GDP “xanh” - thước đo của tăng trưởng bền vững
Ngày nay, tăng trưởng bền vững với sự phát triển trên ba cực: Kinh tế - Xã hội - Môi trường đang
trở thành xu thế phổ biến của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Những nghiên cứu gần đây đều cho
thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề ô nhiễm môi trường và sử dụng tài
nguyên. Yếu tố tài nguyên và môi trường chính là một trong những tiêu chí đánh giá tăng trưởng chất
lượng. Vấn đề này đã được đề cập trong chuyên đề “Tìm hiểu về chất lượng tăng trưởng và các tiêu
chuẩn đánh giá” của Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, tháng 4/2006 vừa
qua.
Có thể thấy, chỉ số GDP thống kê hiện đang sử dụng chưa tính đến những tổn hại về môi trường và
tài nguyên và vì thế chưa phản ánh được ảnh hưởng của thiệt hại môi trường và sử dụng tài nguyên
đến tăng trường kinh tế. Để khắc phục hạn chế này, các nhà kinh tế và thống kê đã đề xuất chỉ số
thống kê mới: GDP “xanh” để tính toán tăng trưởng kinh tế có tính đến các tổn thất về môi trường.
Đây là chỉ số có khả năng phản ảnh toàn diện hơn sự phát triển kinh tế một nước, mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và môi trường cũng như giữa môi trường và con người.
Chuyên đề thông tin: “GDP “xanh” - thước đo của tăng trưởng bền vững” xin được giới thiệu
cách tính chỉ số GDP “xanh” mang tính thực tiễn - một thước đo tăng trưởng kinh tế có tính đến thiệt
hại về môi trường, những vấn đề gặp phải khi đưa chỉ số này áp dụng trong thực tế, giới thiệu kinh
nghiệm của một số quốc gia đã thử nghiệm tính toán và những áp dụng ban đầu của Việt Nam khi tính
toán chỉ số này.
Xin trân trọng giới thiệu.
I. KHÁI NIỆM VỀ “GDP XANH”
Một trong những trở ngại lớn nhất đặt trong quá trình phát triển mà các nước đang phát triển phải
đối mặt là việc thoát được ra khỏi “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ (xem sơ đồ 1). Chính lúng
túng trong việc chọn lựa cách thức thoát khỏi vòng luẩn quẩn này làm cho phân hóa khoảng cách
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng.
thu nhập
Năng suất
Tỷ lệ tích luỹ
Trình độ kỹ thuật
Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Một quốc gia phát triển bao giờ cũng phải đảm bảo được sự phát triển về kinh tế, thể hiện ở gia
tăng thu nhập (GDP) và đảm bảo được công bằng trong xã hội. Trước đây, có nhiều quan điểm khác
nhau để chọn con đường đưa quốc gia thành một nước phát triển.
Một số quốc gia theo quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng cho rằng tăng thu nhập là yếu tố quan
trọng nhất, nó như đầu tầu, kéo theo việc giải quyết cơ cấu kinh tế và xã hội. Các quốc gia theo quan
1
điểm này, ví dụ như các nước OPEC… chỉ tập trung chú trọng vào chính sách nhằm tăng thu nhập
quốc dân. Trên thực tế các nước này đạt được tốc độ tăng trưởng cao, không ngừng tăng thu nhập cho
nền kinh tế, tuy nhiên cũng nảy sinh rất nhiều vấn đề liên quan việc lựa chọn này:
Đầu tiên, sự tăng trưởng quá mức nhanh chóng vì những lợi ích cục bộ trước mắt đưa đến sự khai
thác bừa bãi không chỉ trong phạm vi quốc gia mà ở cả phạm vi quốc tế, khiến cho nguồn tài nguyên
bị kiệt quệ và môi trường sinh thái bị phá huỷ nặng nề. Nguy cơ đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của các nước chậm tiến và cả các thế hệ sau này. Tiếp nữa, cùng với sự tăng trưởng là việc xuất
hiện những bất bình đẳng về kinh tế và chính trị, tạo ra những mâu thuẫn và xung đột gay gắy giữa các
khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, giữa các giai cấp, sắc tộc, tôn giáo … do mâu thuẫn về
lợi ích kinh tế - xã hội và quá trình tăng trưởng không đều tạo nên. Tăng trưởng nhanh chóng đưa lại
những giá trị mới song nó cũng phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp, làm gia tăng
các tệ nạn xã hội. Tăng trưởng và phát triển quá nhanh cũng kèm theo những diễn biến khó lường
trước, nên đời sống kinh tế - xã hội thường bị đảo lộn, mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu
quả.
Ngược lại, với quan điểm phát triển dựa trên tăng trưởng, một số quốc gia mà điển hình là các nước
trong hệ thống XHCN trước đây (trong đó có Việt Nam) lại đi theo quan điểm nhấn mạnh vào công bằng
và bình đẳng trong xã hội. Theo quan điểm này sự phát triển sản xuất được đầu tư dàn trải cho các
ngành, các vùng và sự phân phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Những người theo quan
điểm này hạn chế được sự bất bình đẳng trong xã hội. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc về văn
hóa, giáo dục, y tế của Nhà nước. Nhưng hạn chế cơ bản của lựa chọn này là nguồn lực bị phân phối dàn
trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao, cũng như phân phối đồng đều cũng không tạo
được động lực thúc đẩy người lao động.
Cân đối giữa hai quan điểm trên, các nước ngày nay thường đi theo con đường phát triển cả hai yếu
tố gia tăng thu nhập và công bằng xã hội, thường gọi quan điểm phát triển toàn diện. Đây là sự lựa
chọn dung hòa giữa hai quan điểm trên. Vừa nhấn mạnh về số lượng, vừa chú ý về chất lượng của sự
phát triển. Theo quan điểm này, tuy tốc độ tăng trưởng có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan
tâm giải quyết.
