LỜI CAM ĐOAN
i
LỜI CẢM ƠN
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU...........................................V
DANH MỤC CÁC BẢNG....................................................................................VI
DANH MỤC CÁC HÌNH.....................................................................................VI
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH TRONG VCHH........................................................................................3
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
VCHH BẰNG ĐƯỜNG BỘ CỦA VIJACO........................................................29
CHƯƠNG 3.CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
TRONG VCHH BẰNG ĐƯỜNG BỘ CỦA CÔNG TY VIJACO....................59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...............................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................68
iii
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt
Giải thích
VIJACO
Công ty TNHH vận tải quốc tế Nhật Việt
Tr đồng
Triệu đồng
DN
Doanh nghiệp
VCHH
Vận chuyển hàng hóa
KCN
Khu công nghiệp
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Phiếu điều tra đánh giá chất lượng dịch vụ
21
1.2
Đánh giá hoạt động Marketing 4P của doanh nghiệp
27
2.1
Cơ sở vật chất kỹ thuật của VIJACO
34
2.2
Tình hình nguồn vốn của công ty
36
2.3
Tình hình sử dụng nguồn vốn
36
2.4
2.5
2.6
Tình hình thực hiện chỉ tiêu lượng luân chuyển hàng hóa
VIJACO giai đoạn 2010-2014
Tình hình thực chỉ tiêu ngày xe tốt, ngày xe vận doanh, hệ số
ngày xe vận doanh VIJACO giai đoạn 2010-2014
Tình hình thực chỉ tiêu hệ số sử dụng quãng đường VIJACO giai
đoạn 2010-2014
38
38
40
2.7
Bảng cơ cấu lao động của VIJACO
41
2.8
Năng suất lao động của VIJACO giai đoạn 2010-2014
42
2.9
Đánh giá chất lượng dịch vụ của công ty
43
2.10
So sánh giá cả dịch vụ VIJACO với công ty Yusen
44
2.11
So sánh giá cả dịch vụ VIJACO với công ty Maerk Logistics
44
2.12
So sánh giá cả dịch vụ VIJACO với công ty SITC Logistics
45
2.13
So sánh giá cả dịch vụ VIJACO với công ty Logitem VN
45
2.14
Đánh giá năng lực thương hiệu của VIJACO năm 2014
47
2.15
đánh giá chiến lược Marketing 4P của VIJACO năm 2014
49
2.16
2.17
Kết quả thực hiện Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng thị phần từ năm
2010 đến năm 2014
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của VIJACO từ 20102014
DANH MỤC CÁC HÌNH
vi
51
53
Số đồ thị
Tên các hình vẽ
Trang
1.1
Marketing 4P
26
2.1
Biểu đồ vốn góp trong liên doanh VIJACO
29
2.2
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của VIJACO
32
2.3
Mạng lưới hoạt động của VIJACO
33
2.4
Tình hình thực chỉ tiêu hệ số sử dụng quãng đường VIJACO
giai đoạn 2010-2014
40
2.5
Thị phần các doanh nghiệp vận tải từ năm 2010-2014
50
2.6
Biểu đồ so sánh tốc độ tăng trưởng thị phần của các đối thủ
51
2.7
Biểu đồ giá trị sản lượng dịch vụ
54
vii
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Năm
trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới với gần 3200
km đường biển cộng với vị trí địa lý rất quan trọng trong khu vực Đông Nam Á
đấy là điều kiện thuận lợi để phát triển đường biển từ đó tạo điều kiện thuận lợi
cho ngành dịch vụ vận tải nói chung và vận tải bằng đường bộ nói riêng.
Dịch vụ vận tải hàng hóa bằng đường bộ có vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế, đóng vai trò là cầu nối giữa người tiêu thụ và người sản xuất, giữa
người nhập khẩu và người xuất khẩu, giữa người trong nước và người ngoài nước
do đó nhà nước Việt Nam đã có những chính sách để hỗ trợ tạo điều kiện cho dịch
vụ này phát triển.
