. Phân tích những vấn đề quân sự và quan hệ giữa Mỹ
và các nước Châu Á....
Cuốn sách “An ninh quốc gia và những vấn đề an ninh phi truyền
thống” (2013) của Nxb Chính trị Quốc gia do một nhóm tác giải viết đã cung
cấp những thông tin khoa học cơ bản trên bình diện lý luận và những vấn đề
kinh nghiệm, bài học thực tiễn về an ninh phi truyền thống. Đây là bộ tài liệu
nghiên cứu, tham khảo cho cán bộ lãnh đạo rất cần thiết cho việc nghiên cứu
vấn đề này. Ngoài ra còn có một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như : Lê
Anh Tuấn, Thế kỷ XXI một số vấn đề đáng quan tâm, Nxb Khoa học kỹ thuật ,
Hà Nội năm 2000; Nguyễn Đức Khiển, Môi trường và sức khỏe, Nxb Lao
động – xã hội, Hà Nội năm 2000; hay công trình của các nhà nghiên cứu
Trung Quốc do Vương Dật Tiên (chủ biên), An ninh quốc tế trong thời đại
toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2004.
Việc nghiên cứu các vấn đề khác nhau của an ninh phi truyền thống
chủ yếu đề cập trong một số bài viết đăng tải trên các báo và tạp chí chuyên
ngành trong và ngoài nước. Một số bài viết đáng chú ý là : Vũ Tuyết Loan,
“An phi truyền thống Châu Á- Thái Bình Dương : vấn đề và giải pháp ”, Tạp
chí cộng sản số 23/2006; Nguyễn Hồng Bắc, “An ninh con người và vấn nạn
buôn người: Các khái niệm chính và một số vẫn đề có liên quan đến nạn
buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế
giới, số 11/2006; Nguyễn Xuân Yên, “Đấu tranh chống Maphia và tội phạm
có tổ chức trên thế giới”, Tạp chí cộng sản số 19/2005; Nguyễn Hữu Dũng,
“Mối quan hệ giữa chính sách xã hội và an ninh xã hội”, Tạp chí cộng sản
số 8/1998....
Bên cạnh đó còn có bài viết của các tác giả trong và ngoài nước như
“Chính sách châu Á của Bill Clinton” của tác giả người Ấn Độ MV. Rappai,
Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trường – Bộ Quốc Phòng đã nêu
lên chính sách đối ngoại của Tổng thống Bin Clinton đối với các khu vực và
quốc gia ở Châu Á, khẳng định sự can thiệp ngày càng gia tăng của Mỹ vào
Châu Á – Thái Bình Dương. “Học thuyết Bush” của Janie Glozov, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, số 2/2003; “Chính sách ngoại giao của Mĩ trong một thế
kỉ mới” của Ivoh Daaelder & James Lindsay, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số
06/2003; Hai bài viết “Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau chiến tranh
lạnh của Mỹ : từ Geogre Bush (cha) đến Bill Clinton” đăng trên tạp chí Châu
Mỹ ngày nay số 01/2001 và “Nhìn lại sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Mỹ sau chiến tranh lạnh” đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 1(68) tháng
3/2007 của tác giả Hà Mỹ Hương đã nêu lên những nhân tố chi phối chiến
lược toàn cầu của Mỹ sau chiến tranh lạnh và những nội dung cơ bản của
chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh cho đến nay. Điều đáng
chú ý là Dự án Đông Nam Á trong thế kỷ XXI do Stanley Foundation thực
hiện 2003 – 2005, trong đó đề cập đến nhiều khía cạnh chính sách của Mỹ ở
Đông Nam Á như chính sách dân chủ nhân quyền, an ninh – quân sự, hợp tác
chống khủng bố....
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu và ấn phẩm khoa học kể
trên, đã tiếp cận một số vấn đề của nội dung nghiên cứu, nhưng những vấn đề
an ninh phi truyền thống hiểu theo cách xác định của Liên Hợp Quốc bao gồm
các nội dung: an ninh kinh tế, an ninh cộng đồng, an ninh chính trị với tư cách
là an ninh tổng hợp. Tuy nhiên việc làm rõ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN trong
lĩnh vực an ninh phi truyền thống từ 2001 đến 2015 và những tác động của nó
thì gần như chưa được nghiên cứu đầy đủ và chuyên sâu trong các công trình
đã được công bố.
3.
Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là làm rõ những vấn đề cơ bản và thực chất của
quan hệ Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống từ 2001 đến
2015 và tác động của mối quan hệ này đối với khu vực.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau
- Làm rõ cơ sở của sự hợp tác Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi
truyền thống, phân tích bối cảnh và vị trí chiến lược của Đông Nam Á trong
những năm đầu thế kỉ XXI.
- Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của quan hệ hợp tác giữa Mỹ
- ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống.
- Phân tích những tác động mối quan hệ Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực
an ninh phi truyền thống đến khu vực.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ Mỹ ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống cụ thể là : hợp tác chống
khủng bố, hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống trên
biển, phòng chống bệnh dịch, thiên tai và biến đổi khí hậu.
- Về thời gian : Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là thời gian từ 2001
đến 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lí luận
Cơ sở lí luận của đề tài là phương pháp luận Mác xít, quan điểm chính
thống của Đảng và nhà nước ta về các vấn đề quốc tế. Trong quá trình giải
quyết những nhiệm vụ đề ra, luận văn quán triệt và tuân thủ quan điểm, nguyên
lí phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử và những quan điểm lí luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và các phương pháp
nghiên cứu liên ngành để giải quyết các vấn đề đề tài nghiên cứu đặt ra.
Trong đó, luận văn kết hợp phương pháp lôgic với phương pháp lịch sử;
phương pháp phân tích với phương pháp tổng hợp; đồng thời còn sử dụng các
phương pháp bổ trợ khác như : hệ thống, thống kê, đối chiếu so sánh...
5. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về quan hệ hợp tác MỹASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống trong 15 năm đầu thế kỷ
XXI. Trên cơ sở phân tích quan hệ giữa Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh
phi truyền thống, luận văn bước đầu làm rõ thực chất chính sách của Mỹ và
tác động đối với khu vực Đông Nam Á.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận và những nhân tố tác động đến quan hệ phi
truyền thống Mỹ - ASEAN từ 2001 đến 2015.
1.1
. Khái niệm an ninh, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống.
. Nội dung các vấn đề an ninh phi truyền thống
1.3. Quan hệ hợp tác giữa Mỹ - ASEAN trước năm 2001
1.2
1.4. Những nhân tố tác động đến quan hệ Mỹ - ASEAN từ sau sự kiện
11/9/2001.
Chương 2 : Hợp tác Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền
thống từ 2001 đến 2015
2.1. Quan hệ Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống từ
2001 đến 2015.
2.2. Một số nhận xét về hợp tác Mỹ - ASEAN trong lĩnh vực an ninh
phi truyền thống.
Kết luận
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
PHI TRUYỀN THỐNG MỸ - ASEAN TỪ 2001 ĐẾN 2015
1.1. Khái niệm an ninh, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống
1.1.1. Khái niệm an ninh
“ An ninh ” là một khái niệm cơ bản thường xuyên được sử dụng trong
ngôn ngữ và thực tiễn chính trị quốc tế. Hiểu rõ được bản chất của khái niệm
này cũng như những nội hàm và sự ảnh hưởng của nó sẽ giúp lý giải hành vi
của các chủ thể khi tham gia vào nền chính trị quốc tế. Đó cũng là lý do vì sao
cho đến tận ngày nay, những nghiên cứu về an ninh cũng như các chiến lược an
ninh quốc gia vẫn luôn được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Đồng
thời, những nội dung đó cũng đóng góp một phần lớn trong việc hình thành
chính sách đối ngoại của quốc gia.Cần phải khẳng định rằng có rất nhiều cách
nhìn, cách tiếp nhận và quan niệm giá trị khác nhau về khái niệm “an ninh” .
Theo Từ điển Thuật ngữ Quan hệ quốc tế an ninh được hiểu theo nghĩa
đơn giản nhất là khả năng giữ vững sự an toàn trước các mối đe doạ. Tuy
nhiên, an ninh không phải là một khái niệm tĩnh mà là một khái niệm động và
trải qua nhiều thay đổi về cách hiểu, cũng như cách tiếp cận. Tuy một ý niệm
truyền thống xoay quanh các chủ đề quân sự, chiến tranh và bạo lực, khái
niệm an ninh với những kết nối mới đã mở ra những chiều kích xuất phát từ
nhiều lãnh vực khác nhau.
