Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thời đại kim khí đắk lắk trong bối cảnh tiền sơ sử tây nguyên tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.2 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM BẢO TRÂM

THỜI ĐẠI KIM KHÍ ĐẮK LẮK
TRONG BỐI CẢNH TIỀN - SƠ SỬ TÂY NGUYÊN

Chuyên ngành: Khảo cổ
Mã số: 62 22 03 17

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI V
IỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGUYỄN KHẮC SỬ
2. TS. LƢƠNG THANH SƠN

Phản biện 1: PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Quốc Hùng
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt


Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, là địa bàn
chiến lược quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội và quân sự của Tây
Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
1.2. Trước năm 1975, trên đất Đắk Lắk chỉ có một vài phát hiện lẻ về
khảo cổ học. Từ năm 1975 đến nay tiềm năng khảo cổ học ở Đắk Lắk
mới bước đầu được khơi dậy. Một số công trình về khảo cổ học Tây
Nguyên đã được công bố. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công
trình chuyên khảo nào nói về thời đại Kim khí ở tỉnh Đắk Lắk.
1.3. Các di tích khảo cổ học Đắk Lắk khá đa dạng thuộc nhiều giai
đoạn, từ thời đại Đá cũ, Đá mới đến thời đại Kim khí.
1.4. Nghiên cứu các di tích, di vật thời đại Kim khí ở Đắk Lắk góp
phần vào việc hoàn thiện bức tranh phát triển văn hóa vùng nam Tây
Nguyên, là cơ sở cho công tác điều tra, phát hiện và qui hoạch bảo vệ,
phát huy di sản văn hóa khảo cổ trong tương lai.
Tác giả luận án sinh ra trên đất Đắk Lắk, được công tác ở Bảo tàng
Đắk Lắk, có nhiều cơ may tham gia điều tra, khảo sát, phát hiện và khai
quật một số di tích thời đại Kim khí tỉnh nhà, thường xuyên tiếp cận các
di vật khảo cổ trong kho để kiểm kê, bảo quản, trưng bày. Do vậy, nghiên
cứu sinh mạnh dạn chọn tiêu đề: “Thời đại Kim khí Đắk Lắk trong bối
cảnh tiền - sơ sử Tây Nguyên” làm đề tài nghiên cứu sinh, chuyên ngành

Khảo cổ học của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
2.1. Hệ thống hóa tư liệu điều tra, thám sát và khai quật các di tích
thời đại Kim khí ở Đắk Lắk; các công trình nghiên cứu khảo cổ học liên
quan đến đề tài này.
2.2. Nghiên cứu các di tích và di vật khảo cổ thời đại Kim khí Đắk
Lắk góp phần làm rõ đặc trưng, tính chất, niên đại và các giai đoạn phát
triển thời đại Kim khí Đắk Lắk.
2.3. Trên cơ sở phân tích so sánh các di tích và di vật thời đại Kim
khí Đắk Lắk với các tỉnh Tây Nguyên, với một số tỉnh ven biển liền kề ở
Trung Bộ và ở miền Đông Nam Bộ, bước đầu xác định vị trí thời đại
Kim khí Đắk Lắk trong bối cảnh rộng hơn.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣ ng nghiên c u
- Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các di tích đã được thám
sát, khai quật thuộc thời đại Kim khí ở Đắk Lắk, gồm 16 di tích. Trong
1


số đó có 5 di tích đã được khai quật; 11 địa điểm được phát hiện, thám
sát. Ngoài ra còn có một số sưu tập phát hiện lẻ đáng chú ý như: đàn đá,
trống đồng phát hiện ngẫu nhiên...
- Ngoài ra, luận án c n tham khảo tài liệu về các di tích thời đại Kim
khí ở Tây Nguyên, miền Trung và Nam Bộ nhằm so sánh, đối chiếu về
các đặc trưng di tích, di vật thời đại Kim khí ở Đắk Lắk với các vùng
miền khác trong quá khứ.
- Về phạm vi vấn đề chính mà luận án đi sâu nghiên cứu là: xác định
đặc trưng, tính chất, niên đại, các giai đoạn phát triển của các di tích, di
vật thuộc thời đại Kim khí ở Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi nghiên c u: Về không gian: tỉnh Đắk Lắk; có mở rộng

ra một số tỉnh liền kề khi phân tích so sánh, đặc biệt là Tây Nguyên. Về
thời gian: Nh ng di tích, di vật thuộc thời đại Kim khí ở Đắk Lắk.
3.3. Nguồn tƣ liệu sử dụng trong luận án là các sưu tập hiện vật
hiện có trong Bảo tàng Đắk Lắk, các hồ sơ khai quật, các bài viết trên tạp
chí Khảo cổ học và Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học xuất
bản hàng năm, các đề tài nghiên cứu khoa học đã công bố và một số bài
viết đăng trên tạp chí khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến luận
án.
4. Phƣơng pháp nghiên c u
4.1. Luận án s d ng các phương pháp nghiên cứu truyền thống
trong khảo cổ học như: điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ; phương
pháp đo, v , ch p ảnh, miêu tả di tích và di vật điển hình; phương pháp
thống kê, phân loại di vật; phân tích so sánh… nhằm làm rõ hơn đặc
trưng di tích và di vật.
4.2. Luận án s d ng phương pháp tiếp cận liên ngành, đa ngành
như: địa - khảo cổ, địa - văn hóa, khảo cổ - nhân học so sánh và ngôn
ng - tộc người. Luận án s d ng một số kết quả nghiên cứu của khoa
học tự nhiên liên quan đến di tích và di vật thời đại Kim khí như phân
tích niên đại tuyệt đối (C14); phân tích bào t phấn hoa; phân tích thành
phần thạch học trong gốm bằng soi lát cắt mỏng.
4.3. Luận án vận d ng cơ sở lý luận, phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch s để phân tích các thông tin tư liệu thu thập được,
phác thảo diện mạo kinh tế - văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân thời
đại Kim khí ở Đắk Lắk.
5. MỘT SỐ KHÁI NIỆM SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Trong phần này, chúng tôi đã đưa ra một số khái niệm, quan niệm,
nhận định về một số thuật ng được s d ng trong luận án như: Thời đại

2



Kim khí, Đặc trưng di tích và di vật, Phân công lao động và phân công
lao động xã hội, Cơ cấu kinh tế - xã hội, Văn hóa và văn minh…
6. ĐÓNG GÓP KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
- Luận án đã phân tích, thống kê, khảo tả các di tích - di vật thời đại
Kim khí hiện biết ở tỉnh Đắk Lắk từ trước đến nay, cung cấp thông tin tư
liệu khách quan, cập nhật và có hệ thống về thời đại Kim khí ở Đắk Lắk
cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy và quản lý văn hóa ở địa phương.
- Luận án bước đầu phác thảo bức tranh toàn cảnh về kinh tế - văn
hóa - xã hội thời đại Kim khí ở Đắk Lắk, xác định được vị trí của thời đại
Kim khí ở Đắk Lắk trong bối cảnh rộng hơn.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học cho việc đề xuất
giải pháp, định hướng sưu tầm, bảo quản, trưng bày ở Bảo tàng Đắk Lắk;
đồng thời gợi mở định hướng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa thời địa Kim khí Đắk Lắk trong tương lai.
7. CƠ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu (9 trang) và kết luận (2 trang); đề tài luận án có
ba chương gồm 131 trang (từ trang 10 đến trang 140):
Chương 1. Tổng quan tư liệu (33 trang);
Chương 2. Đặc trưng di tích và di vật - Đôi nét phác thảo về lịch s Văn hóa cư dân thời đại Kim khí ở Đắk Lắk (64 trang);
Chương 3. Thời đại Kim khí Đắk Lắk trong bối rộng hơn (34 trang).
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TƢ LIỆU
1.1. Vài nét về địa văn hóa tỉnh Đắk Lắk
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm cao nguyên Nam Trung Bộ,
phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây
Nam giáp tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh
H a, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 70

km. Tọa độ địa lí 11045’ - 13025’ vĩ độ Bắc và 107012’ - 108054’ kinh
độ Đông. Đắk Lắk có diện tích tự nhiên 13.125,37km², chiếm 3,9% diện
tích tự nhiên cả nước Việt Nam.
1.1.1.2. Địa chất - địa hình
Phần lớn địa bàn tỉnh Đắk Lắk thuộc sườn phía tây nam dãy Trường
Sơn nên địa hình núi cao chiếm 35% diện tích tự nhiên, tập trung ở phía
nam và đông nam tỉnh, cao nguyên bằng phẳng nằm ở gi a tỉnh. Các nhà
địa chất, địa lý đã chia Tây Nguyên thành ba khu vực địa lý gồm: khu
3