Công ty TNHH Vận tải quốc tế Nhật Việt (VIJACO) hoạt động trên 20 năm
trong ngành vận tải và là một trong những liên doanh đầu tiên giữa các đối tác của
Việt Nam và Nhật bản, là viên gạch đầu tiên cho nền móng hợp tác đầu tư của Việt
Nam và Nhật Bản mạnh mẽ đến ngày hôm nay. Chính vì vậy mà đề tài “Biện
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ
của công ty vận tải quốc tế Nhật Việt” được chọn để nghiên cứu.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh trong VCHH bằng đường bộ của công ty Vận tải
quốc tế Nhật Việt, qua đó tìm ra những khó khăn bất cập, nguyên nhân ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh trong VCHH bằng đường bộ của công ty trên cơ sở đó đề
xuất các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong tương lai.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh trong VCHH bằng đường bộ của
công ty Vận tải quốc tế Nhật Việt
1
Phạm vi nghiên cứu:Nghiên cứu năng lực cạnh tranh trong VCHH của công
ty Vận tải quốc tế Nhật Việt giai đoạn 2010-2014.
4.Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên tài liệu tham khảo và số liệu của công ty luận văn sử dụng phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh và dự báo từ đó phân tích, tổng hợp để đưa ra
các biện pháp nâng cao năng lực vận chuyển của công ty.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh trong VCHH.
Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong VCHH
bằng đường bộ của công ty Vận tải quốc tế Nhật Việt để tìm ra các biện pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh của công ty giai đoạn 2015-2020
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài các mở đầu, kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong vận
chuyển hàng hóa
Chương 2:Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong VCHH bằng đường
bộ của công ty vận tải quốc tế Nhật Việt
Chương 3: Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong VCHH bằng
đường bộ của của công ty Vận tải quốc tế Nhật Việt
2
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH TRONG VCHH
1.1 Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
“Cạnh tranh” là một phạm trù kinh tế cơ bản. Điểm lại các lý thuyết cạnh
tranh trong lịch sử có thể thấy hai trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển và
trường phái hiện đại. Trường phái cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như Adam
Smith, John Stuart Mill, Darwin và C.Mác đã có những đóng góp nhất định trong
lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với
3 quan điểm tiếp cận: tiếp cận theo tổ chức ngành với đại diện là trường phái
Chicago và Harvard; tiếp cận tâm lý với đại diện là Meuger, Mises, Chumpeter,
Hayek thuộc học phái Viên; tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo” phát triển lý thuyết của
Tân cổ điển. Như vậy, cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau và có nhiều cách quan niệm khác nhau dưới các góc độ khác nhau:
i)Theo một định nghĩa được A. Lobe đưa ra từ gần một thế kỷ nay có thể
hiểu cạnh tranh là sự cố gắng của hai hay nhiều người thông qua những hành vi và
khả năng nhất định để cùng đạt được một mục đích [32].
ii)Khi bàn về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng nếu tự do cạnh tranh, các cá
nhân chèn ép nhau thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của
mình một cách chính xác. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có
động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự
cố gắng lớn nào. Như vậy, có thể hiểu rằng cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan
của con người, góp phần làm tăng của cải của nền kinh tế.
iii)Khi nghiên cứu về cạnh tranh, K. Marx cho rằng “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhận siêu ngạch" [25].
iv)Kinh tế học của P. Samuelson định nghĩa: “Cạnh tranh là sự tranh giành
thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các nhà doanh nghiệp" [45].
3
v)Từ điển rút gọn về kinh doanh định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua,
kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình" [1], tức là nâng cao
vị thế của người này và làm giảm vị thế của người khác.
vi)Theo Từ điển Bách khoa của Việt Nam thì “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ
cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất" [56].
vii)Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý về thể chế, về chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là
sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc
khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu
kinh doanh cụ thể " [68].
Ở Việt Nam, khi đề cập đến “cạnh tranh” người ta thường là vấn đề giành
lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ mua bán và đó là phương thức để giành lợi
nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương
thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên
trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng dẫn đến yếu tố thúc đẩy quá trình tích
lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp.