Sự lựa chọn phát triển theo quan điểm toàn diện là sự lựa chọn phổ biến của các quốc gia đang phát
triển. Đó là sự lựa chọn phát triển kinh tế cân đối trên hai cực: Tăng trưởng kinh tế - Xã hội công bằng.
Mục tiêu hướng tới của của tăng trưởng toàn diện là: (i) Gia tăng về thu nhập; (ii) Hoàn thiện cơ cấu kinh
tế; (iii) Khả năng đáp ứng nhu cầu phúc lợi, xã hội cho con người. Với các mục tiêu này, phát triển toàn
diện ngày nay vẫn là đích hướng tới của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế
hiện đại, các nguồn lực tự nhiên đang ngày một khan hiếm, môi trường sống đang bị huỷ hoại thì việc tăng
trưởng toàn diện song song với việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên, hạn chế ô nhiễm, giữ gìn môi trường
sống… trở thành một vấn đề đặt ra trên phạm vi toàn thế giới. Yếu tố môi trường được tách ra thành một
tác nhân quan trọng đánh giá sự phát triển của quốc gia bên cạnh hai yếu tố tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Người ta đề cập đến một khái niệm mới, khái niệm tăng trưởng bền vững. Sự phát triển của
một quốc gia không đánh giá trên hai cực nữa mà được đánh giá theo ba cực: Tăng trưởng kinh tế; Công
bằng xã hội (đảm bảo đời sống người dân) và Môi trường (xem sơ đồ 2).
Một thách thức to lớn cho tất cả các quốc gia là làm sao giải quyết một cách cân đối hài hòa giữa
phát triển (kinh tế, xã hội) và môi trường, tức là vừa phải khai thác tài nguyên phát triển kinh tế, vừa
phải bảo vệ và quản lý tốt hệ sinh thái, cải thiện chất lượng môi trường. Thực tế cho thấy, nhiều chi
phí để chống lại sự ô nhiễm môi trường gây ra vượt gấp nhiều lần lợi ích thu về. Và trong cuộc chiến
bảo vệ môi trường, thường các nước nghèo lại chịu thiệt thòi do công nghệ lạc hậu, lại có thu nhập
thấp nên không thể chi phí nhiều cho hoạt động chống ô nhiễm môi trường. Mặc khác, các nước đang
2
phát triển (hay các nước nghèo) lại dựa nhiều vào việc xuất khẩu nguyên liệu thô nên việc vắt kiệt
nguồn tài nguyên này sẽ trở thành vấn đề đáng báo động. Các nước đang phát triển chưa thoát khỏi
vòng luẩn quẩn nghèo lại rơi vào vòng luẩn quẩn mới, vòng luẩn quẩn “nghèo khó- suy thoái môi
trường”.
Tăng trưởng kinh tế
Công bằng
xã hội
Môi
trường
Sơ đồ 2: Ba cực của tăng trưởng bền vững
Khái niệm tăng trưởng bền vững được đưa ra kèm theo nó nhiều khái niệm mới, một trong những
khái niệm đó là việc đánh giá lại chỉ số tổng sản phẩm quốc dân (GDP), do có rất nhiều nghiên cứu đã
chứng minh rằng, có mối liên quan giữa mức tăng trưởng và phát triển kinh tế với hao phí tài nguyên
thiên nhiên và ảnh hưởng đến môi trường sống. Các quan điểm về phát triển bền vững đã cho rằng cần
phải có một sự đánh giá khác với chỉ số GDP khi đưa yếu tố môi trường vào tính toán tăng trưởng.
Khái niệm GDP “xanh” ra đời.
Khái niệm “GDP xanh”
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh kết quả sản xuất của nền
kinh tế của một nước trong một thời kỳ nhất định. Đây là chỉ tiêu thông dụng để đánh giá nền kinh tế
của một quốc gia. Hệ thống Tài khoản quốc gia đã hình thành về cơ bản từ năm 1953, kết quả nỗ lực
của các nhà kinh tế và các nhà thống kê sau 300 năm nghiên cứu. Dưới sự chủ trì của Liên Hợp Quốc,
hệ thống này đã có 2 lần hoàn thiện quan trọng vào năm 1968 và 1993 nhằm giải quyết một số thiếu
sót về mặt kỹ thuật. Ngày nay, nó đã và vẫn là một chuẩn mực thống nhất để đánh giá trình độ phát
triển kinh tế của một nước.
Tuy nhiên, cùng với việc đưa ra khái niệm tăng trưởng bền vững với việc nhấn mạnh tầm quan
trọng của môi trường cũng như mối liên quan giữa phát triển kinh tế và gia tăng các vấn đề môi
trường như tăng sử dụng tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và suy giảm sinh thái… người ta
nhận ra sự thiếu sót của việc thống kê chỉ số GDP. Lâu nay, GDP phản ảnh tổng số đầu ra của nền
kinh tế mà không hề tính đến phí tổn về môi trường và hệ sinh thái. Và cũng chưa có một hệ thống
thống kê nào trên thế giới đánh giá rõ ràng và chính xác phí tổn môi trường đi đôi với các hoạt động
kinh tế.
Hệ thống thống kê GDP không tính đến các yếu tố môi trường và sinh thái, không thể phác hoạ
được bức tranh thực tế và sâu sắc của nền kinh tế của một nước. Và quan trọng hơn, hệ thống GDP
này không thể chỉ ra được mối liên quan giữa ô nhiễm môi trường, suy giảm sinh thái và việc tăng
GDP. Qua đó, nền kinh tế chỉ có thể nhìn thấy mức tăng trưởng bề nổi mà không thấy (hay khấu trừ)
được những thiệt hại “ngầm”. Như vậy, vừa không đánh giá được đúng phí tổn phải chịu trong hiện
tại, chúng ta vừa không thể tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên môi
trường cũng như không thể đánh giá mức độ ô nhiễm và quy trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại theo
nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Những thiệt hại không được tính về tài nguyên và môi
trường này không những gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế hiện tại mà gây ra “gánh nặng” cho
3
những thế hệ tương lai.
