LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong Đồ án là trung thực, khách quan và chưa từng để
bảo vệ ở bất kỳ hội đồng nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Đồ án đã được cám
ơn, các thông tin trích dẫn trong Đồ án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày
tháng 03 năm 2016
Tác giả
Đỗ Khắc Cương
1
1
LỜI CẢM ƠN
Đồ án được hoàn thành theo chương trình đào tạo Đại học khoá liên thông 4
tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường, Khoa Môi trường, các thầy cô giáo và Tiến sĩ Phạm Đình Sắc, Tiến sĩ Hoàng
Ngọc Khắc người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt những
kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho tôi trong thời gian học tập cũng như quá trình
hoàn thành Đồ án.
Nhân dịp này tôi xin tỏ lòng biết ơn Uỷ ban nhân dân xã Việt Lâm, huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang, cùng toàn thể đồng nghiệp bạn bè đã giúp đỡ động viên tôi
hoàn thành khoá học.
Mặc dù đã nỗ lực làm việc, nhưng do hạn chế về thời gian, nên đồ án không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp xây dựng của các nhà khoa học và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày
tháng 03 năm 2016
Tác giả
Đỗ Khắc Cương
2
2
MỤC LỤC
3
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
4
Viết tắt/ký hiệu
ĐDSH
ĐNR
ĐT
ĐVN
Nội dung diễn giải
Đa dạng sinh học
Đất nương rẫy
Đất trống
Đất vườn nhà
KBTTN
KVNC
RTNĐ
RTNĐV
UBND
Khu bảo tồn thiên nhiên
Khu vực nghiên cứu
Rừng trên núi đất
Rừng trên núi đá vôi
Ủy ban nhân dân
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đồ án
Ốc trên cạn thuộc ngành động vật thân mềm là một trong những nhóm động
vật khá đa dạng trong hệ sinh thái trên cạn. Ốc có vai trò quan trọng trong môi
trường sống tự nhiên, hằng ngày chúng ăn các loại xác bã thực vật, các loại trái
cây chín rụng, nấm, rêu, địa y, ....thải ra môi trường dưới dạng phân hữu cơ rất hữu
ích cho môi trường đất. Bên cạnh đó, các loài ốc trên cạn còn là mắt xích quan
trọng trong chuỗi thức ăn tự nhiên cung cấp nhiều năng lượng và canxi cho các loài
chim, thú nhỏ, một số loài bò sát như rùa, rắn, thằn lằn…
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa nên rất đa dạng về địa hình, kiểu đất,
cảnh quan, có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền. Đặc điểm đó là cơ sở thuận lợi
để giới sinh vật phát triển đa dạng và phong phú về thành phần loài cũng như số lượng.
Sự phong phú và đa dạng của khu hệ động vật đã góp phần tạo nên sự đa dạng này.
Động vật không xương nói chung, Thân mềm nói riêng vô cùng đa dạng về hình thái, tập
tính, sinh lý nên thích nghi với nhiều điều kiện môi trường sống khác nhau.
Mặc dù là nhóm có thành phần loài phong phú, phân bố rộng và có giá trị
thực tiễn nhưng ở Việt Nam việc nghiên cứu ốc cạn cho đến nay còn nhiều hạn chế.
Hầu hết các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: Fischer, Bavay et
Dautzenberg, được tiến hành từ rất sớm và không liên tục, tập trung vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX các nghiên cứu đầu tiên được tiến hành ở miền Trung, miền
Nam và muộn hơn ở miền Bắc (khoảng nửa sau thế kỷ XIX). Khu vực phía Bắc,
dẫn liệu về ốc cạn chưa có nhiều.
Các nghiên cứu cho thấy, vùng núi đá vôi là nơi tập trung nhiều ốc cạn, kể cả
số lượng loài cũng như số lượng cá thể. Xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang là một trong những vùng đặc trưng vùng núi đá vôi, địa hình nơi đây khá phức
tạp, phần lớn là đồi núi thấp, sườn thoải xen kẽ những thung lũng tạo thành những
cánh đồng rộng lớn cùng với hệ thống những sông suối, ao hồ, thích hợp cho việc
phát triển nông nghiệp. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua
cùng với sự gia tăng dân số, mật độ phân bố dân cư chưa hợp lý, mức độ sử dụng đất
cũng khác nhau trong từng khu vực nên đã dần thu hẹp môi trường sống của các loài
5
5
động, thực vật nói chung và với các loài động vật Chân bụng nói riêng. Điều này có
thể làm suy giảm sự đa dạng sinh học ở nơi đây. Vì vậy, nhiều loài đã và đang dần
mất đi trong khi chúng chưa được biết đến, trong đó có thể có loài ốc cạn. Đây là
nhóm động vật Chân bụng có số lượng lớn phân bố ở tất cả các sinh cảnh trên cạn, cả
vùng núi và đồng bằng như: trong hang động, trên mặt đất và trên thảm thực vật. Do
đó ốc cạn không chỉ là mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn, mà chúng còn có vai
trò trong sản xuất nông nghiệp là góp phần cải tạo đất trồng, tăng độ màu mỡ của đất,
từ đó tăng năng suất và chất lượng nông sản. Ngoài ra một số loài còn là dược liệu
quý, làm thực phẩm, Nguyễn Chính (1996) [3]. Bởi vậy, ốc cạn đang bị nhân dân địa
phương khai thác, dẫn đến số lượng và sự đa dạng về thành phần loài bị giảm sút
nghiêm trọng …. Các nghiên cứu và dẫn liệu về ốc ở cạn khu vực này sẽ góp phần
quan trọng trong thống kê thành phần loài, điều tra đa dạng sinh học. Mặt khác, định
hướng các nghiên cứu về vai trò của ốc ở cạn, làm rõ giá trị khoa học và thực tiễn,
đặc biệt là vai trò chỉ thị tình trạng môi trường trên cạn.
Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên, việc thực hiện đề tài: Nghiên cứu đa
dạng thành phần loài và đặc điểm phân bố của ốc cạn (Mollusca: Gastropoda)
ở xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang là rất cần thiết và có ý nghĩa lớn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Về lý luận
Xây dựng cơ sở thông tin dữ liệu về đa dạng sinh học ốc cạn ở khu vực ở xã
Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang qua đó đã xác định mối quan hệ giữa ốc
cạn với môi trường sống là cơ sở khoa học cho chính quyền địa phương đề ra
biện pháp quản lý và phát triển đa dạng sinh học nói chung và ốc cạn nói riêng ở
tỉnh Hà Giang.