Mặc dù còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh,
song qua các định nghĩa trên có thể rút ra những nét chung về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua giữa một (hoặc một
nhóm) người nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.Cạnh
tranh nâng cao vị thế của người này và làm giảm vị thế của những người còn lại.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó
mà các bên đều muốn giành giật (như một cơ hội, một sản phẩm dịch vụ, một dự
án hay một thị trường, một khách hàng...) với mục đích cuối cùng là kiếm được lợi
nhuận cao.
4
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các
điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm
dịch vụ, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm dịch vụ, cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu
thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ), cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt,
cạnh tranh thông qua hình thức thanh toán.
Trong luận văn này tác giả sử dụng khái niệm cạnh tranh của P. Samuelson
định nghĩa: “Cạnh tranh là sự tranh giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa
các nhà doanh nghiệp”, từ đó đi sâu phân tích tình hình cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của công ty TNHH vận tải quốc tế Nhật-Việt.
1.1.2 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những
năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh
là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và
giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng
nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu
nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”.Định nghĩa này cũng được nhắc lại
trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994).Năm 1998,
Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp,
năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và
vào đúng thời điểm.Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất
và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”.
Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một
cách thống nhất. Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần
được gắn kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: cácgiá trị
chủ yếu của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp
các doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
5
Điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước, có nhiều cách quan niệm về năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp.Dưới đây là một số cách quan niệm về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp đáng chú ý.
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ
biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
so với các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng lực
cạnh tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới... Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế
có trích dẫn khái niệm năng lực cạnh tranh theo Từ điển Thuật Ngữ chính sách
thương mại (1997), theo đó, năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp
“không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng
lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có
hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng
lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục
tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợithế
cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu (2005) cũng có ý kiến tương tự:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có
khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
6
Theo tác giả Lê Đăng Doanh trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp thời hội nhập: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo
bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong
môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”[5, tr. 28].
Theo tác giả Tôn Thất Nguyễn Thiêm trong tác phẩm Thị trường, chiến
lược, cơ cấu nêu lên tầm quan trọng của việc gia tăng giá trị nội sinh và ngoại sinh
của doanh nghiệp, đây chính là năng lực cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp cố gắng
đạt được, là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các chiến lược kinh doanh của
mình[6, tr. 22].
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
với năng lực kinh doanh.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu
thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù
hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm này như Henricsson và các cộng sự (2004)
chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có nhiều định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo lường), đa
cấp (với các cấp độ khác nhau), phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính chất động
và là một quá trình. Ngoài ra, khi đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối cảnh
và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường tự
do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực cạnh tranh
đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh tranh. Trong điều
kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hóasố lượng hàng
hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần. Còn trong điều kiện kinh tế tri
thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh
nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do
vậy quan niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.
Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp, nhưng
lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh gay gắt, việc đưa ra
7
khái niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay là không đơn
giản.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành giữa
các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản xuất,
khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn của sản
phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương thức
cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và các phương
thức hiện đại - không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế cạnh tranh,
dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp như sau:Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì
và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới
tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh
tế cao và bền vững.
Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang tính
tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm
doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
Khái niệm lợi thế cạnh tranh
Một doanh nghiệp được xem là có lợi thế cạnh tranh khi tỷ lệ lợi nhuận của
nó cao hơn tỷ lệ bình quân trong ngành.Và doanh nghiệp có một lợi thế cạnh tranh
bền vững khi nó có thể duy trì tỷ lệ lợi nhuận cao trong một thời gian dài. Theo
Jack Welch, nếu không có lợi thế thì đừng cạnh tranh. Lợi thế là nền tảng cho sự
cạnh tranh.Chính vì vậy, lợi thế cạnh tranh là những gì làm cho doanh nghiệp nổi
bật, những cái mà các đối thủ cạnh tranh khác không có, doanh nghiệp đó sẽ hoạt
động tốt hơn những doanh nghiệp khác.Lợi thế cạnh tranh là yếu tố cần thiết cho
sự thành công và tồn tại lâu dài, hay khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh. Theo
Porter, lợi thế cạnh tranh (theo đó là lợi nhuận cao hơn) đến với các doanh nghiệp
nào có thể tạo ra giá trị vượt trội. Và cách thức để tạo ra giá trị vượt trội là hướng
8
đến việc giảm thấp chi phí kinh doanh và/ hoặc tạo khác biệt sản phẩm vì thế
khách hàng đánh giá nó cao hơn và sẵn lòng trả một mức giá tăng thêm. Có bốn
yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh là: hiệu quả, chất lượng, sự cải tiến và sự đáp ứng
khách hàng. Mỗi yếu tố đều có sự ảnh hưởng đến việc tạo ra sự khác biệt.Bốn yếu
tố này sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra giá trị cao hơn thông qua việc hạ thấp chi phí
hay tạo sự khác biệt về sản phẩm so với các đối thủ. Từ đó, doanh nghiệp có thể
làm tốt hơn đối thủ và có lợi thế cạnh tranh
1.1.3 Năng lực cạnh tranh trong VCHH
a. Khái niệm VCHH bằng đường bộ: Vận tải hàng hóa là một quy trình kỹ
thuật nhằm di chuyển vị trí của hàng hóa từ theo một lộ trình đã xác định từ trước
bằng phương tiện vận chuyển chuyên dùng.
b. Đặc điểm: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp VCHH có những đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu của khách hàng là
chuẩn mực đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp VCHH.Bởi lẽ, yêu cầu
của khách hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất, kinh doanh. Yêu cầu
tối thiểu của khách hàng trong VCHH phải an toàn, đúng thời gian, đúng địa điểm,
giá cả phù hợp.
Thứ hai, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng phải
là thực lực của doanh nghiệp vận chuyển.Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ
những yếu tố nội tại của doanh nghiệp và được thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp
vận chuyển.Thực lực thường thể hiện ở khả năng đáp ứng phương tiện vận chuyển
trong cùng thời điểm.
Thứ ba, nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp VCHH luôn hàm ý so
sánh với doanh nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị
trường.Muốn tạo nên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp VCHH thực thụ,
thực lực của doanh nghiệp phải tạo nên lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh
tranh.Chính nhờ lợi thế này, doanh nghiệp VCHH có thể giữ được khách hàng của
mình và lôi kéo khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
9
Theo tổng hợp các ý kiến trên thì khái niệm năng lực cạnh tranh trong
VCHH bằng đường bộ có thể phát biểu như sau: Năng lựccạnh tranh trong VCHH
bằng đường bộ là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong dịch vụ vận
chuyển, tạo ra những dịch vụ vận chuyển hấp dẫn người khách hàng nhằm thu
được lợi nhuận ngày càng cao, cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường và đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững.
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong VCHH
1.2.1 Các yếu tố môi trường vĩ mô
Một doanh nghiệp không tồn tại độc lập mà trong mối quan hệ hữu cơ với
chủ thế khác trong môi trường hoạt động của mình. Các yếu tố thuộc môi trường
bên ngoài doanh nghiệp có những tác động qua lại nhất định tới khả năng tồn tại và
phát triến của doanh nghiệp, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp có thế sẽ
thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triến của doanh nghiệp. Vì vậy khi phân tích năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần phân tích yếu tố môi trường vĩ mô.
