PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ xưa đến nay, rừng luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc
sống của con người. Rừng điều hòa khí hậu, giảm khói bụi, tiếng ồn, rừng hạn
chế tốc độ dòng chảy gây ra lũ quét, giảm xói mòn rửa trôi,…Ngoài ra, rừng còn
là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, củi đun, các vật liệu xây dựng chuồng
trại và rừng còn là kho dược liệu quý để chữa bệnh. Do vậy rừng là một trong
những yếu tố quan trọng nhất góp phần cải thiện môi trường. Vai trò của rừng
càng thể hiện rõ nét hơn trong cuộc sống của những người dân nông thôn, miền
núi, nhất là những bà con sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng.
Vai trò của rừng quan trọng như vậy nhưng hiện nay trên thế giới nói
chung và nước ta nói riêng rừng đang bị khai thác kiệt quệ về cả diện tích, chất
lượng. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho trái đất nóng lên, tình trạng
biến đổi khí hậu và những hệ lụy về môi trường mà chính chúng ta là người
hứng chịu. Việc khai thác quá mức, không có các biện pháp hữu hiệu để phục
hồi rừng, nhưng quan trọng hơn hết là chưa tìm ra được một biện pháp nhằm
quản lý rừng hiệu quả. Công tác quản lý rừng kém hiệu quả là do Nhà nước
không có đủ lực lượng cũng như năng lực để kiểm soát và quản lý hết diện tích
rừng. Hơn nữa người dân ở nơi có rừng ít được tham gia vào công tác quản lý và
hưởng lợi từ rừng. Trong thời gian qua Nhà nước đã tìm ra giải pháp để kiềm
chế việc mất rừng đồng thời tăng thêm quyền lợi và lợi ích cho người dân. Đó là
đưa rừng gắn bó với cộng đồng, chuyển từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm
nghiệp xã hội, giao rừng cho cộng đồng để tự quản lý bảo vệ và chia sẻ quyền
lợi.
Với xu hướng chung của cả nước,tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang thực
hiên tốt công tác giao đất giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng quản
lý. Ủy Ban Nhân Dân (UBND) tỉnh đã phê duyệt Đề án giao rừng, cho thuê rừng
tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2010-2014 với lộ trình đến năm 2014 toàn
tỉnh cơ bản hoàn thành công tác giao rừng cho thuê rừng. Đến năm 2009 trên địa
bàn tỉnh có 4 huyện triển khai công tác giao rừng đó là A Lưới, Phong Điền,
Nam Đông và Phú Lộc. Các cộng đồng thôn bản, nhóm hộ, gia đình được tham
gia quản lý và hưởng lợi từ diện tích trên 11.075 ha với thời hạn lâu dài trong
vòng 50 năm. Huyện A Lưới là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Thừa Thiên
Huế,cách trung tâm thành phố Huế khoảng 75km. Huyện có 80% dân cư sống
trên địa bàn là người dân tộc thiểu số thuộc các nhóm Katu, Tà Ôi, Pa Cô, Pa
1
Hy…Phần lớn diện tích của huyện được bao phủ bởi rừng tự nhiên. Từ lợi thế
đó, huyện A Lưới đã tiến hành công tác giao rừng cho cộng đồng quản lý nhằm
bảo vệ nguồn tài nguyên quan trọng này, đồng thời giúp người dân cải thiện đời
sống dựa vào rừng.
Công tác giao rừng vừa mới được tiến hành ở huyên A Lưới không lâu
nên còn nhiều khó khăn trong tiến trình thực hiện và quản lý. Trong công tác
giao và nhận rừng cộng đồng (RCĐ) còn nhiều bất cập về diên tích, cơ chế
hưởng lợi từ rừng. Ngoài ra việc nhận được ít sự hỗ trợ từ các chính sách, các dự
án từ bên ngoài nên người dân chưa tiếp cận một cách tốt nhất. Cùng với đó là
tính tự quản ở trong cộng đồng vẫn chưa cao nên hiệu quả mang lại chưa rõ rệt.
Vì vậy việc nghiên cứu hiệu quả quản lý rừng cộng đồng thể hiện qua tình trạng
vi phạm lâm nghiệp trên địa bàn, chất lượng rừng cũng như nguồn lợi mà người
dân nhận được rất quan trọng. Từ đó thấy được tình hình cụ thể ở địa phương
góp phần làm cơ sở đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng cộng đồng bền
vững và hiệu quả hơn.
Xã Hồng Hạ là một trong 21 xã thuộc huyện A Lưới, nằm cách thị trấn A
Lưới 22 km về phía tây, và cách trung tâm thành phố Huế 50 km trên tuyến
quốc lộ 49. Đây là địa phương điển hình cho các xã miền núi của tỉnh Thừa
Thiên Huế với diện tích rừng tự nhiên lớn, đời sống người dân địa phương sống
chủ yếu phụ thuộc vào rừng. Xã Hồng Hạ đã được triển khai công tac giao rừng
cho cộng đồng và nhóm hộ quản lý. Do vậy việc tìm hiểu cách thức quản lý bảo
vệ và phát triển rừng cộng đồng và ảnh hưởng của nó đến sinh kế là một vấn đề
hết sức quan trọng trong bối cảnh hiện nay, nhằm góp phần nâng cao năng lực
quản lý cho người dân sống gần rừng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phục
vụ cho công tác quản lý rừng ngày càng tốt và bền vững hơn.
Xuất phát từ thực tế đó tôi quyết định thực hiện đề tài: “Hiện trạng quản
lý rừng cộng đồng và ảnh hưởng của nó đến sinh kế người dân xã Hồng
Hạ,huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN
2.1. Qúa trình hình thành quyền quản lý rừng cộng đồng
- Quản lý RCĐ là một hình thức quản lý rừng trong đó cộng đồng với tư
cách là chủ rừng tham gia vào các hoạt động giao rừng, lập kế hoạch quản lý
rừng và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Quản lý RCĐ xuất hiện rất sớm ở Việt
Nam, nhưng tới năm 2004 mới được công nhận về mặt pháp lý sau khi nhà nước
điều chỉnh và bổ sung Luật đất đai sữa đổi 2003 và Luật bảo vệ phát triển rừng
2004.
- Cộng đồng được nhà nước giao quyền quản lý, sử dụng rừng ổn định và
lâu dài. Sau khi Quốc hội thông qua Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004,
trong đó cộng đồng dân cư thôn được công nhận là chủ thể được giao rừng.
Cộng đồng được nhà nước công nhận quyền sử dụng rừng hợp pháp.
- Cộng đồng được chính quyền địa phương kết hợp với các cơ quan có
thẩm quyền giao cho quản lý những diện tích rừng ở gần với địa phương.
- Cộng đồng được sự hỗ trợ của các cơ quan như Kiểm lâm, Ban quản lý
rừng phòng hộ và chính quyền địa phương về mặt pháp lý. Có các dự án hỗ trợ
để xác lập quyền quản lý và sử dụng rừng, hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật thông qua
các dự án bền vững để quản lý rừng hiệu quả. Vì thế nhiều dự án đã tạo ra
những dự án giúp cộng đồng dân cư thôn được giao rừng để quản lý và sử dụng
nhằm làm tăng diện tích rừng do cộng đồng quản lý.
