Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Chương 15 hiệp ước vốn basel I, basel II và luật đảm bảo khả năng thanh toán solvency II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 47 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH

Chương 15: HIỆP ƯỚC VỐN BASEL I, BASEL II VÀ
LUẬT ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG THANH TOÁN
SOLVENCY II

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 3

1


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xem lại sự phát triển trong các quy định ngân hàng từ thập niên 1980 đến 2000. Bắt
đầu từ Hiệp ước Basel 1988 (hiện được biết là Basel I), bổ sung sửa đổi vào năm
1996. Sau đó chuyển sang thảo luận về Basel II, được xem là một sự thay đổi lớn
trong các quy định và được nhiều ngân hàng áp dụng trên toàn thế giới trong
khoảng 2007. Cuối cùng là Luật đảm bảo khả năng thanh tốn Solvency II, là một
khn khổ pháp lý mới cho các công ty bảo hiểm, dự kiến sẽ được Liên Minh Châu
Âu EU thực hiện vào năm 2016.

CẤU TRÚC BÀI THUYẾT TRÌNH
1. Lý do phải đặt ra những quy định cho ngân hàng
2. Bối cảnh ra đời Basel I
3. Basel I (Basel 1988/BIS 1988)
4. Sự chật chội của Basel I và tiền đề ra đời bản Điều chỉnh 1996
5. Điều chỉnh Hiệp ước 1996 (1996 Amendment/BIS 98)
6. Basel II ra đời như thế nào?
7. Basel II – Sự thay đổi lớn


8. Luật đảm bảo khả năng thanh toán II – Solvency II
9. Tóm tắt và so sánh các phiên bản Basel I, 1996 Amendment và Basel II
10. Vietnam và Basel
11. Tham khảo thêm (phần chi tiết về 1 số đo lường khơng thuyết trình)

BÀI CHI TIẾT
Chương này bắt đầu bằng việc xem lại sự phát triển trong các quy định ngân hàng
từ thập niên 1980 đến 2000. Bắt đầu từ Hiệp ước Basel 1988 (hiện được biết là
Basel I), rồi được bổ sung sửa đổi vào năm 1996. Sau đó chuyển sang thảo luận về
Basel II, được xem là một sự thay đổi lớn trong các quy định và được nhiều ngân
hàng áp dụng trên toàn thế giới trong khoảng 2007. Cuối cùng là Luật đảm bảo khả
năng thanh toán Solvency II, là một khuôn khổ pháp lý mới cho các công ty bảo
hiểm, dự kiến sẽ được Liên Minh Châu Âu EU thực hiện vào năm 2016.
LÝ DO PHẢI ĐẶT RA NHỮNG QUY ĐỊNH NGÂN HÀNG

2


Mục đích chính của những quy định ngân hàng là để đảm bảo ngân hàng có đủ vốn
để đương đầu với những rủi ro gặp phải. Khơng thể hồn tồn loại trừ khả năng một
ngân hàng sụp đổ, tuy nhiên các chính phủ muốn đưa ra một xác suất vỡ nợ rất nhỏ
cho bất kì ngân hàng nào. Bằng cách này, họ hi vọng sẽ tạo ra một môi trường kinh
tế ổn định để các cá nhân và doanh nghiệp đặt niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
Thật cám dỗ khi tranh luận: “Quy định ngân hàng là không cần thiết. Thậm chí
khơng cần quy định gì, ngân hàng cũng có thể quản lý rủi ro một cách thận trọng và
luôn phấn đấu để giữ một mức vốn tương xứng với rủi ro mà họ đang gặp phải.”
Không may, lịch sử đã khơng ủng hộ quan điểm này. Có rất ít nghi ngờ là các quy
định giữ vai trò quan trọng trong việc tăng nguồn vốn của ngân hàng và khiến các
ngân hàng ý thức hơn về những rủi ro của họ.
Như đã thảo luận ở phần 2.3, các chính phủ đưa ra những chương trình bảo hiểm

tiền gửi để bảo vệ cho những người gửi tiền. Nếu khơng có bảo hiểm tiền gửi, các
ngân hàng chịu rủi ro quá mức liên quan đến việc vốn nền của họ sẽ gặp khó khăn
để thu hút tiền gửi. Tuy nhiên, tác động của bảo hiểm tiền gửi tạo ra một môi trường
làm cho những người gửi tiền ít sáng suốt hơn. Một ngân hàng có thể chịu rủi ro lớn
mà khơng làm mất nguồn tiền gửi cơ bản của mình. Điều cuối cùng mà một chính
phủ muốn là tạo ra một chương trình bảo hiểm tiền gửi mà kết quả là các ngân hàng
sẽ chịu nhiều rủi ro hơn. Do đó, điều cần thiết là bảo hiểm tiền gửi đi kèm theo
những quy định liên quan đến những yêu cầu về vốn.
Mối quan tâm lớn của các chính phủ là hệ thống rủi ro là gì. Đây là rủi ro mà sự sụp
đổ của một ngân hàng lớn sẽ kéo theo sự sụp đổ của các ngân hàng lớn khác và cả
hệ thống tài chính. Cách mà điều này xảy ra được mô tả trong phần Rủi ro hệ thống
bên dưới. Khi một ngân hàng hay tổ chức tài chính lớn khác vướng phải khó khăn
tài chính, chính phủ gặp khó khăn trong quyết định. Nếu chính phủ cho phép tổ
chức tài chính sụp đổ, họ đang đặt cả hệ thống tài chính chịu rủi ro. Cịn nếu họ bảo
lãnh cho tổ chức tài chính, thì lại là gửi đến thị trường những tín hiệu sai. Có một sự
nguy hiểm là những tổ chức tài chính lớn sẽ ít thận trọng hơn trong việc kiểm soát
rủi ro nếu họ biết họ “q lớn để ngã” và chính phủ sẽ ln giải cứu họ.
Trong cuộc khủng hoảng thị trường năm 2007 và 2008, quyết định giải cứu rất
nhiều tổ chức tài chính lớn ở Mĩ và Châu Âu đã được thực hiện. Tuy nhiên, Lehman
Brothers được cho phá sản vào tháng 9, 2008. Có thể là, chính phủ Mĩ muốn thị
trường rõ ràng rằng gói cứu trợ cho các tổ chức tài chính lớn khơng phải tự động.
Tuy nhiên, quyết định để Lehman Brothers phá sản đã bị chỉ trích vì làm cho cuộc
khủng hoảng tín dụng tồi tệ hơn.
Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống là rủi ro mà một sự sụp đổ của một tổ chức tài chính sẽ tạo ra một
“hiệu ứng lan truyền” dẫn đến sự sụp đổ của các tổ chức tài chính khác và đe dọa

3



đến sự ổn định của hệ thống tài chính. Có một lượng lớn giao dịch không qua quầy
(trực tiếp) giữa các ngân hàng. Nếu ngân hàng A sụp đổ, ngân hàng B có thể chịu
tổn thất lớn trên các giao dịch đang có với ngân hàng A. Điều này có thể khiến
ngân hàng B sụp đổ theo. Ngân hàng C có nhiều giao dịch chưa chi trả với cả ngân
hàng A và B, có thể chịu tổn thất lớn và trải qua khó khăn tài chính nghiêm trọng,
và cứ thế.
Hệ thống tài chính cịn tồn tại rất tốt sau khủng hoảng như Drexel năm 1990,
Barings năm 1995, và Lehman Brothers năm 2008, nhưng các nhà quản lý tiếp tục
được quan tâm. Trong cuộc khủng hoảng thị trường năm 2007 và 2008, rất nhiều tổ
chức tài chính lớn đã được cứu, chứ khơng được phép phá sản, vì chính phủ lo ngại
về rủi ro hệ thống.
BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA BASEL I
Basel I được soạn thảo năm 1982 dưới áp lực cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
Latinh đầu những năm 1980 xuất phát từ tăng vọt nợ vay nước ngoài dẫn đến
nguy cơ vỡ nợ.
1. Trong thập niên 1970, các nước Mỹ la tinh vay một lượng lớn vốn từ bên
ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng. Nợ nước ngoài tăng từ 75 tỷ đô-la vào năm
1975 lên 315 tỷ đô-la vào năm 1983, bằng 50% GDP của các nước này. Phần
nợ gốc và lãi vay phải trả năm 1982 lên đến 66 tỷ đô-la, tăng từ 12 tỷ đô-la
năm 1975…
2. Ba nước là Mexico, Argentina và Brazil rơi vào nguy cơ vỡ nợ
(Goodhart,2011). Các ngân hàng không cho các nước Mỹ la linh gia hạn nợ
hay quay vòng vốn vay… Điều này dẫn tới lo ngại rằng mức độ dự trữ vốn
của các NHTW Mỹ là không đủ. Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật về nâng
cao tỷ lệ vốn tối thiểu đối với Ngân hàng Mỹ (International Lending
Supervision Act-ILSA 1983), nhưng họ đồng thời cũng lo ngại rằng sự căng
thẳng về cạnh tranh và sự xung đột về kiểm sốt giữa những ngân hàng đa
quốc gia có thể xảy ra. Vì vậy, BCBS đã soạn thảo Basel I nhằm đưa ra một
sự thống nhất chung về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trên thế giới.
Trước năm 1988, các nhà quản lý xác định nhu cầu vốn bằng cách xác định tỷ lệ tối