-
Các yếu tố về kinh tế.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Vận
chuyển hàng hóa nói riêng. Các yếu tố kinh tế bao gồm một phạm vi rất rộng từ
các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa và các yếu
tố liên quan đến việc huy động và sử dụng các nguồn lực của các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ Vận chuyển hàng hóa để cung ứng các dịch vụ Vận chuyển
hàng hóa cho khách hàng. Các yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ Vận chuyển hàng hóa và các dịch vụ Vận chuyển hàng hóa là:
Tốc độ tăng trưởng của GDP; Lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng; Tỷ lệ lạm phát;
Tỷ giá hối đoái; Mức độ thất nghiệp; Cán cân thanh toán; Chính sách tài chính, tín
dụng; Kiểm soát về giá cả, tiền lương tối thiểu; Tiềm năng phát triển và gia tăng
đầu tư... Các yếu tố này ảnh hưởng đến phương thức và cách thức kinh doanh của
các doanh nghiệp. Sự thay đổi của các yếu tố này và tốc độ thay đổi, chu kỳ thay
đổi đều tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ đối với các hoạt động kinh doanh của doanh
10
nghiệp. Thậm chí còn có thể làm thay đổi cả mục tiêu, phương hướng và cả chiến
lược của doanh nghiệp.Trong thời gian vừa qua, tốc độ tăng trưởng hàng năm của
nước ta đều đạt trung bình trên 8%. Chính vì vậy càng kích thích việc đầu tư và mở
rộng quy mô của các doanh nghiệp khiến cho nhu cầu sử dụng các dịch vụ Vận
chuyển hàng hóa không ngừng tăng, đây là cơ hội cho phép các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ Vận chuyển hàng hóa mở rộng quy mô, sản phẩm dịch vụ Vận
chuyển hàng hóa cũng như thị trường của mình, cũng là cơ hội cho các doanh
nghiệp mới có thể ra nhập thị trường.
-
Yếu tố môi trường chính trị - pháp lý.
Hệ thống pháp luật và chính sách là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt
động sản xuất kinh doanh trên thị trường.Nó tạo ra khuôn khố hoạt động cho doanh
nghiệp, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.Vì vậy, tính ốn định
và chặt chẽ của nó tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Môi
trường pháp lý sẽ tạo ra một số thuận lợi cho một số doanh nghiệp này nhưng tạo
ra bất lợi cho doanh nghiệp khác.Việc nắm bắt kịp thời những thay đổi của các
chính sách để có những điều chỉnh nhằm thích nghi với điều kiện mới là một yếu
tố để doanh nghiệp thành công.
Các xu hướng phát triển trên thế giới có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh
của doanh nghiệp.
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá tác động đến tất cả các lĩnh vực của
các nước trên thế giới.Nó vừa thúc đẩy sự phát triển nhưng cũng vừa đem lại nhiều
thách thức và sức ép cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Xu hướng tự do hoá thương mại sẽ thúc đẩy cạnh tranh trong kinh doanh
ngày càng mạnh mẽ hơn. Xu hướng này làm cho thị trường có nhiều biến động dẫn
đến nhiều sự thay đổi trong tổ chức quản lý, cơ cấu đầu tư...
Xu hướng phát triến khoa học công nghệ trên thế giới cũng như trong khuôn
khố quốc gia đều ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực của doanh nghiệp.Hoạt động
trong những ngành có tốc độ phát triển về công nghệ cao thì công nghệ chính là
nguồn lực tạo ra sức mạnh cạnh tranh, là vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp. Do
11
đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có khả năng nắm bắt và đón đầu được sự phát triển
khoa học công nghệ, phải có kế hoạch đổi mới công nghệ đế nâng cao năng suất,
nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
VCHH bằng đường bộ chịu sự chi phối của luật đường bộ năm 2008.
-
Yếu tố văn hoá xã hội.
Các quan niệm về chất lượng cuộc sống, các trào lưu xã hội, sự ảnh hưởng
của các nền văn hoá cũng tác động nhiều đến hành vi tiêu dùng của người dân đối
với các dịch vụ công nghệ cao.
-
Yếu tố công nghệ
Trong thời đại khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, việc áp dụng các
tiến bộ này vào sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả ngày càng cao hơn.Các
doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa nghiên cứu và áp dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn
nhằm thực hiện dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.Sự phát
triển của thương mại điện tử đã đưa các doanh nghiệp tiên tiến đến việc ứng dụng
thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó đã làm cho chất
lượng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp cung ứng tăng lên rõ rệt
và sẽ mang lại sức cạnh tranh cao cho các doanh nghiệp có ứng dụng dịch vụ mới
vào kinh doanh.