Kon Tum - Nam Nghĩa; khu Đắk Lắk - Phú Bình và khu cực Nam Trung
Bộ, với 21 tiểu vùng địa lý. Trong đó các di tích khảo cổ tiền s Đắk Lắk
tập trung mật độ cao ở các tiểu vùng địa lý: cao nguyên Buôn Ma Thuột,
cao nguyên M’Đrắk, trũng Krông Pắc - Lắk thuộc khu vực địa lý Đắk
Lắk - Phú Bình.
1.1.1.3. Các đơn vị hành chính của Đắk Lắk gồm 1 thành phố, 1 thị
xã và 13 huyện (với 184 xã, phường và thị trấn): Thành phố Buôn Ma
Thuột, thị xã Buôn Hồ, huyện: Buôn Đôn, Cư Kuin, Cư M’gar, Ea
H’Leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Bông, Krông Búk, Krông Pắc, Lắk,
M’Đrắk, Krông Ana, Krông Năng.
1.1.1.4. Khí hậu - thuỷ văn:
Khí hậu: Đắk Lắk nằm ở trung tâm cao nguyên Nam Trung Bộ, phía
Tây Trường Sơn, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Vì vậy
khí hậu Đắk Lắk vừa mang nh ng đặc trưng chung của vùng chịu ảnh
hưởng của gió mùa vừa có nh ng đặc trưng riêng của cao nguyên do độ
cao, địa hình chi phối. Khí hậu Đắk Lắk có hai mùa rõ rệt: mùa khô và
mùa mưa.
Thủy văn: Ở Đắk Lắk có mạng lưới sông suối rất dày với một số
sông chính như sông Krông H’Năng, sông Ea H’Leo, sông Đồng Nai,

sông Sê-rê-pốk… Tuy là một tỉnh cao nguyên nhưng ở đây có đến trên
500 hồ nước tự nhiên và nhân tạo lớn nhỏ với 47.000 ha mặt nước.
1.1.1.5. Động vật - Thực vật:
Đắk Lắk nổi tiếng với Vườn quốc gia Yok Đôn, một trong nh ng
Vườn quốc gia rộng nhất nước ta với diện tích 115.500ha. Ngoài ra còn
có 4 khu rừng đặc d ng. Đắk Lắk không chỉ có nh ng thảm rừng sinh
thái với hơn 3 nghìn loài cây rừng mà c n nổi tiếng với tài nguyên động
vật rừng phong phú, đa dạng, mang tính đặc h u cao, với hơn 105 loài.
1.1.2. Đặc điểm hành chính - Dân số - Dân cư
1.1.2.1. Đặc điểm hành chính
Lịch s hình thành: Tỉnh Đắk Lắk được thành lập theo Nghị định
ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương và tách khỏi
Lào, đặt dưới quyền giám sát và quản trị của Khâm sứ Trung Kỳ. Từ năm
1913 thì Đắk Lắk thuộc quyền kiểm soát của các chính quyền phong
kiến. Từ sau giải phóng 1976, tỉnh Đắk Lắk của nước Việt Nam thống
nhất hình thành từ hai tỉnh Darlac và Quảng Đức, có diện tích lớn thứ hai
Việt Nam sau tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Từ 1 tháng 1 năm 2004, Đắk Lắk
lại được chia thành hai tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông.
1.1.2.2. Dân cư - dân tộc

4


Nằm ở ngã ba của vùng Đông Dương, Đắk Lắk là địa bàn giao lưu
văn hóa của nhiều dân tộc anh em. Ngày nay, ở Đắk Lắk có người của 45
dân tộc (2015). Ngoài 3 dân tộc bản địa là Êđê, Mnông và Gia rai thuộc
nhóm ngôn ng Malayo - Polynesien và Môn - Khmer, ở đây c n có các
cư dân từ nơi khác chuyển đến như Tày, Nùng, Thái, Mường, H’mông…,
đông nhất là người Kinh.
1.2. Tình hình phát hiện, nghiên c u

1.2.1. Tình hình nghiên cứu khảo cổ học Tây Nguyên
Lịch s phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học Tây Nguyên được chia
làm 2 giai đoạn: trước năm 1975 và từ năm 1975 đến nay.
1.2.1.1. Giai đoạn 1 (Từ năm 1975 trở về trước)
Nh ng phát hiện sớm nhất về khảo cổ ở Tây Nguyên được biết vào
nh ng năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX do các giáo sĩ và sĩ quan
người Pháp thực hiện. Từ năm 1973, sau cuộc điền dã của Hoàng Xuân
Chinh và Nguyễn Khắc S đã phát hiện thêm một số địa điểm khảo cổ
đáng chú ý. Trên cơ sở nh ng sưu tập và phát hiện lẻ trước năm 1975, đã
có một số nghiên cứu đáng chú ý, tuy nhiên nh ng nhận định chỉ mang
tính giả thiết, bởi nh ng cứ liệu về khảo cổ học Tây Nguyên thu được
thời kì này c n ít, lẻ tẻ, chưa được khai quật và nghiên cứu có hệ thống.
1.2.1.2. Giai đoạn 2 (Từ năm 1975 đến nay)
Sau ngày miền Nam giải phóng (năm 1975), khảo cổ học miền Nam
nói chung, Tây Nguyên nói riêng mới có điều kiện phát triển.
- Trên đất tỉnh Gia Lai có 7 cuộc khai quật đáng chú ý: địa điểm Biển
Hồ (1993); di chỉ Trà Dôm (1993); di chỉ Thôn Bảy (2001); di chỉ xưởng Taipêr (2002); di chỉ Làng Ngol (2003); di chỉ Ia Mơr (2008); địa
điểm An Khê (2015, 2016).
- Trên đất Kon Tum đã có 10 cuộc khai quật lớn, đó là khai quật di
chỉ Lung Leng ở vùng long hồ thủy điện Ialy (1999 và 2001) và khai quật
9 địa điểm vùng l ng hồ thủy điện Plei Krông (2005-2006).
- Ở Đắk Nông mới có 2 địa điểm được khai quật là di chỉ đồi Nghĩa
Trang (huyện Đăk R’Lấp) (1995) và địa điểm Thôn Tám (khai quật 2 lần
vào các năm 2009 và 2012).
- Trên đất Lâm Đồng có các cuộc khai quật: các di tích mộ cổ Đại
Lào, Đại Làng; di tích kiến trúc cổ Cát Tiên (khai quật 6 lần từ 1994 đến
2003); di chỉ Kim khí Phù Mỹ (khai quật 2 lần 1998 và 2007); di chỉ
công xưởng chế tác đá Thôn Bốn (2007) và di chỉ công xưởng chế tác đá
Phúc Hưng (2010).


5


- Trên đất tỉnh Đắk Lắk có các cuộc khai quật: di chỉ Buôn Triết
(1995), di chỉ D’ha Prong (2002); di chỉ - xưởng Chư K’tur (2003); di chỉ
Buôn M’râu (2007); di chỉ Buôn Kiều (2015).
1.2.2. Tình hình phát hiện và khai quật các di tích khảo cổ học thời
đại Kim khí ở Đắk Lắk
1.2.2.1. Phát hiện lẻ:
- Đàn đá: Cho đến nay ở Đắk Lắk đã phát hiện được 2 bộ đàn đá, thứ
nhất là bộ đàn đá Ndut Liêng Krăk (làng Sar Luk, xã Krông Nô, huyện
Lắk) phát hiện năm 1949, hiện đang trưng bày ở Pháp. Thứ hai là bộ đàn
đá Chư K’plông phát hiện tháng 3-2008, hiện đang trưng bày tại chùa
Hoa Lâm (Buôn Ma Thuột).
- Bàn đập vỏ cây ở Buôn Kiều (Krông Bông): Tháng 6/2015 trong
quá trình khảo sát để tiến hành khai quật di chỉ Buôn Kiều chúng tôi đã
sưu tầm được 8 bàn đập vỏ cây.
- Sưu tập rìu đá H a Thắng (Buôn Ma Thuột): được khảo sát vào
tháng 8/2015, gồm: 6 rìu mài có vai, 10 rìu mài tứ giác, 3 rìu ghè đ o tứ
giác, 2 cái đ c, 1 dao/nạo/cắt, 1 bàn mài trong, 1 mảnh vỡ công c , 1
mảnh vỡ đá có lỗ cùng một số mảnh gốm.
- Công cụ, vũ khí bằng đồng: Trên đất Đắk Lắk đã phát hiện được 5
rìu đồng và 1 qua đồng.
- Trống đồng: Tính đến nay, Đắk Lắk đã tìm thấy 16 trống đồng, là
tỉnh tìm thấy nhiều trống nhất Tây Nguyên, trong đó phần lớn là trống
Đông Sơn, riêng lưu gi tại Bảo tàng Đắk Lắk có 14 trống. Trong số đó,
9 trống được xếp vào loại I Heger, 2 trống thuộc loại II Heger; 3 trống
thuộc loại III Heger. Trong luận án chỉ đề cập đến nh ng trống loại I
Heger.
1.2.2.2. Các địa điểm phát hiện, thám sát

- Địa điểm Hòa Hiệp ở xã H a Hiệp, huyện Cư Kuin: sưu tập gồm 3
rìu đá mài toàn thân, 3 nồi gốm nguyên kích thước rất nhỏ và 1 rìu đồng.
- Địa điểm Ea Hning ở xã Cư Ê Wi, huyện Cư Kuin: phát hiện năm
2001 và xác minh năm 2002, phát hiện 218 hiện vật đồng, 1 rìu tứ giác
bằng đá mài toàn thân, 1 bàn mài lõm bằng sa thạch, 1 h n ghè và một số
mảnh gốm đất nung khá tiến bộ.
- Địa điểm Thôn Ba ở xã Ea Kao, Tp. Buôn Ma Thuột có diện tích
rộng 0,5ha. Khảo sát năm 2002, chưa thấy tầng văn hóa, nhưng thu thập
trên bề mặt được 17 công c đá, 3 chân đế đồ gốm và 27 mảnh gốm thô..
- Địa điểm Cao Thắng ở xã Ea Kao, Tp. Buôn Ma Thuột, rộng
0,5ha, khảo sát năm 1999, thu được 18 công c đá và một số mảnh gốm
thô.
6


