Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Giải quyết việc làm cho người lao động tại huyện yên phong tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.88 KB, 138 trang )

MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục bảng

vii

Danh mục biểu đồ, hộp

x

Danh mục các từ viết tắt

x

PHẦN I MỞ ĐẦU

1


1.1 Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

3

1.2.1 Mục tiêu chung

3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

3

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

3

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

3

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu


3

PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

5

2.1 Cơ sở lý luận

5

2.1.1 Một số khái niệm cơ bản

5

2.1.2 Vai trò, ý nghĩa của giải quyết việc làm đối với người lao động

12

2.1.3 Đặc điểm của lao động, việc làm khu vực nông thôn

15

2.1.4 Nội dung giải quyết việc làm cho người lao động.

18

2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động

22


2.2 Cơ sở thực tiễn

26

2.2.1 Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động

26

2.2.2 Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết việc làm cho người lao động

iv

28


2.2.3 Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số tỉnh của
Việt Nam

34

2.2.4 Bài học kinh nghiệm cho việc giải quyết việc làm cho người lao động
ở huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh

38

PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

40


3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

40

3.1.1 Đặc điểm tự nhiên

40

3.1.2 Điều kiện kinh tế

41

3.1.3 Điều kiện văn hoá - xã hội

46

3.1.4 Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã
hội của huyện Yên Phong trong việc thực hiện giải pháp giải quyết việc
làm ở địa phương

51

3.2 Phương pháp nghiên cứu

53

3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu

53


3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu

54

3.2.3 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu

55

3.2.4 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu

55

PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

57

4.1 Khái quát về lao động và việc làm tại huyện Yên Phong.

57

4.1.1 Số lượng, cơ cấu lao động và việc làm theo ngành nghề

57

4.1.2 Trình độ học vấn, chuyên môn của lao động

58

4.1.3 Tình hình lao động, việc làm qua điều tra


62

4.2 Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động tại huyện Yên Phong.

66

4.2.1 Phát triển các ngành kinh tế cho giải quyết việc làm

66

4.2.2 Nâng cao trình độ cho người lao động

72

4.2.3 Hỗ trợ nguồn lực cho giải quyết việc làm

78

4.2.4 Xuất khẩu lao động

84

4.2.5 Đánh giá chung về công tác giải quyết việc làm trên địa bàn huyện
Yên Phong

86

v



4.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động tại
huyện Yên Phong.

92

4.3.1 Cơ chế chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và
địa phương

92

4.3.2 Nguồn lực đầu tư cho giải quyết việc làm

94

4.3.3 Năng lực và trình độ của cán bộ địa phương

96

4.3.4. Yếu tố từ bản thân người lao động

96

4.3.5 Thị trường lao động

98

4.4 Quan điểm, định hướng, mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động huyện Yên Phong.

99


4.4.1 Quan điểm và định hướng

99

4.4.2 Mục tiêu

102

4.4.3 Các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động huyện Yên Phong.

103

PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

116

5.1 Kết luận

116

5.2 Kiến nghị

118

TÀI LIỆU THAM KHẢO

121

PHỤ LỤC 1


123

PHỤ LỤC 2

125

vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

BCH

Ban chấp hành

BQ

Bình quân

CC

Cơ cấu

CCB

Cựu chiến binh


CN – TTCN – XD

Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

DT

Diện tích

ĐVT

Đơn vị tính

GDP

Tổng sản phẩm nội địa

GQVL

Giải quyết việc làm

GTSX

Giá trị sản xuất

Ha


Héc ta

HĐND

Hội đồng nhân dân

ILO

Tổ chức lao động quốc tế



Lao động

NĐ – CP

Nghị định – Chính phủ

NHCS

Ngân hàng chính sách xã hội

NN&PTNT

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

SL

Số lượng


TBXH

Thương binh xã hội

THCS

Trung học cơ sở

THKN

Tập huấn khuyến nông

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

XKLĐ

Xuất khẩu lao động

vii



DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Việc làm ở các vùng nông thôn Đài Loan giai đoạn 1930 – 1966