2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý rừng cộng đồng.
- Quản lý RCĐ là một phương thức quản lý rừng bước đầu thực hiện đã
có hiệu quả. Việc đưa quyền sử dụng rừng vè cho bà con đã góp phần đáng kể
vào bảo vệ và phát triển rừng, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, cải thiện kinh
tế ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có nhiều nghiên cứu
được thực hiện nhưng các vấn đề liên quan đến cơ chế chính sách quản lý rừng
chưa được giải quyết. Do đó để bảo đảm quyền và nghĩa vụ cụ thể của cộng
đồng dân cư thì cần có những cơ sở pháp lý rõ ràng.
* Công văn số 1326 / CV-LNCD ngày 7 tháng 9 năm 2007 của cục Lâm
Nghiệp ( Kèm theo bản hướng dẫn lập kế hoạch quản lý cộng đồng dân cư
thôn).
3
* Thông tư số 70/2007/TT-BNN, ngày 01 tháng 8 năm 2007, Hướng dẫn xây
dựng tổ chức thực hiện qui ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân
cư thôn .
* Quyết định số 106/2006/QD-BNN, ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) về ban hành Bản hướng dẫn
quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn.
* Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004.
* Nghị định số 23/2006/NĐ-CP về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
* Quyết định số 2740/QĐ-BNN-KL ngày 20 tháng 9 năm 2007 của Bộ
NNPTNT về phê duyệt đề án giao rừng, cho thuê rừng giai đoạn 2007- 2010.
* Nghị định số 81/2004/ NĐ- CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Thủ tướng
chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
* Quyết định số 434/QĐ-QLR ngày 11 tháng 4 năm 2007 của Cục trưởng
Cục Kiểm Lâm, ban hành hướng dẫn xây dựng qui ước bảo vệ và phát triển rừng
cấp xã và hướng dẫn giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng dân
cư thôn.
* Luật về đất đai số 13/2003 /QH11: Tại điều 9 khoản 3 công nhận cộng
đồng dân cư được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Điều
105 và 107 qui định cộng đồng dân cư thôn chuyển đổi chuyển nhượng, cho
thuê, tặng quyền sử dụng đất, không được thế chấp bảo lãnh góp vốn bằng
quyền sử dụng đất.
2.3. Tình hình quản lý rừng cộng đồng trên thế giới.
Rừng có vai trò rất quan trọng , tác động của nó không chỉ ảnh hưởng đến
môi trường mà còn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội. Chức năng sản xuất
của rừng thể hiện ở chỗ rừng không chỉ sản xuất gỗ mà còn có hàng loạt các sản
phẩm cần thiết cho xã hội, nhất là những ai sống gần với rừng. Vai trò của rừng
đã mang tính xã hội và gắn liền với cộng đồng. Mặc dù có vai trò lớn như vậy
nhưng hiện nay trên thế giới tình hình mất rừng diễn ra liên tục và ngày càng
nghiêm trọng. Diện tích rừng bị mất đi năm sau luôn cao hơn năm trước, đặt biệt
xảy ra ở các nước vùng nhiệt đới và các nước đang phát triển. Nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới mất rừng là do tình trạng khai thác tràn lan để lấy gỗ và củi đốt mất
4
kiểm soát, đốt rừng làm nương rẫy. Ngoài ra, do hằng năm mùa khô kéo dài nên
còn có nguyên nhân cháy làm giảm diện tích rừng.
Hiện nay khi ngành lâm nghiệp mang tính xã hội, thì việc gắn lâm nghiệp
với cộng đồng dân cư là rất quan trọng. Khái niệm rừng chung, RCĐ đã xuất
hiện từ những năm 70 của thế kỷ trước. Lúc đó các dự án lâm nghiệp xã hội
quan tâm tới việc xây dựng các đám rừng chung để quản lý và hưởng lợi.
Có nhiều hình thức quản lý RCĐ ở nhiều nơi dù khác nhau nhưng mang
lại những hiệu quả cụ thể. Quản lý rừng gắn với nguồn nước ở thôn bản như ở
vùng Ifugao của Philipin, công tác này mang lại hiệu quả cao trong canh tác nhờ
sự chủ động việc cung cấp nước tưới tiêu và đảm bảo không xảy ra tình trạng
xói mòn rửa trôi.
Theo Donovan (1997), ở Philipin, Thái Lan, Trung Quốc đã cấp giấy phép
sử dụng đất cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng theo các chương trình
lâm nghiệp xã hội. Diện tích giao cho các cá nhân tập thể ở mỗi nơi khác nhau.
Ở Thái Lan là 2,8 ha đối với đất nông nghiệp và 0,8 ha đối với đất thổ cư. Ở
Philipin không giới hạn về diện tích giao cho cá nhân với giấy phép sử dụng
trong vòng 25 năm và sau đó có thể được gia hạn. Nhờ có những nguyên tắc đó
tạo ra cơ sở pháp lý cho việc quản lý RCĐ ở các nước đó.
Trong những năm 1920, ở Ấn Độ các nhà chức trách địa phương đã đưa
ra những hệ thống quản lý rừng mới. Người ta thành lập các hội đồng rừng địa
phương với mục đích tạo nên một lớp đệm giữa rừng của nhà nước và dân làng
địa phương. Hội đồng đó là những phương tiện để đối phó với các chống đối của
người dân địa phương khi xây dựng rừng cấm của nhà nước với diện tích lớn.
Trong quá khứ, hệ thống rừng công cộng được phát triển và duy trì tại
nhiều nơi ở Nam Á và Đông Nam Á. Nhưng trong thời gian qua các chính sách
khác đã làm thay đổi hệ thống đó hoặc mất đi. Việc quốc hữu hóa đất rừng và
việc phá triển các cơ quan lâm nghiệp quốc gia nên đã làm giảm sút sự quan tâm
của địa phương tới quản lý rừng công.
Thực tế đã chứng minh rằng quản lý RCĐ đã được thế giới quan tâm và
chấp nhận vì mang lại hiệu quả rất lớn. Không những thay đổi thu nhập kinh tế
của người dân nơi có rừng mà còn thay đổi nhận thức của họ về sự quan trọng
của tài nguyên rừng nói riêng và tài nguyên môi trường nói chung. Góp phần
đẩy lùi tình trạng biến đổi khí hậu.
5
2.4. Tình hình và thực trạng nghiên cứu công tác quản lý rừng cộng đồng
ở Việt Nam.
Nghành lâm nghiệp ở nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ từ lâm nghiệp
truyền thống sang lâm nghiệp xã hội trong thời gian qua. Chúng ta nhận thấy
rằng quản lý RCĐ phù hợp với vùng sâu vùng xa, vùng mà rừng là điều kiện
sống của bà con.