-
Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên
Đối với sự phát triển của các dịch vụ Vận chuyển hàng hóa thì yếu tố cơ sở hạ tầng
và điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao
thông vận tải ( đường, phương tiện, bến bãi...), hệ thống thông tin, hệ thống bến
cảng nhà kho, điện nước... hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện thuận lợi cho
phát triển dịch vụ Vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là dịch vụ vận tải. Điều kiện tự
nhiên là yếu tố cần được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Vận chuyển hàng
hóa đặc biệt quan tâm. Bởi các yếu tố như nắng, mưa, hạn hán, lụt, dịch bệnh...ảnh
hưởng trực tiếp đến việc cung ứng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vận tải đường bộ vì
nếu điều kiện không thuận thì sẽ không thực hiện được dịch vụ này, thậm chí còn
12
gây thiệt hại lớn bởi rủi ro trong vận tải biển là rất cao. Bên cạnh đó cũng phải kể
đến ảnh hưởng của sự khan hiếm của các nguyên,nhiên vật liệu, sự gia tăng của chi
phí năng lượng...
1.2.2 Các yếu tố môi trường vi mô
-Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ Vận chuyển hàng hóa
Cạnh tranh trong ngành dịch vụ Vận chuyển hàng hóa càng gay gắt thì loại
hình dịch vụ Vận chuyển hàng hóa càng phong phú, chất lượng dịch vụ Vận chuyển
hàng hóa càng được nâng cao.Khi đề cập đến vấn đề cạnh tranh, các doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa phải xem xét xem đối thủ của mình là ai, số
lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh thế nào. Trong thời gian qua cùng với sự tăng
trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước là định hướng mở cửa kinh doanh dịch
vụ Vận chuyển hàng hóa. Số lượng các doanh nghiệp Vận chuyển hàng hóa được mở
ngày càng nhiều và dẫn đến cạnh tranh trong ngành ngày một gay gắt hơn không chỉ
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Vận chuyển hàng hóa trong nước mà còn có sự
góp mặt của nhiều doanh nghiệp Vận chuyển hàng hóa nước ngoài.
-Yếu tố khách hàng
Khách hàng chiếm vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa,
để hoạt động có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải bán được hàng tức là phải có
khách hàng thuê dịch vụ Vận chuyển hàng hóa.Khách hàng của các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ Vận chuyển hàng hóa chủ yếu là các doanh nghiệp.Các doanh
nghiệp này có nhu cầu sử dụng dịch vụ Vận chuyển hàng hóa lớn thì ngành dịch vụ
Vận chuyển hàng hóa mới phát triển được.Hiện nay không ít doanh nghiệp tự mình
thực hiện các hoạt động Vận chuyển hàng hóa mà không thuê dịch vụ ngoài.Vì
vậy, ngành dịch vụ Vận chuyển hàng hóa muốn phát triển thì phải cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh thấy được lợi ích to lớn của việc sử dụng dịch vụ Vận
chuyển hàng hóa.
-Đối thủ cạnh tranh tiềm năng
Đó là các đối thủ mới xuất hiện tham gia đội ngũ các nhà canh tranh mà các
13
doanh nghiệp cần dự đoán chuẩn xác để có cách đối phó.
-Đối thủ cạnh tranh ngẫu nhiên
Đó là sự xuất hiện các sản phẩm mới có tính năng thay thế từ các ngành
nghề khác do thành tựu khoa học công nghệ đem lại. Đây là đối thủ bất ngờ và rất
khó đối phó mà doanh nghiệp phải lường trước.nghiệp.
1.3 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong VCHH
1.3.1 Năng lực nguồn vốn
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng về vốn sẽ bị thôn tính bởi các đối thủ
khác mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường, doanh nghiệp không thể chiến thắng
được nếu nguồn lực tài chính yếu và bị động, chiến lược tài chính là một trong
những chiến lược quan trọng nhất để thực hiện chiến lược cạnh tranh tổng quát của
doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu, trả
lương cho lao động đều phải được tính toán dựa trên năng lực tài chính của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị
máy móc hiện đại thuê nguồn lao động chất lượng cao và có thể chấp nhận lỗ một
thời gian để cạnh tranh nhằm mục tiêu mở rộng thị trường. Do vậy năng lực tài
chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng như chỉ tiêu
hàng đầu để đánh giá quy mô doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa muốn cạnh tranh được trước hết phải
có đủ năng lực về tài chính.Tình hình tài chính của doanh nghiệp thế hiện sức mạnh
của doanh nghiệp trong cạnh tranh, vốn là một trong những điều kiện cần để doanh
nghiệp duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Do vậy khả năng huy động vốn và sử
dụng vốn hiệu quả sẽ làm cho năng lực tài chính của doanh nghiệp mạnh lên.