- Địa điểm Ea Tiêu ở xã H a Thắng, Tp. Buôn Ma Thuột: khảo sát
năm 2004, thu được 1 cuốc đá, 2 rìu mài toàn thân và một số mảnh gốm
thô.
- Địa điểm Tsham A ở xã Ea H’Leo, huyện Ea H’Leo, rộng 1ha, đào
4 hố thám sát vào năm 2002, hiện vật đá giống di chỉ Chư K’tur, đồ gốm
giống gốm tìm thấy ở các địa điểm D’ha Prong, Thôn Ba và Cao Thắng.
- Địa điểm Ea Gar ở xã Cư Ni, huyện Ea Kar: tìm thấy 7 cuốc đá và
1 bàn mài trong hố đất đen rộng 3,5 x 4m, sâu 1m. Năm 2002, đào thám
sát, phát hiện được 8 lưỡi rìu và 1 bàn mài.
- Di tích Thanh Sơn ở thôn Thanh Sơn, xã Xuân Phú, huyện Ea Kar;
phát hiện năm 2003. Bề mặt di tích có khá nhiều phác vật rìu bôn, mảnh
tước nằm rải rác trên bề mặt. Thanh Sơn vừa là nơi khai thác nguyên liệu
opal vừa là nơi chế tác các phác vật dạng sơ chế.
- Di tích Bản Thái ở thôn 7B, xã Xuân Phú, huyện Ea Kar được phát
hiện năm 2003. Phạm vi phân bố rộng khoảng 20.000m2, trên bề mặt rẫy

tập trung tương đối dày đặc đá nguyên liệu, hạch đá và mảnh tước, bàn
mài, đá hình bánh xe. Cư dân cổ nơi đây đã khai thác nguồn nguyên liệu
đá lộ thiên để chế tác công c lao động.
- Di chỉ Xuân Vĩnh ở xã Phú Xuân, huyện Krông Năng. Di chỉ rộng
khoảng 80.000m2. Năm 2007, mở 6 hố thám sát với tổng diện tích
15.8m2. Thu được 3.678 đơn vị hiện vật trong đó 3.644 đơn vị là mảnh
gốm các loại, số c n lại là công c đá, mảnh tước, mảnh vỡ của công c
đá và một số mảnh vỡ của dọi xe sợi, mảnh bàn mài. Đây là di chỉ cư trú
- mộ táng.
- Buôn Hàng Năm ở xã Yang Mao, huyện Krông Bông: di chỉ được
phát hiện năm 2014 và tiến hành đào thám sát năm 2015 diện tích 8m2.
Kết quả thu được 18.025 đơn vị hiện vật (269 hiện vật có số đăng ký) và
16 mảnh gốm.
1.2.2.3. Các địa điểm khai quật
- Địa điểm Buôn Triết: ở thôn Đoàn Kết 1, xã Đoàn Kết, huyện Lắk.
Di chỉ được thám sát năm 1993 và khai quật năm 1994 nhưng thu được
số lượng hiện vật không nhiều. Đến năm 2002, khảo sát thu thập thêm 36
hiện vật đá và 120 mảnh gốm.
- Di tích D’ha Prong nằm ở thôn Bảy, xã Chư Ea Bur, Tp. Buôn Ma
Thuột. Di chỉ được phát hiện và đào 2 hố thám sát đầu năm 2002 và khai
quật năm 2003 với diện tích 81,5m2. Kết quả khai quật: 9 bếp, 2 mộ, 195
hiện vật đá, 1062 mảnh gốm.
- Di tích Buôn M’râu ở xã H a Tiến, huyện Krông Pắc. Di tích phân
bố rộng gần 10.000m2. Di chỉ được phát hiện vào năm 2001, khảo sát
7


năm 2002 - 2003 và khai quật năm 2007 với diện tích 48m2. Kết quả khai
quật: 5 mộ, 236 công c lao động, 6 đồ gốm có thể ph c nguyên và
18.959 mảnh gốm, 2 mảnh khuôn đúc đồng.

- Di tích Chư K’tur ở xã Xuân Phú, huyện Ea Kar, phân bố rộng trên
10.000m2. Năm 2000 - 2001 thám sát, đến năm 2002 di chỉ được khai
quật 150m2, thu được 300 đồ đá, trên 1 vạn mảnh tước, cùng 200 mảnh
gốm.
- Di chỉ Buôn Kiều ở xã Yang Mao, huyện Krông Bông: di chỉ được
phát hiện năm 2014 và khai quật năm 2015 với 2 hố có diện tích 67m2,
phát hiện được 2 mộ táng hiện đại, 1 hố đất đen cùng 176 hiện vật đá,
hơn 300 đá nguyên liệu, gần 4.000 mảnh tước và hơn 200 mảnh gốm.
1.2.3. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài và vấn đề đặt ra
1.2.3.1. Nh ng nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Liên quan đến đề tài này, ở nước ta, đã có một số công trình nghiên
cứu, đề tài khoa học cấp bộ, các thông báo, báo cáo về việc phát hiện,
thám sát, khai quật các di tích thời đại Kim khí ở Đắk Lắk. Tuy nhiên
hầu hết các nhà nghiên cứu đều đưa ra nhận định chung chung, xếp các
di tích đã khai quật này vào hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ Kim khí mà không có
một sự tách bạch rõ ràng gi a Đá mới và Kim khí, chưa có mẫu phân tích
niên đại C14 nào để cho kết quả chính xác. Chúng tôi đã dùng nh ng luận
cứ của mình để xác minh lại chính xác tính chất cũng như niên đại của di
tích nhằm khẳng định sự tồn tại của thời đại Kim khí của Đắk Lắk.
1.2.3.2. Nh ng vấn đề đặt ra cho luận án
Luận án s tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu các di tích và di vật khảo cổ thời đại Kim khí Đắk Lắk
và các sưu tập khác góp phần làm rõ đặc trưng, tính chất các di tích và di
vật thời đại Kim khí Đắk Lắk, niên đại và các giai đoạn phát triển.
- Bước đầu xác định vị trí thời đại Kim khí Đắk Lắk trong bối cảnh
rộng hơn. Phác thảo đôi nét bức tranh về đời sống cư dân thời đại Kim
khí Đắk Lắk.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn các di tích khảo cổ đang
đứng trước nguy cơ xóa sổ, đồng thời phát huy tác d ng trưng bày tại
Bảo tàng Đắk Lắk.

1.3. Tiểu kết
Chương một trình bày nh ng nét cơ bản về địa văn hóa tỉnh Đắk Lắk,
bao gồm điều kiện tự nhiên, đặc điểm hành chính, dân số, dân cư của tỉnh
Đắk Lắk để chúng ta có thể hình dung rõ hơn về vùng đất nằm trong
phạm vi nghiên cứu chính của đề tài, đồng thời thấy được mối quan hệ
tương quan tất yếu gi a tự nhiên và con người từ thời Tiền sơ s đến nay.
8


Phần này c n trình bày nh ng nét khái quát nhất về tình hình phát
hiện, thám sát, khai quật cũng như nghiên cứu về các di tích thời đại kim
khí trên đất Đắk Lắk. Mặc dù số lượng di tích và di vật chưa phong phú
so với các tỉnh khác, song các vết tích thời đại Kim khí Đắk Lắk thật sự
là bằng chứng xác nhận, cư dân cổ ở Đắk Lắk đã bước vào thời đại Kim
khí, ở trình độ cao hơn hẳn so với cư dân thời đại Đá mới vùng này.
Trong chương này, luận án đã hệ thống hóa một số luận điểm chính
về khảo cổ học thời đại Kim khí ở Đắk Lắk, ghi nhận nh ng vấn đề lớn,
cơ bản về thời đại Kim Khí Đắk Lắk đã được giải quyết, đồng thời mạnh
dạn nêu lên nh ng vấn đề đặt ra cho luận án này cần đi sâu giải quyết.
Chƣơng 2
ĐẶC TRƢNG DI TÍCH VÀ DI VẬT - ĐÔI NÉT PHÁC THẢO VỀ
LỊCH SỬ - VĂN HÓA CƢ DÂN THỜI ĐẠI KIM KHÍ Ở ĐẮK LẮK
2.1. Đặc trƣng di tích và di vật
2.1.1. Đặc trưng di tích
2.1.1.1. Phân bố di tích
- Các di tích thời đại Kim khí ở Đắk Lắk phân bố trên 3 tiểu địa hình
tự nhiên của Đắk Lắk:
+ Vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột, tiêu biểu là các di tích D’ha
Prong, Thôn Ba, Cao Thắng, Ea Tiêu, Ea Gar và Tsham A. Đặc trưng đồ
đá ở vùng này là sự có mặt chủ yếu của rìu bôn hình thang, kích thước

nhỏ, thân dài và khá dày, được làm từ đá basalt biến chất. Đồ gốm khá
thô, hoa văn trang trí ấn lỗ tr n thành hàng, văn vạch hình ô vuông,
khuông nhạc, sóng nước, ô trám. Ngoài ra,ở đây c n phát hiện rìu đồng.
+ Vùng phía Bắc và Đông Bắc của Đắk Lắk: Tiêu biểu là các di chỉ
Chư K’tur, Thanh Sơn, Bản Thái và Xuân Vĩnh thuộc cao nguyên
M’Đrắk, nơi tổ hợp di vật đá phổ biến là rìu bôn có vai vuông, kích
thước nhỏ, làm từ đá opal; đồ gốm thô, màu nâu đỏ, hoa văn trang trí là
văn in chấm. Đây là địa bàn phát hiện được nhiều trống đồng nhất, gồm
11 trống đồng Đông Sơn và cũng là nơi tìm thấy qua đồng duy nhất ở
Đắk Lắk.
+ Vùng trũng Krông Pắc - Lắk: Đây là khu vực tồn tại phổ biến
nh ng chiếc cuốc đá, rìu bôn đá có kích thước lớn, thân hình thang. Đây
cũng là địa bàn tìm thấy nhiều di vật Kim khí như rìu đồng ở Buôn
M’râu, Ea Hning, trống đồng ở Ea Kênh, ở H a An và 218 di vật đồng
hình mũi tên có ngạnh ở H a Hiệp.
- Các di chỉ khảo cổ học thời đại Kim khí Đắk Lắk phân bố chủ yếu
ven hồ nước hoặc các sông suối: Trong hệ thống Sê-rê-pốk đã phát hiện
9