Kể từ năm 2003 khi có Luật đất đai và Luật bảo vệ phát triển rừng 2004
thì cộng đồng dân cư đã được nhà nước công nhận là một đối tượng giao quyền
sử dụng đất lâm nghiệp và được xem là chủ thể. Nhiều dự án, chương trình, tổ
chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu về vấn đề này như kết quả nghiên cứu quản
lý rừng cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc do Tiến sĩ
Nguyễn Bá Ngãi thực hiện đã mô tả các hình thức quản lý rừng cộng đồng do
đồng bào người H”Mông, Mường, Thái đang quản lý có hiệu quả quản lý rừng
tốt, đời sống của người dân được đảm bảo, ý thức về rừng nghiêm túc hơn, kinh
tế ngày càng phát triển.
Đến nay, nhiều dự án hỗ trợ cho việc quản lý rừng cộng đồng đã được
thực hiện trên nhiều tỉnh khác nhau:
- Lâm nghiệp cộng đồng trong dự án bảo tồn và quản lý bền vững nguồn
tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng tỉnh Quảng
Bình. Dự án triển khai vào tháng 11 năm 2012 và đến tháng 4 năm 2013 mới
hoàn chỉnh hồ sơ giao rừng.
- Giai đoạn 1996-2005,với sự hỗ trợ của dự án Phát triển lâm nghiệp xã
hội Sông Đà (SFDP) tỉnh Sơn La là địa phương đã triển khai nhiều nghiên cứu,
phương pháp về quản lý lâm nghiệp cộng đồng.
- Năm 2009, Lâm Đồng và Sơn La là hai tỉnh được Thủ Tướng Chính Phủ
và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lựa chọn là hai tỉnh triển khai chính
sách chi trả dịch vụ môi trường theo Quyết định 380/ TTg của Thủ Tướng Chính
Phủ.
2.5. Một số tình hình hiện tại ở địa phương về lâm nghiệp và quản lý rừng
cộng đồng
A Lưới là huyện vùng cao có diện tích đất lâm nghiệp là 101.858,5ha
chiếm 83% diện tích đất tự nhiên toàn huyện, trong đó diện tích rừng tự nhiên là
6
86.647,1ha, bao gồm: diện tích rừng tự nhiên có chủ quản lý là 55.706,31ha
chiếm 64,21% diện tích rừng tự nhiên còn lại do các UBND xã,thị trấn đang tạm
quản lý.
Theo số liệu Qui hoạch quản lý bảo vệ phát triển rừng huyện A Lưới giai
đoạn 2009-2020 ( Quyết định số 204/ QĐ-UBND ngày 26/01/2010 của UBND
Tỉnh Thừa Thiên Huế về phê duyệt qui hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện A
Lưới-tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2009-2020). Huyện A Lưới có 123.273,20
ha,trong đó:
- Diện tích đất lâm nghiệp 101.858,73 ha: đất có rừng tự nhiên 86.647,16
ha, rừng trồng 10.756,07 ha, đất chưa sử dụng qui hoạch lâm nghiệp (QHLN)
4.461,50 ha
- Phân theo chức năng: Rừng đặc dụng 15.489,1 ha, rừng phòng hộ
42.355,3 ha, rừng sản xuất 44.014,3 ha
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về giao đất lâm nghiệp cho
tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng lâu dài ổn định theo mục đích lâm nghiệp
theo Nghị đinh 02/NĐ-CP và Nghị định 163/1999/NĐ-CP . Từ năm 2003 đến
nay, được sự hỗ trợ kinh phí từ Chi cục kiểm lâm tỉnh và các chương trình dự án
phát triển lâm nghiệp toàn huyện đã giao 6.447,20 ha rừng tự nhiên cho cộng
đồng dân cư thôn, hộ gia đình quản lý bảo vệ và hưởng lợi. Trong đó, hộ gia
đình thuộc 15 hộ thuộc xã Hồng Vân 201,5 ha và 15 cộng đồng dân cư thôn
thuộc các xã Hồng Trung: 5.037,1 ha; Bắc Sơn 309,5 ha; Hồng Kim 539,5 ha;
Hồng Hạ 60 ha; Hương Nguyên 113,2 ha; Hồng Thái 80,6 ha
7
Bảng 2.1: Thống kê diện tích loại rừng xã Hồng Hạ
Tổng
Loại rừng diện tích
(ha)
Rừng
giàu
(ha)
Rừng
trung
bình (ha)
Rừng
nghèo
(ha)
Rừng
trồng (ha)
Tổng đất
chưa sử
dụng (ha)
1.Rừng
đặc dụng
2.613,7
1.671,1
799.3
2.Rừng
phòng hộ
6.735,2
507.2
3.438,9
967.4
578.4
682.0
3.Rừng
sản xuất
4.240,4
1.373,0
1.031,8
1.255,1
355.3
( Nguồn: Biểu Quy Hoạch 3 loại rừng giai đoạn 2006 – 2010)
Về các loại lâm sản ngoài gỗ
Khai thác sản phẩm ngoài gỗ là một trong những hoạt động sinh kế chính
của nhiều hộ ở xã Hồng Hạ. Sản phẩm mà người dân khai thác từ rừng gồm:
mây, đót, lá nón,…Thu nhập từ nguồn này đạt khá và đã góp phần giải quyết
việc làm cho nhiều người. Hiện nay, nguồn sản phẩm này đang dần cạn kiệt nên
muốn có nguồn nguyên liệu để duy trì sản xuất bà con phải đi khai thác ở những
vùng xa. Do vậy, quy mô sản xuất các nghề phụ dựa trên sản phẩm ngoài gỗ
ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên có thể kể tên một số loài như: Mây, Tre, Nứa,
Lá nón, Đót, Mật ong...
Về mảng quản lý rừng cộng đồng và rừng tự nhiên giao cho nhóm hộ đã
triển khai từ năm 2012. Cụ thể UBND huyện A Lưới đã đề nghị điều chỉnh trạng
thái rừng tự nhiên giao cho cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm và 17 nhóm hộ gia
đình thuộc xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Qua đó thấy rõ
quyết tâm của Huyện là mong muốn nâng cao chất lượng rừng trên địa bàn quản
lý, đưa rừng về địa bàn tự quản lý, bà con nhận rừng sẽ chủ động bảo vệ hưởng
lợi từ chính những sản phẩm mà mình chăm sóc bảo vệ.
8
PHẦN 3 : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
•
•
•
•
Phân tích thực trạng quản lý rừng cộng đồng
Đánh giá tài sản sinh kế và phân tích các hoạt động sinh kế của các nhóm
hộ gia đình
Phân tích các ảnh hưởng của rừng cộng đồng đến sinh kế của các hộ gia
đình
Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện sinh kế gắn kết với bảo tồn tài
nguyên rừng cộng đồng
3.2. Nội dung nghiên cứu
•
•
•
•
•
Tình hình cơ bản của xã Hồng Hạ
Thực trạng quản lý rừng cộng đồng
Tài sản sinh kế và hoạt động sinh kế của các nhóm hộ gia đình
Ảnh hưởng của các hoạt động dựa vào rừng cộng đồng đến sinh kế của
người dân
Các giải pháp cải thiện sinh kế gắn kết với quản lý bền vững tài nguyên
rừng
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành ở hai thôn của xã Hồng Hạ. Thôn Kân
Sâm được được Nhà nước giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn và nhóm hộ
quản lý, trong khi đó thôn Pahy chỉ được giao rừng cho nhóm hộ quản lý.