3.1

Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Yên Phong giai đoạn 2012 –

32

2014

43

3.2

Tình hình văn hoá - xã hội huyện Yên Phong giai đoạn 2012 - 2014

47

3.3


Biến động dân số và lao động của huyện Yên Phong giai đoạn 2012 2014

50

3.4

Loại mẫu điều tra

53

4.1

Cơ cấu dân số, lao động

57

4.2

Chất lượng dân số và lao động

58

4.3

Biến động số lượng lao động

59

4.4


Biến động chất lượng lao động

61

4.5

Tình hình người lao động được điều tra

64

4.6

Tình hình việc làm theo ngành nghề của người lao động được điều tra

65

4.7

Hoạt động nhằm phát triển các ngành kinh tế của huyện

68

4.8

Thực trạng việc làm của người lao động phân theo độ tuổi, nghành kinh
tế và khu vực

4.9


70

Thực trạng việc làm của người lao động được phân theo trình độ văn hóa
và chuyên môn

71

4.10 Số người lao động được điều tra đã tham gia học nghề

72

4.11 Nhu cầu học nghề của một số người lao động được điều tra

73

4.12 Hoạt động khuyến nông tại huyện Yên Phong

75

4.13

Số lao động sau khi THKN biết cách áp dụng vào thực tế và có việc làm

4.14 Số người lao động được điều tra tham gia tập huấn khuyến nông
4.15

Số lượt vay vốn và số lao động được GQVL sau khi vay vốn của huyện

4.16 Số lượng, và tỷ lệ số lần vay vốn của người lao động được điều tra


76
77
79
79

4.17 Số lượng người lao động vay vốn và số lao động được GQVL sau khi
vay vốn qua điều tra

80
viii


Số bảng

Tên bảng

Trang

Ý kiến của người lao động được điều tra theo khó khăn vay vốn

81

4.19 Tình hình người lao động đi XKLĐ giai đoạn năm 2012 – 2014

85

4.20 Tình hình giải quyết việc làm cho người lao động huyện Yên Phong

87


4.18

4.21 Phân tích tình trạng thất nghiệp của người lao động tại huyện Yên
Phong

90

4.22 Mức độ ảnh hưởng của diện tích, thời gian sử dụng đất đai tới giải quyết
việc làm

94

4.23 Ý kiến của người lao động điều tra về ảnh hưởng của chất lượng Lao
động tới vấn đề việc làm của người lao động

ix

97


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HỘP
Số biểu đồ
4.1

Số hộp

Tên biểu đồ

Thực trạng việc làm của người lao động tại huyện Yên Phong


Tên hộp

Trang
69

Trang

4.1

Mong muốn đào tạo ngề của người dân

74

4.2

Tăng thu nhập từ chuyển từ trồng lúa sang trồng nấm

78

4.3

Lợi ích từ tham gia lớp khuyến nông

78

4.4

Ý kiến của người lao động về vay vốn

82


4.5

Ý kiến xuất khẩu lao động của người dân

86

4.6

Chính sách phát triển kinh tế cho người dân

92

4.7

Muốn mở rộng xưởng gỗ này nhưng mà lượng vốn có hạn

96

x


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Lao động - việc làm luôn là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế, ổn định xã hội của mỗi quốc gia. Hằng năm, nước ta có
khoảng 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động (Chu Tiến Quang, 2001). Trong
thời kỳ hội nhập quốc tế người lao động đã và đang thể hiện được vai trò, vị thế
của mình trong các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt đã góp phần