thiểu vốn với tài sản hoặc tỷ lệ tối đa tài sản với vốn. Vào cuối năm 1980, cả giám
sát ngân hàng và bản thân ngân hàng ý thức rằng những thay đổi là cần thiết. Giao
dịch chứng khoán phái sinh tăng nhanh, các ngân hàng cạnh tranh trên toàn cầu và
cần tạo một sân chơi bình đẳng bằng cách làm cho các quy định trở nên thống nhất
trên toàn cầu.
1. Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có
những dấu hiệu cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các ngân hàng.

4


Trước năm 1988, các quy định ngân hàng trong một quốc gia có xu hướng
quy định lượng vốn ngân hàng bằng cách thiết lập mức tối thiểu cho tỉ lệ vốn
trên tổng tài sản. Tuy nhiên, định nghĩa về vốn và tỉ lệ được đề cập khác
nhau ở mỗi quốc gia. Một số quốc gia nghiêm túc thực hiện các quy định
của mình hơn một số khác. Theo sự phát triển, các ngân hàng cạnh tranh trên
toàn cầu và một ngân hàng đang hoạt động trong một quốc gia có quy định
về vốn lỏng lẻo được xem là có lợi thế cạnh tranh hơn một ngân hàng khác
đang hoạt động trong một quốc gia có các quy định về vốn được thực thi chặt
chẽ hơn.
Ngoài ra, những khoản vay từ những ngân hàng quốc tế lớn cho các quốc gia
kém phát triển hơn như Mexico, Brazil và Argentina tạo ra rủi ro lớn, cũng
như những trị chơi kế tốn thỉnh thoảng được dùng cho những rủi ro này đã
bắt đầu đưa ra các câu hỏi về mức vốn thích hợp.
2. Một vấn đề khác là các loại giao dịch ở các ngân hàng trở nên phức tạp
hơn.
Thị trường phái sinh phi tập trung cho các sản phẩm như hoán đổi lãi suất,
hoán đổi tiền tệ, và quyền chọn ngoại hối đã và đang phát triển nhanh chóng.
Những hợp đồng phái sinh làm tăng rủi ro tín dụng mà các ngân hàng phải
chịu. Rõ ràng là việc quy định giá trị tổng tài sản khơng cịn là một chỉ báo

tốt cho tổng rủi ro đang chịu. Một phương pháp phức tạp hơn so với đặt
ra mức tỉ lệ vốn trên tổng tài sản kế toán tối thiểu, là cần thiết.
Xem xét một ví dụ như một hợp đồng hốn đổi lãi suất. Nếu đối tác trong
giao dịch hoán đổi lãi suất vỡ nợ khi hợp đồng có giá trị dương đối với ngân
hàng và có giá trị âm với đối tác, ngân hàng phải chịu mất tiền. Rủi ro tiềm
năng tương lai của các phái sinh đã không được phản ánh trong tài sản
được báo cáo của ngân hàng. Kết quả là, khơng có ảnh hưởng nào đến
mức tài sản được ngân hàng báo cáo và do đó khơng ảnh hưởng đến
lượng vốn mà ngân hàng được yêu cầu giữ.
Ủy ban Basel được thành lập năm 1974. Ủy ban gồm đại diên từ các quốc gia
(G10): Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Luxembourg, Hà Lan, Thụy Điển,
Thụy Sĩ, Anh và Mĩ. Ủy ban được nhóm họp thường xuyên ở Basel, Thụy Sĩ, dưới
sự bảo trợ của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS). Kết quả quan trọng đầu tiên của
việc nhóm họp này là một văn kiện tựa đề “Đồng thuận quốc tế về đo lường vốn và
tiêu chuẩn vốn”. Đây được gọi là “Hiệp ước BIS 1988” hay chỉ là “Hiệp ước”. Sau
nó được gọi là Basel I.
HIỆP ƯỚC BIS 1988 – BASEL I
Hiệp ước BIS 1988 là nỗ lực đầu tiên để thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế về an tồn
vốn dựa trên rủi ro. Nó đã chịu nhiều chỉ trích do quá đơn giản và phần nào chuyên

5


chế. Thực tế, Hiệp ước đã là một thành tựu to lớn. Nó được tất cả 12 thành viên của
Ủy ban Basel kí nhận và mở đường cho những sự phát triển quan trọng trong nguồn
lực ngân hàng về đo lường, hiểu biết và quản lý rủi ro.
Basel I xác định rủi ro tín dụng cho cả rủi ro trên bảng cân đối kế toán lẫn ngoại
bảng. Điều này liên quan đến tài sản tính theo tỷ trọng rủi ro gia quyền (tài sản có
rủi ro). Tài sản có rủi ro cho một khoản vay trên bảng cân đối được tính tốn bằng
cách nhân giá trị với tỷ trọng rủi ro cho của khách hàng. Trong trường hợp các phái

sinh như hoán đổi, ngân hàng trước tiên được yêu cầu tính tốn khoản tín dụng
tương đương. Tài sản có rủi ro có được bằng cách nhân khoản tín dụng tương
đương với tỷ trọng rủi ro của khách hàng. Ngân hàng được yêu cầu giữ vốn tối thiểu
bằng 8% tổng tài sản có rủi ro.
Basel I yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối
thiểu để có thể đối phó với những rủi ro. Rủi ro, mà cụ thể ở Basel I là rủi ro tín
dụng, được đo lường thơng qua tỉ lệ Cooke.
1. Tỷ lệ Cooke: Đổi mới quan trọng trong Hiệp ước 1988 là tỉ lệ Cooke (tỉ lệ
vốn dựa trên rủi ro).
Tỉ lệ Cooke xem xét rủi ro tín dụng trên cả bảng cân đối kế toán và ngoại
bảng. Tỉ lệ này dựa trên tài sản có rủi ro của ngân hàng (risk-weighted
assets). Đây là một phương pháp đo lường tổng rủi ro tín dụng của ngân
hàng.
Đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã
được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Rủi ro tín dụng có thể được chia thành 3 nhóm:
(1) Nhóm phát sinh từ tài sản trên bảng cân đối kế toán (không bao gồm
phái sinh).
Mỗi tài sản trên bảng cân đối kế toán được gán với một tỷ trọng rủi ro
phản ánh rủi ro tín dụng của tài sản đó. Một mẫu chuẩn của mức rủi ro
trong Hiệp ước được trình bày trong bảng 15-1. Tiền mặt và các chứng
khoán được chính phủ các quốc gia thuộc OECD phát hành được xem là
hầu như khơng có rủi ro và một số có rủi ro bằng 0. Các khoản nợ của
doanh nghiệp có mức rủi ro 100%. Khoản vay của các ngân hàng và cơ
quan chính phủ ở các quốc gia thuộc OECD có mức rủi ro 20%. Khoản
thế chấp nhà ở khơng bảo hiểm có mức rủi ro 50%. Tổng tài sản có rủi ro
cho N khoản mục trên bảng cân đối kế toán bằng nhau.