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh năng lực sử dụng vốn nhưng nhìn chung có hai
chỉ tiêu sau phản ánh đầy đủ về năng lực sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy
vòng số vòng quay càng lớn thì hiệu quả trong cạnh tranh càng cao. Công thức xác
định như sau:
14
Doanh thu
Vốn lưu động
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Vòng quay vốn lưu động =
(1.1)
Hiệu suất sử dụng vốn cố định đo lường việc sử dụng vốn cố định như thế nào. Nó
phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.Công thức
xác định:
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
(1.2)
- Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là chỉ tiêu đo lường mức sinh lời của đồng vốn.
Cũng như chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, người ta thường tính riêng rẽ
mối quan hệ trước thuế và lợi nhuận sau thuế với vốn kinh doanh.
Lợi nhuận trước thuế
Vốn kinh doanh
1.3.2 Năng lực phương tiện vận tải của công ty
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh =
(1.3)
Là khả năng vận chuyển hàng tốt chất lượng caođáp ứng được nhu cầu của
thị trường. Năng lực vận tải lớn sẽ đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng nó tạo ra uy
tín và sức cạnh tranh lớn cho doanh nghiệp.Năng lực vận chuyển của công ty vận
tải không chỉ đánh giá về số lượng phương tiện vận tải mà còn đánh giá hiệu quả
sử dụng phương tiện vận tải, các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực vận chuyển của
công ty.
a. Chỉ tiêu lượng luân chuyển hàng hóa
Chỉ tiêu này phản ánh bằng lượng hàng hóa vận chuyển trên một khoảng
cách nhất định.Chỉ tiêu này được tính bằng T.Km ký hiệu là P.
Cách tính như sau : P = Q. Lbq
(1.4)
Trong đó : Lbq là cự ly vận chuyển bình quân.
b. Chỉ tiêu ngày xe tốt, ngày xe vận doanh
Ngày xe tốt : Ngày xe tốt (ADT) là số ngày xe có tình trạng kỹ thuật tốt, sẵn sàng
tham gia vận chuyển.
Cách tính như sau :
Ngày xe tốt = ngày xe có – ngày xe nằm bảo dưỡng, sửa chữa
15
ADT = ADC – ADB
(1.5)
Trong đó : ADC là ngày xe có
ADB là ngày xe nằm bảo dưỡng, sửa chữa
Ngày xe vận doanh: Ngày xe vận doanh ( ADV) là những ngày xe có tham gia vận
chuyển không kể một ngày xe chạy nhiều hay ít.
Cách tính như sau :
ADV = ADT – ADK
(1.6)
Trong đó : ADT là ngày xe tốt
ADK là ngày xe khác ( bao gồm cả ngày xe nằm chờ đợi và hoạt động
khác)
Ngày xe có = ngày xe vận doanh + ngày xe khác + ngày xe nằm bảo dưỡng, sửa
chữa.
ADC = ADV + ADK + ADB
(1.7)
c. Chỉ tiêu hệ số sử dụng quãng đường β
Khi xe chạy từ nơi này đến nơi khác không phải lúc nào cũng có hàng có lúc xe
phải chạy không có hàng. Để phản ánh tỷ trọng phần quãng
đường xe có hàng hay so với tổng quãng đường xe chạy người ta dùng hệ số
sử dụng quãng đường.
Cách tính như sau : β = LC / Lchg
(1.8)
Trong đó : LC là quãng đường xe chạy có hàng
Lchg là quãng đường xe đã chạy của một xe.