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
•
Thu thập dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu thứ cấp bao gồm điều kiện kinh tế-xã hội và một
số dữ liệu khác liên quan đến điểm nghiên cứu.
•
Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm thông qua phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập
những vấn đề ban đầu và xác định những yếu tố có liên quan đến chủ đề nghiên
cứu và là cơ sở cho việc phát triển bộ câu hỏi điều tra hộ gia đình. Phỏng vấn nhóm
được tiến hành với nhiều nhóm khác nhau như nhóm hộ không nghèo, nhóm hộ
nghèo, nhóm lãnh đạo thôn (trưởng thôn, chi hội trưởng phụ nữ, chi hội trưởng
9
nông dân, bí thư đoàn thanh niên, già làng) và nhóm cán bộ huyện, xã (Cán bộ xã,
cán bộ Hạt kiểm lâm…).
•
Điều tra hộ gia đình: Điều tra hộ được thực hiện thông qua sử dụng bảng câu hỏi.
Bảng câu hỏi gồm 3 phần chính (1) thông tin về hộ gia đình, (2) các hoạt động sinh
kế của hộ gia đình, (3) các vấn đề liên quan đến rừng cộng đồng (hoạt động sinh kế
liên quan đến rừng cộng đồng, quản lý rừng và cơ chế chia sẻ lợi ích). Chúng tôi đã
tiến hành điều tra 30 hộ gia đình ở thôn Kân Sâm (Điều tra 15 hộ nghèo và 15 hộ
cận nghèo) và 25 hộ gia đình ở thôn Pahy (Điều tra 13 hộ nghèo, 10 hộ cân nghèo
và 2 hộ không nghèo).
•
PRA: Công cụ sơ đồ tài nguyên được sử dụng để phân tích hiện trạng sử dụng
đất và rừng của điểm nghiên cứu. Công cụ phân loại kinh tế hộ được sử dụng để
phân tích các tài sản sinh kế của các nhóm hộ gia đình.
3.3.3. Phương pháp phân tích thông tin.
Dữ liệu được xử lý, phân tích định tính và định lượng để thể hiện các kết
quả nghiên cứu
10
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Vị trí địa lý,điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội xã Hồng Hạ
4.1.1. Vị trí địa lý
- Xã Hồng Hạ thuộc huyện A Lưới nằm về phía Tây của tỉnh Thừa thiên
Huế, cách thành phố Huế 45 km trong đó xã Hồng Hạ nằm cách thị trấn A lưới
22 Km về phía Đông của Huyện A Lưới, nằm trên trục quốc lộ 49.
- Phía bắc giáp Huyện Hương Trà.
- Phía nam giáp các xã Hương Phong, Phú Vinh, Sơn Thủy.
- Phía tây giáp các xã A Ngo, Hồng Kim và thị trấn A Lưới.
- Phía đông nam giáp xã Hương Nguyên
Hình 1. Bản đồ địa lí xã Hồng Hạ huyện A Lưới
4.1.2. Điều kiện tự nhiên
4.1.2.1. Điều kiện địa chất địa hình
Xã Hồng Hạ là xã thuộc vùng núi của tỉnh Thừa Thiên Huế nằm trên quốc
lộ 49. Xã Hồng Hạ có độ cao trung bình từ 300m so với mặt nước biển; xã có
11
98,33% diện tích đồi núi. Địa hình xã Hồng Hạ được chia cắt bởi 3 khe suối lớn
đó là: Khe A1, A2, A3 đổ vào sông Bồ thuận lợi cho việc xây dựng công trình
thủy lợi và hệ thống nước tự chảy phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Đất đai chủ yếu
là đất Feralit vàng nâu phát triển đất mẹ phiến thạch, ngoài ra còn có các loại đất
bồi tụ, đất phù sa ven sông suối. Tầng đất dày trên 100cm, thành phần cơ giới từ
thịt nhẹ đến trung bình thuận lợi cho việc phát triển kinh tế vườn.
4.1.2.2. Điều kiện khí hậu thủy văn
Điều kiện khí hậu thời tiết của Xã Hồng Hạ tương tự các xã khác trên địa
bàn toàn huyện. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa nắng từ tháng 4 đến
tháng 9 và mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng
năm là 210C, cao nhất là 38.50C và thấp nhất là 10 0C. Độ ẩm trung bình 86,1%.
Số ngày nắng trung bình 170 ngày. Khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió
mùa Đông Bắc và Tây Nam. Gió Đông Bắc hoạt động từ tháng 10 đến tháng 1
năm sau. Bên cạnh đó còn có gió mùa Tây Nam thường thổi vào tháng 5 đến
tháng 6 thường kèm theo khô nóng, ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng, vật nuôi
và hay gây cháy rừng.
4.1.2.3. Điều kiện thổ nhưỡng sinh vật
Đất đai của xã Hồng Hạ chủ yếu là loại đất Feralit vàng nâu phát triển
trên đất mẹ phiến thạch, ngoài ra còn có các loại đất bồi tụ, đất phù sa ven sông
suối. Tầng đất dày trên 100cm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình
thuận lợi cho việc phát triển các loại kinh tế vườn.
4.1.3. Điều kiện kinh tế xã hội.
4.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Xã Hồng Hạ có tổng số 283 hộ với 1335 nhân khẩu, trong đó có 667 nữ.
Thu nhập bình quân đầu người: 3.6 triệu đồng /người /năm.
Người dân Hồng Hạ định cư tại đây đã từ lâu trước năm 1945. Thời kỳ đó
địa hình cũa xã trải rộng từ đường 73 Hương Lâm đến Bốt Đỏ- Hồng Thượng
(phía Nam sông A Xáp) xuống đến khe Trái ( suối máu). Năm 1996 ranh giới
chỉ còn từ khe Cốp đến dốc Tà Lương, do một phần diện tích chuyển cho xã
Hương Nguyên , một phần thuộc Hồng Thượng. Dân số có giảm, tuy nhiên
hưởng ứng chủ trương đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, một bộ phận các
dân cư nghèo thuộc huyện Quảng Điền và một số dân từ các địa phương khác
12
( người kinh) đã đến định cư tại xã và do việc định cư đó mà dân số Hồng Hạ có
tăng lên.
Tổng số lao động của xã là 601 người. Lao động và giải quyết việc làm
cho lao động trong xã là vấn đề được các cấp chính quyền quan tâm. Tỷ lệ lao
động nhàn rỗi chiếm khá lớn 53,7%. Nhiều hộ thiếu đất sản xuất, các hoạt động
ngành nghề phụ trong nông thôn chưa phát triển để thu hút nên thu nhập bình
quân hộ không cao. Đại bộ phận lao động trong xã chưa qua đào tạo, kể cả
ngành nghề nên trình độ lao động thấp.