không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy
việc làm có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi
người, mỗi gia đình cũng như trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Giải
quyết việc làm (GQVL) là vấn đề mang tính toàn cầu, là một thách thức còn lâu dài
với toàn thể nhân loại. Đối với một nước đang phát triển như nước ta, nơi nguồn lao
động còn rất dồi dào và tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn thì giải quyết việc
làm cho người lao động là mối quan tâm hàng đầu. Theo tổng cục thống kê năm
2012 có hơn 68% dân số nước ta sống ở khu vực nông thôn, lực lượng này chiếm tới
69,4% tổng lực lượng lao động cả nước. Người Lao động tại nông thôn chiếm lượng
lớn trong tổng số lao động của cả nước, nhưng lực lượng lao động này lại yếu về chất
lượng trong khi lại chịu sự chi phối của thiếu khoa học công nghệ, kĩ thuật, vốn, thị
trường lao động không mấy sôi động đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng dư
thừa lao động, thiếu việc làm cho người lao động ngày càng gia tăng dẫn đến mức
sống của người lao động rất thấp, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn. Vì vậy
giải quyết việc làm cho người lao động hiện nay là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho
từng ngành, từng địa phương và từng gia đình.
Huyện Yên Phong là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh. Ủy ban nhân
dân Huyện (UBND) cách trung tâm Thành Phố khoảng 8km nên rất thuận lợi cho
việc tiếp cận ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ đời sống và sản xuất của người
dân. Đặc biệt, huyện rất chú trọng đến công tác giải quyết việc làm cho người lao
động. Qua 3 năm từ 2012 – 2014 huyện đã đào tạo nghề miễn phí hoàn toàn cho
1


2.686 lao động và được tập huấn khuyến nông, ngoài ra huyện còn triển các hoạt
động hỗ trợ vay vốn, khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành
nghề kinh tế tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động. Trong thời gian
qua, được sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với công tác giải quyết việc làm
cho người lao động, huyện đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, công tác giải quyết việc làm tại huyện vẫn còn nhiều tồn tại và

hạn chế đó là: Các lớp đào tạo nghề và tập huấn khuyến nông còn ít, ngành nghề
phát triển chưa đa dạng; cơ sở hạ tầng, máy móc phục vụ cho sản xuất và học tập
còn thiếu và kém chất lượng; trình độ của người lao động thấp, không đồng đều;
một số nội dung về giải quyết việc làm chưa được quan tâm; việc tổ chức, quản lý
còn nhiều bất cập; sự liên kết, phối hợp giữa các tổ chức chưa thực sự tốt còn kém
hiệu quả; tình hình người lao động nhảy việc và lao động sau khi được đào tạo
không phát huy được nghề và lĩnh vực đào tạo ngày càng phổ biến...Vì vậy, làm thế
nào để giải quyết việc làm cho người lao động huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh là
câu hỏi cần được trả lời. Đây cũng là đòi hỏi bức xúc của các Bộ ngành, UBND,
các ban ngành của huyện, của tỉnh Bắc Ninh cần quan tâm giải quyết.
Từ trước đến nay đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến giải quyết việc làm
cho người lao động như Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, ban chính sách
phát triển nông thôn do Chu Tiến Quang chủ biên đã nghiên cứu về “Việc làm ở nông
thôn: Thực trạng và giải pháp”, tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (1999)
đã nêu ra những chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam,... Nhìn chung, ở Việt
Nam có rất nhiều các đề tài nghiên cứu về việc làm cho người lao động, nhưng hầu
hết các đề tài này đều mới chỉ rõ một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm, giải
quyết việc làm, các chính sách mang tầm vĩ mô, tổng thể quốc gia, ít có những đề tài
nghiên cứu tập trung, cụ thể cho từng vùng, tiểu vùng trong cả nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp giải
quyết việc làm cho người lao động tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường giải
quyết việc làm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động tại địa bàn

nghiên cứu.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết
việc làm cho người lao động;
- Phân tích, đánh giá thực trạng và chỉ rõ những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết
việc làm cho người lao động tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm có hiệu quả cho người lao động
huyện Yên Phong trong thời gian tới;
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Tình hình lao động, việc làm và giải quyết việc làm tại tại huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh hiện nay như thế nào?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động?
- Giải pháp giải quyết việc làm có hiệu quả cho người lao động tại địa bàn
nghiên cứu là gì?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Chủ thể nghiên cứu: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người
lao động tại huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.
Khách thể là những người lao động tại địa bàn nghiên cứu, các ban ngành liên
quan ở huyện, những chính sách giải quyết việc làm cho người lao động.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng vấn đề việc làm và giải pháp hiệu quả
nhằm giải quyết việc làm giúp nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống,
giảm tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
3