6



Bảng 15.1: Tỷ trọng rủi ro cho những khoản mục
trên bảng cân đối kế toán
Mức rủi ro
(%)

Mục tài sản

0

Tiền mặt; vàng thỏi; các quốc gia OECD (Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế) như trái phiếu kho bạc,
các khoản thế chấp nhà ở đảm bảo.

20

Ngân hàng OECD và các tổ chức khu vực cơng
OECD như chứng khốn do các cơ quan chính phủ
Mĩ phát hành; hay chính quyền địa phương.

50

Các khoản vay thế chấp nhà ở khơng có bảo hiểm

100

Tất cả tài sản còn lại như trái phiếu doanh nghiệp và
nợ ở các quốc gia kém phát triển; ngân hàng khơng
thuộc OECD.


Tổng tài sản có rủi ro cho N khoản mục trên bảng cân đối kế tốn bằng:

(Trong đó,

tiền vốn vay của khoản mục thứ i và

là tỷ trọng rủi ro

của khoản mục đó).
Ví dụ 15.1
Tài sản của một ngân hàng bao gồm $100 triệu khoản
vay doanh nghiệp, $10 tỉ trái phiếu chính phủ OECD,
và $50 triệu các khoản thế chấp nhà ở. Tổng tài sản có
rủi ro là
Hay $125 triệu.

(2) Nhóm phát sinh từ các khoản mục ngồi bảng cân đối (không bao gồm
phái sinh).

7


Bao gồm các chấp phiếu ngân hàng, các khoản bảo lãnh và các cam kết
cho vay. Tổng giá trị tín dụng được tính bằng cách gán một hệ số chuyển
đổi vào số tiền vốn vay của cơng cụ tài chính.
Những cơng cụ tài chính từ quan điểm tín dụng được xem như tương tự
các khoản vay, như chấp phiếu ngân hàng có hệ số chuyển đổi 100%.
Một số khác như các thể thức phát hành tín phiếu (trong đó một ngân
hàng đồng ý một doanh nghiệp có thể phát hành thương phiếu ngắn hạn
về các điều khoản trước thỏa thuận trong tương lai), có hệ số chuyển đổi

thấp.
(3) Nhóm phát sinh từ các phái sinh phi tập trung.
Với một sản phẩm phái sinh phi tập trung như một hoán đổi lãi suất hay
một hợp đồng kì hạn, tổng giá trị tín dụng tương đương được tính là

Trong đó

là giá trị hiện tại của phái sinh đối với ngân hàng,

bổ sung, và

là hệ số

là số tiền vốn gốc. Kì hạn đầu tiên trong phương trình

(15.1) là rủi ro hiện tại. Nếu bên đối tác vỡ nợ ngay hơm nay và

dương,

thì hợp đồng là một tài sản của ngân hàng và ngân hàng phải chịu tổn thất
lượng . Nếu bên đối tác vỡ nợ hôm nay và

âm, hợp đồng là tài sản của

bên đối tác và sẽ khơng có lợi hay lỗ gì cho ngân hàng. Do đó, rủi ro của
ngân hàng là

. Giá trị bổ sung,

, là một khoản chi cho khả


năng chịu rủi ro gia tăng trong tưởng lai. Ví dụ về hệ số bổ sung

trình

bày ở bảng 15-2.
Bảng 15-2: Các hệ số bổ sung
như phần trăm vốn khái toán của sản phẩm phái sinh
Thời gian đáo
hạn còn lại
(năm)

Lãi suất

Tỉ giá
ngoại tệ
và vàng

Kim loại
quý trừ
vàng

Vốn cổ
phần

Hàng hóa
khác

<1


0.0

1.0

6.0

7.0

10.0

1-5

0.5

5.0

8.0

7.0

12.0

>5

1.5

7.5

10.0


8.0

15.0

8


Ví dụ 15.2
Một ngân hàng tham gia vào một hốn đổi lãi suất $100 triệu với vòng
đời còn lại trong 4 năm. Giá trị hiện tại của hoán đổi là $2.0 triệu.
Trong trường hợp này, giá trị bổ sung là 0.5% của vốn gốc nên tổng
giá trị tín dụng tương đương là $2.0 triệu cộng thêm $0.5 triệu hoặc
$2.5 triệu.
Giá trị tín dụng tương đương phát sinh từ cả nhóm mục thứ hai hay thứ
ba của rủi ro được nhân với mức rủi ro của đối tác để tính tốn tài sản có
rủi ro. Mức rủi ro tương tự trong bảng 15.1 ngoại trừ mức rủi ro đối với
doanh nghiệp 0.5 chứ khơng phải 1.0.
Ví dụ 15.3:
Xét lại lần nữa ngân hàng trong ví dụ 15.2. Nếu hốn đổi lãi suất là với
một doanh nghiệp, tài sản có rủi ro là

hay $1.25 triệu. Còn

nếu với một ngân hàng OECD, tài sản có rủi ro là

hay $0.5

 Đặt tất cả lại với nhau, tổng tài sản có rủi ro cho một ngân hàng với N
khoản mục trên bảng cân đối và M khoản mục ngoài bảng cân đối là


(Ở đây,

là vốn gốc của tài sản thứ trên bảng cân đối và

ro của tài sản;

là mức rủi

là tổng giá trị tín dụng tương đương cho sản phẩm phái

sinh thứ hoặc khoản mục ngoài bảng khác và

mức rủi ro của đối tác

cho khoản mục thứ )

2. Yêu cầu vốn: Hiệp ước yêu cầu các ngân hàng giữ lại lượng vốn bằng ít
nhất 8% tài sản có rủi ro.
Vốn có 2 thành phần (đây là thành tựu cơ bản của Basel I, đã đưa ra được
định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng):

9


(1) Vốn cấp 1. Bao gồm các khoản mục như vốn chủ sở hữu và cổ phiếu ưu
đãi khơng tích lũy vĩnh viễn (Lợi thế thương mại được trừ vào vốn chủ sở
hữu).
(2) Vốn cấp 2. Đơi khi cịn được gọi là Vốn bổ sung. Gồm các công cụ như
cổ phiếu ưu đãi tích lũy vĩnh viễn, các loại trái khốn 99 năm và nợ thứ
cấp với kì hạn ban đầu trên 5 năm.

Vốn chủ sở hữu là loại vốn quan trọng nhất vì nó hấp thu thua lỗ. Nếu vốn
chủ sở hữu lớn hơn thua lỗ, ngân hàng có thể tiếp tục hoạt động. Nếu vốn
chủ sở hữu ít hơn phần thua lỗ, ngân hàng mất khả năng thanh tốn. Trong
trường hợp sau, vốn cấp 2 trở nên thích hợp hơn. Vì nó là thứ cấp đối với
người gửi tiền, nên sẽ cung cấp một bước đệm cho người gửi tiền. Nếu ngân
hàng đang trong giai đoạn căng thẳng sau khi vốn cấp 1 đã sử dụng hết, thua
lỗ nên được giữ/bán khống đầu tiên ở vốn cấp 2, và chỉ khi nào không đủ
người gửi tiền.
Hiệp ước yêu cầu ít nhất 50% số vốn cần thiết (đó là, 4% tài sản có rủi ro) là
vốn cấp 1. Hơn nữa, Hiệp ước cịn u cầu 2% tài sản có rủi ro là cổ phiếu
phổ thông. (Lưu ý rằng Ủy ban Basel đã cập nhật định nghĩa cơng cụ tài
chính có đủ điều kiện là vốn cấp 1 và định nghĩa cổ phiếu phổ thông ở Basel
III).
Các ban giám sát ngân hàng ở một số quốc gia yêu cầu ngân hàng giữ
lượng vốn tối thiểu nhiều hơn quy định do Ủy ban Basel đề ra và một số
ngân hàng tự đặt chỉ tiêu vốn còn cao hơn ban giám sát ngân hàng quy
định.
SỰ CHẬT CHỘI CỦA BASEL I VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI BẢN ĐIỀU CHỈNH
HIỆP ƯỚC 1996
1. Các đề xuất chính sách G-30
Những thị trường phái sinh sớm nhất là thị trường quyền chọn của hoa tulip ở Hà
Lan vào thế kỷ thứ 17 và thị trường giao sau lúa gạo ở Nhật Bản trong cùng thế kỷ.
Năm 1970, khi các điều kiện kinh tế và việc định giá sản phẩm phái sinh phát triển
đã tạo nền tảng cho thị trường phái sinh tăng trưởng ngoạn mục. Năm 1972, sàn
Chicago Mercantile Exchange (CME) bắt đầu giao dịch các hợp đồng giao sau về
tiền tệ. Từ những năm 1980 , Giao dịch hoán đổi và sản phẩm ngoại lai bắt đầu tăng
trưởng thông qua thị trường phi tập trung.
Cùng với sự phát triển của thị trường phái sinh, năm 1993, một nhóm cơng tác bao
gồm những người tiêu dùng, các dealer, viện nghiên cứu, kế toán viên và luật sư
tham gia vào sản phẩm phái sinh đã công bố một báo cáo chứa 20 đề xuất quản lý