Quãng đường xe đã chạy tính như sau :
Lchg = Lc –Lk + Lhd
(1.9)
Trong đó :
-Lc : Quãng đường xe chạy có hàng (km)
-Lk : Quãng đường xe chạy không hàng ( km)
-Lhd : Quãng đường xe chạy huy động, là quãng đường xe chạy từ gara đến nơi lấy
hàng đầu tiên và từ nơi dỡ hàng cuối cùng trong ngày trở về gara.
Hệ số sử dụng quãng đường β đánh giá mức độ xe hoạt động có ích khi lăn
16
bánh. Chỉ tiêu này ảnh hưởng đến năng suất cũng như giá thành vận chuyển, cho
nên nhiệm vụ quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện là nâng
cao chỉ tiêu này.
d. Hệ số sử dụng trọng tải (µt)
- Trong vận tải hàng hóa, chỉ tiêu này phản ánh việc sử dụng trọng tải xe,
nghĩa là đã chất lên xe bao nhiêu hàng so với trọng tải xe.
Cách tính như sau :
µt = qtt / qtk
(1.10)
Trong đó : qtt là khối lượng hàng đã xếp lên xe ( tấn)
qtk là trọng tải chở hàng của xe ( tấn)
e. Hệ số ngày xe vận doanh ( αvd)
Hệ số ngày xe vận doanh xác định mức độ sử dụng xe vào vận tải để có doanh thu
trong tổng số ngày xe có.
Cách tính như sau :
αvd = ADV/ADC
(1.11)
Muốn nâng cao hệ số ngày xe vận doanh phải nâng cao ngày xe tốt. Mặt
khác,phải khắc phục những yếu kém trong công tác tổ chức vận tải và thủ tục giấy
tờ của xe,người điều khiển phương tiện để giảm ngày xe chờ đợi.[1]
1.3.3 Năng lực về lao động
Con người là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển của DN.
Trình độ, chất lượng của đội ngũ lao động ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm
dịch vụ mà DN đang cung cấp. Con người phải có trình độ, cùng với lòng hăng say
làm việc thì mới tiếp cận, vận hành được những máy móc thiết bị công nghệ cao.
Đó là cơ sở để tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho DN. Dưới đây là các tiêu chí đánh
giá tình hình sử dụng lao động
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, việc sử dụng lao động hợp lý và hiệu quả,
tiết kiệm sức lao động đều là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Nếu không có ý thức sử dụng lao động hiệu quả, không có phương
17
pháp sử dụng tối ưu thì dù cho doanh nghiệp có một đội ngũ nhân lực tốt đến mấy
cũng không thể đạt được thành công.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của một doanh nghiệp, chúng ta sử dụng
các chỉ tiêu cơ bản về :
-Năng suất lao động tính bằng giá trị được xác định bằng giá trị sản phẩm
được sản suất ra trong một đơn vị thời gian:
Công thức W = Q/T trong đó
(1.12)
W là năng suất lao động tính bằng giá trị
Q là giá trị tổng sản lượng
T là tổng lao động hao phí để sản xuất ra sản phẩm
- Năng suất lao động hiểu theo cách khác là thời gian hao phí để tạo ra một
đơn vị sản phẩm.
Công thức : L = T/Q trong đó
(1.14)
L là lượng lao động hao phí cho một sản phẩm
T là thời gian lao động hao phí
Q là tổng sản lượng
1.3.4 Năng lực vềchất lượng dịch vụ và giá cả
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ chính là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm
trong điều kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật.Chất lượng sản phẩm được hình thành
từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.Doanh nghiệp
muốn cạnh tranh được với doanh nghiệp khác thì việc đảm bảo chất lượng sản
phẩm là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Giá cả là một tiêu chí quan trọng trong cạnh tranh, với doanh nghiệp phải có
những biện pháp tiết kiệm chi phí hạ thấp giá thành sản phẩm từ đó nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.
- Đánh giá chất lượng dịch vụ
Có nhiều phương pháp đánh giá chất lượng dịch vụ nhưng phương pháp hay
dùng nhất là dùng phiếu điều tra để đánh giá chất lượng dịch vụ của công ty, dưới
đây là một mẫu phiếu điều tra do tác giả đề xuất để đánh giá chất lượng dịch vụ
18