2.2. Về thực tiễn
Xác định được thành phần loài ốc cạn (Mollusca: Gastropoda) ở xã Việt
Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Tìm hiểu được đặc điểm phân bố của ốc cạn ở các sinh cảnh (các loại sinh
cảnh rừng, các loại độ cao - địa hình).
6
6
3. Về nội dung nghiên cứu
+ Nghiên cứu về đa dạng thành phần loài ốc cạn (Mollusca: Gastropoda) ở
xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
+ Tìm hiểu về đặc điểm phân bố của ốc cạn theo sinh cảnh, độ cao, địa hình.
+ Đề xuất biện pháp bảo tồn ĐDSH ở khu vực nghiên cứu.
7
7
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Việt Lâm là xã tiểu vùng núi trung bình của huyện Vị Xuyên, Xã có địa
giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp giáp xã Cao Bồ, xã Đạo Đức
- Phía Nam giáp xã Tân Thành (Bắc Quang).
- Phía Đông giáp giáp thị trấn Việt Lâm.
- Phía Tây giáp xã Quảng Ngần.
- Diện tích 3.774,35 ha, dân số năm 2015 là 4611 người.
Xã Việt Lâm được chia thành 8 thôn: thôn Lèn, thôn Hát, thôn Chung, thôn
Chang, thôn Dưới, thôn Lùng Sinh, thôn Vạt, thôn Việt Thành [20].
1.1.1.2. Đặc điểm địa hình
Xã Việt Lâm là một xã vùng thấp của huyện Vị Xuyên, có độ cao trung bình
từ 300 - 600 m, xã Việt Lâm có đường Quốc lộ 2 chạy qua hai thôn: Thôn Vạt và
thôn Việt Thành có đường liên xã đi xã Quảng Ngần, xã Cao Bồ [20].
1.1.1.3. Đặc điểm khí hậu, thời tiết
Thời tiết xã Việt Lâm được chia làm 2 mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô, mùa
mưa kéo dài từ tháng 4 trong năm đến hết tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3
năm sau. Lượng mưa trung bình từ 1.200mm – 2.200mm/năm có năm lên đến
3.000mm/năm, do địa hình và thời tiết phức tạp nên dễ gây ra lũ quét, bão lốc, mưa
đá và gây ngập úng tại một số thôn bản đe dọa nghiêm trọng đến tài sản tính mạng
của nhân dân trong xã [20].
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng
1.1.2.1. Dân số
- Tổng số hộ 1.107 hộ với 4.611 khẩu
- Số hộ nghèo: 57 hộ
- Số hộ gia đình có chủ hộ là nữ: 23 hộ
8
8
- Độ tuổi lao động: 2.583 người; trong đó: Nam 1.383 người, Nữ 1.200 người.
- Xã có 9 dân tộc anh em: Dân tộc Tày chiếm trên 70% dân số. Dân tộc Kinh
chiếm 20%. Còn lại là các dân tộc Hán, Nùng, Phà Thẻn, Giấy, Thái, Mông [20].
1.1.2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
+ Sản xuất nông nghiệp
- Về trồng trọt: Trong sản xuất lương thực, đã thực hiện thâm canh, tăng vụ,
chuyển dịch cơ cấu giống theo hướng năng suất, chất lượng. Các hộ dân đã tự giác
và tích cực đầu tư thâm canh, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhất
là mở rộng gieo trồng giống lúa lai, ngô lai,... nên sản xuất lương thực, rau, màu
tăng cả diện tích, năng suất và sản lượng. Một số cây trồng hàng hóa được đưa vào
sản xuất đem lại hiệu quả rõ rệt như: Thảo quả, rau trái vụ, hoa tươi,...
- Về chăn nuôi: Tổng đàn trâu 827 con, đạt 94% kế hoạch, giảm 02 con so
với cùng kỳ năm trước; đàn lợn 6.050 con, vượt 55,1% kế hoạch, tăng 30 con so với
năm 2014; đàn gia cầm 56.000 con, vượt 20,4% kế hoạch, giảm 4.000 con so với
năm trước; trồng cỏ 24 ha.
+ Lâm nghiệp
Thực hiện các chương trình dự án của tỉnh và hỗ trợ đầu tư của huyện, công
tác bảo vệ rừng, phục hồi tái sinh rừng và trồng rừng mới đạt kết quả cao. Tổng diện
tích rừng đã trồng 265,5/186 ha, vượt 42,7% kế hoạch, tỷ lệ cây sống đạt 85%.
+ Cơ sở hạ tầng, vật chất
- 8/8 thôn được đầu tư xây dựng nhà văn hóa cộng đồng
- 100% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia
Tổng số có 256 hộ có nhà kiên cố, nhà ở đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn
mới; có 872 nhà bán kiên cố, bên cạnh đó còn 05 nhà tre, tạm bợ, thiếu an toàn,...
+ Hệ thống giao thông
Đường trục xã đã bê tông hóa 75%, trong đó: 51% đường nội đồng và 75%
đường liên thôn cũng đã cứng hóa, đảm bảo giao thông thuận lợi.
+ Hệ thống thông tin liên lạc
Hiện toàn xã có 01 điểm bưu điện văn hóa và có hệ thống internet đến tận thôn.
9
9
1.1.3. Dịch vụ - thương mại
Được duy trì phát triển mở rộng tới các thôn, số hộ kinh doanh dịch vụ buôn
bán, chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp là 230 hộ, chiếm 20,6%. Các cơ sở sản
xuất công nghiệp như khai thác vật liệu xây dựng, chế biến chè, xưởng làm lá giang
thu hút giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động thu nhập tương đối ổn định tập
trung ở thôn Lùng Sinh, thôn Vạt, thôn Việt Thành. Duy trì thường xuyên phiên chợ
Vạt hoạt động vào chủ nhật hàng tuần đã thu hút được nhiều hộ kinh doanh, đáp
ứng đươc nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn và tăng thêm các
khoản thu phí cho ngân sách xã [20].