được hơn 30 địa điểm khảo cổ học tiền s , trong đó có một số công
xưởng chế tác đá; Trong một nhánh hợp lưu của Ea H’Leo và Ea Súp
(Đắk Lắk) đã phát hiện công xưởng Tsham A; Ở thượng nguồn sông
Krông Năng - một nhánh lớn đổ vào sông Ba, thuộc địa phận huyện Ea
Kar cũng đã phát hiện nhóm di tích công xưởng Chư K’tur, Thanh Sơn,
Bản Thái; phân bố trong địa hình vùng l ng chảo hẹp bán bình nguyên
xen k đồi núi thấp.
2.1.1.2. Địa tầng
Địa tầng các di tích thời đại Kim khí ở Đắk Lắk tương đối đồng nhất,
được cấu tạo từ lớp đất basalt màu nâu đỏ cứng, có chứa các di tích và di

vật. Tầng văn hóa dày khoảng 40 - 50cm, trong đó hầu như không phát
hiện dấu tích thực vật hay di cốt người, dấu vết than tro cũng rất ít, gây
khó khăn cho việc nghiên cứu chủ nhân, niên đại và tính chất của di tích.
2.1.1.3. Các di tích hố đất đen, bếp, mộ táng
- Di tích hố đất đen: là nh ng lỗ đất đen có miệng tr n, đường kính
trung bình khoảng 20cm. Đất trong các lỗ này thường có màu xám đen
hơn đất trong tầng văn hóa, đôi khi c n lẫn mảnh tre, nứa. Đó có thể là
dấu vết chân cột của kiến trúc cổ của cư dân nguyên thủy. Dựa vào kích
thước, cấu trúc, thành phần di vật trong hố đất đen có thể xác định chức
năng của chúng là lỗ chân cột hay hố rác bếp.
- Di tích bếp lửa: phát hiện được trong hầu hết các di tích ở Đắk Lắk.
Bếp thường có hình tr n hoặc gần tr n, có đá kê hoặc không có đá kê,
lớp than tro hoặc đất cháy dày ở gi a và mỏng dần về xung quanh. Trong
khu vực bếp đôi khi tìm thấy nh ng mảnh gốm, công c đá. Dựa vào cấu
trúc, hình dáng, kích thước và các di tồn c n trong khu vực bếp, có thể
phân chia bếp thành 2 loại: Loại 1 được cấu tạo bởi một vùng đất bị nung
đỏ; Loại 2 được cấu tạo bởi nh ng tảng đá.
- Di tích mộ táng trong các di tích ở Đắk Lắk ít về số lượng, không rõ
biên mộ, hầu như không c n di cốt, đồ tùy tàng trong mộ không nhiều.
Mộ táng trong các di tích thời đại Kim khí Đắk Lắk thường là mộ quan
tài gốm, song phần lớn đồ gốm không c n nguyên vẹn. Một số mộ có đá
đánh dấu mộ, xung quanh một số mộ có dấu vết hố chân cột hoặc có
chèn đá xung quanh đáy mộ, có thể liên quan đến nhà mồ. Dựa vào cấu
trúc, có thể chia mộ làm 2 loại chính là loại mộ quan tài gốm và mộ đất.
Mộ quan tài gốm tìm được 8 chiếc, có các dạng: mộ nồi v không có
nắp đậy (2 mộ), mộ nồi v có nắp đậy (3 mộ) và mộ nồi v úp nhau (3
mộ). Mộ nồi v có thân hình cầu đáy tr n hoặc bằng, thân phình rộng
phần đáy, vai hẹp, là dạng nồi v , kích thước trung bình cao khoảng 20 40cm. Dạng mộ này có sự khác nhau gi a các địa điểm về kiểu dáng và
10



kích thước, có loại có nắp đậy dạng hình nón c t, hoặc dạng nồi nông
l ng... Đa phần nh ng nồi v được s d ng như nh ng quan tài có kiểu
dáng giống nh ng nồi gốm được s d ng hàng ngày được tìm thấy trong
các khu mộ táng và cư trú, tuy nhiên kích cỡ của nh ng nồi v này lại
lớn hơn hẳn nh ng đồ gốm gia d ng. Loại quan tài gốm tìm được tổng số
8 mộ, trong đó: mộ nồi v không có nắp đậy 2 mộ (di chỉ D’ha Prong),
nồi v có nắp đậy 3 mộ (di chỉ Buôn M’râu) và 3 mộ nồi v úp nhau (2
mộ ở địa điểm Buôn Triết và 1 mộ ở di chỉ Chư K’tur).
Mộ đất hiện chỉ mới phát hiện được 2 mộ trong 1 địa điểm đó là
Buôn M’râu. Đồ tùy táng gồm có rìu đá và gốm, cũng đã tìm thấy di cốt
người trong loại mộ này nhưng đến nay vẫn chưa được nghiên cứu c
thể.
2.1.1.4. Về các loại hình di tích thời đại Kim khí Đắk Lắk
Trong số các di tích được phát hiện, thám sát, khai quật ở Đắk Lắk
thì 2 di tích là cư trú - mộ táng (Buôn Triết, Buôn M’râu), 4 di chỉ xưởng (Chư K’tur, Tsham A, Buôn Hàng Năm, Buôn Kiều), 1 di chỉ xưởng - mộ táng (D’ha Prong), số c n lại chiếm đa số là di tích cư trú.
- Di chỉ cư trú - mộ táng: đây là không gian cư ng của cả người
sống lẫn người chết, mộ táng trong các di tích thuộc dạng mộ nồi v úp
nhau hoặc mộ đất. Mộ nồi v úp nhau có quy mô nhỏ, thường gặp phức
hợp 3 loại hình: nồi, v và bát bồng nhưng không để nguyên vẹn mà bị
đập mẻ hoặc đập cho thủng trước khi chôn. Chất liệu và kỹ thuật của nồi
v gốm cũng như di vật đá chôn theo giống với di vật cùng loại tìm thấy
trong di chỉ. Có thể nói đây chính là mộ của cư dân tạo nên tầng văn hóa.
Tức mộ táng chưa tách khỏi nơi cư trú, trong đó tồn tại cả mộ nồi v và
mộ đất.
- Di tích cư trú - xưởng: các di tích này có đặc điểm chung là đều có
vết tích cư trú (đồ gốm, công c lao động có dấu vết s d ng) và đều là
nơi chế tác công c đá (mảnh tước, phác vật rìu, hạch đá), đều s d ng
nguyên liệu từ đá opal có màu vàng, sản phẩm chủ yếu là rìu có vai. Opal
thuộc loại đá bán quý, hầu như không bị phong hóa, kể cả sau khi mài

nhẵn làm vỡ cấu trúc bề mặt của chúng. Đây là nguyên liệu hiếm và rất
thích hợp cho việc chế tác công c .
- Di chỉ - xưởng - mộ táng: hiện tại chỉ mới phát hiện 1 di tích thuộc
loại hình này đó là di tích D’ha Prong: chứa đựng vết tích cư trú và hoạt
động sinh sống hàng ngày của con người giai đoạn này như các vết tích
bếp l a, mộ táng, ngoài ra sự có mặt của nhóm mảnh tước và bàn mài với
số lượng chiếm đại đa số trong nhóm công c đá, cho chúng ta thấy địa
điểm D’ha Prong là di chỉ xưởng.
11


- Di tích cư trú: các di tích này có đặc điểm chung là tầng văn hóa
mỏng, có vết tích tro than nhưng ít gặp vết tích nhà c a hay vết tích động
thực vật. Điểm nhận diện là tầng văn hóa có màu sẫm hơn lớp mặt và
sinh thổ, trong đó có chứa công c lao động bằng đá và gốm. Tuy nhiên
ở hầu khắp các di chỉ vẫn tìm thấy nh ng mảnh tước trên một mặt c n
dấu mài nhẵn vốn được tách ra trong quá trình ghè lại lưỡi công c rìu
bôn mài toàn thân.
2.1.2. Đặc trưng di vật
2.1.2.1. Đồ đá
Nét nổi bật khi nghiên cứu các di tích khảo cổ học thời đại kim khí
Đắk Lắk chính là sưu tập hiện vật đá hết sức phong phú phát hiện trong
các di tích. Dựa vào hình dáng, có thể chia các di vật đá thành 3 nhóm
loại hình chính, gồm: nhóm công c sản xuất, đồ trang sức và nhóm hiện
vật khác (gồm nh ng di vật chỉ có dấu vết s d ng, không có dấu chế
tác).
- Công cụ sản xuất: chiếm 5.11% trong tổng số hiện vật đá, phổ biến
là nhóm loại hình rìu và dạng cuốc/công c hình mai mực.
+ Nhóm rìu: gồm các loại rìu tứ giác, rìu có vai, rìu chuôi hẹp.
Rìu tứ giác: thu được 53 chiếc, đa số được chế tác từ đá basalt, một

vài chiếc làm từ đá phiến cát, phtanite và silic. Kích thước nhỏ, thân hình
thang, mặt cắt ngang thân gần hình ch nhật hoặc bầu d c. Kỹ thuật chế
tác chủ đạo là ghè tạo dáng và mài hoàn chỉnh.
Rìu có vai: thu được 34 chiếc, gồm có các loại vai xuôi, vai vuông và
vai nhọn. Rìu được chế tác từ đá silic hoặc basalt. Rìu thường có mặt cắt
ngang là hình ch nhật hoặc thấu kính hai cạnh thẳng. Kích thước nhỏ,
kỹ thuật mài và đánh bóng đã đạt đến mức hoàn thiện.
Rìu chuôi hẹp: thu được 29 chiếc, rìu thường có phần lưỡi x e rộng
và thu hẹp dần về đốc rìu, mặt cắt ngang thân dạng hình thang với nhiều
kích cỡ khác nhau. Chất liệu chính là đá basalt, một số làm từ đá phiến
cát. Đây là loại hình phổ biến, đặc trưng nhất, có mặt hầu hết trong các di
tích thời đại Kim khí ở Đắk Lắk.
+ Cuốc ở các địa điểm thời đại Kim khí Đắk Lắk thu được 53 chiếc,
gồm 3 loại:
Cuốc có chuôi tra cán: thu được 13 chiếc chia làm 2 tiểu loại nhỏ:
cuốc có thân hình ch nhật, bản mỏng, mặt b ng hơi lõm vào, mặt lưng
hơi cong khum, toàn thân mài nhẵn, làm từ đá l a hoặc phtanite, loại
cuốc này đặc trưng cho các di tích ở Đắk Lắk, phân bố ở các huyện Cư
M’gar, Lắk, Krông Bông… Thứ 2 là cuốc có chuôi tra cán bản dày, vai