Trong Từ điển quân sự Việt Nam, an ninh được định nghĩa là trạng thái
ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe doạ sự tồn tại và phát triển
bình thường của cá nhân, của tổ chức,của từng lĩnh vực trong hoạt động xã
hội hoặc của an toàn xã hội.[12; tr 20]
Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa chung nhất an ninh là nhu cầu đầu tiên và
thiết yếu của mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn nhân loại, đồng thời nó
cũng là điều kiện cơ bản và quan trọng số một cho sự phát triển của mỗi quốc
gia. Mỗi con người, xã hội hay quốc gia trước hết cần phải đảm bảo an ninh
để tiến hành các hoạt động bình thường khác.Mặt khác, nội hàm của khái
niệm an ninh không chỉ giới hạn ở tình trạng như trên, tức là hành động để
thực hiện an ninh. Cách hiểu về khái niệm an ninh như vậy phản ánh nhu cầu
và quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, đồng thời nó bao hàm đầy đủ nội
hàm của khái niệm an ninh trong giai đoạn hiện nay. Là một khái niệm cơ
bản, cũng là một giá trị cơ bản của chính trị quốc tế, an ninh là điều kiện để
nhân loại tồn tại trong hoà bình và có trật tự. Nhà nước quốc gia với tư cách là
chủ thể cơ bản đại diện quốc gia, nắm trong tay công cụ sức mạnh và thể chế
là người lãnh trách nhiệm bảo đảm an ninh cho cư dân mình, cho quốc gia
mình và cho chính bản thân quyền lực của mình. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ an
ninh cho cư dân và bảo đảm an ninh quốc gia trở thành ưu tiên hàng đầu đối
với các quốc gia. [21; tr 92].
Trong khái niệm an ninh, tuỳ thuộc theo góc độ và nhu cầu sử dụng
khác nhau, người ta lại chia ra làm nhiều loại : chia theo đơn vị phạm vi có an
ninh nhân loại, an ninh khu vực, an ninh quốc gia…chia theo tính chất thời
gian lịch sử có an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; chia theo địa
chính trị thì có nhận thức khác hẳn nhau về an ninh phương Đông và an ninh
phương Tây; chia theo lĩnh vực có an ninh kinh tế , an ninh chính trị, an ninh
lương thực, an ninh môi trường….Tuy nhiên, cách phân chia như vậy chỉ
mang tính chất tương đối, vì nội dung của những khái niệm đó có thể trùng
hợp hoặc đan xen nhau.
1.1.2. Khái niệm an ninh truyền thống
An ninh truyền thống (traditional security) là một khái niệm quen thuộc
và mang tính truyền thống, xuất phát từ các nghiên cứu quốc tế về an ninh,
chiến tranh, hòa bình…Theo đa số các học giả quốc tế thì an ninh truyền
thống chính là an ninh quốc gia (national security).
An ninh quốc gia là sự cần thiết để duy trì sự tồn tại của quốc gia thông
qua việc sử dụng sức mạnh kinh tế, ngoại giao, triển khai sức mạnh và quyền
lực chính trị. An ninh quốc gia còn là sự ổn định và phát triển bền vững của
chế độ xã hội: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích
quan trọng khác của mộtquốc gia. An ninh quốc gia đề cập đến sự yên ổn của
một quốc gia, ở bên trong thì không có rối loạn, không bị chia cắt, ở bên
ngoài thì không bị các quốc gia khác quấy nhiễu, xâm phạm, không bị lệ
thuộc vào quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. [24]
Thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện trong Luật an ninh quốc gia của
nước Mỹ năm 1947. Chính phủ Mỹ đã thiết lập ra một Uỷ ban an ninh quốc
gia chịu trách nhiệm đưa ra kiến nghị cho Tổng thống về các vấn đề đối nội,
đối ngoại liên quan đến an ninh quốc gia. Từ đó thuật ngữ này được sử dụng
phổ biến trong đời sống chính trị và quan hệ quốc tế.