Từ giữa thế kỷ vừa qua, rất nhiều tổ chức và các quốc gia trên thế giới đã thấy được tầm quan trọng
của môi trường với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cùng với việc đưa ra khái niệm phát triển bền
vững, một số nhà kinh tế và thống kê đã đưa các yếu tố môi trường vào thống kê phản ảnh sự phát
triển kinh tế trong nước, đó là GDP “xanh”.
GDP “xanh” là chỉnh lý số liệu thống kê GDP thông thường bằng cách khấu trừ chi phí về môi
trường trong các hoạt động kinh tế. Cụ thể là:
GDP “xanh” = GDP -
Chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát
về môi trường do các hoạt động kinh tế
Chỉ số GDP “xanh" ra đời với mục đích chính để đánh giá chi phí của thiệt hại môi trường với tiêu
thụ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đến tổng sản phẩm trong nước. Như vậy, GDP
“xanh” sẽ phản ảnh được toàn diện phát triển của một nước trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi
trường. Chỉ số này không những phản ảnh tăng trưởng về số lượng và phản ảnh cả chất lượng tăng
trưởng, một điều quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới.
Việc đưa ra chỉ số GDP “xanh” đồng nghĩa với việc cần đưa ra kèm theo nó một hệ thống lý thuyết
và khung nội dung cơ bản để đánh giá mối quan hệ nói chung giữa môi trường và kinh tế. Đây là một
nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách cho sự phát triển bền vững, do việc chỉ số này giúp đánh giá chất
lượng tăng trưởng, thông qua hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoàn thiện chỉ số
GDP truyền thống, giúp phản ánh được một cách toàn diện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
môi trường cũng như giữa môi trường và con người.
Tuy nhiên, việc thực hiện tính chỉ số GDP “xanh” khi đưa vào thực tế tính toán cũng gặp phải một
số khó khăn:
Khó khăn về kỹ thuật. Giá trị các sản phẩm và lao động có thể xác định được khi đưa ra thị trường, giá trị
của chúng được phản ảnh qua giá thị trường. Nhưng còn các yếu tố môi trường thì phản ảnh giá trị như thế
nào vì nó không đưa vào thị trường. Chẳng hạn khi một khu rừng bị tàn phá, nhiều loại thú sống trong đó bị
tiêu diệt, mất mát này sẽ được đánh giá thế nào?.
Các chuyên gia đã đưa ra một số cách ước tính. Tuy không tính được mất mát khi một con sông bị ô
nhiễm, nhưng chúng ta có thể tính được số tiền cần thiết phải chi tiêu để xử lý nó. Theo cách này, chỉ số
chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế không tính được có thể
được thay thế bằng một chỉ số tính được chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm. Chi phí môi
trường hay chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm của một dự án cụ thể là chỉ tiêu có thể ước tính
theo giá thị trường. Chẳng hạn ở Vân Nam, Trung Quốc, các nhà máy hoá chất và việc khai thác trang
trại đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho hồ Dianchi. Nếu cố gắng làm sạch hồ, chi phí tốn gấp 10 lần lợi
nhuận các nhà sản xuất hoá chất và nông dân tạo ra. Uớc tính theo cách này có thể kết luận rằng các hoạt
động kinh tế quanh hồ đã gây ra những tổn thất lớn, chưa tính đến mất đi các loại cá và các cây trong hồ
và sự thay đổi khí hậu ở địa bàn xung quanh. Các cách ước tính như vậy cần hoàn thiện thêm trong thực
tế.
Khó khăn về tư tưởng. Tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển của một vùng sẽ thay đổi khi thực hiện
tính GDP xanh. Việc đánh giá thành tựu và kết quả công tác của các địa phương cũng sẽ thay đổi.
Trước đây sự tăng trưởng thuần tuý về kinh tế là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá thành tựu kinh tế. Còn
GDP “xanh” sẽ đánh giá toàn diện các mặt tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Con số GDP của một vùng chắc sẽ giảm khi phải khấu trừ chi phí môi trường, khó được các lãnh đạo
địa phương chấp nhận.
4
II. CHỈ SỐ “GDP XANH”: ĐÁNH GIÁ CHI PHÍ CỦA THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG VÀ
TIÊU THỤ CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀ
ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Sự phát triển không đồng đều trên thế giới
Những nước phát triển có tiềm lực về kinh tế, khoa học và công nghệ, cho nên khai thác tài nguyên
mạnh mẽ, sản xuất nhiều hàng hóa chiếm lĩnh thị trường trên thế giới, tiêu thụ nhiều năng lượng,
nguyên vật liệu và lương thực, thực phẩm. Đồng thời, trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, họ cũng
sản sinh ra một khối lượng khổng lồ các chất thải.
Ngược lại, các nước đang phát triển tuy chiếm đa số trong nhân khẩu thế giới nhưng về mặt sản
xuất, tiêu thụ và sản sinh chất thải đều ở mức thấp hơn nhiều so với các nước phát triển.
Trong thập kỷ 1980, người ta đã tổng kết rằng:
Các nước phát triển:
Dân số:
Chiếm 25% dân số thế giới,
Tiêu thụ:
Năng lượng chiếm 75% tổng năng lượng
Chất đốt thương mại chiếm 79%,
Sản phẩm gỗ 85%,
Sản phẩm kim loại 75%,
Lương thực thực phẩm 6%.
Và họ thải ra 75% tổng lượng CO2, 75% tổng lượng chất thải rắn.