4.1.3.2. Tình hình sử dụng đất
Tổng diện tích đất tự nhiên là 14.100 ha. Theo thống kê đất đai năm 2006
Xã Hồng Hạ có các nhóm: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp,
nhóm đất chưa sử dụng.
Bảng 4.1: Bảng thống kê tình hình sử dụng đất Xã Hồng Hạ năm 2012
Thứ
tự
Mục đích sử dụng đất
Tổng diện tích tự nhiên
Cơ cấu diện
Tổng diện tích các
tích loại đất
loại đất trong địa
so với tổng
giới hành chính (ha)
diện tích (%)
14100
100
1
Nhóm đất nông nghiệp
12712.73
90.16
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
313.43
2.22
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
76.63
0.54
1.1.1.
1
Đất trồng lúa
24.22
0.17
1.1.1.
2
Đất trồng cây hàng năm khác
52.41
0.37
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
236.8
1.68
1.2
Đất lâm nghiệp
12397.3
87.92
1.2.1
Đất rừng sản xuất
4386.7
31.11
13
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
5474.8
38.83
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
2
0.01
2
Nhóm đất phi nông nghiệp
214.76
1.52
2.1
Đất ở
30.98
0.22
2.2
Đất chuyên dùng
21.58
0.15
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình 1.97
sự nghiệp
2.2.2
Đất quốc phòng an ninh
2.2.3
Đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp
2.2.4
Đất có mục đích công cộng
19.61
0.14
2.4
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
1.5
0.01
2.5
Đất sông suối và mặt nước 160.7
chuyên dung
1.14
3
Nhóm đất chưa sử dụng
1172.51
8.32
3.1
Đất đồi núi chưa sử dụng
1172.51
8.32
0.01
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện A Lưới)
4.1.3.3. Cơ sở hạ tầng
Trên địa bàn thì 100 % các hộ ở xã sử dụng điện lưới. Hệ thống điện
tương đối ổn định trong những ngày bình thường. Cũng như các xã khác, Xã
Hồng Hạ rất hay bị giông và sét nên thỉnh thoảng cũng bị cắt điện để đảm bảo an
toàn.
Hiện nay tại xã các tuyến đường liên thôn được bê tông hoá. Bên cạnh đó
chương trình Đa dạng hóa nông nghiệp mở thêm 5km đường cấp phối, 2 tuyến
vào khu trang trại dọc ngược theo 2 bên bờ sông Bồ, tạo điều kiện thuận cho
nhân dân đi lại, sinh hoạt lao động sản xuất được thuận lợi và dễ dàng hơn.
14
Xã Hồng Hạ là một trong các xã mà dịch vụ chăm sóc y tế và sức khỏe
khá phát triển. Xã có hệ thống y tế tương đối hoàn chỉnh với 1 trạm xá và 5 nhân
viên y tế, trong đó có 1 bác sỹ đảm bảo khám chữa bệnh và sơ cứu khi cần thiết.
Mỗi thôn có một y tế thôn làm nhiệm vụ triển khai các hoạt động chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho bà con trong thôn. Tuy nhiên, do nhiều lý do mà tay nghề của
y tế thôn bản vẫn chưa cao và rất cần phải được nâng cao trong thời gian tới.
Hiện nay trên địa bàn thôn các thôn chưa có tủ thuốc và khi có nhu cầu thì người
dân trong thôn vẫn phải lên trạm y tế xã để được khám và cấp phát thuốc.
Nhưng lượng thuốc không đáp ứng đủ nhất là trong các đợt dịch lây lan mạnh,
đây là một khó khăn đáng kể đối với người dân khi bị ốm đau.
Hiện trên địa bàn xã có: 3 nhà trẻ mẫu giáo, 1 trường cấp 1, 1 trường cấp
2, 1 trạm xá, 5 nhà cộng đồng.
Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng: 43%.
Trên địa bàn xã đã có nhà Văn hóa – Bưu điện xã và hệ thống điện thoại về tới
xã.
Một trạm tiếp sóng truyền hình với công suất 50W với 2 cán bộ điều hành.
Bưu điện văn hoá xã là nơi đọc báo miễn phí cho người dân; các loại báo thường
xuyên có như Nhân dân, Thừa thiên Huế, Dân tộc, Lao động,… toàn xã có 151
tivi, 116 radio casset.
4.1.3.4. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội và các ngành kinh tế chủ yếu
Xã Hồng Hạ có điều kiện phát triển kinh tế tổng hợp: Nông lâm nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Những năm gần đây cùng với sự phát triển kinh
tế của huyện, tỉnh, sự đầu tư của các dự án, nền kinh tế xã tăng trưởng với tốc
độ tương đối khá, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, đầu tư có trọng điểm, tạo
chuyển biến mới về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân đầu
người / năm: 3,6 triệu đồng.
Mặc dầu mức sống của bà con có tăng lên nhưng nhìn chung cuộc sống
cũng còn nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn khá cao so với sự phát triển chung
của xã hôi. Số hộ đói nghèo trong toàn xã 101 hộ chiếm tỷ lệ: 35,81%. Nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng đói nghèo, trước hết điều kiện tự nhiên khắc nghiệt
thuộc vùng nắng nóng, mưa lũ thường xuyên xảy ra, lại bị ảnh hưởng nặng nề
hậu quả chiến tranh ( chất độc hóa học, bom mìn… đã ảnh hưởng đến môi
trường sống, gây xói mòn, giảm độ phì nhiêu của đất) , điều kiện kinh tế xã hội
15
chưa phát triển ( cơ sở hạ tầng kém, trình độ và kỹ năng của người sản xuất còn
nhiều hạn chế, dịch vụ khuyến nông chưa được phát triển ), trình độ dân trí thấp,
năng lực cán bộ còn hạn chế.
4.1.4. Thuận lợi và khó khăn
- Thuận lợi: Hồng Hạ là địa phương có diện tích rộng,nguồn tài nguyên
thiên nhiên đa dạng và phong phú, nhất là diện tích rừng rộng nên bà con có thể
dựa vào đó để phát triển kinh tế. Lượng mưa hàng năm lớn cung cấp lượng nước
cho trồng trọt, cây cối sinh trưởng phát triển tốt. Cơ sở hạ tầng đang được nhà
nước đâu tư mạnh, cùng với đó là sự quan tâm giúp đỡ của các dự án trong và
ngoài nước.
- Khó khăn: Tuy nhiên ở đây do đa số là bà con dân tộc thiểu số nên trình
độ dân trí còn thấp, khả năng khai hoang đất và cải thiện năng suất cây trồng
chưa cao. Bà con canh tác theo truyền thống lâu nay nên chưa chủ động, phụ
thuộc vào thời tiết. Đất đai kém màu mỡ,chưa có định hướng cho cây trồng chủ
đạo.