cho các dealer và người tiêu dùng sản phẩm phái sinh và 4 đề xuất cho các nhà lập
pháp, điều tiết và giám sát. Báo cáo được dựa trên bảng khảo sát chi tiết 80 dealer

10


và 72 người tiêu dùng toàn thế giới. Bảng khảo sát bao gồm cả bảng câu hỏi và
phỏng vấn sâu. Bản báo cáo khơng phải là tài liệu pháp lí, nhưng nó có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của hoạt động quản lí rủi ro.
Một bản tóm tắt ngắn gọn về các đề xuất quan trọng như sau:
(1) Các chính sách của một cơng ty về quản trị rủi ro cần được xác định rõ ràng
và được ban quản lí cấp cao phê duyệt, nêu lên ý tưởng tại hội đồng cấp
giám đốc. Các quản lí ở tất cả các cấp đều cần phải thực thi các chính sách
này.
(2) Vị thế sản phẩm phái sinh cần phải được định giá theo giá thị trường (tức là,
định giá lại bằng cách sử dụng một mơ hình phù hợp với giá thị trường) ít
nhất một lần một ngày.
(3) Những dealer phái sinh nên đo lường rủi ro thị trường bằng cách sử dụng
một phương pháp phù hợp như VaR (giá trị chịu rủi ro). Giới hạn chịu rủi ro
thị trường nên được thiết lập
(4) Các dealer phái sinh nên thực hiện các bài kiểm tra street test để xác định
khoản lỗ tiềm năng trong điều kiện thị trường khắc nghiệt.
(5) Chức năng quản lí rủi ro cần phải được lập ra để nó độc lập với hoạt động
kinh doanh.
(6) Rủi ro tín dụng phát sinh từ giao dịch phái sinh nên đánh giá dựa trên giá
trị thay thế hiện tại của vị thế hiện có và những chi phí tiềm năng trong
tương lai.
(7) Rủi ro tín dụng đối với bên đối tác nên được tổng hợp theo cách phản ánh
các thỏa thuận thanh toán netting được thực thi.
(8) Các cá nhân chịu trách nhiệm cho việc lập ra giới hạn tín dụng phải độclập

với những người tham gia giao dịch.
(9) Các dealer và người tiêu dùng nên cẩn thận đánh giá cả chi phí và lợi ích của
các kĩ thuật giảm thiểu rủi ro tín dụng như tài sản đảm bảo và downgrade
trigger. Đặc biệt, họ cần đánh giá năng lực của chính họ và các đối tác để đáp
ứng yêu cầu dòng tiền của các downgrade trigger.
(10)
Mỗi cá nhân với những kĩ năng và kinh nghiệm thích hợp nên được
phép có trách nhiệm trong giao dịch phái sinh, giám sát việc giao dịch, thực
hiện các chức năng văn phòng liên quan đến giao dịch, và tương tự…
(11)
Nên có các hệ thống thích hợp trong thu thập dữ liệu, xử lí, giải quyết
và quản lí báo cáo.

11


(12)
Các dealer và người tiêu dùng nên giải thích cho các giao dịch phái
sinh được sử dụng để quản lí rủi ro để đạt đến một sự nhất quán trong xử lí
nhận biết thu nhập giữa cơng cụ tài chính và rủi ro đang được quản lí.
2. Netting
Hiệp ước Basel 1988 đã không đưa netting vào việc thiết lập yêu cầu về vốn.
Đến năm 1995, netting đã được kiểm nghiệm thành cơng ở tịa án nhiều quốc
gia. Kết quả là, Hiệp ước 1988 đã được sửa đổi cho phép các ngân hàng giảm
tổng mức tín dụng tương đương của mình khi các hiệp định netting song
phương được thực thi được đặt ra.
Những người tham gia thị trường phái sinh phi tập trung có truyền thống kí một
hiệp định khung của ISDA (Hiệp hội giao dịch phái sinh và hoán đổi quốc tế) kiểm
soát các giao dịch phái sinh của họ. Từ “netting” dùng để chỉ một điều khoản trong
hiệp định khung, trong đó nói rằng trường hợp vỡ nợ tất cả các giao dịch được

xem là một giao dịch đơn lẻ. Điều này nghĩa là, nếu một công ty vỡ nợ trên một
giao dịch được kiểm soát trong hiệp định khung, thì đều vỡ nợ trên tất cả các giao
dịch mà hiệp định khung kiểm soát.
Netting và hiệp định khung ISDA sẽ được thảo luận ở chương 18 và 20. Ở chương
này, chúng ta lưu ý rằng netting có tác dụng làm giảm đáng kể rủi ro tín dụng.
Xét một ngân hàng có 3 giao dịch hốn đổi chưa thanh tốn với bên đối tác. Các
giao dịch có giá trị +$24 triệu, -$17 triệu và +$8 triệu đối với bên ngân hàng. Giả sử
rằng bên đối tác đang trải qua giai đoạn tài chính khó khăn và khơng có khả năng
thực hiện nghĩa vụ thanh tốn của mình. Đối với bên đối tác, giá trị tương ứng của 3
giao dịch này là -$24 triệu, +$17 triệu và -$8 triệu. Nếu khơng có netting, bên đối
tác sẽ khơng thanh tốn ở giao dịch đầu tiên, giữ lại giao dịch thứ hai, và khơng
thanh tốn ở giao dịch thứ ba. Giả sử không phục hồi được, ngân hàng sẽ thua lỗ
$32 triệu (=24+8). Nếu có netting, bên đối tác bị buộc yêu cầu khơng thanh tốn
ln giao dịch thứ hai. Lúc này, ngân hàng sẽ thua lỗ $15 triệu (= 24-17+8).
Tổng quát hơn, giả sử một tổ chức tài chính có một danh mục đầu tư N sản phẩm
phái sinh chưa thanh toán với một đối tác cụ thể và giá trị hiện tại của phái sinh thứ
là . Nếu khơng có netting, rủi ro của tổ chức tài chính trong trường hợp vỡ nợ
hơm nay là

Nếu có netting, rủi ro sẽ là

12


Nếu khơng có netting, rủi ro là việc thanh tốn cả danh mục phái sinh. Có netting,
rủi ro là việc thanh toán một phái sinh trong danh mục.
Hiệp ước Basel 1988 đã không đưa netting vào việc thiết lập yêu cầu về vốn. Từ
phương trình (15.1) giá trị tín dụng tương đương của một danh mục phái sinh với
một đối tác theo Hiệp ước là


Trong đó

là hệ số bổ sung cho giao dịch thứ và

là vốn gốc của giao dịch thứ

i.
Năm 1995, netting đã được kiểm nghiệm thành công ở tòa án nhiều quốc gia. Kết
quả là, Hiệp ước 1988 đã được sửa đổi cho phép các ngân hàng giảm tổng mức tín
dụng tương đương của mình khi các hiệp định netting song phương được thực thi
được đặt ra. Bước đầu tiên là tính tỉ lệ thay thế/ chuyển đổi ròng, NRR. Đây là tỉ lệ
của rủi ro hiện tại khi có netting trên rủi ro hiện tại khi khơng có netting:

Bảng 15.3: Danh mục phái sinh với một bên đối tác cụ thể
Giá trị hiện
Giao dịch

Vốn gốc,

tại,

Bảng 15.2
Giá trị bổ sung,

Hốn đổi lãi
suất 3 năm

1,000

-60


5

Kì hạn ngoại tệ
6 năm

1,000

70

75

Quyền chọn cổ

500

55

30

13


phiếu 9 tháng

Giá trị tín dụng tương đương được sửa đổi là

Ví dụ 15.4:
Xét ví dụ trong bảng 15.3, trong đó cho thấy một danh mục 3 phái sinh ở một ngân
hàng với bên đối tác cụ thể. Cột thứ ba thể hiện giá trị thị trường hiện tại của các

giao dịch và cột thứ tư là giá trị bổ sung được tính trong bảng 15.2. Rủi ro hiện tại
có netting là

. Rủi ro hiện tại khơng có netting là
. Tỉ lệ thay thế rịng NRR là

Tổng gía trị bổ sung,

, là

. Giá trị tín dụng tương đương

khi có netting là

. Khơng có netting, giá

trị tín dụng tương đương là

. Giả sử bên đối tác là một ngân hàng

OECD có mức rủi ro 0.2. Điều này nghĩa là tài sản có rủi ro khi có netting là
. Khi khơng có netting là

.

ĐIỀU CHỈNH HIỆP ƯỚC 1996 (1996 Amendment)
Vào năm 1995, Ủy ban Basel đã đưa ra đề nghị tư vấn để sửa đổi Hiệp ước năm
1988 (The 1988 Accord) và được biết đến với tên gọi “Điều chỉnh Hiệp ước 1996”
(1996 Amendment). Sau đó đơi khi cịn được gọi là “BIS 98” vì điều chỉnh này
được thực thi vào năm 1998.


14


Điều chỉnh liên quan đến đảm bảo duy trì vốn tối thiểu cho rủi ro thị trường
(market risks) kết hợp với hoạt động kinh doanh mua bán tài sản tài chính
(trading activities).
1. Rủi ro tín dụng:
Chi phí vốn cho rủi ro tín dụng (the credit risk capital charge) theo Hiệp ước 1988
tiếp tục áp dụng tại bản Điều chỉnh Hiệp ước 1996 cho tất cả các khoản mục trên
bảng cân đối kế toán và ngoại bảng thuộc Sổ kinh doanh và Sổ ngân hàng, ngoại
trừ các mục trong Sổ kinh doanh bao gồm (a) chứng khoán nợ và chứng khoán vốn
kinh doanh và (b) hàng hóa và ngoại hối - Nhu cầu vốn đối với rủi ro tín dụng được
kết hợp với netting.
2. Rủi ro thị trường:
Điều chỉnh Hiệp ước 1996 đề xuất áp dụng chi phí vốn cho các rủi ro thị trường,
được định nghĩa là rủi ro thua lỗ trong bảng cân đối kế toán và ngoại bảng phát sinh
từ biến động giá thị trường.
• Hạch tốn theo giá thị trường (marking to market) là việc định giá lại
(revaluing) tài sản và nợ phải trả hằng ngày sử dụng mơ hình điều chỉnh theo
giá thị trường hiện tại. Hay cũng được gọi là kế toán giá trị hợp lý (fair value
accounting). Các ngân hàng được yêu cầu sử dụng kế toán giá trị hợp lý
cho mọi tài sản và khoản nợ được xác định cho mục đích kinh doanh mua
bán tài sản tài chính (trading purpose). Bao gồm hầu hết các sản phẩm phái
sinh, chứng khoán thị trường vốn, ngoại tệ và hàng hóa. Những khoản mục
này tạo thành những gì được gọi là Sổ kinh doanh của ngân hàng (the bank’s
trading book).
• Các ngân hàng khơng u cầu phải sử dụng kế toán giá trị hợp lý cho
những tài sản dự kiến nắm giữ dài hạn cho mục đích đầu tư. Những tài
sản này, trong đó bao gồm những khoản vay và một số chứng khoán nợ, tạo

thành những gì được gọi là Sổ ngân hàng (the banking book). Cho đến khi có
lý do để tin rằng việc trả nợ gốc (repayment of the principal) sẽ không được
thực hiện, chúng được xác định theo giá gốc (historical cost) (Xem phần
2.7).
Một ngân hàng có sự linh hoạt hơn trong loại vốn sử dụng bù đắp rủi ro
thị trường. Họ có thể sử dụng vốn cấp 1 hoặc cấp 2. Hay cũng có thể sử dụng
vốn cấp 3. Bao gồm nợ thứ cấp ngắn hạn (sort-term subordinated debt) với
kỳ đáo hạn gốc (original maturity) tối thiểu là 2 năm, khơng có bảo đảo và
thanh tốn đầy đủ (Vốn cấp 3 đã bị loại bỏ trong Basel III).
 Bản điều chỉnh đã đưa ra chi phí vốn cho các rủi ro thị trường kết hợp với
tất cả các khoản mục trong Sổ kinh doanh.

15


Đo lường rủi ro thị trường: Phương pháp chuẩn hóa và phương pháp mơ
hình nội bộ. Hầu hết những ngân hàng lớn ưu tiên sử dụng phương pháp mơ
hình nội bộ bởi vì nó phản ánh tốt hơn những lợi ích của đa dạng hóa và dẫn
đến những yêu cầu vốn thấp hơn.
• Cách tiếp cận theo phương pháp chuẩn hóa (standardized approach) ấn
định vốn riêng biệt cho mỗi chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, rủi ro ngoại
hối, rủi ro hàng hóa và quyền chọn. Khơng có tài khoản nào được đưa vào
mối tương quan giữa các loại công cụ khác nhau.
• Các ngân hàng tinh vi hơn với chức năng quản trị rủi ro được thiết lập tốt
được phép sử dụng phương pháp mơ hình nội bộ (internal model-based
approach). Điều này liên quan đến tính tốn VaR và chuyển đổi nó vào yêu
cầu vốn.
VaR được đo lường với khung thời gian 10 ngày và độ tin cậy 99% (tức là có 1%
khả năng thua lỗ vượt qua khoảng thời gian 10 ngày).
u cầu về vốn là:

max(VaRt−1,mc×VaRavg)+SRC (15.3)
Trong đó:
VaRt-1: VaR của ngày hôm trước
mc : hệ số nhân
VaRavg: VaR trung bình 60 ngày qua
SRC : Chi phí rủi ro cụ thể
o Thành phần đầu tiên trong phương trình (15.3) bao gồm những rủi ro liên
quan đến các biến thị trường như là lãi suất, tỷ giá, chỉ số chứng khoán và giá
hàng hóa. Giá trị tối thiểu cho m c là 3, những giá trị cao hơn có thể được nhà
quản lý áp cho một ngân hàng cụ thể nếu kiểm tra cho thấy những bất cập
trong mơ hình VaR của ngân hàng, sẽ được giải thích trong phần Backtesting.
Phương pháp đo lường VaR phổ biến nhất là mô phỏng lịch sử (historical
simulation). Như đã giải thích trong Chương 12, các ngân hàng hầu như ln
tính tốn VaR (1 ngày, 99%). Khi xây dựng Điều chỉnh Hiệp ước 1996, điều
chỉnh quy định VaR (10 ngày, 99%) có thể được tính bằng √10 x VaR (1
ngày, 99%). Điều này có nghĩa là: mc x VaRavg (10 ngày, 99%) = 3.16mc x
VaRavg (1 ngày, 99%).
o Thành phần thứ hai, SRC, bao gồm những rủi ro cụ thể của công ty như biến
động giá cổ phiếu hoặc chênh lệch lãi suất.