12


nhọn, đốc nhỏ và cao, thân dày và mỏng dần về hai đầu lưỡi, đốc lưỡi
vũm, thường được chế tác từ đá basalt.
Cuốc hình tứ giác: thu được 18 chiếc, cuốc có thân hình thang dài và
dẹp, lưỡi cao và mỏng, phần thân nhô cao, mặt trước c n để lại nhiều sẹo
ghè, mặt sau thẳng, đốc hình ch nhật hoặc gần hình tam giác. Cuốc
thường được chế tác từ đá basalt. (Ảnh 39).
Cuốc hình mai mực thu được 22 chiếc, đây là loại hình tìm thấy khá

nhiều ở các di chỉ khảo cổ tiền sơ s ở Đắk Lắk như D’ha Prong, Chư
K’tur... Nguyên liệu chế tác chủ yếu từ đá basalt và một ít từ đá phiến.
Trên bề mặt hiện vật có nhiều vết ghè hướng từ ngoài vào, tạo ra đường
rìa sắc ở 2 cạnh bên và đầu công c . Một số hiện vật có vết mài, đầu đốc
công c hơi vát. Mặt cắt ngang công c hình thấu kính. Kiểu thân hình
mai mực hoặc bầu d c có một số tiêu bản, đều chỉ thấy ở Đắk Lắk mà
không thấy ở các tỉnh khác.
+ Đ c đá phát hiện được trong một số di tích nhưng số lượng không
nhiều, chỉ có 11 chiếc, trong đó ở địa điểm D’ha Prong thu được 8 chiếc,
ở địa điểm Buôn M’râu thu được 3 chiếc. Đ c được làm từ chất liệu đá
basalt, có hình tứ giác, mặt cắt ngang hình ch nhật gần vuông hoặc hình
thang. Toàn thân được mài khá trau chuốt. Lưỡi mài vát mỏng dần đều từ
hai phía, góc lưỡi hẹp, rìa lưỡi sắc.
+ Cưa đá: có số lượng không nhiều, tổng thu được trong các địa điểm
chỉ có 5 chiếc. Cưa chủ yếu làm từ phiến đá sa thạch, phần lưỡi s d ng
có hình ch V cân, hơi tù, vết tích cưa mài ăn lan đến gần gi a thân. Cưa
đá có thể s d ng làm vai rìu đá opal có hiệu quả.
+ Bàn đập vỏ cây: thu được 9 hiện vật trong các địa điểm khai quật
và 8 hiện vật sưu tầm, đa số làm từ đá phiến silic, mài toàn thân. Phần
chuôi hình tr , hơi dẹt, thuôn nhỏ dần về đốc. Phần thân hình khối ch
nhật; hai mặt nhỏ hơn có khắc các rãnh dài song song, có thể có 7 rãnh
đến 14 rãnh tùy vào kích thước của từng hiện vật. Tiết diện ngang, mặt
cắt dọc gần hình ch nhật. Các di vật này có nh ng điểm tương đối giống
nhau về chất liệu, kích thước, hình dáng và số rãnh khắc trên mặt.
+ Mảnh khuôn đúc rìu: tại địa điểm Buôn M’râu đã tìm thấy 2 mảnh
khuôn đúc rìu, được làm từ chất liệu đá sa thạch màu tím, hạt khá mịn.
Mặt âm của khuôn đúc rìu x e cân, loại rìu có họng tra cán, có đường chỉ
đúc chạy ngang thân, giống với các rìu đồng tìm thấy ở Đắk Lắk.
+ Đá có lỗ: Gần hình tr n, dẹt hoặc bầu d c, được chế tác từ đá cát
hạt mịn. Ở gi a có một lỗ tr n xuyên thân. Lỗ được đ c từ hai phía lại,

vát vào trong. Loại di vật này được phát hiện nhiều ở các di tích khảo cổ
thời đại Đá mới và Kim khí trên đất Tây Nguyên.
13


- Đồ trang sức thu được trong các hố khai quật không nhiều (0.29%)
nhưng lại có nh ng hiện vật điển hình có thể nói lên đặc trưng văn hoá
của cư dân nơi đây.
+ V ng tay: gồm có loại mặt cắt ngang hình ch D, hình tam giác,
hình ch nhật, hình ch T. Trong đó loại v ng có mặt cắt ngang thân
hình tam giác khá phổ biến, với đỉnh nhọn vươn dài, hai cạnh bên hơi
cong lồi và cạnh đáy cong vồng. V ng được mài nhẵn toàn thân, tương
đối tr n đều. Được chế tác chủ yếu từ đá schiste, loại đá này có màu sắc
đa dạng chủ yếu là màu xám, số ít có màu xanh. Về kỹ thuật chế tạo, ở
đây cùng xuất hiện cả hai loại kỹ thuật khoan tách lõi và đ c gi a kết hợp
với bàn mài trong để tạo nên v ng đá.
+ Phác vật v ng: làm từ chất liệu đá phiến schiste. Hiện vật đang
trong quá trình chế tác bị gãy đôi nên bị loại bỏ, một mặt được mài nhẵn,
mặt kia lưu lại vết vỡ. Kỹ thuật chế tác từ một phiến đá được ghè đ o
xung quanh thân tạo khối hình cầu dẹt sau đó đ c lỗ gi a từ hai bên thân
vào trong.
- Hiện vật khác: gồm bàn mài, bàn nghiền và h n ghè.
+ Bàn mài là hiện vật chiếm số lượng khá lớn trong các di tích khai
quật với 231 hiện vật, gồm ba loại: bàn mài phẳng, bàn mài lõm và bàn
mài trong, đều làm từ chất liệu đá cát, ngoài ra c n có bàn mài làm từ gỗ
hóa thạch. Bàn mài phẳng và bàn mài lõm có một mặt bên và một cạnh
dài được mài phẳng, hơi lõm, mặt cắt ngang thân thường có hình tứ giác.
Bàn mài trong có hình tr dẹt, một đầu hơi nhọn, toàn thân đều có các
mặt mài chạy v ng quanh, mặt cắt ngang thân có hình gần elíp hoặc bầu
d c. Bàn mài được phát hiện trong hầu hết các di tích. Trong số đó, loại

bàn mài lõm hình l ng máng chiếm số lượng lớn nhất.
+ Bàn nghiền, h n ghè: là nh ng h n cuội có dấu vết s d ng ở hai
đầu hoặc là vết m n, lõm trên bề mặt, đa số làm từ đá cát. Nhóm hiện vật
này cũng phổ biến trong các di tích ở Đắk Lắk.
*Hiện vật đặc biệt:
- Ở di chỉ Chư K’tur đã tìm thấy 1 tiêu bản kiếm đá (?), gồm 6 mảnh
gãy ghép lại, làm bằng đá basalt màu xám, thân hình lá, đầu thon nhỏ hơi
bầu, hai cạnh bên gần song song, hai mặt đều được ghè cân xứng rìa cạnh
khá thẳng, phần chuôi ghè thắt hơi nhỏ lại. Tiết diện ngang thân hình
thấu kính. Đây là chiếc kiếm đá duy nhất tìm thấy ở Tây Nguyên hiện
biết cho đến nay. Theo nh ng người khai quật, chiếc kiếm này có thể
mang tính quyền trượng như nh ng thủ lĩnh thị tộc hay bộ lạc.
- Dao đá ở Buôn Hàng Năm: được chế tác từ đá trầm tích silic, có
hình tứ giác, mũi rộng, chuôi vát nhọn, phong hóa xám xanh. Hai mặt
14


phẳng, đang tiếp t c quá trình bóc tách các lớp vỏ, sống phẳng nổi gờ,
lưỡi hình thành hai cấp, vát tạo rìa, rìa lưỡi m n mẻ, chuôi vát nhọn. Dao
bị gãy đôi, đã được gắn chắp. Tiết diện ngang và mặt cắt dọc hình ch
nhật..
- Ở di chỉ D’ha Prong: thu được một viên đá hình tr n dẹt, có một lỗ
nhỏ ở một góc gần cạnh, có thể là nơi luồn dây để đeo. Có nhiều ý kiến
về vật đeo này, có người cho là vật biểu tượng cho một ý nghĩa gì đó,
nhưng chúng tôi thiên về ý kiến đây là vật trang sức.
2.1.2.2. Đồ đồng
- Trống đồng: Trong tổng số 14 trống lưu gi tại Bảo tàng Đắk Lắk
chỉ có 9 trống thuộc loại I Heger. Các trống đều có kích thước lớn, bị vỡ
nát nhiều, chỉ c n lại phần mặt, nằm trong khung niên đại từ 2.500 2.000 năm cách ngày nay. Hiện vẫn chưa xác định được thời điểm các
trống này đến Tây Nguyên vì vẫn c n rất nhiều ý kiến trái ngược nhau.