4.2. Tình hình cơ bản của thôn Kân Sâm và thôn Pa Hy
Thôn Pa Hy có dân số năm 2012 là 369 người, với 93 hộ.Trong đó có 32
hộ nghèo và 29 hộ cận nghèo. Thôn có 5 dân tộc anh em đó là ; Pa kô 21 hộ, Tà
Ôi 40 hộ, Cơ Tu 5 hộ, Pa Hy 10 hộ, Kinh 17 hộ.
Diện tích cây trồng; keo 48 ha, lúa 1,9 ha, sắn 32 ha, cao su 38 ha. Trong
thôn thì có tới 32 hộ không có ruộng. Nguồn nước chính để phục vụ tưới tiêu là
con suối nhỏ chảy qua thôn là 1 nhánh của sông bồ.
Để có thể sản xuất và trồng trọt cao su thì người dân phải vay vốn của
ngân hàng chính sách xã hội. Thôn cũng nhận được cấc chính sách hỗ trợ của
các cấp như hỗ trợ cho hộ nghèo, dự án 135 hỗ trợ phân bón và giống cây cho bà
con trồng trọt, nhưng cũng tùy theo hộ, và tùy vào hoàn cảnh.
Trong thôn cũng có các tổ hoạt động sản xuất lâm nghiệp nhưng hầu như
không hoạt dộng. Đa số bà con canh tác lâm nghiệp theo hướng thuần túy, thiếu
khoa học. Có nhận được sự chỉ dẫn của cán bộ lâm nhiệp về tỉ lệ trồng cây
nhưng ngoài ra không có sự áp dụng cách tỉa thưa, chăm sóc, vun gốc bón
phân… Nói chug tình hình sản xuất ở địa phương con kém phát triển, lợi nhuận
mang lại không cao. Nếu trồng ở nơi đất tốt thì bàn đươc giá cao, còn lai đa số
bị thương lái ép giá.
16
Thôn Kân Sâm có 230 nhân khẩu, với 52 hộ, trong đó có 17 hộ nghèo
(2011) và 19 hộ cận nghèo. Có 4 dân tộc anh em đó là Ka Tu 167 người, Pa Kô
37 người,Tà Ôi 5 người và kinh 12 người.
Diện tích sản xuất trồng trọt ở trong thôn cụ thể là; keo 75 ha, cao su 30
ha, sắn 57 ha, ruộng 2 ha.
Trong thôn có diện tích rừng cộng đồng là 60 ha, hiệu lực từ 12/2012,
được dự án ADB năm 2008 và dự án 135 hỗ trợ sản xuất, cho vay vốn. Dự án
hành lang xanh hỗ trợ giống cây nhưng với số lượng ít là 2000 cây. Về sản xuất
lâm nghiệp thì thôn có 3 nhóm hộ cùng lập thành nhóm để cùng nhau hỗ trợ,
mỗi nhóm từ 9-11 hộ. Cơ chế hưởng lợi của rừng cộng đồng ở thôn là chưa rõ
ràng và từ đó chưa tạo được niềm tin cho người dân yên tâm sản xuất.
Nhìn chung, ở cả hai thôn, đất canh tác lúa nước rất ít và chủ yếu nằm dọc
ở hai bên các khe, suối hoặc ở những vùng thung lũng thấp. Đối với đất canh tác
nương rẫy thì người dân thường trồng lúa rẫy, sắn và một số loài cây khác như
ngô, chuối, đậu. Do đất canh tác nương rẫy kém màu mỡ, nên người dân chỉ
trồng lúa trong năm đầu. Hiện nay người dân sống chủ yếu dựa vào canh tác lúa
nước và canh tác nương rẫy. Tuy nhiên, ở cả hai thôn đều không đủ đất để canh
tác lúa nước nên hầu hết các hộ gia đình đều thiếu lương thực để ăn, nên họ vẫn
gây áp lực rất lớn vào rừng.
4.3. Thực trạng quản lý rừng cộng đồng
4.3.1. Đặc điểm các khu rừng giao cho cộng đồng và nhóm hộ quản lý bảo
vệ
Xã Hồng Hạ có thôn Kân Sâm được giao rừng cộng đồng và 17 nhóm hộ
được giao rừng tự nhiên để quản lý và bảo vệ, trong đó thôn Kân Sâm có 3
nhóm và Pa Hy có 4 nhóm được giao.
Theo Báo cáo kỹ thuật kết quả rà soát hiện trạng tài nguyên rừng được giao
cho cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm, xã Hồng Hạ, huyện A Lưới;
Xét đề nghị của Hạt Kiểm lâm huyện A Lưới tại Tờ trình số 334/ TTr- KL
ngày 19 tháng 12 năm 2012 về việc đề nghị điều chỉnh trạng thái rừng tự nhiên
đã giao cho Cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm, xã Hồng Hạ, huyện A Lưới,
Phê duyệt điều chỉnh diện tích, hiện trạng rừng tự nhiên đã giao cho Cộng đồng
dân cư thôn Kân Sâm với diện tích phân theo trạng thái
17
Diện tích được giao cho Cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm thuộc khoảnh
5 tiểu khu 281 và khoảnh 3,4 tiểu khu 286, xã Hồng Hạ, cụ thể từng lô theo biểu
sau:
Bảng 4.2: Diện tích rừng cộng đồng thôn Kân Sâm
Số
T
T
Vị trí, địa điểm
TK
(1) (2)
K
h
Diện tích (ha)
Chức
năng
Trạng thái
(10)
Tự
nhiên
Trừ bỏ Kinh
khe suối doanh
Giao
(3) (4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
Lô
1
28
1
5
d2
8,207
0,207
8,000
8,000
SX
Rừng nghèo
2
28
1
5
d3
3,212
0,212
3,000
0,00
SX
Đất trống
3
28
1
5
d4
6,212
0,112
6,100
0,00
SX
Đất trống
4
28
1
5
d5
8,524
0,324
8,200
8,200
SX
Rừng nghèo
5
28
6
3
a3
8,424
0,324
8,100
8,100
SX
Rừng nghèo
6
28
6
3
a4
4,411
0,111
4,300
4,300
SX
Rừng nghèo
7
28
6
3
a5
2,010
0,010
2,000
0,00
SX
Đất trống
8
28
6
4
b1
7,865
0,165
7,700
7,700
SX
Rừng nghèo
18
9
28
6
4
b3
7,163
0,163
7,000
7,000
SX
Rừng nghèo
10
28
6
4
b5
5,703
0,103
5,600
5,600
SX
Rừng nghèo
60,000
48,90
0
TỔNG
10 lô 61,731 1,731
( Nguồn: Hạt kiểm lâm A Lưới)
Trong tổng số 10 lô với diện tích 61,731 ha, sau khi rà soát bóc tách 11,100
ha đất trống; 48,90 ha rừng nghèo; diện tích trừ bỏ khe suối 1,731 ha phù hợp
với kết quả quy hoạch 3 loại rừng của tỉnh.
Tổng diện tích rừng tự nhiên giao cho Cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm
điều chỉnh còn lại: 48,90 ha, với 07 lô kinh doanh.