16


Giả sử một chứng khoán làm gia tăng SRC là một trái phiếu doanh nghiệp.
Có hai thành phần rủi ro của chứng khoán này: rủi ro lãi suất và rủi ro tín
dụng của cơng ty phát hành trái phiếu. Rủi ro lãi suất được tính trong thành
phần đầu tiên của phương trình (15.3); rủi ro tín dụng được tính bởi SRC.
Điều chỉnh Hiệp ước 1996 đề xuất tiếp cận phương pháp chuẩn hóa để tính
SRC, nhưng cho phép ngân hàng sử dụng mơ hình nội bộ điều chỉnh 1 lần
chấp thuận cho các mơ hình đã thơng dụng. Mơ hình nội bộ cho SRC liên

quan đến đo lường VaR (10 ngày, 99%) đối với rủi ro cụ thể. Điều chỉnh tính
tốn vốn bằng cách áp dụng một hệ số nhân tương tự như m c với VaR. Hệ số
nhân ít nhất phải là 4 và kết quả vốn ít nhất phải là 50% vốn được đưa ra bởi
tiếp cận phương pháp chuẩn hóa. Một phương pháp để tính SRC sẽ được đưa
ra trong phần 21.5.
3. Tổng vốn tối thiểu của một ngân hàng
Tổng vốn tối thiểu của một ngân hàng là tổng của (a) vốn để bù đắp rủi ro tín dụng
bằng 8% tài sản có rủi ro (RWA) và (b) vốn bù đắp rủi ro thị trường như được giải
thích ở trên.
Một RWA cần vốn bù đắp rủi ro thị trường được xác định bằng 12.5 (là nghịch đảo
của 8%) x yêu cầu vốn trong phương trình (15.3). Điều này có nghĩa là tổng số vốn
được yêu cầu cho rủi ro tín dụng và thị trường là:
Tổng vốn = 0.08 x (RWA rủi ro tín dụng + RWA rủi ro thị trường) (15.4)
4. Kiểm chứng mơ hình (Back-Testing)
Là một phần trong văn bản Điều chỉnh Hiệp ước 1996, Back-testing là phương pháp
để kiểm tra độ chính xác của các mơ hình mà ngân hàng sử dụng để đo lường rủi ro
thị trường. Bản chất của kỹ thuật này là để so sánh kết quả kinh doanh thực tế so
với các mơ hình đo lường rủi ro.
Điều chỉnh Hiệp ước 1996 yêu cầu VaR (1 ngày, 99%) mà một ngân hàng tính tốn
để kiểm chứng lại trong vịng 250 ngày trước, điều này liên quan đến ngân hàng
sử dụng phương thức hiện tại để đo lường VaR cho mỗi khoảng thời gian 250 ngày
gần nhất.
• Nếu tổn thất thực tế (actual loss) xảy ra trong một ngày lớn hơn ước lượng
VaR 1 ngày, một “ngoại lệ” được ghi lại và sử dụng để xác định mc.
• Nếu số lượng các trường hợp ngoại lệ trong 250 ngày trước là ít hơn 5, m c
thường được thiết lập bằng 3. Nếu số lượng các trường hợp ngoại lệ là 5, 6,
7, 8 hay 9, giá trị của mc được thiết lập tương ứng bằng 3.4, 3.5, 3.65, 3.75 và
3.85.

17



• Có một số ý kiến của các giám sát ngân hàng về việc sử dụng những hệ số
nhân cao hơn. Họ thường sẽ áp dụng khi các lý do cho các ngoại lệ được xác
định là do thiếu hụt trong sử dụng mơ hình VaR. Nếu những thay đổi vị thế
của ngân hàng trong ngày dẫn đến ngoại lệ, hệ số nhân lớn hơn nên được
xem xét, nhưng không phải được sử dụng. Khi lý do duy nhất được xác định
là may mắn, khơng có hướng dẫn được cung cấp cho người giám sát.
• Trong trường hợp số lượng các ngoại lệ là 10 hoặc nhiều hơn, Điều chỉnh
Hiệp ước Basel đòi hỏi số nhân được thiết lập là 4. Vấn đề 15.18 lưu tâm đến
những hướng dẫn trong ngữ cảnh các bài kiểm tra thống kê mà chúng tơi đã
thảo luận trong phần 12.10.
Các tính tốn thường thực hiện (a) bao gồm những thay đổi được thực hiện đối với
danh mục đầu tư vào ngày xem xét và (b) giả định rằng danh mục không thay đổi
vào ngày xem xét.
TIỀN ĐỀ VÀ SỰ RA ĐỜI BASEL II
Basel II được dự thảo năm 1999 sau cuộc khủng hoảng ngân hàng những năm 90.
Khi đó, vào đầu thế kỷ 20, kinh tế Mỹ đạt được tốc độ tăng trưởng cao, rất nhiều
người đầu tư vào thị trường cổ phiếu mà trong đó tiền vay chiếm một tỷ trọng rất
lớn (Tháng 8/1929, tổng số nợ vay chứng khoán lên đến 8,5 tỷ USD, lớn hơn tổng
lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế. Hệ số P/E bình quân của các cổ phiếu thuộc
chỉ số chứng khoán tổng hợp S&P lên đến 32,6 vào tháng 9/1929). Các ngân hàng
cũng đã sử dụng một tỷ lệ lớn tiền gửi để mua cổ phiếu. Khi khủng hoảng xảy ra,
công chúng đổ xô đến ngân hàng rút tiền dẫn đến sụp đổ cả hệ thống tài chính.
Cuộc khủng khoảng này gắn liền với ngày thứ Năm đen tối (24/10/1929) và ngày
thứ Ba đen tối (29/10/1929).
Thị trường tiền tệ càng phức tạp, các công cụ phái sinh phát triển mạnh và q trình
tồn cầu hóa mạnh mẽ đã dẫn tới sự phức tạp trong cả cơ cấu tài sản và cơ cấu vốn
của các NHTM. Do đó, việc Basel I quy định trọng số rủi ro cụ thể cho từng danh
mục đầu tư tại tất cả các ngân hàng G10 đã khơng cịn phù hợp. Ngồi ra, các rủi ro

về lãi suất, rủi ro về tỷ giá, và đặc biệt là rủi ro vận hành ngày càng lớn dẫn tới yêu
cầu phải có các quy định về vốn tối thiểu liên quan tới các rủi ro này.
Tháng 6 năm 1999, Ủy ban Basel đề xuất quy tắc mới, đã được biết đến là Basel II.
Chúng được sửa đổi vào tháng 1 năm 2001 và tháng 4 năm 2003. Một số nghiên
cứu tác động định lượng (QISs) được tiến hành trước khi áp dụng các quy tắc mới
để kiểm tra bằng cách tính tốn các u cầu vốn theo quy tắc mới. Bộ quy tắc chuẩn
được sự đồng ý của tất cả thành viên Ủy ban Basel và được cơng bố vào tháng 6
năm 2004. Sau đó được cập nhật vào tháng 11 năm 2005. Các quy tắc bắt đầu được
sử dụng từ năm 2007 sau một nghiên cứu thêm về tác động định lượng (QIS).

18


Các yêu cầu về vốn theo Basel II áp dụng cho các ngân hàng có “hoạt động quốc
tế”. Tại Mỹ có nhiều ngân hàng địa phương nhỏ và các quan chức Mỹ quyết định
rằng Basel II sẽ không áp dụng với họ (Những ngân hàng này được áp dụng theo
Basel IA, tương tự Basel I). Tại Châu Âu, tất cả ngân hàng, dù lớn hay nhỏ, đều
được điều chỉnh theo Basel II. Hơn nữa, Liên minh Châu Âu (EU) còn yêu cầu áp
dụng quy tắc Basel II đối với công ty chứng khoán tương tự như ngân hàng.
Basel II dựa trên ba trụ cột (pillar): (1) Yêu cầu vốn tối thiểu (Minimum Capital
Requirements); (2) Rà soát giám sát (Supervisory Review); (3) Kỷ luật thị trường
(Market Discipline)
1. Trụ cột 1 – Yêu cầu vốn tối thiểu
Yêu cầu chung từ Basel 1 là ngân hàng nắm giữ vốn tối thiểu bằng 8% tài
sản có rủi ro (RWA) tiếp tục được giữ nguyên.
Yêu cầu về vốn đối với một rủi ro cụ thể được tính trực tiếp thay vì cách thức
liên quan đến RWA, chúng được nhân với 12.5 để chuyển đổi thành RWA
tương đương (RWA-equivalent). Kết quả là:
Tổng vốn = 0.08 x (RWA rủi ro tín dụng + RWA rủi ro thị trường
+ RWA rủi ro hoạt động) (15.5)