Tính theo đầu người 1 người dân của nước phát triển so với người dân của nước đang phát triển thì
hàng năm:
Tiêu thụ giấy gấp 14-16 lần,
Tiêu thụ thịt gấp 6-52 lần,
Tiêu thụ năng lượng gấp 10-35 lần,
Tạo ra chất thải gấp 10 lần.
Thí dụ, về tiêu thụ năng lượng theo đầu người thì mức tiêu thụ thấp nhất năm 1997 của Etiopia là
0,294 TOE (tấn dầu quy đổi) so với mức trung bình thế giới chưa bằng 1/5. Còn lấy mức cao nhất là của
Mỹ là 7,96 TOE nghĩa là cao gấp 27 lần so với Etiopia. Về tiêu thụ thịt theo đầu người năm 1998 mức
trung bình thế giới là 37kg cũng cao gấp 12 mức thấp nhấp ở Băng la det 3kg, còn mức cao nhất ở
NiuDilan 137kg thì cao gấp hơn 45 lần so với Băng la det. Về tiêu thụ giấy theo đầu người năm 1998,
trung bình thế giới 49,2 kg so với mức thấp nhất 0,1kg (CHDC Công Gô, Môdăm bích) nhiều gấp 490
lần. Còn mức cao nhất (Phần lan 419,9kg) gấp tới 4000 lần so với mức thấp nhất.
Ngày nay các hoạt động của con người đã đạt tới mức mà các tác động của chúng đối với môi
trường không chỉ còn hạn chế trong lãnh thổ từng quốc gia, mà lan ra các nước khác, làm cho các vấn
đề môi trường mang tính chất toàn cầu.
2. Thái độ và hành động của các nước đối với việc phát triển GDP “xanh”
Trong hơn thập kỷ qua, sự quan tâm tới môi trường được thể hiện rõ trên toàn thế giới và ở mọi
quốc gia, trước hết là do lợi ích của chính mình và do đòi hỏi của dân chúng, vì mọi người đều ngày
càng nhận thức rõ hơn về hậu quả các hoạt động của con người đối với môi trường. Đã có nhiều nỗ lực
ở các quốc gia phát triển nhằm giảm mức độ ô nhiễm không khí. Các quốc gia ở Bắc Âu, Tây Âu, Ấn
Độ đang tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió trong tổng sản lượng về
năng lượng. Các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trường được nghiên cứu và sử dụng ngày
5
càng nhiều hơn. Các biện pháp tiết kiệm năng lượng cũng được áp dụng trong nhiều lĩnh vực sản xuất
và tiêu dùng. Tỷ lệ các chất thải được sử dụng, tái chế cũng tăng lên,… Tại các nước đang phát triển,
ngoài việc áp dụng các công nghệ sạch hơn để giảm thiểu ô nhiễm, đã tập trung nhiều nỗ lực cho việc
giảm phá rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, kiểm soát sự gia tăng dân số, cải thiện điều kiện vệ sinh môi
trường cho nhân dân, tạo việc làm và nâng cao mức sống trong xã hội.
Đối với tất cả các nước, kể cả phát triển và đang phát triển đều phải xây dựng và thực hiện mô hình
phát triển bền vững, tất nhiên là có chú ý tới những đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên để xây dựng mô
hình phát triển bền vững cũng có thể đề ra một số nguyên tắc chung như:
- Dù ở các mức độ, điều kiện, khả năng khác nhau các nước đều phải hướng tới việc sử dụng các
công nghệ thân môi trường. Việc sử dụng khí thiên nhiên, công nghệ sạch về đốt than, xăng không pha
chì và các biến đổi xúc tác,.vv…có thể giảm tới 99% sự phát thải các hạt bụi. Đặc biệt có chỉ tiêu đáng
chú ý là lượng năng lượng sử dụng cho 1 đơn vị sản phẩm. Ví dụ, để sản xuất ra 100USD GNP, thì
Nhật Bản cần 15kg dầu quy đổi, trong khi đó ở Đức là 29, Mỹ là 38, Canada là 54. Nếu tất cả các
nước công nghiệp đều đạt hiệu suất sử dụng năng lượng như Nhật Bản, thì tổng năng lượng sử dụng
trên thế giới sẽ giảm 2.343 triệu tấn dầu quy đổi, tức bằng 36% tổng năng lượng tiêu thụ. Như vậy
kèm theo đó là sự bớt sử dụng tài nguyên, hạ giá thành sản phẩm và giảm bớt biết bao tác động tiêu
cực đến môi trường.
- Trong các chính sách về sử dụng tài nguyên phải tìm cách phản ánh được giá trị của môi trường,
kể cả cái giá phải trả cho sự hoàn phục và cải thiện môi trường. Qua kết quả nghiên cứu năm 1990 tại
Trung Quốc, sự suy giảm về tài nguyên thiên nhiên đã gây tổn thất, ít nhất lên tới 65,7 tỷ NDT. Các
tổn thất do ô nhiễm môi trường gây nên đối với toàn xã hội ước tính ít nhất là 29,7 tỷ NDT. Như vậy
tính gộp cả hai yếu tố tài nguyên và môi trường, cái giá phải trả có thể ít nhất là 95,4 tỷ NDT và chiếm
tới 8-10% GDP của năm đó.
Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” được nhiều nước áp dụng có thể giúp giải quyết được
một cách hợp lý hơn giữa mối quan hệ giữa kinh tế- xã hội và môi trường và cho ta cách nhìn đúng sự
thật hơn về sự tăng trưởng cũng như định hướng cho sự phát triển bền vững.