19
Bảng 4.3: Các chỉ tiêu cơ bản của 07 lô giao cho Cộng đồng quản lý như sau
Trữ
địa lượng
(m3/h
a)
Vị trí,
Số điểm
T
T
T K
Lô
K h
(1
)
Trữ
Mật độ Cấp Độ
lượng
(Cây/h Phòn tàn
(m3/lô
a)
g hộ che
)
Chiề
u
cao
(m)
Nhóm gỗ
III
(2)
(3
)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
1
28
1
5
d2
66,00
528,0
433
2
28
1
5
d5
55,30
453,5
3
28
6
3
a3
72,60
4
28
6
3
a4
5
28
4
b1
IIIV
VIVIII
(13)
(9)
(10)
(11
(12)
)
IXY
0,4
13,1
0
155,
372,5
5
407
IXY
0,4
12,7
0
134,
318,6
9
588,1
420
IXY
0,5
12,5
0
160,
427,8
3
54,00
232,2
347
IXY
0,4
13,8
0
96,6 135,6
58,70
452,0
420
IXY
0,4
12,8
0
149, 302,3
20
6
7
6
28
6
4
b3
47,20
330,4
293
IXY
0,4
13,6
0
133,
197,4
0
7
28
6
4
b5
54,20
303,5
340
IXY
0,4
13,4
0
100,
203,5
0
07
Lô
59,10
2.887,
386
7
0,4
13,1
0.0
930, 1.957,
0
7
TỔNG
( Nguồn: Hạt kiểm lâm A Lưới)
21
Về tình trạng tái sinh tái sinh của rừng
Tái sinh của rừng tự nhiên rất tốt, đảm bảo khả năng phát triển và phục
hồi rừng. Với rừng tự nhiên, mật độ cây tái sinh trung bình khoảng từ 2.500 đến
3.000 cây/ha, tình hình sinh trưởng tương đối tốt. Trong đó có những loài cây có
giá trị kinh tế như Trường, Sến, Chò, ...và một số loài cây có giá trị khác.
Ngoài ra thôn Kân Sâm còn có 3 nhóm hộ được nhận rừng tự nhiên với
diện tích và trạng thái cụ thể là:
- Nhóm ông Hoài Văn Nhiên được giao với tổng diện tích 101,70ha trên
22 lô thuộc các khoảnh 2,5,6,7 của tiểu khu 286, loại rừng sản xuất thuộc trạng
thái rừng nghèo với trữ lượng trung bình 54,4 m3/ ha
- Nhóm ông Hoài Văn Hào được giao với tổng diện tích 90,30 ha trên 13
lô thuộc khoảnh 3 tiểu khu 281 và tiểu khu 286, với 4 lô thuộc loại rừng sản xuất
còn lại 9 lô thuộc loại rừng phòng hộ, trạng thái rừng nghèo trữ lượng trung bình
50,7 m3/ ha
- Nhóm ông Hoài Văn Phiếu nhận rừng tự nhiên với diện tích 111,30 ha
trên 14 lô thuộc khoảnh 4 tiểu khu 286 là rừng sản xuất ở trạng thái rừng nghèo
với trữ lượng trung bình là 46,5m3/ ha.
Thôn Pa Hy cũng có 4 nhóm hộ được nhận rừng tự nhiên với diện tích,vị
trí và trạng thái cụ thể là:
- Nhóm ông Hồ Văn Le nhận rừng tự nhiên với diện tích 97,00 ha trên 14
lô thuộc khoảnh 9, 10, 14 của tiểu khu 278, 279. Là loại rừng sản xuất ở trạng
thái rừng nghèo có trữ lượng trung bình là 47,5 m3/ ha.
- Nhóm ông Châu Văn Hoàng được giao rừng với diện tích 89,60 ha trên
11 lô thuộc khoảnh 3 tiểu khu 287, là loại rừng sản xuất trạng thái rừng nghèo
với trữ lượng trung bình là 55,7 m3/ ha.
- Nhóm hộ ông Lê Thanh Phúc nhận rừng với diện tích 133,80ha trên 16
lô thuộc khoảnh 4 của tiểu khu 287, là loại rừng sản xuất thuộc trạng thái rừng
nghèo với trữ lượng đo đếm trung bình là 51,1 m3/ ha.
- Nhóm hộ ông A Cơ PRông được giao 109,40 ha diện tích rừng tự nhiên
trên 17 lô thuộc khoảnh 2 và 3 của tiểu khu 287, là loại rừng sản xuất thuộc
trạng thái rừng nghèo có trữ lượng trung bình là 58,40m3/ ha.
22
4.3.2. Đặc điểm của cộng đồng nhận rừng
Cộng đồng nhận rừng là nhân tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến việc
quản lý bảo vệ rừng, bởi vì cộng đồng là chủ rừng,là người trực tiếp tác động
vào rừng và hưởng lợi ích từ rừng. Hiện tại cộng đồng nhận rừng mới được nhận
rừng nên định hướng tác động tới rừng từ lúc đầu sẽ ảnh hưởng về lâu dài.
Cả 2 thôn nhận rừng đều có đặc điểm chung là tỉ lệ các hộ dân tộc thiểu số
lớn cụ thể:
+ Thôn Pa Hy có 369 nhân khẩu với 93 hộ trong đó 32 hộ nghèo và 29 hộ cận
nghèo,76 hộ là dân tộc thiểu số trên tổng số 93 hộ chiếm 81,7%. Diện tích cây
lương thực canh tác ít với 1,9 ha lúa trung bình 0,01 ha/ hộ và 32 ha sắn trung
bình 0,34 ha/ hộ.
+ Thôn Kân Sâm có 230 nhân khẩu với 53 hộ trong đó 17 hộ nghèo và 19 hộ
cận nghèo. Toàn thôn chỉ có 12 khẩu người kinh chiếm 5,2% số khẩu trong
thôn. Diện tích cây lương thực không cao,cụ thể sắn 57 ha trung bình 1,07 ha/
hộ và lúa là 2 ha trung bình 0,03 ha/ hộ.
Từ đặc điểm là cộng đồng có tỉ lệ bà con dân tộc thiểu số cao nên tập tục
đời sống phụ thuộc vào rừng, lối sống canh tác nương rẫy là chủ yếu. Thêm vào
đó là diện tích cho bà con canh tác sản xuất lương thực quá ít, không thể chủ
động về mặt lương thực, tình hình chăn nuôi tăng gia sản xuất không mang lại
hiệu quả và để duy trì đời sống nên tác động của bà con vào rừng là rất lớn.
Tình hình khai thác rừng còn diễn ra bừa bãi, chưa có sự tự quản lý và tự
giác trong cộng đồng. Những ai có nhu cầu về các sản phẩm từ rừng thì tham gia
khai thác,nhất là khai thác gỗ. Hộ gia đình nào có điều kiện, nhất là có nhân
công và sức kéo thì ngoài việc khai thác để sử dụng còn khai thác để bán. Rừng
càng bị phá một cách vô tội vạ.