1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu ốc cạn
1.2.1. Ở ngoài nước
Trên thế giới việc nghiên cứu ốc cạn về khía cạnh phân loại học, đặc điểm
sinh học, phân bố và sinh sản đã được tiến hành khá sớm và rộng rãi ở nhiều quốc
gia thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và một số nước châu Á như: Nhật Bản,
Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan,…
Aristotle (384- 322 trước công nguyên) là một nhà khoa học người Hy Lạp
đã có nghiên cứu sớm nhất về ốc cạn, tiếp sau đó là nhà khoa học nổi tiếng
Linnaeus trong ấn phẩm “Hệ thống tự nhiên”, xuất bản lần đầu tiên năm 1735 đã
đưa ra được hệ thống phân loại sinh vật chuẩn xác hơn. Đây là giai đoạn khởi đầu
của nghiên cứu cơ bản về sinh vật nói chung và về ốc trên cạn nói riêng vì thế số
lượng nhà nghiên cứu còn ít, trong phạm vi nghiên cứu hẹp, chủ yếu thực hiện trong
các nhà bảo tàng và một số quốc gia Châu Âu. Bằng việc sắp xếp hệ thống tên cho
các bậc phân loại, Linnaeus (1758) [32] đã định tên cho ngành Thân mềm
(Mollusca), Cuvier (1795) [26] đã xác định tên cho lớp Chân bụng (Gastropoda).
Trong thế kỷ XVIII, kết quả nghiên cứu về ốc cạn chỉ mới dừng lại trong phạm vi
xây dựng hệ thống phân loại tới ngành và lớp là chủ yếu, các nghiên cứu sâu hơn về
giải phẫu học và phân loại tới giống, loài hầu như chưa làm được.
Thời kỳ phát triển mạnh của ngành khoa học nghiên cứu cơ bản về sinh vật
nói chung và ốc cạn nói riêng là từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XXI. Hầu hết
các phát hiện trong giai đoạn này có số lượng lớn, được công bố bởi nhiều nhà khoa
10
10
học, tiến hành trên phạm vi rộng khắp thế giới. Các nhà khoa học tiêu biểu thuộc
các nước Pháp, Anh, Đức, Hà Lan… đã tiến hành nghiên cứu ốc cạn ở Châu Á.
Nhiều công trình có ý nghĩa và có giá trị khoa học cao, tiêu biểu thuộc các tác giả:
Pfeiffer (1848-1877) [43]; Morlet (1886) [38]; Fischer và Dautzenberg (1904) [29];
Mabille (1887) [36],… Giai đoạn này nhiều bảo tàng trên thế giới đã thu thập được
một số khối lượng mẫu khổng lồ, các tác giả đã công bố được một số lượng lớn với
các mô tả chi tiết hơn về hình thái và giải phẫu. Đây có thể nói quá trình nghiên cứu
trong giai đoạn này đã tạo đà nghiên cứu sâu và rộng hơn về ốc cạn trên toàn thế
giới. Tuy nhiên vì kết quả nghiên cứu và các công bố trước đây (cả mẫu vật và tài
liệu in ấn) chỉ tập trung ở một số bảo tàng lớn trên thế giới nên việc tiếp cận và
sử dụng các tài liệu này còn hạn chế và không phổ biến.
Nghiên cứu về khu hệ ốc cạn của các nước châu Á cũng được quan tâm
nghiên cứu nhưng giữa các quốc gia có những nghiên cứu ở mức độ khác nhau.
Ở Lào và Campuchia đã được Crosse và Fischer công bố các dẫn liệu về ốc
cạn của từ năm 1863 cùng với dẫn liệu về nhóm trai ốc nước ngọt. Những nghiên
cứu ban đầu này là những hoạt động khảo sát chung trong cả vùng Đông Dương
[25]. Các dẫn liệu này về sau được bổ sung bởi Mabille và Le Mesle (1866) [35],
Morlet (1886, 1891, 1892) [37], [38], [39], [40], [41], Dautzenberg và Hamonville
(1887) [27], Bavay và Dautzenber (1899, 1900, 1903, 1909) [21], [22], [23],
[24], Fischer (1904) [29],... Thành phần loài được tìm thấy và công bố trong các
công trình nghiên cứu chung về trai ốc nước ngọt, ở cạn và ở biển của vùng Đông
Dương từ đầu thế kỷ XIX tới năm 1900 đã được tổng hợp trong công trình tổng
quan của Fischer (1891) [28] về danh mục và phân bố địa lý của ốc ở cạn, nước
ngọt và ốc sống ở biển. Tiếp sau đó, có trong báo cáo của Fischer và Dautzenberg
thuộc đoàn khảo sát Pavie tiến hành trong thời gian 1879-1895, danh mục thống kê
của các tác giả ghi nhận 448 loài và phân loài. Thành phần loài được bổ sung về sau
bởi nhiều chuyên gia và số loài ghi nhận cho khu vực này khoảng 810 loài.
Ở Trung Quốc Khu hệ Thân mềm Chân bụng được công bố bởi nhiều tác giả,
nhưng tiêu biểu là: Fischer và Dautzenberg (1904) [29], Wiktor và ctv. (2000) [49]. Yen
Teng Chieng (1941) đã phát hiện được 949 loài Thân mềm Chân bụng, thuộc 126
11
11
giống, xếp trong 21 họ [50]. Nghiên cứu có tính tổng quan về ốc cạn của Đài Loan
được Hsieh Bo Chuan, Hwang Chung Chi và Wu Shu Ping công bố năm 2006 [30],
với 182 loài và phân loài, thuộc 29 họ, 7 bộ, 2 phân lớp. Trong số các họ xác định
được, Clausiliidae (54 loài) và Cyclophoridae (21 loài) là những họ phong phú nhất.
Ở Thái Lan các dẫn liệu về ốc cạn được công bố bởi Solem (1965) [45], Panha
(2009) [42] với 421 loài và phân loài, thuộc 133 giống, 30 họ. Năm 2009, nghiên cứu
có tính tổng quan về khu hệ ốc cạn của Thái Lan được công bố bởi Panha và ctv,
công trình này ghi nhận có 800 loài, thuộc 133 giống, sắp xếp vào 30 họ.
Hiện nay, Thân mềm Chân bụng đang là đối tượng được khai thác rất nhiều ở
các nước trên thế giới. Pháp là một trong những quốc gia nuôi ốc sên từ những năm
80 của thế kỉ XX. Điều này vừa mang lại những giá trị kinh tế rất lớn cho Pháp vừa
có tác dụng trong việc bảo tồn nguồn gen của ốc sên. Sản lượng ốc sên của Pháp lên
tới 40.000 tấn năm. Tuy nhiên các cơ sở chế biến của Pháp vẫn phải nhập khẩu ốc
sên từ các nước khác như: Hi Lạp, Indonesia, Thổ Nhĩ Kì, Cộng hòa Séc,… Từ
những năm 1988, Pháp đã nhập khẩu khoảng 7,427 tấn ốc sên, trung bình 33,42
Francs/kg, như vậy giá trị nhập khẩu tương đương 248,2 triệu Francs và xuất khẩu
khoảng 1.891 tấn trung bình 52,43 Francs kg tương đương 99,145 triệu Francs, Van
Benthem Jutting, W.S. S. (1954) [46].