Trong đó:
• u cầu vốn tối thiểu cho rủi ro tín dụng trong Sổ ngân hàng được tính
tốn theo cách mới, phản ánh rủi ro tín dụng của các khách hàng thơng
qua 3 phương pháp tiếp cận (Chuẩn hóa, IRB và IRB nâng cao)
• Yêu cầu vốn cho rủi ro thị trường được giữ ngun khơng đổi so với
Điều chỉnh Hiệp ước 1996
• Có một yêu cầu mới về vốn cho rủi ro hoạt động (operational risk). Đây
là yêu cầu trữ vốn phòng ngừa cho rủi ro mất mát xảy ra khi quy trình
hoạt động của nhà băng chệch khỏi quỹ đạo hoặc có một sự kiện không
lường trước như một cơ sở quan trọng bị cháy.
2. Trụ cột 2 - rà soát giám sát
Bao gồm cả định lượng và định tính các khía cạnh của cách thức quản lý rủi
ro trong một ngân hàng.
• Các kiểm sốt viên được u cầu đảm bảo ngân hàng có quy trình tại chỗ
để duy trì được vốn tối thiểu.
• Các ngân hàng dự kiến sẽ duy trì vốn tối thiểu lớn hơn để đảm bảo được
các biến động vốn và những khó khăn trong việc huy động vốn trong thời
gian ngắn.

19


• Ở các nước khác nhau, bộ nguyên tắc được phép tùy chỉnh một phần
trong cách áp dụng (vì vậy mà họ có thể sử dụng tài khoản theo điều kiện
địa phương) nhưng nhất quán chung trong việc áp dụng các quy tắc được
yêu cầu.
Trụ cột 2 chú trọng nhiều hơn về can thiệp sớm khi có vấn đề phát sinh.
Giám sát viên được yêu cầu phải làm nhiều hơn là chỉ đảm bảo mức vốn tối
thiếu theo yêu cầu của Basel II. Một phần vai trò của họ là khuyến khích các
ngân hàng phát triển và sử dụng kỹ thuật quản trị rủi ro tốt hơn và đo lường

những kỹ thuật này. Họ nên ước lượng những rủi ro không được đảm bảo bởi
Trụ cột 1 (vd : rủi ro tập trung) và tham gia đàm thoại chủ động với các ngân
hàng khi nhận ra thiếu hụt.
3. Trụ cột thứ ba - Kỷ luật thị trường
Kỷ luật thị trường địi hỏi ngân hàng phải cơng bố nhiều thơng tin về cách
thức họ phân bổ vốn và rủi ro. Ý tưởng ở đây là các ngân hàng sẽ phải chịu
thêm áp lực để đưa ra quyết định quản trị rủi ro khi các cổ đơng hiện tại và
tiềm năng có nhiều thơng tin về những quyết định đó.
NHỮNG THAY ĐỔI CHÍNH CỦA BASEL II
TRỤ CỘT 1: YÊU CẦU VỐN THEO RỦI RO TÍN DỤNG
Yêu cầu vốn tối thiểu cho rủi ro tín dụng trong Sổ ngân hàng được tính tốn theo
cách mới, phản ánh rủi ro tín dụng của các khách hàng.
Basel II quy định 3 cách tiếp cận đối với rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, Mỹ (trong đó,
như đã đề cập trước đó, đã chọn chỉ áp dụng Basel II đối với ngân hàng lớn) quyết
định rằng chỉ có tiếp cận IRB có thể được sử dụng.
• Cách tiếp cận chuẩn hóa (The Standardized Approach)
• Cách tiếp cận đánh giá nội bộ cơ bản – Tiếp cận IRB cơ bản (The
Foundation Internal Ratings Based (IRB) Approach)
• Cách tiếp cận đánh giá nội bộ nâng cao – Tiếp cận IRB nâng cao (The
Advanced IRB Approach)
1. Cách tiếp cận chuẩn hóa (The Standardized Approach)
Cách tiếp cận chuẩn hóa tương tự như Basel 1 ngoại trừ việc tính tốn tỷ trọng rủi
ro được cải tiến nhiều. Ngân hàng xác định trọng số rủi ro cho tài sản phụ thuộc vào
kết quả xếp hạng tín dụng từ các tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp.
Một số quy tắc mới được tóm tắt trong bảng 15.4.

20


Bảng 15.1: Tỷ trọng rủi ro cho những khoản mục

trên bảng cân đối kế toán theo Basel 1
Mức rủi ro
(%)

Mục tài sản

0

Tiền mặt; vàng thỏi; các quốc gia OECD (Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế) như trái phiếu kho bạc,
các khoản thế chấp nhà ở đảm bảo.

20

Ngân hàng OECD và các tổ chức khu vực công
OECD như chứng khốn do các cơ quan chính phủ
Mĩ phát hành; hay chính quyền địa phương.

50

Các khoản vay thế chấp nhà ở khơng có bảo hiểm

100

Tất cả tài sản cịn lại như trái phiếu doanh nghiệp và
nợ ở các quốc gia kém phát triển; ngân hàng không
thuộc OECD.

So sánh bảng 15.4 với bảng 15.1, chúng ta thấy rằng khối OECD thì tình trạng của
ngân hàng hay quốc gia khơng cịn được xem là quan trọng theo Basel II. Trọng số

rủi ro tín dụng với một quốc gia dao động từ 0-150% và trọng số rủi ro đối với tín
dụng với một ngân hàng hoặc công ty là 20-150%.
Trong bảng 15.1, các ngân hàng khối OECD đã được ngầm giả định là có rủi ro tín
dụng thấp hơn so với doanh nghiệp. Một ngân hàng khối OECD có trọng số rủi ro là
20% trong khi doanh nghiệp là 100%. Bảng 15.4 điều chỉnh ngân hàng và doanh
nghiệp công bằng hơn.
Một quan sát thú vị từ bảng 15.4, một quốc gia, doanh nghiệp hoặc ngân hàng muốn
vay tiền thì có thể sẽ tốt hơn nếu khơng có xếp hạng (credit rating) nào hơn là có
một xếp hạng tồi.

21


Giám sát viên được phép áp dụng trọng số rủi ro thấp hơn (20% thay vì 50%,
50% thay vì 100%, và 100% thay vì 150%) khi dư nợ đối với quốc gia hoặc của
NHTW nơi mà ngân hàng đó được thành lập (incorporated).
Một số trường hợp phức tạp đối với cho vay ngân hàng, cho vay dưới 3 tháng, cho
vay bán lẻ, thế chấp nhà ở hay bất động sản thương mại và điều chỉnh đối với tài
sản đảm bảo xem thêm trong phần Tham khảo thêm.
2. Cách tiếp cận IRB (The IRB Approach)
Basel II đánh dấu sự ra đời của phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ IRB, giới
thiệu 3 cấu phần rủi ro đối với từng hạng mục tài sản và ứng dụng của các cấu phần
này vào cơng tác quản trị rủi ro tín dụng:
- PD: Xác suất khách hàng sẽ vỡ nợ trong vòng 1 năm (số thập phân)
- EAD: Dư nợ của khách hàng tại thời điểm vỡ nợ (bằng dola)
- LGD: Tổn thất khi khách hàng vỡ nợ hoặc tỷ lệ tài sản có bị mất nếu khách hàng
vỡ nợ (số thập phân)
Ngân hàng có thể xây dựng mơ hình để tự xếp hạng tín dụng đối với các tài sản nợ
của họ, dựa trên xác suất mất vốn của tài sản và độ phụ thuộc của ngân hàng tới các
tài sản đó.