- Mô hình phát triển bền vững phải mang tính xã hội sâu sắc, phải có sự tham gia của nhân dân
trong mọi khâu của quá trình quyết định và thực hiện. Về tài nguyên thiên nhiên, các cộng đồng bản
địa và địa phương còn có vai trò quan trọng, vì họ có tri thức và kinh nghiệm trong việc khai thác, sử
dụng và duy trì. Nếu họ có nhận thức đúng đắn và được tạo điều kiện thuận lợi về chính sách, cơ chế
và sự hỗ trợ các mặt, thì lợi ích thiết thân của họ sẽ gắn bó với tài nguyên thiên nhiên, họ sẽ thực hiện
được cả vai trò kiểm soát đối với tài nguyên tại địa phương và như vậy sẽ đóng góp thiết thực cho phát
triển bền vững.
Các nước OECD sau hàng chục năm phát triển kinh tế mạnh mẽ, tình trạng ô nhiễm môi trường trở
nên nghiêm trọng. Thực tế, từ năm 1970, các nước này đã đã đầu tư liên tục cho vấn đề môi trường,
với mức chi phí bằng 0,8 – 1,5% GDP trong nhiều năm (cũng nên chú ý là xét về giá trị tuyệt đối thì
khoản đầu tư đó khá lớn vì GDP của các nước này rất cao). Nhờ đó mà đã làm giảm được 60% hàm
lượng các hạt bụi lơ lửng và 38% hàm lượng SO x trong không khí. Riêng ở Bắc Mỹ, hàm lượng chì đã
giảm 85% và ở châu Âu giảm được 50%.
III. GDP “XANH” TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
Nền kinh tế nước ta vẫn phải dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, và tài nguyên đang có nguy cơ
suy thoái. Việc giữ gìn khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách lâu dài có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đối với đời sống và phúc lợi của nhân dân.
6
Nền kinh tế kém phát triển, thường đi kèm theo là sự kém phát triển của khoa học và công nghệ, sẽ
hạn chế khả năng đầu tư nhiều cho việc bảo vệ môi trường. Theo kết quả khảo sát những năm gần đây,
riêng chỉ năm 2002 toàn quốc có 49.314 tấn rác thải mỗi ngày, trong đó 26.887 tấn rác công nghiệp,
21.828 tấn rác thải đô thị, 609 tấn rác bệnh viện. Đặc biệt là tổng lượng rác thải nguy hại của Việt
Nam là 416 tấn/ngày. Ngay như Trung Quốc là nước có tiềm lực mạnh hơn ta nhiều nhưng cũng chỉ
đầu tư cho công tác môi trường chưa tới 1%GDP. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ lệ chi cho bảo vệ
môi trường ở nước ta chỉ khoảng 0,10-0,19% GDP.
Việc lượng hóa bằng tiền những hậu quả do ô nhiễm gây nên hoặc đánh giá hiệu quả của các biện
pháp bảo vệ môi trường đối với điều kiện nước ta đặc biệt khó khăn. Nhưng những kinh nghiệm nước
ngoài rất bổ ích, vì ít nhất có thể cho ta khái niệm về số lượng một cách rõ ràng hơn. Ví dụ, theo tổng
kết ở một vài nước rằng chi phí để ngăn chặn xói mòn và thoái hóa đất mất khoảng từ 5–150USD/ha
(nếu dùng biện pháp nông-lâm kết hợp) hoặc từ 200-250USD/ha (nếu dùng biện pháp công trình như
đắp thềm, san lấp, ngăn bờ). Nhưng nếu để cho đất bị xói mòn và thoái hóa thì chi phí để hồi phục và
cải tạo đất lại tốn hơn nhiều từ 500-1000USD/ha. Ở Trung Quốc đã tổng kết nếu đầu tư 10.000 NDT
để làm sạch thì giảm được 5,9 tấn BOD/năm.
Bốn bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn Nhật Bản sau nhiều thập kỷ phát triển công nghiệp cho
thấy:
Thứ nhất, không được để tích lũy các chất độc, vì chúng sẽ gây thiệt hại về sức khỏe con người và
về kinh tế.
Thứ hai, hiện nay sau khi bị bẩn và làm sạch, Nhật Bản theo đuổi chính sách đề phòng và ngăn
ngừa. Như vậy, thực tế lại đỡ tốn kém hơn sửa chữa sau này.
Thứ ba, sớm sửa chữa chừng nào thì đỡ tổn thất và đỡ tốn chừng ấy.
Thứ tư, phải kiên quyết dùng chính sách “Ai gây ô nhiễm thì phải trả tiền”, kể cả bồi thường thiệt
hại về sức khỏe. Có như vậy mới thúc đẩy được các doanh nghiệp tính toán đầy đủ trong sản xuất,
kinh doanh và ngăn ngừa được ô nhiễm.
Các nước nghèo và chậm phát triển như nước ta có cơ hội lựa chọn và nắm bắt được những công
nghệ mới, thân môi trường, công nghệ sạch hơn mà đỡ phải tốn công sức, tiền bạc và thời gian
nghiên cứu. Ví dụ, hiện nay các công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo đã càng ngày càng được hoàn
thiện và giá thành ngày càng giảm đến mức độ có thể cung cấp trên thị trường.
Bảng 1: Ma trận hệ số chất thải toàn phần
(tổng số chất thải) từ sản xuất năm 1997
(với số phát thải khí CO2, NO2 và SO2 từ các ngành bằng số phát thải này của Nhật Bản năm 1985)
Đơn vị: Tấn/tỷ đồng
Nông
Công
nghiệp
nghiệp
BOD
0,0030
TSS
Dịch vụ
Tổng số
0,0018
0,0008
0,0056
0,0216
0,0293
0,0088
0,0597
DIN
0,0004
0,0002
0,0001
0,0007
DIP
3.0E-05
1.8E-05
4.2E-06
0,0001
Chất thải ở đất
0,0240
0,0073
0,0017
0,0330
7
SO2
0,8495
1,7007
0,9467
3,4969
NO2
0,5548
1,2380
0,6571
2,4499
CO2
0,4683
1,2439
0,3971
2,1092
Nguồn: “Economic Environmental Modelling of Coastal Zones in the Red River Delta, Vietnam” LOICZ/IGBP
Report & Studies; No. 17, Texel, The Netherlands; 2001.