Trong quan niệm an ninh quốc gia lấy an ninh chính trị và quân sự làm
trọng tâm điều đó gắn liền với sự phát triển của sức sản xuất xã hội loài người
và sự thay đổi của môi trường quốc tế. Từ khi ra đời các quốc gia đầu tiên cho
đến nay, vốn lớn nhất của mỗi quốc gia dân tộc chính là dân số và lãnh thổ,
lợi ích lớn nhất của an ninh quốc gia chính là bảo vệ nhân dân và lãnh thổ của
mình không bị ngoại lai xâm lược. Vì vậy, mỗi quốc gia đều chú trọng tăng
cường sức mạnh quân sự là đương nhiên.Cùng với sự phát triển nhanh chóng
của sức sản xuất, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản nảy sinh nhu cầu về nguyên
liệu, nhân công và thị trường tiêu thụ hàng hoá mới điều này đã thúc đẩy
những cuộc xâm chiếm lãnh thổ và sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -1918), chiến tranh thế giới lần thứ hai
(1939 -1945) và sau là Chiến tranh lạnh là những cuộc chiến tranh kéo dài, ác
liệt và tàn khốc nhất trong lịch sự nhân loại. Đặc biệt trong thời kì Chiến tranh
lạnh, khái niệm “an ninh truyền thống” tức là an ninh quốc gia, an ninh lấy
sức mạnh quân sự làm hạt nhân. Trong thời kì này chiến tranh luôn là nguy cơ
thường trực đối với nền an ninh thế giới, sự tồn vong của chính quyền nhà
nước và cuộc sống bình yên của nhân dân mỗi quốc gia nói riêng. Vì thế,
nhận thức an ninh khi đó gần như chỉ xoay quanh một vấn đề chiến tranh và
hoà bình, an ninh vì thế vẫn được hiểu là tình trạng của một quốc gia, được
đảm bảo về độc lập, chủ quyền lãnh thổ, không có sự đe doạ hay uy hiếp về
quân sự từ bên ngoài. Do đặc điểm của tình hình quốc tế và mối quan tâm
thiết yếu của mỗi quốc gia khi đó là giành và bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, chống chiến tranh và chống xâm lược, do nhu cầu an ninh số
một của mọi quốc gia lúc này là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Như thế,
lãnh thổ quốc gia là đối tượng trung tâm của an ninh truyền thống và mối đe
doạ chủ yếu đối với nó là sự tấn công xâm lược từ bên ngoài. Với đối tượng
và mối đe doạ như vậy nên biện pháp thực hiện an ninh chủ yếu là biện pháp
quân sự, là củng cố quốc phòng, tăng cường sức mạnh vũ trang. Cho đến hết
thời kì Chiến tranh lạnh, thì an ninh chính trị và an ninh quân sự luôn chiếm
vai trò chủ đạo.
1.1.3. Khái niệm an ninh phi truyền thống
Bối cảnh nảy sinh vấn đề “an ninh phi truyền thống”
Sau Chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có những biến động nhanh
chóng và sâu sắc tác động tới mọi quốc gia và khu vực trên thế giới.
Trước hết, sự biến đổi cục diện quốc tế sau Chiến tranh lạnh.
“An ninh phi truyền thống” trở thành mối quan tâm nổi bật có mối quan
hệ chặt chẽ với sự biến đổi cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh. Nhiều vấn
đề của an ninh phi truyền thống đã xuất hiện trong quá trình biến đổi từ chế
độ cũ sang chế độ mới, sự tan rã của chế độ đã dẫn đến một số vấn đề và mâu
thuẫn vốn có trở thành vấn đề nổi bật cần phải giải quyết.
Những năm sau khi hai cực tan rã sự uy hiếp của chiến tranh hạt
nhân cũng từng bước bị đẩy lùi. Thay vào đó là sự phát triển nhanh chóng
của hệ thống kinh tế quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các
nước, Mỹ trở thành siêu cường số 1 thế giới và công khai sứ mệnh lãnh đạo
thế giới tự do. Với sức mạnh và thực lực áp đảo của Mỹ đã tạo nên một trật
tự thế giới mới đó là “nhất siêu đa cường”. Bên cạnh đó một thực tế mới
sau Chiến tranh lạnh cần phải đối phó đó là sự trỗi dậy trở lại của những ý
thức hệ như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tôn giáo chính thống…đây là
những căn nguyên dẫn đến những xung đột, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo
trong tương lai. Các nhà hoạch định chính sách an ninh của mỗi quốc gia từ
chỗ quan tâm chiến tranh hạt nhân đã chuyển sang quan tâm những vấn đề
mang tính khu vực và thế giới.
Thứ hai, sự đẩy nhanh và mở rộng quá trình toàn cầu hoá.
Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh đã phá vỡ cục diện đối lập giữa hai
thể chế kinh tế - chính trị thế giới, các nước đều tập trung phát triển kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế tạo nên sự chuyển dịch nhanh chóng và phân phối hiệu
quả yếu tố tài nguyên đồng thời cũng khiến cho các yếu tố tiêu cực khác thâm
nhập lan truyền ra nhiều nước gây nên hậu quả kinh tế xã hội phức tạp, nhất là
các quốc gia thuộc thế giới thứ ba.
Toàn cầu hoá từ kinh tế sau đó lan rộng ra các lĩnh vực khác có ảnh
hưởng lớn đến quan hệ quốc tế và đời sống thường ngày của con người. Toàn
cầu hoá khiến cho hàng hoá, dịch vụ, nhân viên, tư bản…vượt ra khỏi phạm
vi một quốc gia, mở ra sự chủ động hay bị động của các nước đã trở thành tất
yếu. Sự phát triển của toàn cầu hoá khiến cho cả thế giới trở thành một chỉnh
thể, sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các quốc gia càng ngày
càng tăng lên. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng như con dao hai lưỡi, vừa mang
đến sự phát triển cũng vừa mang đến sự mạo hiểm và tổn thất mới. Nó khiến
cho khủng hoảng và tai hoạ trong nội bộ một số nước vượt qua phạm vi biên
giới quốc gia trở thành khủng hoảng khu vực hay toàn cầu. Ví dụ như cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997 -1998, khủng hoảng
kinh tế năm 2008…Như vậy, toàn cầu hoá là nguyên nhân quan trọng khiến
cho vấn đề “an ninh phi truyền thống” sau Chiến tranh lạnh nhiều lên, ảnh
hưởng mở rộng làm cho các nước càng ngày càng quan tâm đến vấn đề an
ninh phi truyền thống.