Tiếp cận IRB được thể hiện trong hình 15.1. Người quản lý căn cứ vào yêu cầu về
vốn dựa trên VaR (1 năm, 99.9%). Họ nhận ra rằng, tổn thất dự kiến thường được 1
tổ chức tài chính tính bằng cách định giá sản phẩm (ví dụ, lãi suất 1 khoản vay được
ngân hàng tính để có thể khơi phục tổn thất cho vay dự kiến). Do đó, yêu cầu vốn
là VaR trừ đi tổn thất dự kiến. VaR được đo lường bằng mơ hình một nhân tố
Gaussian copula thời gian vỡ nợ mà chúng ta đã thảo luận trong phần 11.5. Giả sử
rằng ngân hàng có một lượng lớn khoản vay và khoản vay thứ i có xác suất vỡ nợ
trong vòng 1 năm bằng PDi. Tương quan copula giữa mỗi cặp khoản vay là ρ (các
khoản vay không vỡ nợ độc lập với nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế vĩ mô).

22


Như trong phần 11.5, chúng ta xác định được tỷ lệ vỡ nợ trong trường hợp xấu
nhất (WCDRi) là:

WCDRi được xác định để ngân hàng được đảm bảo chắc chắn là 99% sẽ không bị
vượt quá trong năm tới đối với khách hàng thứ i. Nghiên cứu của Gordy (2003)
(xem phần 11.5) cho thấy rằng, đối với một danh mục đầu tư lớn gồm nhiều công
cụ (cho vay, cam kết cho vay, phái sinh v.v..) có cùng ρ, trong mơ hình một nhân tố
thì VaR (1 năm, 99%) vào khoảng:

EADi là dư nợ của khách hàng thứ i tại thời điểm vỡ nợ và LGD i là những tổn thất
khi khách hàng thứ i vỡ nợ.
• Biến EADi là số tiền dự kiến mà khách hàng thứ i sở hữu tại thời điểm vỡ nợ
trong vịng 1 năm tới.
• Biến LGDi là tỷ lệ của EAD i, tổn thất dự kiến trong trường hợp vỡ nợ. Ví dụ,
nếu ngân hàng dự kiến sẽ lấy lại được 30% số tiền nợ trong trường hợp vỡ
nợ thì LGDi=0.7. Tổn thất dự kiến từ việc khách hàng thứ i vỡ nợ là:


Yêu cầu vốn trong hình 15.1 vượt quá độ tin cậy 99.9%, tổn thất trong trường hợp
xấu nhất vượt tổn thất dự kiến. Do đó yêu cầu vốn là:

23


Các ký hiệu:
- PD: Xác suất khách hàng sẽ vỡ nợ trong vòng 1 năm (số thập phân)
- EAD: Dư nợ của khách hàng tại thời điểm vỡ nợ (bằng dola)
- LGD: Tổn thất khi khách hàng vỡ nợ hoặc tỷ lệ tài sản có bị mất nếu khách hàng
vỡ nợ (số thập phân)

Bảng 15.5 cho thấy cách mà WCDR phụ thuộc vào PD và ρ trong mơ hình Caussian
copula. Khi tương quan ρ bằng zero, WCDR=PD bởi vì trong trường hợp đó thì
khơng có tương quan vỡ nợ (các khoản vay độc lập với nhau) và tỷ lệ các khoản vay
vỡ nợ dự kiến giống nhau trong tất cả các năm. Khi ρ tăng, WCDR tăng.
Các ngân hàng phải phân loại các tài sản có thuộc danh mục kinh doanh của mình
thành các nhóm tài sản có theo đặc tính rủi ro cơ bản: (a) cho vay cơng ty, (b) cho
vay các cơ quan nhà nước, (c) cho vay ngân hàng; (d) cho vay bán lẻ (e) vốn chủ sở
hữu. Chi tiết tính tốn tài sản có rủi ro cho từng loại tài sản như cho vay công ty,
các cơ quan nhà nước và cho vay ngân hàng; cho vay bán lẻ; bản lãnh và phái sinh
tín dụng xem thêm trong phần Tham khảo thêm.
TRỤ CỘT 1: YÊU CẦU VỐN THEO RỦI RO HOẠT ĐỘNG
Để thay đổi cách tính vốn rủi ro tín dụng của các ngân hàng, Basel II yêu cầu các
ngân hàng trữ vốn phòng ngừa cho rủi ro hoạt động. Đây là mất mát xảy ra khi quy
trình hoạt động của nhà băng chệch khỏi quỹ đạo hoặc có một sự kiện khơng lường
trước như một cơ sở quan trọng bị cháy.
Có 3 tiến trình dành để tính tốn vốn cho rủi ro hoạt động, việc sử dụng tiến trình
nào phụ thuộc vào quy mơ ngân hàng.
1. Tiếp cận chỉ số cơ bản (The Basic Indicator Approach): Vốn cho rủi ro hoạt

động = Tổng thu nhập (có giá trị dương) trung bình trong 3 năm gần nhất x
0.15.

24


Tổng thu nhập hằng năm được tính bằng tổng thu nhập lãi ròng và thu nhập
phi lãi ròng theo định nghĩa được quy định của cơ quan quản lý. Nếu có bất
kỳ năm nào trong 3 năm gần nhất có thu nhập âm hoặc bằng 0 thì số liệu của
năm đó khơng được tính vào giá trị trung bình.
2. Tiếp cận tiêu chuẩn (The Standardized Approach): Gần giống với tiến trình
cơ bản chỉ khác là trọng số khác nhau được áp cho các dòng kinh doanh khác
nhau.
3. Tiếp cận đo lường tiên tiến (The Advanced Measurement Approach): Ngân
hàng dùng mô hình mà họ tự xây dựng để tính tốn rủi ro hoạt động với xác
suất 99.9% không thể vượt quá trong vịng một năm. Tương tự như cách tính
tốn rủi ro tín dụng trong tiếp cận IRB, vốn cho rủi ro hoạt động được tính
bằng cách lấy tổn thất này trừ tổn thất kỳ vọng. Một lợi thế của tiếp cận này
là nó giúp các ngân hàng nhận ra tác động giảm thiểu rủi ro của các hợp
đồng bảo hiểm trong một số điều kiện nhất định.
Phương pháp tính rủi ro hoạt động sẽ được thảo luận thêm trong Chương 23.
TRỤ CỘT 2: KIỂM SOÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
Trụ cột 2 của Basel II có liên quan với q trình kiểm sốt và đánh giá. Bốn ngun
tắc chính của kiểm sốt và đánh giá được quy định:
1. Ngân hàng cần có một quy trình đánh giá an tồn vốn tổng thể của họ liên
quan đến hồ sơ rủi ro của họ và một chiến lược để duy trì mức vốn.
2. Người giám sát cần xem xét và đánh giá an toàn vốn nội bộ cũng như khả
năng của họ để theo dõi và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn theo quy định. Người
giám sát cần có hành động thích hợp họ khơng hài lịng với kết quả của tiến
trình này.

3. Người giám sát dự đoán được mức vốn điều lệ tối thiểu mức ngân hàng cần
có để hoạt động được và cần phải có khả năng để yêu cầu ngân hàng nắm giữ
vốn cao hơn mức tối thiểu này.
4. Người giám sát cần tìm cách can thiệp ở giai đoạn đầu để ngăn chặn vốn
giảm xuống dưới mức tối thiểu cần thiết để hỗ trợ các rủi ro của một ngân
hàng và nên yêu cầu hành động khắc phục hậu quả nhanh chóng nếu khơng
thể duy trì hoặc hồi phục được vốn.
Ủy bản Basel cho rằng người giám sát nên đặc biệt chú ý đến rủi ro lãi suất danh
mục, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động. Giải pháp chính cho rủi ro tín dụng là dùng
stress tests, dự đoán rủi ro vỡ nợ, sự tập trung của rủi ro tín dụng, và rủi ro đi liền
với việc sử dụng tài sản đảm bảo, bảo lãnh và phái sinh tín dụng
Ủy ban Basel cũng nhấn mạnh nên có sự minh bạch và trong quy trình được sử
dụng bởi người giám sát ngân hàng. Điều này đặc biệt quan trọng khi người quản lý
đang thử nghiệm các tiến trình theo Basel II.

25


×