Nhìn vào bảng ta thấy khi sử dụng cuối cùng của mỗi ngành là 1 tỷ đồng thì tổng số chất thải BOD
nền kinh tế thải ra là 0,0056 tấn, TSS là 0,0597 tấn … và đặc biệt khí CO 2 đến 3,4969 tấn… Đây là
những con số đáng giật mình, và không thể chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế mà bỏ qua vấn đề chất
thải.
Bảng 2: Lượng chất thải tương ứng với tốc độ tăng của từng nhóm ngành
Đơn vị: Tấn/tỷ đồng
1997
1998
1999
Ước 2000
BOD
0,00565
0,00592
0,00589
0,00592
TSS
0,05970
0,06267
0,06238
0,06270
DIN
0,00072
0,00075
0,00075
0,00075
DIP
0,000052
0,00055
0,00046
0,00055
Chất thải xuống
0,03297
0,03454
0,03440
0,03453
SO2
0,34970
0,36726
0,36501
0,36769
NO2
0,24499
0,25732
0,25577
0,25763
CO2
0,21092
0,22155
0,22047
0,22173
đất
Nguồn: “Economic Environmental Modelling of Coastal Zones in the Red River Delta, Vietnam” LOICZ/IGBP
Report & Studies
Theo kế hoạch 5 năm 2006-2010, tăng trưởng bình quân GDP đến năm 2010 là 7,4%; tương ứng các
ngành là:
Khu vực nông nghiệp:
Khoảng 3,4%
Khu vực công nghiệp, xây dựng:
Khoảng 9,4%
Khu vực dịch vụ:
Khoảng 7,5%
Thông qua tính toán từ mô hình có thể ước lượng tổng số chất thải từ sản xuất đến năm 2010
tương ứng với sự tăng trưởng kinh tế như sau:
Đơn vị: Kg/Tỷ đồng
Chất thải ước tính Chất thải ước
Tốc độ tăng
tương ứng với tốc tính cho một đơn
chất thải
độ tăng GDP đến vị sản phẩm cuối
tương ứng
năm 2010
cùng
SO2
1027.486
497.513
2.065
NOx
924.097
442.649
2.088
8
CO
2466.516
1117.325
2.208
VOC
1590.340
732.117
2.172
Tổng cộng
6008.439
2789.604
2.154
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Đây là một kết quả quan trọng để chúng ta có thể xem tăng trưởng có bền vững không.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tăng trưởng kinh tế là một trong nhưng mục tiêu hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt
là với các quốc gia đang phát triển, tốc độ gia tăng GDP hàng năm vẫn là một trong những chỉ báo
quan trọng về thực trạng phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xã hội và
môi trường thì mới có thể duy trì được tốc độ lâu dài trong tương lai. Không thể bất chấp cái giá phải
trả về mặt môi trường để đạt được mục tiêu tăng trưởng, cũng như không thể không quan tâm đến cả
các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người như y tế, giáo dục, văn hóa và bảo vệ môi sinh.
Việc tăng trưởng quá “nóng” ở Trung Quốc là một bài học điển hình cho Việt nam. Trong 25 năm
qua, Trung Quốc đã đạt được điều "kỳ diệu" về kinh tế với mức tăng trưởng trung bình cao tới
8%/năm, GDP đã trở thành tiêu chuẩn chủ yếu và thậm chí là duy nhất trong một số lĩnh vực của nền
kinh tế để đánh giá kết quả thực hiện của chính quyền hay của các ngành. Chính Trung Quốc hiện nay
đang phải đánh giá lại hiệu quả thật sự của tăng trưởng trong thời gian qua do tình trạng môi trường
hiện đang bị ô nhiễm nặng nề và đối mặt nguy cơ thiếu hụt nghiêm trọng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Một trong những nỗ lực cải thiện môi trường và hợp lý lại việc sử dụng nguồn tài nguyên là
việc Trung Quốc quyết định hoàn chỉnh hệ thống chỉ báo GDP “xanh” để áp dụng trên toàn quốc
nhằm đánh giá chi phí thiệt hại môi trường và sử dụng tài nguyên.
Ở Việt nam hiện nay, tăng trưởng bền vững cũng đã được đưa ra thành mục tiêu phát triển của
quốc gia. Tuy nhiên, trong hệ thống tài khoản quốc gia, GDP vẫn là một chỉ số thống kê hàng đầu để
đánh giá tăng trưởng của đất nước. Hệ thống chỉ số GDP “xanh” cũng đã được đưa ra tính toán, tuy
nhiên mới dừng ở mức nghiên cứu, xuất bản trên một số tài liệu chuyên khảo.
Để có thể đưa được chỉ số GDP “xanh” vào tính toán, điều cần tạo được khung quy định về sử
dụng tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường, và thống nhất quy định này không những trong phạm
vi quốc gia mà phải thống nhất với các quy định quốc tế. Cần lượng hóa được những chỉ số sử dụng tài
nguyên đồng thời với việc lượng hoá hoạt động làm ô nhiễm môi trường sinh thái.
Giải pháp tăng trưởng GDP “xanh” ở Việt Nam
Một là, tăng đầu tư cho công tác Bảo vệ môi trường:
Tận dụng các nguồn vốn như vốn ngân sách nhà nước, vốn vay của các tổ chức quốc tế hay vốn
viện trợ cho công tác bảo vệ môi trường.
Về vốn ngân sách: Nhà nước đã giành 1% ngân sách cho sự nghiệp bảo vệ môi trường từ năm
2006 và đến năm 2010 là 2%. Đây là cơ hội rất tốt để phát triển công nghệ môi trường, nhất là đối
với xử lý chất thải công cộng, xử lý nước thải, chất thải rắn đô thị,...