Thứ ba, sau Chiến tranh lạnh các nước càng ngày càng coi trọng sự
phát triển kinh tế và xã hội của bản thân mình.
Một sự thay đổi to lớn khác mà sau Chiến tranh lạnh kết thúc chính là
sự quan tâm nhiều hơn của các chính phủ đến các vấn đề văn hoá, khoa học
kỹ thật và môi trường hơn những vấn đề an ninh quân sự. Kinh tế trở thành
nhân tố quan trọng nhất trong việc hoạch định chính sách phát triển của mỗi
quốc gia. Sau Chiến tranh lạnh, cùng với việc thị trường thế giới ngày càng
nhất thể hoá và cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, trong quá trình
phát triển kinh tế của bản thân các nước họ đều lần lượt phải đối mặt với
những vấn đề nổi lên của kinh tế và đời sống xã hội như : môi trường sinh
thái, thiếu thốn nguồn năng lượng, tăng trưởng dân số, khủng hoảng kinh
tế….Tất cả những vấn đề này không còn thuộc riêng của một nước nào đó mà
là vấn đề chung ở mức độ khác nhau của các nước. Vì thế, nhiều quốc gia đã
từng bước ngày càng coi trọng những vấn đề này trong công tác đảm bảo “an
ninh quốc gia” để nhận thức đầy đủ hơn nữa về những “uy hiếp mới” với an
ninh quốc gia, hoạch định lại chiến lược phát triển quốc gia đảm bảo an ninh
của đất nước trên tất cả các lĩnh vực an ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh
văn hoá và an ninh môi trường.
Thứ tư, ý tưởng phát triển bền vững và mô hình an ninh quốc tế
Sau Chiến tranh lạnh, sự thay đổi của môi trường quốc tế mới cũng
khiến cho quan niệm về an ninh của mọi người cũng thay đổi. An ninh phi
truyền thống ngày càng được mọi người quan tâm và có mối quan hệ mật
thiết với hai trào lưu tư tưởng đó là “tư tưởng phát triển bền vững” và tư
tưởng “an ninh con người” đồng thời cũng liên quan chặt chẽ đến sự chuyển
đổi của “mô hình an ninh” . Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế
giới đã chính thức đưa ra khái niệm “phát triển bền vững” và nhận được sự
quan tâm rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Hội nghị môi trường và phát triển
của Liên Hợp Quốc năm 1992 đã đưa ra định nghĩa về phát triển bền vững đó
là :“Đáp ứng nhu cầu của thế hệ đương đại lại không tổn hại đến sự phát
triển năng lực của thế hệ con cháu mai sau nhằm đáp ứng nhu cầu của
chúng”. Điều này đã khuyến cáo mọi người tài nguyên là có hạn nếu không
sử dụng một cách tiết kiện thì những tài nguyên này sẽ không có khả năng tái
sinh. Bên cạnh đó, an ninh ngày nay bên cạnh an ninh quốc gia thì trước hết
cần phải đảm bảo an ninh cho từng con người. Đảm bảo an ninh cho từng cá
nhân thì an ninh cộng đồng mới được đảm bảo và ngược lại.
Nguồn gốc mối đe doạ của an ninh phi truyền thống
Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến những trận đói, nạn dịch khủng
khiếp cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh
bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, quá trình toàn cầu hóa diễn
ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở nên “mềm” hơn,
dễ vượt qua hơn; mạng internet đã tạo ra một “thế giới ảo” với các xa lộ
thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn biên giới ngăn cách. Cùng với đó là
sự hủy hoại của con người đối với tự nhiên, môi trường; sự phát triển kinh tế
thiếu kiểm soát, chạy theo lợi nhuận thuần túy, lợi ích trước mắt; sự chi phối
của những tư tưởng chính trị cực đoan, sự tha hóa và suy thoái về đạo đức của
chính con người… đã làm cho những vấn đề mà ngày nay được gọi là an ninh
phi truyền thống trở nên trầm trọng hơn, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất
nhiều. Phạm vi tác động của vấn đề đã vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ và lợi
ích an ninh quốc gia dân tộc của một nước. Vấn đề môi trường, cạn kiệt
nguồn tài nguyên, nguồn nước sạch, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển
dâng… đôi khi lại đe dọa nhiều hơn đối với cuộc sống của người dân ở những
quốc gia không phải là “thủ phạm” gây ra những biến đổi, cạn kiệt đó. Các
hoạt động tội phạm, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh học,
hóa học, bệnh dịch… có quy mô xuyên biên giới. Những mối đe dọa an ninh
phi truyền thống, vì thế, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu.