1.4.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài được thực hiện trên phạm vi huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

1.4.2.3 Phạm vi thời gian
Đề tài tiến hành điều tra nghiên cứu thực trạng vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh trong 3 năm từ năm 2012 đến năm
2014 từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp cho những năm tới.
Số liệu sơ cấp được thu thập qua những người lao động, các phòng ban chức
năng liên quan thuộc huyện năm 2014.
Thời gian nghiên cứu đề tài: từ ngày 7/10/2014 đến 10/2015

4


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm về lao động
Theo C.Mác: “Lao động là hoạt động có mục đích để sáng tạo ra những giá
trị sử dụng và lao động là sự kết hợp giữa sức lao động của con người và tư liệu lao
động để tác động vào đối tượng lao động”. C.Mác đã nói “Lao động trước hết là
một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng sức
lao động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi
chất giữa họ với tự nhiên” (Phạm Đức Thành và Mai Quốc Khánh, 1998).
Lao động: Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống XH, thông qua đó
con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng thành những vật có ích nhằm
đáp ứng nhu cầu nào đó của con người (Nguyễn Mậu Dũng, 2011).
Lao động là một yếu tố sản xuất, là hoạt động chính của xã hội, là nguồn gốc
và động lực phát triển để phát triển xã hội. Sự phát triển của lao động, sản xuất là
thước đo sự phát triển của xã hội. Theo Ănghen: Lao động đã sáng tạo ra con người
và xã hội loài người. Vì vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương

pháp tổ chức lao động càng tiến bộ (Phạm Đức Thành và Mai Quốc Khánh, 1998).
* Nguồn lao động: Theo Từ điển Thuật ngữ Lao động Pháp: “Nguồn lao động
không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc”
Trong giáo trình Kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân
(2005) đưa ra khái niệm “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động
theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao
động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân” (Phạm Đức Thành và Mai Quốc Khánh, 1998).
Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động. Theo quy định của nhà nước Việt Nam, nam có tuổi từ 15 – 60, nữ có tuổi
từ 15 – 55 được coi là độ tuổi lao động (Phan Công Nghĩa, 1999).
5


Nghiên cứu nguồn lao động có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế quốc
dân nói chung cũng như đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng.
Nguồn lao động nông thôn bao gồm số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, số lượng lao động không hoàn toàn phụ thuộc vào độ tuổi mà chủ
yếu dựa vào khả năng lao động. Những người trên và dưới tuổi quy định nhưng có
khả năng lao động thì vẫn được coi như một bộ phận của người lao động. Việc tăng
số lượng người lao động trực tiếp sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo
ra sản phẩm. Số lượng người lao động phải gắn liền với số ngày công lao động, nhất
là số ngày và số giờ lao động thực tế, số giờ làm việc hữu ích của người lao động.
Chất lượng nguồn lao động biểu hiện ở trình độ văn hóa, trình độ lành nghề,
trình độ kinh tế, tổ chức, mức độ sức khỏe.
Số lượng lao động là toàn bộ những người nằm trong độ tuổi quy định (nam từ 15
– 60 tuổi, nữ từ 15 – 55 tuổi) có khả năng tham gia lao động. Ngoài ra do quá trình sản
xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp những người không nằm trong độ tuổi quy định
nhưng vẫn có khả năng tham gia lao động thì vẫn được coi là bộ phận của nguồn lao
động, tuy nhiên khả năng lao động của họ còn hạn chế nên họ được coi là lao động phụ.