Về vốn ODA: cũng cần phải giành một phần vốn vay cho sự nghiệp bảo vệ môi trường và trong
đàm phán các dự án về môi trường cần ưu tiên sử dụng công nghệ môi trường Việt Nam, trừ trường
hợp công nghệ môi trường Việt Nam chưa đáp ứng.
Về vốn viện trợ không hoàn lại: phần vốn này hoàn toàn phụ thuộc vào người cho, chúng ta nên tận
9
dụng và khuyến khích các nhà tài trợ cho công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Hai là, thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ Môi trường, đặc biệt là áp dụng các công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường:
Phí nước thải (đã có), phí khí thải (chưa có), phí chất thải rắn, đặc biệt là chất thải nguy hại (chưa
có). Chuyển từ phạt hành chính đối với vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường thành phạt kinh tế.
Áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường có tác dụng thúc đẩy các chủ doanh nghiệp
tính toán lợi ích kinh tế để đầu tư lắp đặt trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường.
Ba là, xây dựng cơ chế khuyến khích các hoạt động sản xuất với công nghệ sạch, các dự án đầu tư
sản xuất các trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường.
Các hình thức khuyến khích các hoạt động sản xuất với công nghệ sạch như khuyến khích về giảm
giá tiền thuê đất; khuyến khích về ưu đãi thuế; khuyến khích về cho vay vốn đầu tư.
Bốn là, xây dựng chế tài hợp lý, hai bên cùng có lợi trong việc chuyển giao kết quả nghiên cứu chế
tạo công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường từ các bên (đơn vị) nghiên cứu, tư vấn sang các nhà sản xuất
kinh doanh.
Năm là, chú trọng đào tạo các chuyên gia về công nghệ môi trường.
Việc thiếu các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ môi trường cũng làm ảnh hưởng đến công tác
bảo vệ môi trường, do vậy cần chú trọng đào tạo các chuyên gia về công nghệ môi trường như nâng
cao chất lượng đào tạo kỹ thuật đối với ngành công nghệ môi trường ở các trường Đại học, nâng cao
chất lượng đào tạo các chuyên gia về công nghệ môi trường ở trình độ thạc sỹ và tiến sỹ, gửi các sinh
viên giỏi, các kỹ sư giỏi đến các nước phát triển để học đại học, thạc sỹ và tiến sỹ về công nghệ môi
trường... Ngoài ra, nhà nước cũng cần quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ với ý thức bảo vệ môi
trường.
Sáu là, xây dựng cơ chế thẩm định công nghệ môi trường quốc gia.
Nhất thiết phải có cơ chế thẩm định công nghệ môi trường quốc gia, trước tiên là: xây dựng các cơ
chế chính sách thẩm định, thành lập Hội đồng chuyên gia (phải lựa chọn đúng chuyên gia, am hiểu
chuyên môn, có tác phong làm việc khách quan và khoa học), lượng hoá đánh giá từng loại công nghệ
theo các tiêu chí (như hiệu quả xử lý ô nhiễm, chi phí kinh tế, trình độ công nghệ xử lý, phù hợp với
điều kiện Việt Nam, an toàn về môi trường).
Nhìn chung khái niệm GDP xanh không chỉ dừng lại ở mức triết lý mà có ý nghĩa thực tiến vì nó
định hướng cho hành động và kiểm tra hành động. Từ đó, cả quá trình phát triển lâu dài luôn luôn
được điều chỉnh thích hợp, để cuối cùng bảo đảm được cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc của con
người, vì chung quy thì dù tăng trưởng kinh tế hay bảo vệ môi trường cũng chỉ là phương tiện, phát
triển con người mới là mục tiêu trung tâm của sự phát triển.
10
Phụ lục 1: Khí SO2, hệ số chất thải và tỷ lệ chống ô nhiễm
ở Trung Quốc và Nhật Bản
Trung Quốc
Ngành
Từ sản
xuất
Nhật Bản
Tỷ lệ
Hệ số
chống ô
phát thải
nhiễm
còn lại
Từ sản
xuất
Tỷ lệ
Hệ số phát
chống ô
thải còn
nhiễm
lại
Nông lâm nghiệp
4.3
0.0
4.3
0.2
50.5
0.1
Thủy sản
6.2
0.0
6.2
3.8
34.9
2.5
Dầu mỏ và khí tự nhiên
9.5
4.0
9.2
0.2
51.6
0.1
CN khai thác khác
52.8
4.0
50.7
1.6
53.4
0.7
Công nghiệp thực phẩm
7.4
4.0
7.1
0.5
34.6
0.3
May mặc, dệt
6.9
4.0
6.6
1.0
36.5
0.7
Gỗ và sản phẩm từ gỗ
45.9
4.0
44.1
0.1
52.2
0.0
Giấy và in ấn
23.3
4.0
22.4
5.3
79.5
1.1
Thuốc và sản phẩm cao su
27.0
45.7
14.7
1.5
81.3
0.3
Dầu
7.2
60.0
2.9
1.4
60.4
0.6
122.0
28.5
87.2
4.6
72.4
1.3
Khai thác quặng
11
Trung Quốc
Ngành
Từ sản
xuất
Nhật Bản
Tỷ lệ
Hệ số
chống ô
phát thải
nhiễm
còn lại
Từ sản
xuất
Tỷ lệ
Hệ số phát
chống ô
thải còn
nhiễm
lại
Sản phẩm kim loại
45.6
30.7
31.6
4.4
81.4
0.8
Máy móc
9.4
4.0
9.0
0.2
42.9
0.1
Phương tiện vận tải
6.1
4.0
5.8
0.1
48.6
0.1
Sản phẩm CN chế biến khác
16.8
4.0
16.1
0.4
14.8
0.3
Điện, nước, gas, than
476.7
4.0
457.6
10.6
75.3
2.6
Xây dựng
3.5
4.0
3.4
0.1
46.5
0.1
Thương nghiệp, vận tải
17.8
4.0
17.1
1.5
46.4
0.8
Dịch vụ
7.6
4.0
7.0
0.3
44.3
0.1
Tổng số
25.3
13.9
21.8
1.2
67.1
0.4
Nguồn: “Economic Environmental Modelling of Coastal Zones in the Red River Delta, Vietnam”
LOICZ/IGBP Report & Studies.