Nguồn gốc gây nên những mối đe doạ này xuất phát từ nhiều phía khác nhau.
Liên Hợp quốc đã khái quát nguồn gốc của mối đe doạ an ninh phi truyền
thống gồm các vấn đề chính sau:
• Mối đe doạ từ bản thân các quốc gia.
• Mối đe doạ đến từ các quốc gia khác.
• Mối đe doạ đến từ các mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo.
• Mối đe doạ đến từ các nhóm, các tổ chức và các cá nhân tội phạm .
Mối đe doạ đến từ bản thân các quốc gia : những vấn đề an ninh phi
truyền thống hiện nay đều mang tính toàn cầu nhưng nó đều bắt nguồn từ
quốc gia và địa điểm cụ thể. Nguyên nhân chủ yếu gây nên mối đe doạ này
chính là hành vi và ý thức con người đồng thời cũng do những chính sách
quản lí và điều hành nhà nước của chính quyền. Để ngăn chặn và đề phòng
sự xuất hiện của những mối đe doạ an ninh phi truyền thống trước hết bản
thân mỗi quốc gia phải có một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền
vững. Bên cạnh đó, kết hợp giữa sự phát triển kinh tế với bình đẳng xã hội,
trấn áp các tội phạm, giữ gìn và bảo vệ môi trường, mở rộng quyền dân chủ
trên mọi lĩnh vực…
Mối đe doạ từ các quốc gia khác: sự ảnh hưởng và tác động của an
ninh phi truyền thống mang tính xuyên quốc gia nên những mối đe doạ này
không chỉ ở bản thân mỗi quốc gia mà còn đến từ các quốc gia khác. Sự giao
lưu, phụ thuộc và ràng buộc giữa các nước trong thời đại toàn cầu hoá đã
khiến cho những vấn đề an ninh của quốc gia này nhanh chóng tác động đến
các quốc gia khác. Ví dụ như vấn đề biển Đông là vấn đề nóng bỏng được bàn
tới trong hầu hết các diễn đàn khu vực và quốc tế nó không chỉ ảnh hưởng
đến Việt Nam, Trung Quốc , Indonesia….mà còn liên quan đến các quốc gia
lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng tới nhiều nước, kéo cả nền
kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái, là một thí dụ. Ngoài ra, các chính
phủ bên ngoài thực hiện những hoạt động phục vụ lợi ích phát triển của quốc
gia mình nhưng trong nhiều trường hợp vô tình gây ra những đe doạ an ninh
phi truyền thống cho những nước khác. Sự đe doạ đó là những vấn đề như khí
thải và chất thải của những nhà máy công nghiệp gây ô nhiễm môi trường
biển, sông, suối thậm chí nguy hiểm hơn là gây nên ô nhiễm bầu khí quyển và
gây nên “hiệu ứng nhà kính”. ..
Mối đe doạ đến từ các mâu thuẫn, xung đột sắc tộc và tôn giáo : vấn đề
dân tộc, sắc tộc và tôn giáo dẫn đến các cuộc chiến tranh đang là vấn đề nóng
trong quan hệ quốc tế. Nó diễn ra ở nhiều nơi trên khắp các châu lục tác động
mạnh đến an ninh toàn cầu. Đây cũng là một vấn đề nhạy cảm khó giải quyết,
hơn nữa nó thường dẫn đến chủ nghĩa li khai và bạo lực. Hiện nay có bốn loại
hình xung đột, sắc tộc và tôn giáo chủ yếu đó là :
• Xung đột dân tộc tôn giáo mang tính chất thế giới.
• Xung đột dân tộc, tôn giáo mang tính xuyên quốc gia hay giữa các
quốc gia với nhau .
• Xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra ngay trong nội bộ các quốc gia.
• Xung đột dân tộc, tôn giáo mang tính tương tác.