1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cùng với ốc nước ngọt, ốc cạn cũng đã được điều tra nghiên cứu
từ giữa thế kỉ XIX. Các dẫn liệu đầu tiên về ốc cạn ở Việt Nam đã có trong các công
trình khảo sát về ốc cạn vùng Đông Dương của Souleyet trong thời gian từ 1841 –
1842, trong đó đã ghi nhận một số loài ốc cạn ở miền Trung Việt Nam (tìm thấy ở
Đà Nẵng) như: Streptaxis aberratus Souleyet, S. deflexus Souleyet, Eulota
touranenis Souleyet... dẫn theo Đặng Ngọc Thanh (2008) [19].
Trong thời gian nửa đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu ốc cạn cũng như các
nhóm ốc khác ở Việt Nam và Đông Dương nói chung hầu như bị ngừng lại, do chiến
tranh, ngoại trừ một số ít công trình khảo sát kết hợp với địa chất ở các đảo Hoàng
Sa, Bạch Long Vĩ và một số điểm khác ở Bắc Bộ. Phải tới sau chiến tranh, cùng với
các nhóm động vật khác, ốc cạn mới tiếp tục được chú ý nghiên cứu, tuy muộn hơn,
12
12
bắt đầu bằng một số công trình khảo sát đầu tiên về thành phần và phân bố ốc cạn ở
một số khu vực phía Bắc Việt Nam như: Pu Luông, Cúc Phương, Phủ Lý, Hạ Long,
Cát Bà, Cẩm Phả của một số chuyên gia nước ngoài (Vermeulen và Maassen, 2003)
[47] trong chương trình khoa học quốc tế FFI. Năm 2006, Maassen Wim J. M [33]
công bố 4 loài ốc mới là: Arinia angduensis, Arinia loumboensis, Eotrobilops
infrequens, Hemiplecta esculenta. Sau một năm tác giả Maassen W. J. M. và
Gittenberger. E (2007) [34] đã công bố thêm 3 loài ốc cạn mới là: Leotacme cuongi,
Oospira duci, Atraophaedusa smithi, thuộc họ Clausiliidae ở phía Bắc Việt Nam....
Ngoài các tác giả nước ngoài nghiên cứu về ốc cạn, các tác giả ở Việt Nam đã
tiến hành nghiên cứu từ năm 2005, đó là Nguyễn Xuân Đồng, Nguyễn Quý Tuấn,
Hoàng Đức Đạt [7] và đã bước đầu đề cập đến 2 loài ốc núi: Cyclophorus anmiticus,
Cyclophorus martesianus đang được dùng làm thực phẩm ở núi Bà Đen, Tây Ninh.
Theo đánh giá của Đặng Ngọc Thanh (2008) [19], ở Việt Nam các tác giả đã
phát hiện được 776 loài ốc cạn. Theo công bố mới nhất (5/2011), bộ
Stylommatophora trong phân lớp Pulmonata gồm 477 loài và phân loài (96 giống,
20 họ). Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, nhóm ốc cạn ở Việt Nam hiện nay
chưa được nghiên cứu đầy đủ về các vấn đề cơ bản: thành phần loài, đặc điểm phân
bố, sinh học và sinh thái cũng như các vấn đề nghiên cứu về ứng dụng. Vì vậy cần
tăng cường nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay. Thành phần loài ốc ở cạn ở Việt
Nam đã biết hiện nay bao gồm các loài ốc cạn đã thống kê được trong 3 giai đoạn
tính từ đầu thế kỷ XIX cho tới năm 2008.
Bảng 1.1. Tổng hợp số loài ốc cạn ở Việt Nam đã thống kê được
Giai đoạn công bố
1840 –1900
13
Số loài đã
Số loài bổ sung
công bố
448
Nguồn số liệu
448
Fischer et Dautzenberg, 1904
1901 –1975
103
82
Gude, 1909; Jaeckel, 1950;
Saurin, 1955,1960; Szekerles,
1969; Varga, 1963
Sau 1975
259
246
Vermeulen et Maassen, 2003
Tổng số
810
776
13
Năm 2010, Đinh Phương Dung [5] đã xác định 50 loài và đặc điểm phân bố
của ốc cạn ở khu vực Tây Trang, Điện Biên; trong đó có 35 loài mới chỉ gặp ở Tây
Trang mà chưa gặp ở nơi khác tại Việt Nam. Cùng năm này, Nguyễn Thị Ngọc Anh
[1] cung cấp 48 loài ốc cạn, trong đó có 36 loài chưa gặp ở nơi nào khác tại Việt
Nam ở khu vực núi Hàm Rồng, Thanh Hóa. Đến năm 2011, Nguyễn Thị Nhàn [9]
trong nghiên cứu về thành phần loài và đặc điểm phân bố của ốc cạn ở Thúc Thủy,
An Khang, thị xã Tuyên Quang, đã xác định 58 loài, thuộc 18 họ.
Từ năm 2010 đến 2012, Đỗ Văn Nhượng và cộng sự đã bước đầu cung cấp
dẫn liệu ốc cạn tại xóm Dù thuộc vườn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ (44 loài) [12];
núi đá vôi Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội (23 loài) [11] núi Voi, An Lão, Hải Phòng (36
loài) [13]; khu vực Tam Đảo, Vĩnh Phúc (29 loài) [16]… trong đó có bổ sung 58
loài mới cho khu hệ ốc cạn Việt Nam.