Dù bằng cách nào, thì nh ng ảnh hưởng văn hóa Đông Sơn thông qua
trống đồng vào Tây Nguyên là rất rõ. Điều này cho thấy trống đã được s
d ng khá sớm ở đây, góp phần minh chứng cho mối quan hệ gi a các
cộng đồng cư dân cổ ở Tây Nguyên với trung tâm văn hóa Đông Sơn từ
thời xa xưa.
Có một điều đặc biệt là tại địa bàn huyện Krông Năng đã phát hiện ra
cả một “làng trống”. Người ta đã đếm được 89 lỗ chôn trống trong một
khu vực, có thể số hiện vật trong các hố đào này đã bị đánh cắp gần hết.
Qua khảo sát thực địa chúng tôi cho rằng đây là di chỉ mộ táng thời tiền
s .
- Qua đồng: cho đến nay trên địa bàn Đắk Lắk mới chỉ tìm thấy duy
nhất một chiếc qua đồng ở huyện Krông Năng. Về hình dáng của qua
đồng, thấy có nét giống với qua đồng ở Long Giao (kiểu 1a, theo cách
phân chia của Phạm Đức Mạnh) và Dốc Chùa (lưỡi cong hình mỏ chim,
sống lưỡi dày ở gi a, góc lưỡi mở rộng tối đa kết hợp với rìa dưới của
đốc cùng rìa lưỡi trên kéo dài tận chuôi).
- Hiện vật đồng ở địa điểm Ea Hning (Krông Ana): gần giống hình
mũi chông, thân dài hơi cong, thân hẹp ngang và rất mỏng, mặt cắt ngang
thân gần hình bầu d c bổ ngang. Một đầu vát nhọn, gần chuôi có ngạnh
gần hình tam giác, nằm xiên về một phía. Tiếp liền thân là một phần
chuôi nhỏ và ngắn. Ngạnh đúc liền thân, có chiếc ngạnh thẳng, có chiếc
ngạnh c p vào, có chiếc lại cong vểnh lên. Tuy khác nhau về mức độ
hoàn thiện, màu sắc, độ patin phủ ngoài, song về cơ bản là giống nhau về
hình dáng và kích thước, cũng như kỹ thuật gia công chế tác. Về chức
năng, cho đến nay các ý kiến luận giải về chức năng của nó vẫn chưa
15


chắc chắn. Khảo sát trên kỹ thuật, có khả năng các di vật này là sản phẩm
của một l đúc đồng thủ công, chưa xuất xưởng, được cư dân cổ trong

vùng s d ng cho m c đích tế thần, hoặc săn bắt,...
- Rìu đồng: cho đến thời điểm hiện tại ở Đắk Lắk đã phát hiện được 5
rìu đồng. Đều thuộc loại có họng tra cán, lưỡi x e hơi lệch hoặc x e cân.
Phần tra cán x e rộng, cổ họng rìu thắt lại hình bầu d c hoặc tr n, lưỡi
x e rộng, rìa lưỡi hình cung tr n. Hai cạnh bên gần phẳng, lượn cong
lõm tr n. Được đúc bằng khuôn 2 mang. Toàn thân phủ patin màu xanh.
- Vòng tay đồng ở Đắk Lắk hiện tại chỉ phát hiện trong các trống
đồng: Hoa văn trên bản v ng phong phú gồm hoa văn xoắn ốc, khắc
vạch, dạng bông lúa, hình ch S, văn thừng, đường tr n tiếp tuyến. Tất
cả các mảnh đều phủ lớp patin màu xanh, mang đặc trưng văn hóa Đông
Sơn.
2.1.2.3. Đồ sắt
Hầu như không phát hiện một dấu vết nào về luyện, rèn sắt trong các
di tích thời đại Kim khí trên đất Đắk Lắk. Chỉ có phát hiện trong trống
đồng ở H a An (Krông Pắc) nh ng mảnh trang sức có dạng v ng cung,
có thể là một dạng v ng tr n, đã bị han rỉ nặng.
Trong trống Điện Bàn 3 (Ea Kar) tìm thấy một mũi lao đã bị bẻ cong,
chôn cùng trong trống, có thể là di vật chôn theo.
2.1.2.4. Đồ gốm
Nhìn chung nh ng di vật gốm phát hiện ở Đắk Lắk đều có nh ng
điểm chung về chất liệu, loại hình, kỹ thuật và hoa văn trang trí.
- Chất liệu: Đồ gốm tìm thấy trong các di tích tiền s ở Đắk Lắk hầu
như đều là gốm thô, mềm, pha cát và pha bã thực vật. Gồm các loại gốm
xương nâu đỏ, gốm xương xám vàng, gốm xương xám đen và gốm
xương xám nhạt. Trong đó gốm xương nâu đỏ chiếm tỉ lệ cao nhất.
Chính tỉ lệ bã thực vật đã góp phần làm thay đổi màu sắc xương gốm ở
đây. Gốm xương nâu đỏ ít bã thực vật hơn gốm xương xám đen và xương
xám nhạt. Loại này có độ nung cao, thành gốm chắc và lớp áo ít bị bong
tróc.
- Loại hình: Loại hình gốm tiền s ở Đắk Lắk phong phú với đủ kích

cỡ khác nhau. Chủ yếu là bát, bình, nồi, v ; kiểu dáng phổ biến là loại cổ
cong, thân nở, đáy tr n. Với loại bát bồng thì có bát miệng thẳng, thân
vuốt, l ng nông, đế cao, chân đế thường táp rời hơi loe.
- Kĩ thuật: đa số được nặn bằng tay, độ nung không cao nên áo hầu
như bị bong tróc mạnh. Chỉ có ở di chỉ Chư K’tur, gốm có độ nung tương
đối cao, gốm chín đều và khá cứng. Không s d ng bàn xoay, s d ng
cuội sông suối, bằng đá quartzite, kích thước nhỏ làm công c thoa trên
16


mặt phôi gốm, làm cho lớp áo gốm nhẵn, mà hiện nay trong kỹ thuật làm
gốm của dân tộc bản địa vẫn c n s d ng.
- Hoa văn: hoa văn kỹ thuật chiếm đa số, chủ yếu là văn thừng và
văn chải. Văn trang trí có số lượng không nhiều, gồm văn khắc vạch đơn
giản với các mô típ: khắc vạch đơn, khắc vạch trên nền thừng, khắc vạch
kết hợp chải theo băng, khắc vạch kết hợp in chấm nhỏ, khắc vạch xương
cá… nhưng cũng thấy ở một số mảnh gốm loại hoa văn in chấm nhỏ
mang tính mỹ thuật cao. Kỹ thuật tô ánh chì cũng tìm thấy ở một số
mảnh gốm.
2.1.2.5. Chất liệu khác
Chất liệu khác ở đây bao gồm chủ yếu là các hiện vật chôn kèm
trống, bao gồm: các dạng hạt chuỗi, hạt mã não, hạt thủy tinh… mang
đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy sự giao lưu của cư dân Kim khí
Đắk Lắk với cư dân ven biển miền Trung cùng thời.
2.2. Niên đại và các giai đoạn phát triển
2.2.1. Niên đại
2.2.1.1. Niên đại tương đối
Trong điều kiện chưa có mẫu nào phân tích niên đại tuyệt đối (C14),
chúng tôi dựa vào địa tầng các di tích đã được khai quật để xác định niên
đại cho di tích. Sau khi so sánh, đối chiếu với các tổ hợp di vật, các di chỉ

khác trên đất Tây Nguyên, chúng tôi cho rằng thời đại Kim khí Đắk Lắk
tồn tại trong khung niên đại từ 3.500 - 2.000 năm cách ngày nay.
2.2.1.2. Niên đại tuyệt đối
Chúng tôi s d ng kết quả phân tích niên đại tuyệt đối (C14) của di
chỉ Lung Leng (Kon Tum) và địa điểm Phúc Hưng (Lâm Đồng) nhằm so
sánh đối chiếu với các di tích di vật Kim khí Đắk Lắk. Từ các kết quả đó,
chúng tôi dự đoán niên đại tuyệt đối cho các địa điểm thời đại Kim khí
Đắk Lắk là nằm trong khung thời gian từ 3.500 - 2.000 năm BP.
2.2.2. Các giai đoạn phát triển
Qua phân tích về niên đại, tính chất di tích, đặc trưng di vật các di
tích Kim khí Đắk Lắk, chúng tôi tạm chia thời đại Kim khí Đắk Lắk
thành 2 giai đoạn phát triển: giai đoạn sớm (3.500 - 3.000 năm BP) và
giai đoạn muộn (3.000 - 2.000 năm BP).
Giai đoạn sớm hay giai đoạn Đồng thau được đặc trưng bởi sự xuất
hiện các di tích tồn tại cuốc, rìu, bôn đá với kỹ thuật mài nhẵn toàn thân
phát triển đến đỉnh cao; xuất hiện đồ gốm thô, văn thừng, văn khắc vạch,
văn in chấm kiểu miệng s ; xuất hiện khuôn đúc rìu, nhưng chưa tìm
thấy công c bằng kim loại.