Những xung đột và mâu thuẫn này là nguyên nhân gây nên tình trạng
đói nghèo, kém phát triển, mất ổn định về chính trị và an ninh xã hội. Nó là
nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa li khai, chia rẽ sự toàn vẹn của lãnh thổ
quốc gia, tạo nên nguy cơ can thiệp từ bên ngoài. Hơn nữa nó còn làm sâu sắc
thêm chủ nghĩa phân biệt chủ tộc, tôn giáo…Để giải quyết những vấn đề này
cần phải có cái nhìn tổng thể, trong sự tương tác của nó, với những giải pháp
mang tính toàn diện và lâu dài.
Mối đe doạ đến từ các nhóm, các tổ chức, các cá nhân phạm tội : hàng
loạt các hành vi phạm tội như tội phạm kinh tế, tội phạm ma tuý, khủng bố,
buôn người, buôn lậu vũ khí….đang ngày càng gia tăng và trở thành một
trong những vấn đề an ninh phi truyền thống nghiêm trọng. Cách thức hoạt
động của các tổ chức này vừa thể hiện dưới hình thức bạo lực vừa phi bạo lực.
Chúng gây ra các vụ khủng bố, ám sát, bắt cóc, tống tiền và giết người. Mục
tiêu của chúng không trừ một ai. Những hành động này đe doạ nghiêm trọng
đến an ninh, ổn định và phát triển của xã hội, gây náo loạn trật tự xã hội, tạo
ra bầu không khí căng thẳng gây nguy hại đến tính mạng, tài sản và sức khoẻ
của con người.
Như vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia tăng lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn, nhưng lại khó kiểm
soát hơn, kém an toàn hơn bởi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có
mức độ nguy hiểm cao hơn, sức ảnh hưởng lớn hơn, tầm ảnh hưởng rộng hơn
và tốc độ lây lan cũng nhanh hơn. Chính vì vậy, để giải quyết và đối phó với
những mối đe doạ của an ninh phi truyền thống đòi hỏi phải có sự nỗ lực
chung của cộng đồng quốc tế, sự cố gắng của mỗi cộng đồng, quốc gia, con
người, với những giải pháp và bước đi phù hợp, kết hợp tổng lực các biện
pháp kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, pháp luật, khoa học,
kỹ thuật, văn hóa, xã hội.
1.2. Quan hệ Mỹ - ASEAN thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh (1991-2001)
Sau Chiến tranh lạnh, sự thay đổi của tình hình thế giới và khu vực
khiến cho Mỹ không thể giữ một chiến lược như cũ tại khu vực này mà buộc
phải có chiến lược mới với những điều chỉnh phù hợp với tình hình hiện tại.
Dưới thời Tổng thống Bill Clintơn, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có
vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu “can dự và mở rộng” của Mỹ so
với bất kỳ thời kỳ nào trước đây.
Đối với chiến lược “can dự và mở rộng” của Mỹ thì Đông Nam Á
không chỉ là một khu vực năng động mà còn có tầm quan trọng không kém
châu Âu, là khu vực sống còn đối với an ninh Mỹ. Mục tiêu cơ bản của chiến
lược này đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đó là “đảm bảo vai trò
lãnh đạo của Mỹ” ở khu vực này cụ thể là :
• Không cho bất cứ một quốc gia riêng lẻ hay một liên minh nào được
phép thống trị khu vực.
• Không cho bất cứ quốc gia nào giành được thế mạnh quân sự và tạo
ra mối đe doạ trực tiếp đối với các nước láng giềng.
• Bảo đảm sự lưu thông hàng hoá và tài nguyên trong khu vực và giữa
khu vực này với Mỹ.
• Khuyến khích các nhà nước và các chế độ cam kết sự cởi mở về chính
trị và tăng khả năng kinh tế cho các công dân của họ.
• Tăng cường sáng kiến của các quốc gia khu vực nhằm hợp tác chặt
chẽ với Mỹ trong các mục tiêu hoàn chỉnh về an ninh, kinh tế và chính trị. [3;
tr 10]
Trên cơ sở mục tiêu đó, biện pháp cụ thể của chiến lược Châu Á – Thái
Bình Dương mà Mỹ sử dụng là :
• Duy trì và tiếp thêm sinh lực cho các liên minh trụ cột của Mỹ với
năm nước đồng minh ở Châu Á – Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippines, Thái Lan, Australia.
• Theo đuổi chính sách dính líu (mở rộng) với các quốc gia hàng đầu
trong khu vực.
• Xây dựng một cấu trúc khu vực nhằm duy trì phát triển kinh tế, thúc
đẩy sự hợp nhất và bảo đảm sự ổn định lâu dài.