Tại Sơn La, Phùng Thị Ngọc (2014) [10], đã xác định ở khu vực xã Cò Nòi,
huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La có 45 loài ốc cạn thuộc 38 giống, 16 họ, 3 bộ và 2 phân
lớp. Trong đó phân lớp Có phổi chiếm ưu thế hơn với 30 loài (chiếm 66,67%), phân
lớp Mang trước có 15 loài (chiếm 33,33%). Trong 17 họ đã ghi nhận ở khu vực
nghiên cứu, Cyclophoridae đa dạng nhất với 10 loài (chiếm 22,22%) và 8 giống
(21,62%). Xét về số lượng cá thể, họ Ariophantidae chiếm ưu thế với 1224 cá thể
(chiếm 26,09%). So với các khu vực nghiên cứu khác, đề tài có số loài chung với
hang Thẳm Bó cao nhất (10 loài), tiếp đến là Khu bảo tồn thiên nhiên Copia (9 loài),
cuối cùng là khu vực Tây Trang – Điện Biên (8 loài). Ốc cạn phân bố ở các sinh cảnh
có sự khác biệt. Sinh cảnh rừng trên núi đá vôi chiếm ưu thế nhất với 37 loài, 32
giống, 15 họ. Tiếp đến là sinh cảnh đất trồng trên nền rừng 31 loài, 21 giống, 15 họ.
Sau cùng là hang đá vôi với 25 loài, 21 giống, 11 họ.
1.3. Giới thiệu tổng quan về ốc cạn
1.3.1. Đặc điểm phân loại
Các loài ốc cạn được phát hiện có thể xác định ngay dựa vào các đặc điểm
hình thái của vỏ, các dấu hiệu được sử dụng nhiều trong mô tả, sự xoắn của vỏ
ốc là tính chất phức tạp trong vỏ ốc. Sự tiến hóa hay thoái hóa của dạng ống đã
tạo nên vỏ xoắn quen gọi là vòng xoắn. Các vòng xoắn chụm lại ở giữa trục
14
14
(axis), trục này chạy xuyên suốt trung tâm gọi là trụ giữa (central pillar) của vỏ.
Vòng xoắn có thể rộng nhanh hay chậm và được tách ra thành đường liên tục gọi
là đường xoắn (suture). Một vài loài vỏ mỏng có đường thứ sinh hay một đường
rộng (broad), thêm vào một dãy mờ đục (opaque) bên cạnh đường xoắn như
đường xoắn kép. Hầu như trong các mẫu vỏ, vòng xoắn rộng nhất là vòng xoắn
cuối (last whorl). Đỉnh của vòng xoắn (apex), đối diện với đáy (base). Phần mở
ra bên ngoài của vỏ gọi là miệng vỏ (aperture) (Nguyễn Thị Nhàn, 2011 [9]; Đỗ
Văn Nhượng và Ngô Thị Minh, 2011 [14]).
• Vỏ ốc
Vỏ ốc là một ống rỗng dài chứa cơ thể ốc, cuộn vòng quanh một trục tạo nên
các vòng xoắn. Vỏ ốc có thể lớn, trung bình hay nhỏ. Hình dáng vỏ rất đa dạng có
thể là hình cầu, hình nón, dạng xoắn, hình trụ, dạng con quay dạng quay dạng xoắn
dài, dạng cuộn trong,... Vỏ có thể dày hay mỏng, chắc chắn hay không trong suốt
hay mờ đục. Vỏ có màu sắc rất đa dạng, mỗi loài, thậm chí mỗi cá thể trong loài có
màu sắc khác nhau. Màu sắc trên vỏ ốc cạn thường được trang trí ở hầu hết theo
kiểu các dãy băng xoắn màu hẹp hay rộng hay có sọc. Vỏ có thể không có trang trí
màu gọi là không màu. Vỏ có thể đục hay mờ và bóng láng hay xỉn. Dạng trong
suốt như một dạng kết hợp giữa mờ và bóng láng giống như mảnh thủy tinh. Màu
sắc cùng với các hoa văn gặp ở hầu hết các loài ốc cạn có thể đặc trưng cho các taxa
bậc giống hay phân giống. Trong cùng một loài, vẫn có sự sai khác đáng kể về màu
sắc và hoa văn trên vỏ ốc, nguyên nhân có thể do môi trường sống, yếu tố mùa
trong năm và đáng chú ý là giai đoạn còn non có nhiều thay đổi so với trưởng thành
(Thái Trần Bái, 2004 [2]; Đỗ Văn Nhượng và Ngô Thị Minh, 2011 [14]; Đặng Ngọc
Thanh, 2008 [19]).
Vỏ thường xoắn hình hoặc xoắn trong một mặt phẳng, có khi có nắp vỏ
(vẩy), hoặc không có nắp vỏ. Vỏ có thể bị tiêu giảm ở nhiều mức độ: Vỏ không
chứa đủ phần thân (giống Carinaria), vỏ bé và một phần bị vạt áo phủ (giống
Aplysia), vạt áo phủ kín vỏ bé ở trong (giống Aplysia, sên trần Limax), vỏ tiêu giảm
chỉ còn vụn đá vôi rải rác (sên trần Arion) hoặc mất hoàn toàn dấu vết của vỏ (Thái
Trần Bái, 2004 [2]; Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004 [4]).
15
15
Hình 1.1. Cấu tạo ngoài của vỏ ốc cạn
Thông thường vỏ cuộn có thể được mô tả như sau: Dạng chóp dài (elongate tapering) có phía bên vuốt thon rộng cho tới đỉnh. Dạng gần trụ (subcylindric) gần
như dạng cylindric nhưng cạnh bên không song song. Dạng hình trụ (cynlindric) có
hình trụ, các rãnh xoắn gần như vuông góc với cạnh bên và có đỉnh vỏ dày. Dạng
nón ôvan (conic - ovate) có dạng nón trứng. Dạng gần ôvan (subovate) có dạng gần
ôvan, phía bên của vòng xoắn lồi hơn. Dạng ôvan dài (elongate - ovate). Dạng xoắn
ốc dẹt (depressed - heliciform) có vỏ ngắn nhưng rộng. Dạng xoắn ốc (heliciform)
có chiều cao và chiều rộng xấp xỉ nhau. Dạng xoắn ốc nón (conic - heliciform) cũng
giống dạng heliciform nhưng có các vòng xoắn hình côn nhiều hơn (Đỗ Văn
Nhượng và cs, 2011 [15]; Đỗ Văn Nhượng và Ngô Thị Minh, 2011 [14]; Đặng
Ngọc Thanh, 2008 [19]).
• Đỉnh vỏ
Đỉnh vỏ là điểm khởi đầu của các vòng, là nơi hình thành các vòng xoắn đầu
tiên của vỏ (còn gọi là vòng xoắn phôi), các vòng xoắn này thường rất nhỏ và nhắn.
Đỉnh vỏ có thể nhọn, tù hoặc tầy.