17


Các di tích giai đoạn muộn hay giai đoạn sắt sớm ngoài công c đá
nói trên, đã xuất hiện đồ kim loại như rìu đồng, trống đồng, các sưu tập
đồ đồng, gốm tô ánh chì, đồ trang sức bằng thủy tinh, mã não, thạch
anh...
2.3. Phác thảo đôi nét diện mạo lịch sử - Văn hóa cƣ dân thời đại
Kim khí ở Đắk Lắk
2.3.1. Phân bố dân cư
Về cơ bản, cư dân thời đại Kim khí ở Đắk Lắk phân bố trên hầu hết

các tiểu vùng địa lý tự nhiên của Đắk Lắk. Đó là cao nguyên Buôn Ma
Thuột (gồm thành phố Buôn Ma Thuột, huyện Cư M’gar và huyện Krông
Búk), trũng Krông Pắc - Lắk (gồm các huyện Lắk, Krông Pắc, Krông
Ana, Cư Kuin), cao nguyên M’Đrắk (gồm các huyện Krông Năng,
M’Đrắk và Ea Kar). Con người cư trú ở các di tích này không lâu, nên
vết tích văn hóa tích t thành tầng văn hóa không dày, hiện vật ít phong
phú, đa dạng minh chứng cho kiểu cư trú tạm thời, hay định cư không lâu
dài, thiếu ổn định.
2.3.2. Vài nét về hoạt động kinh tế
- Hoạt động kinh tế sản xuất: kinh tế khai thác nông nghiệp làm
nương rẫy là chủ đạo với tổ hợp nông c phong phú. Rất nhiều loại hình
đồ gốm có dấu ám khói, bếp l a ken dày mảnh gốm là dấu hiệu của đun
nấu thức ăn của cư dân định cư nông nghiệp.
- Săn bắt hái lượm là một hoạt động kinh tế trọng yếu. Cho đến nay,
chúng ta chưa tìm thấy di cốt động vật trong các di tích do vậy tư liệu để
tìm hiểu về nội dung hoạt động săn bắt - hái lượm của cư dân tiền s Đắk
Lắk được đặt trong môi trường cảnh quan c thể và trong việc đối sánh
với cư dân bản địa hiện nay.
- Hoạt động thủ công chế tác: bao gồm làm gốm, chế tác đá và có
khả năng biết đến luyện kim, đúc đồng. Ngoài ra, các cư dân thời này
cũng đã biết tự dệt vải để may mặc và biết các nghề đan lát để ph c v
cho sinh hoạt hàng ngày, qua việc phát hiện các bàn đập vỏ cây.
2.3.3. Vài nét về tổ chức xã hội
- Về đời sống xã hội: Tuy gi a các cộng đồng cư dân không có mối
quan hệ chặt ch với nhau song gi a các cá nhân trong mỗi cộng đồng lại
có sự gắn bó mật thiết với nhau. Các cộng đồng cư dân vẫn chủ yếu sinh
sống thành từng c m dạng các bản làng và sản xuất kinh tế theo kiểu tự
túc tự cấp.
- Về đời sống tinh thần: Các cư dân thời này vẫn chôn người chết
ngay tại nơi cư trú. Cách thức mai táng gồm có táng t c mộ đất và mộ v

nồi. Họ cũng có t c chia của, song có thể thấy các đồ tùy táng đơn giản,
18


nghèo nàn và không có sự chênh lệch nhiều gi a các mộ. Cũng vào giai
đoạn sắt sớm ở Đắk Lắk, có nhiều trống đồng Đông Sơn được s d ng
như nh ng quan tài chứa đựng xương cốt và đồ tùy táng, góp phần làm
đa dạng thêm nh ng táng t c truyền thống của cư dân bản địa.
2.4. Tiểu kết
Cho đến năm 2015 đã có 42 địa điểm khảo cổ học tiền s Đắk Lắk đã
được thống kê, trong đó 5 địa điểm thời đại Kim khí đã được khai quật là
D’ha Prong, Chư K’tur, Buôn M’râu, Buôn Triết (lớp trên) và Buôn Kiều
(lớp trên). Các di chỉ này phân bố tập trung ở cao nguyên Buôn Ma
Thuột, vùng trũng Krông Pắc - Lắk và cao nguyên M’Đrắk với cấu tạo
địa tầng tương đối đồng nhất. Trong 5 di tích được khai quật thì 2 di tích
là cư trú - xưởng, 2 di tích là di chỉ cư trú - mộ táng và 1 di chỉ - xưởng mộ táng. Các dấu vết về hố đất đen trong hố khai quật có thể liên quan
đến loại hình nhà mồ của cư dân Tây Nguyên sau này. Các vết tích bếp
l a, các mảnh gốm, công c đá cũng được phát hiện. Đặc biệt các loại
hình mộ táng rất đa dạng, gồm mộ nồi v , mộ nồi v úp nhau, mộ huyệt
đất... Đồ tùy táng trong các mộ quan tài gốm thường được đặt trong
chum, v , gồm các đồ gốm, bình, v , bát bồng, rìu đá.
Nguyên liệu chế tác công c đá ở đây được làm từ nhiều loại đá như:
opal, silic, basalt, sa thạch, thạch anh, quartzite tại chỗ. Mỗi loại công c
được s d ng một số loại đá. Phát triển hoàn thiện kỹ thuật mài, cưa,
khoan và đánh bóng trong việc chế tạo công c lao động, nhất là nông c
và đồ trang sức.
Tổ hợp đồ đồng nổi bật nhất là trống đồng, hầu hết là các trống
Heger I. Các trống đều có kích thước lớn, bị vỡ nát nhiều, chỉ c n lại
phần mặt. Ngoài ra c n có qua đồng, rìu đồng, v ng tay, hiện vật đồng có
ngạnh… Hầu như các di vật đồng đều mang đặc trưng văn hóa Đông

Sơn. Trong khi đó, đồ sắt rất ít, chỉ gặp dạng tùy táng chôn trong trống
đồng, do vậy khó xác nhận đặc trưng của nó.
Về đồ gốm có một số điểm chung về chất liệu, loại hình, kỹ thuật hay
hoa văn trang trí.
Qua nghiên cứu đối sánh với các di tích khác, có thể dự đoán niên đại
các di chỉ thời đại Kim khí Đắk Lắk nằm trong khung 3.500 - 2.000 năm
cách ngày nay, trải qua 2 giai đoạn phát triển: sớm và muộn. Giai đoạn
sớm đặc trưng bởi di tích chứa rìu có vai, bôn có vai, cuốc đá, khuôn đúc
rìu đồng, gốm thô văn thừng, khắc vạch, niên đại 3.500 - 3.000 năm BP.
Giai đoạn muộn ngoài đồ đá đã xuất hiện rìu đồng, qua đồng, mộ nồi v
úp nhau, đồ sắt, thủy tinh, mã não… chôn trong trống, xuất hiện nhiều
gốm Sa Huỳnh, niên đại khoảng 3.000 - 2.000 năm BP.
19


Chƣơng 3
THỜI ĐẠI KIM KHÍ ĐẮK LẮK
TRONG BỐI CẢNH RỘNG HƠN
3.1. Thời đại Kim khí Đắk Lắk trong bối cảnh tiền - sơ sử Tây
Nguyên
3.2.1. Với một số di tích tiền - sơ sử Gia Lai
Mối quan hệ gi a các di tích thời đại Kim khí Đắk Lắk với các di
tích tiền - sơ s Gia Lai thể hiện chủ yếu qua văn hóa Biển Hồ và tổ hợp
di vật đá, gốm ở Taipêr. Sự tương đồng đó cho thấy mối quan hệ đồng
đại trong điều kiện môi trường tự nhiên giống nhau. Tuy nhiên gi a
chúng cũng có nh ng đặc điểm khác nhau. Nh ng khác biệt đó có thể là
do điều kiện tự nhiên từng vùng.
3.1.2. Với một số di tích tiền - sơ sử Kon Tum
Kon Tum là tỉnh có số lượng các di tích khảo cổ tiền s nhiều nhất
Tây Nguyên với 67 di tích. Qua so sánh tổ hợp di vật đá, gốm, đồng ở

Kon Tum có thể thấy sự phong phú hơn hẳn về loại hình, trong khi đó ở
Đắk Lắk không có sự phong phú, đa dạng về di vật như vậy. Hoạt động
thủ công đúc đồng và luyện sắt ở Kon Tum đã chứng minh điều đó.
3.1.3. Với một số di tích tiền - sơ sử Lâm Đồng
Qua so sánh di tích di vật Kim khí Đắk Lắk với Lâm Đồng, có thể
nói, các di tích thời đại Kim khí Đắk Lắk có nhiều nét gần gũi với các di
tích thời đại Kim khí Lâm Đồng hơn so với các di tích Kim khí Tây
Nguyên khác, cả về tổ hợp công c đá và kim loại.
3.1.4. Với một số di tích tiền - sơ sử ở Đắk Nông
Đắk Nông và Đắk Lắk trước kia (trước năm 2004) vốn là một tỉnh
nên nh ng đặc trưng về di tích và di vật Kim khí nói riêng, tiền - sở s
nói chung có nh ng nét chung nhất định.
3.1.5. Vị trí thời đại Kim khí Đắk Lắk thông qua một số di vật tiêu
biểu
Ngoài một số tư liệu về mối quan hệ gi a Kim khí Đắk Lắk với các
di tích tiền - sơ s Tây Nguyên, luận án c n đi sâu vào phân tích một số
di vật tiêu biểu như: các loại hình cuốc đá, đá có lỗ gi a, bàn đập vỏ
cây… Nghiên cứu mối quan hệ văn hóa gi a Đắk Lắk với các tỉnh khác
Tây Nguyên, chúng ta có thể nhận thấy cả vùng Tây Nguyên đều phát
triển rực rỡ và đạt đỉnh cao kỹ thuật chế tác công c đá vào hậu kỳ Đá
mới. Song khi bước vào thời đại Kim khí thì nổi lên hai khu vực là vùng
Sa Thầy (Kon Tum) và vùng Cát Tiên (Lâm Đồng) với sự phát triển
mạnh m công c đồng và sắt. Trong khi đó, ở Đắk Lắk các dấu ấn văn
hóa thời đại Kim khí không nổi bật như các vùng này.
20