Phụ lục 2: Một số chỉ tiêu bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp
12
Đơn vị: Tỷ đồng
TỔNG SỐ
Chia theo khu vực và
thành phần kinh tế
1. Khu vực doanh
nghiệp nhà nước
+ DN nhà nước Trung
ương
+ DN nhà nước Địa
phương
2. Khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước
+ DN Tập thể
+ DN Tư nhân
+ Công ty Hợp doanh
+ Công ty Trách nhiệm
Tổng trị
Tổng chi phí cho công
Tổng trị
giá thiết tác bảo vệ môi trường giá thiết
bị,
của DN trong năm
bị,
công trình
công trình
Trong
đó:
chi
xử lý môi
xử lý môi
Tổng
phí xây lắp
trường
trường
số
thiết
bị,
CTXL
của doanh
của doanh
chất
thải
nghiệp
nghiệp
8734
4329
1111
3084
Tổng chi phí cho công
tác bảo vệ môi trường
của DN trong năm
Tổng
số
Trong đó: chi
phí xây lắp thiết
bị, CTXL chất
thải
748
510
6984
4175
1060
1793
550
422
6790
4109
1047
543
88
29
195
66
13
1251
462
393
130
3
15
46
1
9
23
3
196
2
26
80
1
10
42
1
6
46
18
10
104
42
24
13
hữu hạn tư nhân
+ CT cổ phần có vốn
Nhà nước
+ CT cổ phần không có
vốn Nhà nước
3. Khu vực có vốn đầu
tư nuớc ngoài
+ 100 % vốn nước
ngoài
+ DN liên doanh với
nước ngoài
Chia theo ngành SXKD
chính
Nông nghiệp và Lâm
nghiệp
Thuỷ sản
Công nghiệp khai thác
mỏ
Công nghiệp chế biến
Sản xuất & phân phối
Tổng trị
Tổng chi phí cho công
Tổng trị
giá thiết tác bảo vệ môi trường giá thiết
bị,
của DN trong năm
bị,
công trình
Trong đó: chi công trình
xử lý môi Tổng
xử lý môi
phí xây lắp
trường
trường
số
thiết bị, CTXL
của doanh
của doanh
chất thải
nghiệp
nghiệp
Tổng chi phí cho công
tác bảo vệ môi trường
của DN trong năm
Trong đó: chi
Tổng phí xây lắp thiết
số
bị, CTXL chất
thải
50
13
7
47
14
7
17
5
4
18
12
4
1620
108
28
1095
118
46
290
76
24
435
73
28
1330
32
4
661
45
19
19
1
7
1
4
71
1
5
1
4
6054
2258
3
4017
231
16
1007
89
17
2679
2
33
587
25
5
464
14
điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa
chữa xe có động cơ, mô
tô, xe máy, đồ dùng gia
đình
Khách sạn và nhà hàng.
Vận tải, kho bãi và
thông tin liên lạc.
Tài chính, tín dụng.
Các hoạt động liên quan
đến kinh doanh đến tài
sản, dịch vụ tư vấn
Y tế và hoạt động cứu
trợ xã hội.
Hoạt động văn hoá và
thể thao.
Hoạt động phục vụ cá
nhân và công cộng
Tổng trị
Tổng chi phí cho công
Tổng trị
giá thiết tác bảo vệ môi trường giá thiết
bị,
của DN trong năm
bị,
công trình
Trong đó: chi công trình
xử lý môi Tổng
xử lý môi
phí xây lắp
trường
trường
số
thiết bị, CTXL
của doanh
của doanh
chất thải
nghiệp
nghiệp
Tổng chi phí cho công
tác bảo vệ môi trường
của DN trong năm
Trong đó: chi
Tổng phí xây lắp thiết
số
bị, CTXL chất
thải
12
13
7
13
8
3
16
80
7
3
3
38
14
12
5
7
3
1
1
9
1
5
4
244
5
200
2
1
1
1
5
5
1
32
64
40
28
15
20
Nguồn: Điều tra toàn bộ Doanh nghiệp 2001-2003 (GSO)
Ghi chú:
- CO (Carbon oxide) một khí độc không màu và không mùi.
- VOC (Hydrocarbon) hay chất tổng hợp hữu cơ dễ bay hơi: sinh ra chủ yếu từ nhiên liệu cháy chưa hết. Ánh
sáng mặt trời tác động tới những khí này, tạo ra các chất oxy hóa, phản ứng với oxide nitrogen (oxit nitơ) tạo ra
ozone (O3), thành phần chủ yếu có trong sương mù.
- NOx (Nitrogen oxide- nitơ oxit, NO và NO 2, cùng gọi là NOx) góp phần tạo nên hiện tượng sương mù và mưa
axit, đồng thời tác động xấu tới màng nhầy não người.
- BOD (Biological Oxygen Demand), COD đo sự đòi hỏi oxy của các vi sinh vật (vi khuẩn, tảo, vi thực vật) trong
nguồn nước. Sự đòi hỏi này càng nhiều thì nguồn nước càng không đủ oxy còn lại cho thủy sản (cá, tôm sẽ chết
vì thiếu oxy).
- TSS Tổng cặn lơ lửng
16