• Kích thước vỏ
Kích thước vỏ là đặc điểm dùng nhiều trong mô tả và nhận dạng các taxon
bậc, loài, giống. Các số đo quan trọng về kích thước của vỏ ốc cạn gồm: chiều cao
16
16
hay chiều dài (tính từ đỉnh vỏ đến vành miệng, không tính bờ vành môi), chiều rộng
(khoảng cách rộng ngang lớn nhất), chiều cao tháp ốc, chiều cao và chiều rộng
miệng vỏ. Dựa vào kích thước vỏ có thể phân chia ốc cạn thành: nhóm kích bé
(dưới 20 mm) và nhím kích thước lớn (trên 20 mm).
• Các vòng xoắn
Các vòng xoắn bao gồm các vòng xoắn tính từ đỉnh vỏ tới vòng xoắn cuối
cùng, trừ lỗ, miệng. Các vòng xoắn có thể là thuận hay ngược chiều kim đồng hồ,
có nhiều loài ốc xoắn ngược và có nhiều loài có cả hai kiểu xoắn; tròn đều, phồng
lên hay phình ra ở phần dưới. Các vòng xoắn có khi nhẵn, có khía; gờ dọc, gờ vòng
hay gờ hình cánh cung. Trên các vòng xoắn có thể có hay không có hoa văn trang
trí, đường viền có gai hay nốt sần, có lông hoặc không (Đỗ Văn Nhượng và Ngô
Thị Minh, 2011 [14]; Đặng Ngọc Thanh, 2008 [19]). Số vòng xoắn của vỏ ốc cũng
thay đổi từ con non đến con trưởng thành (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004 [4]).
• Miệng vỏ
Miệng vỏ là nơi vỏ ốc thông với bên ngoài. ở vùng miệng vỏ có thể phân biệt
bờ trục (bờ trong hay bờ ngoài) và vành miệng ngoài (bờ ngoài hay bờ trên). Có thể
phân biệt góc trên và góc dưới lỗ miệng vỏ. Hình dạng lỗ nguyệt thay đổi; có thể
xiên, bầu dục, hình thoi, hình thang, hình ovan, hình bá nguyệt, hình quả lê,.. Bờ
viền của miệng là môi, được chia thành bốn khu vực: bên ngoài môi, gốc môi (basa
lip), trụ môi (columellar lip) và môi trong vách (parietal lip). Trong hầu hết các vỏ,
môi trong vách không phân biệt, được tách rời hay nối liền đi trước vòng xoắn và
chỉ với một lớp mỏng có thể chai. Phía ngoài và gốc môi trong đặc thù có thể dày,
loe ra hay cuộn lại. Miệng có thể một hay nhiều hơn các mấu chìa ra gọi là răng, tên
của nó có thể tùy theo vị trí của chúng. Gờ vành miệng ngoài có thể kiên tục hay
ngắt quãng ở bờ trụ. Lỗ miệng có nắp miệng hay không (Nguyễn Thị Nhàn, 2011
[9]; Đỗ Văn Nhượng và Ngô Thị Minh, 2011 [14]).
• Trụ ốc và lỗ rốn
Trụ ốc là do các vòng xoắn chập lại với nhau tạo nên. Trụ ốc có thể rỗng và
mở ra ngoài gần miệng tạo thành lỗ rốn, có khi trụ ốc lại đặc không tạo lỗ rốn. Lỗ
rốn có thể rộng hay hẹp, có thể nông hay sâu. Trong phân loại và nhận dạng, có thể
17
17
phân biệt các dạng lỗ rốn: dạng đóng, dạng viết lõm. Ngoài tỷ lệ giữa kích thước lỗ
rốn so với chiều rộng vỏ cũng là đặc điểm rất có giá trị chẩn loại. Lỗ rốn được hình
thành do trụ ốc rỗng và mở ra ngoài gần miệng vỏ, có khi trụ ốc không rỗng vì thế
vỏ không có lỗ rốn. Trong định loại và nhận dạng, có thể phân biệt 3 dạng lỗ rốn:
dạng đóng, dạng vết lõm và dạng mở (rộng hoặc hẹp). Ngoài ra, tỷ lệ giữa kích
thước lỗ rốn so với chiều rộng vỏ là đặc điểm rất có giá trị chẩn loại.
Hình 1.2. Hình dạng các kiểu lỗ rốn
Đỗ Văn Nhượng và Ngô Thị Minh (2011) [15]
1.3.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái học
Trên thế giới hiện nay, đặc điểm sinh học và sinh thái học của ốc cạn ngày
cành được chú ý nghiên cứu, đặc biệt là những loài có giá trị thực tiễn và những loài
thường xuyên gây hại. Các loài ốc cạn phân bố rộng ở nhiều dạng địa hình và sinh
cảnh khác nhau. Trên môi trường cạn, ốc và sên trân thường ưa sống ở những nơi
ẩm ướt, giàu mùn bã thực vật, rêu và tảo. Kích thước cơ thể của ốc cạn dao động
trong khoảng tương đối lớn, từ một hoặc vài mm (ở họ Vertiginidae, Euconulidae)
hàng chục cm (Camaena, Achatina, Amphidromus) (Thái Trần Bái, 2004 [2];
Nguyễn Văn Đĩnh, 2005 [6]). Phần lớn các loài ốc cạn trong lớp Mang trước thường
đơn tính, trong khi ở phân lớp Có phổi thì lưỡng tính. Đối với các loài ốc can đơn
tính, có ít sự sai khác về hình thái ngoài giữa con đực và con cái, tỷ lệ đực cái trong
quần thể cũng thường ít giao động (Thái Trần Bái, 2004 [2]; Nguyễn Xuân Đồng và
cộng sự, 2005 [7]).
Trong số các môi trường sống, rừng tự nhiên rừng trên núi đá granit, đá vôi
có nhiều yếu tố thuận lợi cho ốc cạn sinh sống, tầng thảm mục dày, độ ẩm cao, có
18
18
nhiều khe đá ẩm ướt, hàm lượng canxi cao giúp hình thành lớp vỏ. Vào mùa mưa,
các hoạt động kiếm ăn, sinh sản diễn ra mạnh hơn. Trong khi đó với mùa lạnh và
khô, do môi trường sống không thuận lợi (về nhiệt độ, độ ẩm, thức ăn…) chúng có
thời kỳ ngừng hoạt động (ngủ đông). Nhiều loài trong nhóm ốc có phổi, lỗ miệng
không có nắp miệng được bít kín bằng một màng được làm bằng chất nhày do
chúng tiết ra (Nguyễn Xuân Đồng và cộng sự, 2005 [7]; Phan Địch Lân, 1983 [8]).