* Lực lượng lao động
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Lực lượng lao động
là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những
người thất nghiệp nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc (Phạm Đức
Thành và Mai Quốc Khánh, 1998).
Người không thuộc lực lượng lao động là những đối tượng là học sinh,
những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người đã nghỉ làm việc vì lý
do sức khoẻ, tuổi tác cao... (Đỗ Kim Chung và cộng sự, 2008).
Theo chúng tôi, khái niệm lực lượng lao động của ILO là khá rõ ràng và đầy
đủ, còn nhóm người không thuộc lực lượng lao động phải cần bổ sung là bao gồm
cả dân số không trong độ tuổi và những người trong độ tuổi nhưng không có khả
năng, không có nhu cầu và không sẵn sàng làm việc.
Lực lượng lao động của một quốc gia hay một địa phương là bộ phận dân số
trong tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong muốn lao động, đang có
việc làm hoặc đang tìm việc làm. Lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm
và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi là thất nghiệp).
6


Lực lượng lao động nông nghiệp: Bao gồm những người thuộc lực lượng lao
động sản xuất nông nghiệp, có hộ khẩu thường trú ở nông thôn (được giao đất nông
nghiệp để sản xuất). Lực lượng lao động nông nghiệp gồm 2 bộ phận: Lực lượng
lao động trong độ tuổi và lực lượng lao động trên độ tuổi. Ngoài ra do đặc điểm của
sản xuất nông nghiệp, do tính chất công việc và đặc điểm kinh tế xã hội nông thôn,
một lực lượng lao động dưới độ tuổi có nhu cầu làm việc cũng cần được giải quyết
việc làm. Đó là lực lượng lao động dưới tuổi (chưa đủ 15 tuổi).
2.1.1.3 Việc làm và thất nghiệp
a. Việc làm
Con người là nhân tố quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân và xã

hội. Để có được điều đó, con người phải dùng sức lao động thông qua những việc
làm cụ thể, vậy thế nào là việc làm?
Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc
tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng (Phạm
Đức Thành và Mai Quốc Khánh, 1998).
Con người là nhân tố quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân và xã hội.
Để có được điều đó, con người phải dùng sức lao động thông qua những việc làm
cụ thể, vậy thế nào là việc làm? Theo ILO thì “Việc làm là những hoạt động được
trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật”. Theo Điều 13, Chương II, Bộ Luật Lao
động thì “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm”. Việc làm là hoạt động lao động có ích, không bị
pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình người lao động
hoặc cho một cộng đồng nào đó. Các hoạt động lao động được xác định là việc làm
bao gồm: Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật; và
những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc gia đình mình, không
được trả công cho công việc đó.Theo chúng tôi, khái niệm của Bộ Luật Lao động là
đầy đủ, rõ ràng nhất về việc làm với những hoạt động không bị pháp luận cấm, tạo
ra thu nhập, được trả bằng tiền hoặc hiện vật và có thể không được trả công cho
7


công việc đó. Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để
tạo việc làm và tự do thuê mướn lao động theo luật pháp của Nhà nước để tạo việc
làm cho mình và thu hút lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị
trường (Bộ luật lao động, 1994).
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
+ Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
+ Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc thu nhập cho
gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc

đó. Đó có thể là các công việc trong các nhà máy, công sở, các công việc nội trợ,
chăm sóc con cái, đều được coi là việc làm.
Người có việc làm: là người có đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra có thời gian
làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm. Ở
nhiều nước sử dụng mức chuẩn này là 1 giờ, còn ở nước ta mức chuẩn này là 8 giờ.
Riêng với những người trong tuần lễ tham khảo không có việc làm vì các lý do
bất khả kháng hoặc do nghỉ ốm, thai sản, nghỉ phép, nghỉ hè, đi học có hưởng lương,
nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian thực tế làm việc không ít
hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm và họ sẽ tiếp tục trở lại
làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ, vẫn được tính là người có việc làm.
Căn cứ vào chế độ làm việc, thời gian thực tế và nhu cầu làm thêm của người
được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra. Người có việc làm chia
thành hai nhóm: Người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn
hơn hoặc bằng 36 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc có số giờ làm việc nhỏ
hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc lớn hơn số giờ quy định đối với người làm các công việc
năng nhọc, độc hại.
Người thiếu việc làm: Là người có số thời gian làm việc trong tuần lễ tham
khảo dưới 36 giờ, hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với các công việc nặng
nhọc, độc hại, có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khi có việc làm.