3.2. Thời đại Kim khí Đắk Lắk với các di tích Kim khí khác
ngoài Tây Nguyên
3.2.1. Với các di tích thời đại Kim khí Việt Nam

3.2.1.1. Với văn hóa Đông Sơn ở Bắc Việt Nam
Mối quan hệ gi a thời đại Kim khí Đắk Lắk với văn hóa Đông Sơn
thể hiện qua các sưu tập đồ đồng hiện biết ở Đắk Lắk, tiêu biểu như:
trống đồng, rìu đồng, v ng tay đồng.. mang đặc trưng của văn hóa Đông
Sơn.
3.2.1.2. Với văn hóa Xóm Cồn ở duyên hải Trung Bộ Việt Nam
Mối quan hệ văn hoá gi a 2 vùng này thể hiện qua sự hiện diện
nh ng mảnh khuôn đúc rìu đồng lưỡi x e cân, mảnh bàn đập vỏ cây có
khắc rãnh, đồ trang sức chủ yếu là mảnh v ng đá có mặt cắt hình tam
giác… hay sự giống nhau về loại hình, chất liệu và hoa văn trang trí đồ
gốm. Sự tương đồng và gần gũi văn hóa gi a văn hóa Xóm Cồn và văn
hóa tiền sơ s Đắk Lắk cho thấy nh ng mối liên hệ mang tính nguồn gốc.
3.2.1.3. Với thời đại Kim khí miền Đông Nam Bộ
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là hai vùng địa lý liền kề, có diện tiếp
xúc rộng, nên trong tiến trình lịch s , hai vùng đất này có mối quan hệ
văn hóa nhất định trên từng tiến trình thời gian. Sự giống nhau thông qua
một số di vật tiêu biểu như qua đồng, nồi gốm minh khí, gốm ghè tr n,
dọi se sợi… cho thấy có một nhịp cầu cổ xưa nhất nối Tây Nguyên nói
chung, Đắk Lắk nói riêng với miền Đông Nam Bộ.
3.2.2. Với các di tích thời đại Kim khí ở Lào, Campuchia
3.2.2.1. Với thời đại Kim khí Lào
Trên đất Lào có 2 trung tâm quần cư lớn của cư dân hậu kỳ Đá mới sơ kỳ Kim khí là Luang Prabang (Bắc Lào) và Khăm Muội (miền Trung
Lào).
Rìu bôn tứ giác có kích thước lớn, với tiểu loại thân hình thang cong
khum, lưỡi cong hình cung, mặt cắt ngang hình thang có nét gần với các
di tích cùng thời ở Đắk Lắk. Đồ gốm bao gồm các loai nồi v , bát bồng,
bát chân đế cao, chậu đáy bằng hay các loại dọi xe sợi bằng gốm hình
nón c t cũng có mặt ở 2 nơi. Các đồ trang sức như v ng tay mặt cắt hình
tam giác, rất giống với nh ng chiếc tìm thấy ở Đắk Lắk.
3.2.2.2. Với thời đại Kim khí Campuchia

Mối quan hệ với thời đại Kim khí Campuchia thể hiện rõ qua hai di
tích là Samrongsen và Mlu Prei. Nhìn chung sưu tập hiện vật ở Mlu Prei
rất giống với các sưu tập ở Đắk Lắk, đặc biệt là sưu tập công c mài (rìu
bôn hình thang, v ng tay có mặt cắt hình tam giác, hạt chuỗi hình ống…)

21


và đồ gốm. Riêng di vật đồng thì Samrongsen có sự gần gũi với Đắk Lắk
hơn Mlu Rrei.
3.3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa khảo cổ ở tỉnh Đắk Lắk
3.3.1. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa khảo cổ ở Đắk Lắk
Hiện nay các di tích khảo cổ ở Đắk Lắk đang đối mặt với nguy cơ bị
“xóa sổ” do việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là
việc phát triển cơ sở hạ tầng của công cuộc xây dựng nông thôn mới,
cũng như canh tác bằng cơ giới của người dân. Nguyên nhân lớn là từ
nhận thức của các cấp, các ngành, toàn xã hội về vai tr , ý nghĩa của các
di tích khảo cổ học chưa được nâng cao, chưa sâu sắc, toàn diện và chưa
được c thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch, chương trình c thể.
3.3.2. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản khảo cổ ở Bảo
tàng Đắk Lắk
Mặc dù Bảo tàng rất được quan tâm trong công tác bảo tồn di sản văn
hóa, tuy nhiên trong thực tế việc bảo quản, phát huy tác d ng các di tích,
di vật/hiện vật khảo cổ ở Bảo tàng Đắk Lắk c n nhiều bất cập. Trong
công tác bảo quản hiện vật chỉ mới thực hiện ở nh ng bước x lý đơn
giản nhất, việc trưng bày, giới thiệu các bản v , bản dập hoa văn của hiện
vật...chưa thực hiện được. Việc chiếu phim minh họa mới chỉ dừng lại ở
phim giới thiệu các cuộc khai quật là chính, phim tài liệu, nghiên cứu cho
đến nay vẫn chưa có.

3.3.3. Một số kiến nghị và giải pháp
3.3.3.1. Một số kiến nghị
Cần có sự quan tâm thích đáng đến công tác giáo d c, tuyên truyền
về kiến thức khảo cổ học trong nhân dân, phát huy vai tr của người dân
trong công tác sưu tầm và gìn gi giá trị văn hoá thời tiền s . Thông qua
một số hoạt động tiêu biểu được tổ chức ngay tại điểm khai quật và tại
bảo tàng.
3.3.3.2 Một số giải pháp
- Quy hoạch các điểm di tích khảo cổ trên địa bàn toàn tỉnh.
- Số hóa các hiện vật khảo cổ quý hiếm nói riêng và các hiện vật
khác nói chung trong Bảo tàng Đắk Lắk.
- Xây dựng phim 3D trên cơ sở các tư liệu khảo cổ.
- Kết nối hoạt động bảo tàng với ngành du lịch.
- Phát huy vai tr của cộng đồng cư dân địa phương.
3.4. Tiểu kết
Các di tích tiền s Đắk Lắk có vị trí quan trọng trong tiền s Tây
Nguyên, tiền s Việt Nam và khu vực. Đây là vùng đất sớm có sự khai
22


phá của con người và trong tiến trình phát triển văn hóa, đây cũng là
vùng đất đầy năng động, sáng tạo và có mối giao lưu rộng mở với khu
vực xung quanh. Trong mỗi chặng đường phát triển đều có dấu ấn rõ nét
của các nền văn hóa tiền s của cư dân ở miền Bắc, miền Trung và Đông
Nam Bộ của Việt Nam.
Bước vào thời đại Kim khí, cư dân cổ Đắk Lắk đã duy trì mô hình
sống phức hợp bằng việc kết hợp gi a săn bắt, hái lượm, đẩy mạnh hoạt
động thủ công chế tác công c đá, làm gốm và có thể đã biết đến luyện
kim đúc đồng. Nh ng thành tựu mà cư dân cổ Đắk Lắk đạt được vừa là
nguyên nhân vừa là kết quả của một nền kinh tế đa dạng và cởi mở.

Trong nhiệm v xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các Bảo tàng Việt Nam có nhiệm v bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa, trong đó có bảo tồn, phát huy giá trị
các di tích, di vật khảo cổ. Chúng tôi đã đưa ra một số kiến nghị và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
tích, di vật khảo cổ nói chung như: quy hoạch, ứng d ng công nghệ
thông tin, liên kết với ngành du lịch, coi trọng vai tr của nhân dân... để
bảo tồn các di tích, di vật khảo cổ trên địa bàn.
KẾT LUẬN
1. Tỉnh Đắk Lắk có một vị trí chiến lược quan trọng của khu vực
Tây Nguyên. Ngược d ng lịch s , tìm về quá khứ của các tộc người Tây
Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, từ thế kỷ I đến thế kỷ X trước
Công nguyên, xã hội loài người đã có nh ng cuộc di cư lịch s để tìm
vùng đất cư trú. Một số tộc người thuộc ngôn ng Mon - Khmer, Malayo
- Polynesien đã chọn vùng đất cao nguyên basalt màu mỡ làm nơi sinh cơ
lập nghiệp và phát triển cộng đồng cho đến ngày nay. Bằng chứng sinh
sống của họ trên đất Đắk Lắk đã được các nhà khảo cổ học Việt Nam chỉ
ra thông qua các cuộc điền dã, nghiên cứu, khai quật. Tuy số lượng di
tích và di vật chưa nhiều, nhất là các di tích, di vật/hiện vật của thời đại
Kim khí, song đây vẫn là nh ng chứng cứ xác thực nhất và sinh động
nhất về cuộc sống mưu sinh với trình độ kỹ thuật của loài người thời đại
Kim khí của cư dân cổ ở Đắk Lắk.
2. Cư dân tiền s Đắk Lắk bước vào thời đại Kim khí khá sớm,
thông qua các di tích tiêu biểu như D’ha Prong, Chư K’tur, Buôn
M’râu... Các tổ hợp di vật gồm công c đá, đồng, gốm đa dạng về loại
hình, phong phú về số lượng, chất liệu với nh ng kỹ thuật đặc trưng
riêng của khu vực trong các di chỉ nói trên được miêu tả khá kỹ. Ngoài
ra, một số hiện vật phát hiện lẻ về địa điểm có chứa di vật như trống
23



×