Đặc điểm phân bố theo vành đai độ cao của ốc cạn phụ thuộc vào điều kiện
sống như nhiệt độ, độ ẩm, thức ăn, nguyên liệu tạo lớp vỏ. Ở vùng núi, phần lớn các
loài ốc cạn tập trung phân bố (cả số lượng loài và số lượng cá thể trong mỗi loài) ở
khu vực chân núi và sườn núi, tính đa dạng giảm rõ rệt ở khu vực đỉnh núi (Nguyễn
Xuân Đồng và cộng sự, 2005 [7]). Các sinh cảnh tự nhiên như rừng, núi, đá vôi,
hang động... có rất nhiều yếu tố thuận lợi cho ốc cạn sinh sống. Ngược lại, môi
trường tác nhân như nương rẫy, khu dân cư, đất trồng trên nền rừng, đất trồng cây
lâu năm, đất trồng cây ngắn ngày... Tính đa dạng sinh học giảm đi do tác động của
con người thường theo hướng bất lợi cho sinh vật, nhiều đặc tính của môi trường bị
biến đổi. Phân bố của ốc cạn giữa sinh cảnh tự nhiên và nhân tác có sự khác nhau rõ
rệt. Sự phát tán của ốc cạn thường mang tính chủ động, chúng di chuyển và mở
rộng khu vực sống và tìm môi trường thích hợp để sinh sống. Trong tự nhiên, các
loài ốc cạn thường hoạt động mạnh vào ban đêm.
19
19
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là loài ốc cạn (Mollusca: Gastropoda).
+ Địa điểm: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu tại xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên,
tỉnh Hà Giang.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ 30/09/2015 đến 30/01/2016.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Cách tiếp cận
Cách tiếp cận của đề tài là sử dụng số liệu thực nghiệm được điều tra trên ô
mẫu định vị có điều kiện sinh thái và điều kiện thảm thực vật khác nhau để phát
hiện và phân tích các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh đặc điểm phân bố của
ốc cạn với những nhân tố có ảnh hưởng chủ yếu.
2.2.2. Phương pháp kế thừa
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây làm cơ sở cho việc so sánh, phân
tích và phục vụ cho việc viết tổng quan tài liệu.
Kế thừa các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở xã Việt Lâm,
huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
2.2.3.1. Vật liệu, vật dụng
Túi ni lông (PE) có kích thước 80 x 50 cm; túi ni lông zip kích thước 20 x 10
cm; xô nhựa 20 lít; khung mẫu 1m x 1m, sàng rây mẫu các loại có kích thước thay
đổi từ 10 mm đến 1,0 mm (1,0, 5,0 và 10 mm); xẻng xúc đất; kẹp gắp; nhãn, bút chì;
máy định vị (GPS), kính lúp cầm tay, kính lúp để bàn; thước kẹp đo kích thước; cồn
tuyệt đối; máy ảnh kỹ thuật số, hộp nhựa nhỏ có nắp kín để lưu trữ mẫu. Hóa chất
o
dùng trong nghiên cứu gồm dung dịch cồn tuyệt đối, cồn 90 để lưu trữ mẫu [48].
20
20
2.2.3.2. Vị trí lấy mẫu
Hình 2.1. Vị trí các ô tiêu chuẩn để thu thập mẫu
21
21
Các vị trí thu mẫu:
Vị trí
VT1
Tọa độ
104.9357"Đ. 22.6250" B
Vị trí
Đất vườn nhà
VT2
104.9382 Đ. 22.6525" B
Đất trống
VT3
104.9369"Đ. 22.6793" B
Rừng trên núi đá
vôi
VT4
104.9268"Đ. 22.6545" B
Đất nương rẫy
VT5
104.9142"Đ. 22.6653" B
Rừng trên núi đất
Mô tả vị trí lấy mẫu
Trồng các loài hoa màu, chịu nhiều tác động
của con người.
Gần vị trí khai thác mỏ, chịu nhiều tác động
của con người, bãi khai thác bị bỏ hoang,
không có độ che phủ mặt đất, trong đất có
nhiều đá sỏi khó canh tác.
Có địa hình dốc hiểm trở, không chịu nhiều
tác động của con người, có thảm mục tương
đối dầy, có độ ẩm cao.
Địa hình dốc, trồng chủ yếu là cây keo và một
số cây công nghiệp.
Có địa hình dốc, chịu nhiều tác động của con
người, chủ yếu là các cây gỗ vừa và nhỏ, đang
trưởng thành.
Tại mỗi điểm thu mẫu, xác định các sinh cảnh đặc trưng theo thảm thực vật,
theo chất nền, theo độ cao, theo mục đích sử dụng đất,…. để thu mẫu.
- Thu mẫu định tính
Mẫu định tính được thu ngẫu nhiên ở tất cả các sinh cảnh khác nhau, phạm vi
thường rộng hơn so với mẫu định lượng với mục đích bổ sung thành phần loài cho
mẫu định lượng. Vì vậy, khi thu mẫu phải thu tất cả các mẫu (kể cả mẫu đã chết chỉ
còn lại vỏ) để không bỏ sót thành phần loài. Mẫu được thu trên mặt đất, trong tầng
thảm mục, lớp đất mặt, trên thân hoặc lá cây. Các bước được tiến hành thu mẫu theo
hướng dẫn của Vermeulen và Maassen (2003) [47], cụ thể như sau:
Đối với mẫu có kích thước lớn có thể nhặt bằng tay hoặc dùng panh kẹp để
thu mẫu. Đối với các mẫu nhỏ dùng sàng có mắt lưới cỡ 3 mm, 5 mm, 8 mm bằng
kim loại để sàng các lá mục, bên dưới sàng được hứng bằng tấm nilong sáng màu.
Nếu có ốc nhỏ bám dưới lá mục, khi sàng mẫu sẽ rơi xuống và có thể dùng kính lúp
cầm tay hoặc nhìn bằng mắt nhặt mẫu. Đối với các mẫu ốc nhỏ lẫn trong đất hoặc
mùn ở các kẽ đá hoặc trong hang, có thể sử dụng phương pháp cho đất hoặc thảm
mục vào chậu nước để mẫu nổi lên và vớt lấy mẫu.
22
22
Tất cả các mẫu thu định tính đều được bảo quản trong các túi vải hoặc túi
nilong riêng, có ghi ký hiệu cẩn thận theo từng sinh cảnh và các lưu ý cần thiết khác
(nếu có).