Khoảng cách từ thôn tới rừng khá gần, nơi gần nhất thì chỉ mất gần 1h
đồng hồ đi bộ là tới rừng, địa hình và đường đi không quá khó khăn nên bà con
vào rừng dễ dàng: Nhà dân ruộng nhỏ dốc rừng keo/rừng cao su rừng
cộng đồng giao.
Nhìn chung điều kiện kinh tế của thôn đang gặp khó khăn, chủ yếu là dựa
vào rừng vì sản xuất nông nghiệp kém, trình độ canh tác chưa cao cộng vào đó
là diện tích ít, đất đai không màu mỡ, chăn thả nuôi trồng mang tính tự phát và
23
sự hỗ trợ của nhà nước chưa đồng bộ nên thu nhập không cao. Ý thức quản lý và
bảo vệ rừng để hưởng lợi ích lâu dài mang lại hiệu quả cao là chưa có
4.3.3. Sự tham gia của cộng đồng vào tiến trình nhận rừng
Ở bất cứ công việc gì khi người tham gia chủ động tham gia vào quá trình
triển khai thì luôn mang lại hiệu quả tích cực. Đối với RCĐ khi người dân tham
gia vào quá trình nhận rừng thì đã thể hiện ý thức của họ với tài nguyên thiên
nhiên nói chung và đối với tài sản mà mình sắp được giao nói riêng.
Sau khi có công văn của UBND huyện A Lưới về việc giao rừng cho cộng
đồng dân cư quản lý ,cán bộ 2 thôn Kân Sâm và Pa Hy đã tiến hành họp thôn
vào tháng 7/2012 để phổ biến các chỉ đạo cho bà con hiểu rõ quyền và lợi ích
của mình. Cuộc họp có các cán bộ thôn với sự tham gia của đai diện UBND xã,
cán bộ kiểm lâm phụ trách địa bàn xã. Mục đích cuộc họp là để phổ biến cho bà
con biết về chính sách giao rừng cộng đồng cho bà con, các quyền lợi và trách
nhiệm khi bà con được nhận rừng và tham gia quản lý rừng. Sự tham gia của bà
con vào các cuộc họp là vô cùng quan trọng vì bà con là chủ thể tương lai của
rừng, họ đóng vai trò quan trọng đến cách thức quản lý rừng cộng đồng sau này,
cũng như những lợi ích mang lại cho họ. Cuộc họp ở 2 thôn thu hút khoảng 65 –
75% bà con tham gia. Một số bà con không có các hoạt động về rừng cũng như
tham gia tập thể nên không đi họp. Qua cuộc họp thứ nhất bà con đã nhận biết
về lợi ích của rừng cộng đồng. Tháng 9/2012 thì 2 thôn lại tổ chức họp thôn lại
để những ai muốn tham gia vào nhóm hộ thì có thể đăng ký danh sách theo
nhóm nhận rừng. Ngoài ra cũng để thành lập Ban quản lý bảo vệ rừng (QLBVR)
của thôn, các tổ QLBVR thôn để sau này tham gia công tác quản lý bảo vệ
thường xuyên hơn. Cuộc họp còn thông qua kế hoạch xây dựng quản lý bảo vệ
rừng và qui ước bảo vệ rừng. Mức độ tham gia của bà con chỉ ở mức là được cán
bộ thông báo, rồi bà con biểu quyết để tán thành sau đó thông qua. Việc chủ
động đăng ký tham gia các tổ nhóm bảo vệ cũng rất thụ động, chỉ khi trưởng
nhóm và trưởng thôn đè xuất thì mới tham gia.
Sự chủ động và tích cực dễ nhận rõ nhất của bà con là ở mục tham gia xác
định mốc ranh giới của rừng được giao. Do là người bản địa, thường xuyên vào
rừng vì cuộc sống gắn bó với rừng nên bà con có thể tìm ra các con đường mòn
vào rừng lâu nay, chỉ rõ ranh giới giữa rừng trồng hộ gia đình, rừng cộng đồng,
rừng của nhóm hộ….từ đó mà sau này khó xảy ra tranh chấp về diện tích. Qua
những hoạt động này người dân nắm bắt kỹ hơn về diện tích rừng,tình hình rừng
24
được giao, đây cũng như là bước bàn giao hiện trường tạm thời cho cộng đồng
tiến hành quản lý bảo vệ ngay trong thời gian hoàn tất các thủ tục giao rừng.
Đồng thời khi tham gia đi thực địa rừng với càn bộ kiểm lâm thì bà con biết
thêm về quyền của mình khi nhận rừng, chủ động ngăn chặn những xâm phạm
tới rừng.
4.3.4. Sự hỗ trợ của các ban nghành cũng như các dự án trong tiến trình
giao và quản lý rừng cộng đồng.
Việc giao và quản lý RCĐ mang lại hiệu quả cao nhất nhưng không thể
dựa vào chính sức lực của bà con bản địa mà còn cần nhận được sự chỉ đạo của
các ban nghành cũng như sự chỉ đạo của các dự án.
Để bà con nhận rừng quản lý và bảo vệ tốt thì UBND huyện A Lưới đã
chỉ đạo Hạt kiểm lâm A Lưới mà cụ thể là trạm kiểm lâm Hồng Hạ hướng dẫn
bà con cụ thể về các lô rừng được giao cũng như quyền hạn của họ. Chỉ rõ
những vấn đề và trường hợp nào là cần sự phối hợp với chính quyền, kiểm lâm.
Ngoài ra UBND xã Hồng Hạ là nơi trực tiếp giải quyết các tranh chấp mâu
thuẫn về mặt pháp lý, chính quyền luôn là nơi bà con cần giúp đỡ nhất.
Sau khi giao RCĐ thì để gắn quản lý bảo vệ rừng với việc nâng cao cải
thiện đời sống người dân, dự án trồng rừng 147 đã triển khai hỗ trợ người dân
song song với việc quản lý rừng cộng đồng. Cụ thể đã triển khai Dự án trồng
mây bền vững cho cộng đồng dân cư thôn Kân Sâm và các nhóm hộ nhận rừng
trong toàn xã. Dự án sẽ triển khai trồng mây trên diện tích tổng cộng là 15 ha,
trong đó 10 ha trồng tập trung và 5 ha tiến hành trồng phân tán dưới tán rừng mà
bà con quản lý. Ngoài việc hỗ trợ giống mây ra thì dự án sẽ hỗ trợ kỹ thuật cho
bà con như mùa trồng mây, vùng nào trồng tập trung,vùng nào phân tán. Cứ tính
trên 1 ha trồng mây dự án sẽ hỗ trợ kinh phí là 10 triệu đồng. Tuy nhiên đó mới
chỉ là phương án mà bên hỗ trợ lên sẵn để phổ biến cho bà con, đợi khi việc giao
và quản lý ổn định thì sẽ tiến hành.
Như vậy có thể thấy rằng mỗi nhân tố đều ảnh hưởng tới quá trình quản lý
RCĐ, nhưng RCĐ và nhóm hộ mới được triển khai sự hoạt động và phối hợp
giữa các bên chưa thực sự rõ ràng, cần thời gian để kiểm chứng tác động tới kết
quả.
25