• Ủng hộ dân chủ và nhân quyền, phục vụ cho các lí tưởng và các
quyền lợi lí tưởng của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. [86; tr 10]
Dân chủ và nhân quyền là một trong ba trụ cột trong chính sách đối
ngoại của Mỹ. Dưới thời Tổng thống Bill Clintơn, tại khu vực Đông Nam Á,
Mỹ đã chỉ trích rất mạnh mẽ những thành tích về nhân quyền tại các quốc gia
Đông Nam Á. Có những lúc đây là vấn đề gay cấn nhất, ưu tiên cao nhất
trong sự bất đồng giữa Mỹ và ASEAN.
Lợi dụng khuynh hướng chính trị hoá vấn đề dân tộc, tôn giáo ngày
càng căng thẳng, các thế lực quốc tế đứng đầu là Mỹ đang ra sức xúi dục, cam
kết hỗ trợ các lực lượng li khai núp dưới vỏ tôn giáo, dân tộc để chống phá
các nước, trong đó, ngoài Việt Nam thì Lào, Campuchia và Myanmar là
những nước được Mỹ “quan tâm” nhiều.
Để đạt được nhân quyền theo quan điểm Mỹ, Mỹ đã áp dụng chính
sách trừng phạt để gây sức ép với các nước châu Á, nhằm thay đổi ngắn hạn
trong quan hệ với họ và tìm cách can thiệp vào công cuộc nội bộ của Đông
Nam Á. Mỹ còn lợi dụng sự khó khăn về kinh tế và sự nghèo nàn, lạc hậu của
các nước trong khu vực, sử dụng chiêu bài “viện trợ kinh tế” để ép cải cách về
chính trị, sửa đổi luật với mong muốn thúc đẩy các nước này đi vào quỹ đạo
của Mỹ. Điều này đã gây nên sự phản ứng và phê phán gay gắt từ các nước
này. Từ năm 1994, Mỹ đã phải có những thay đổi của mình trong chính sách
đối ngoại đó là việc không gắn vấn đề nhân quyền với kinh tế, quân sự. Tuy
nhiên, Mỹ vẫn không từ bỏ điều này, sự độc lập tự chủ của ASEAN trong
việc giải quyết các vấn đề khu vực đã cho thấy những mâu thuẫn trong cách
nhìn nhận vấn đề nhân quyền giữa Mỹ và ASEAN .
Từ nửa sau thập niên 90, Mỹ tập trung sự chú ý trở lại Đông Nam Á.
Vai trò, vị thế của ASEAN ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Sự
phát triển và mở rộng ASEAN thành một đại gia đình gồm 10 quốc gia.
Trong bối cảnh đó, Mỹ vẫn muốn duy trì vai trò của của mình ở đây trên
lĩnh vực chính trị như việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền , khuyến khích
tôn trọng pháp luật, cạnh tranh chính trị, bầu cử công bằng tự do, xây dựng
xã hội công bằng…
An ninh là một trong ba trụ cột quan trọng trong việc xây dựng “Cộng
đồng Châu Á – Thái Bình Dương”, nhằm duy trì các lợi ích của Mỹ tại khu
vực đặc biệt trong quan hệ với ASEAN, Mỹ chia sẻ lợi ích với các nước
ASEAN trong việc hạn chế cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực. Để
thực hiện ý đồ của mình Mỹ tái khẳng định cam kết của mình với hai nước
Philippines và Thái Lan thông qua các cuộc tập trận song phương hay đa
phương . Để chia sẻ trách nhiệm, Mỹ khuyến khích Australia tiến hành cuộc
tập trận chung với các nước ASEAN. Để đảm bảo Mỹ có khả năng tiếp cận
khu vực một cách dễ dàng và thuận lợi, chính quyền Mỹ đã thương lượng với
các nhà lãnh đạo ASEAN cho phép Mỹ đặt các cơ sở hậu cần và sử chữa máy
bay của Mỹ và các nước Singapore, Malaysia, Indonesia. Tuy nhiên, những
hành động này đều gặp phải sự phản kháng gay gắt của ASEAN, không muốn
Mỹ đặt căn cứ quân sự trong khu vực của mình. Điều này cho thấy tính tự chủ
của ASEAN ngày càng tăng trong vấn đề an ninh khu vực. Thái Lan đã từ
chối đề nghị của Mỹ đặt các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, các nước
trong khu vực cũng tăng cường hợp tác với nhau đặc biệt là sáng kiến của
ASEAN trong việc biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân.
Năm 1995, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ năm họp tại BangKok
(Thái Lan) đã kí kết Hiệp ước khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân. Mỹ
không có phản ứng tích cực với hiệp ước này cho rằng phi phạm quyền tự do
đi lại trên biển do Liên Hợp Quốc quy định.
Đối với Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC),
Mỹ không chỉ coi đây là một diễn đàn kinh tế mà còn có ý định biến nó thành