- Thu mẫu định lượng
Thu mẫu định lượng là thu toàn bộ mẫu hiện diện trong diện tích mặt đất có
mẫu. Sau khi xác định được vị trí cần thu mẫu, dùng thước dây lập 01 ô tiêu chuẩn
có diện tích là 100 m2. Giá trị của mẫu định lượng cho biết mật độ, sự phong phú về
số lượng hoặc sự đa dạng về thành phần loài của khu vực nghiên cứu (Vermeulen và
Maassen, 2003) [47]. Mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành lập 5 ô dạng bản với diện tích 1 m 2
(1 x 1 m). Tiến hành thu tất cả các mẫu có trong ô đó, nếu có lẫn thảm mục thì phải
dùng sàng để loại bỏ những vụn lá và tiến hành thu mẫu như phương pháp thu định
tính. Số lượng ô tùy vào tình hình cụ thể của các mẫu thu thập sơ bộ bước đầu, để
quyết định đến số lượng và diện tích ô vuông.
Hình 2.2. Sơ đồ bố trí ô dạng bản trong ô tiêu chuẩn
Sau khi xác định được vị trí cần thu mẫu, dùng thước dây xác định ô tiêu
chuẩn theo diện tích ở trên, thu tất cả các mẫu có trong ô đó, nếu có lẫn thảm mục
thì phải dùng sàng để loại bỏ những vụn lá và tiến hành thu mẫu như phương pháp
thu định tính. Số lượng ô tùy vào tình hình cụ thể của các mẫu thu thập sơ bộ bước
đầu, để quyết định đến số lượng và diện tích ô Nếu số lượng mẫu ốc cạn ít, thưa
thớt không thể thu trên diện tích 1 m2 được, có thể thu với diện tích lớn hơn. Mẫu
ốc cạn thu được ở mỗi ô vuông cho vào một túi nilong hoặc một lọ đựng mẫu có đề
23
23
nhãn. Nhãn ghi các thông tin: Địa điểm, thời gian, tọa độ, sinh cảnh, đặc điểm thảm
thực vật… hoặc các lưu ý cần thiết khác (nếu có).
- Điều tra theo tuyến
- Lập tuyến điều tra đi qua các các kiểu sinh cảnh đại diện, trên các kiểu địa
hình (núi đất và núi đá, nương rẫy, vườn nhà, đất trống).
- Quan sát bằng mắt trong phạm vi quan sát chiều ngang và chiều dọc. Tìm
kiếm các loài trên cạn, trên mặt đất, vách đá, trên lá, cành cây... Bắt bằng tay, thu
các loài và nhóm loài đại diện (vỏ hoặc con sống), chụp ảnh các loài đại diện đã thu
thập. Mẫu vật và ảnh được ghi các thông tin kèm theo như địa điểm, tọa độ, ngày
tháng, sinh cảnh, độ cao, địa hình.
2.2.4. Phương pháp phỏng vấn người dân địa phương và tham khảo tài liệu
Tiến hành phỏng vấn người dân địa phương, cán bộ quản lý - bảo tồn về tình
trạng, giá trị và sử dụng của ốc cạn ở xã Việt Lâm. Lựa chọn 15 người dân địa
phương và 5 cán bộ xã để phỏng vấn về tình hình khai thác, sử dụng, buôn bán, bảo
tồn ốc cạn ở KVNC. Thông tin phỏng vấn theo hai dạng là thu thập thông tin qua
điện thoại và phỏng vấn trực tiếp.
Tham khảo tài liệu đã công bố về giá trị sử dụng làm thực phẩm, làm thuốc
và tình trạng hiện tại của chúng. Ngoài ra, tiến hành thu thập mẫu vật theo các tuyến
điều tra đại diện gồm các kiểu sinh cảnh chính, các kiểu địa hình thuộc các vùng
phân bố khác nhau về địa lý và độ cao.
2.2.5. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
- Phương pháp xử lý mẫu
Đối với mẫu vật chết (vỏ ốc) tiến hành rửa sạch, phơi hoặc sấy và bảo quản
khô trong các túi nilong hoặc hộp nhựa đựng mẫu.
Đối với mẫu ốc cạn còn sống bao gồm cả sên trần và ốc trên cạn được ngâm
vào nước trong một đêm (khoảng 12 - 24 giờ) hoặc metanol loãng để cho ốc chết từ
từ, duỗi hết các phầu đầu, chân và các tua cảm giác, sau đó tiến hành định hình và
bảo quản trong dung dịch cồn 900
- Phương pháp phân tích và định loại
Hầu hết các loài ốc cạn có thể định loại dựa vào các đặc điểm hình thái của
vỏ như: Kích thước, hình dạng, màu sắc, số vòng xoắn, rãnh xoắn, đỉnh vỏ, miệng
24
24
vỏ... được thể hiện qua các số đo hay tỷ lệ của chúng. Ngoài ra, một vài đặc điểm có
giá trị tham khảo để định loại như sự phân bố, các khía, hoa văn trên vỏ ốc.
Hình 2.3. Đặc điểm cấu tạo ngoài của vỏ ốc cạn
- Phân tích, tổng hợp số liệu và tổng hợp kết quả
Thông tin về phân bố của loài được căn cứ vào tần suất xuất hiện và mức độ
phong phú của loài trên các tuyến và điểm điều tra. Sử dụng các phần mềm ứng
dụng để tính toán và xử lý số liệu, sơ đồ, bản đồ, biểu đồ để mô phỏng phân bố của
chúng, diễn giải.
Dựa vào số liệu thống kê về thành phần loài ở khu vực nghiên cứu để so
sánh, đánh giá mức độ đa dạng, phong phú của chúng ở KVNC và với một số khu
vực lân cận. Các cách phân tích số liệu trong ô vuông:
+ Mật độ: V (số cá thể /m2) = Σn/ΣS
Trong đó :
Σn: Là tổng số cá thể trong các ô nghiên cứu
ΣS: Là tổng diện tích các ô nghiên cứu.
+ Độ đa dạng của loài (D’): Được tính theo chỉ số đa dạng Simpson
(Simpson’s Index of Diversity).
D’ = 1- Σpi2
Trong đó: (D’) chỉ số đa dạng Simpson. D’ trong khoảng từ 0 - 1. D’ có
giá trị càng lớn thì càng đa dạng.
pi: Tỉ lệ cá thể loài i trên tổng số các cá thể (pi =(ni/N)[31].
25
25