8


Người không có việc làm: Là những người đang tích cự tìm việc nhưng chưa
làm việc hoặc đang chờ được trở lại làm việc (Phạm Đức Thành và Mai Quốc
Khánh, 1998).
Tổ chức ILO đưa ra các tiêu thức sau: Xét trong một khoảng thời gian nhất
định, những người thất nghiệp là những người có khả năng làm việc nhưng không có

việc làm và tích cực tìm việc làm.
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, Tổ chức Lao động Quốc tế phân
chia “việc làm” thành các loại:
+ Việc làm ổn định và việc làm tạm thời: Căn cứ vào số thời gian có việc làm
thường xuyên trong một năm.
+ Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian: Căn cứ vào số giờ
thực hiện việc làm trong một tuần.
+ Việc làm chính và việc làm phụ: Căn cứ vào khối lượng thời gian hoặc mức
độ thu nhập trong việc thực hiện một công việc nào đó.
Sự phân chia trên đã diễn tả đầy đủ hơn các trạng thái của việc làm theo
không gian và thời gian trên một địa bàn tương ứng với một thời điểm nào đó.
Người có việc làm ổn định là những người làm việc từ 6 tháng trở lên trong một
năm nhưng sẽ tiếp tục làm việc đó trong nhiều năm tiếp theo (Phạm Đức Thành và
Mai Quốc Khánh, 1998).
b. Thất nghiệp
Theo bộ luật lao động sửa đổi và bổ sung của Việt Nam năm 2002 quy định:
“Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm
được việc làm.” Thất nghiệp chỉ tình trạng không có việc làm mang lại thu nhập.
Một người được coi là thất nghiệp nếu người đó tạm thời nghỉ việc, đang tìm việc
hoặc đang đợi ngày bắt đầu làm việc.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi
một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc
làm ở mức tiền công thịnh hành”.
Như vậy người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc
làm và có đăng ký tìm việc theo quy định.
9


Để xem xét và so sánh tình hình thất nghiệp người ta sử dụng các con số chủ

yếu là tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm (%) số người lao động
không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động của xã hội.
Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp:
Tỷ lệ thất nghiệp

=

Số người không có việc làm
Tổng số nguồn nhân lực

X

100%

Thất nghiệp là một khái niệm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, nó
mang nghĩa ngược với có việc làm. Nói đến thất nghiệp là nói đến sự khó khăn cho việc
hoạch định chính sách của các quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ thất nghiệp ở mức
hợp lý là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Vì vậy cần phải giữ mức tỷ lệ thất
nghiệp sao cho hợp lý với trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, thất nghiệp được chia thành các loại
như sau:
-

Xét về nguồn gốc thất nghiệp, có thể chia thành:

+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao
động không phù hợp.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ
hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi.
+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến động thời

vụ trong các cơ hội lao động.
+ Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản
lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các yếu
tố đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách
nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm:
+ Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ
việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với
nguyện vọng.

10


+ Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao
động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không
tìm được việc làm.
- Ở các nước đang phát triển, người ta chia thất nghiệp thành thất nghiệp
hữu hình và thất nghiệp vô hình.
+ Thất nghiệp hữu hình: Xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm
việc làm nhưng không tìm được trên thị trường.
+ Thất nghiệp vô hình (thất nghiệp trá hình): Là biểu hiện chính của tình
trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có
việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng việc làm
đó có năng suất thấp, những người này đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát
triển sản xuất.
c. Giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm (tạo việc làm) là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường
đảm bảo cho mội người có khả năng lao dộngđều có cơ hội làm việc. bao gồm tổng
thể các biện pháp kinh tế, tổ chức của nhà nước, các tổ chức kinh tế và của chính

người lao động, tác động đến các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm cải biến môi
trường pháp lý, tạo ra các điều kiện vật chất nâng cao trình độ người lao động và
liên kết các yếu tố đó để tạo ra việc làm mới, thu hút người lao động vào các hoạt
động đó (Phan Công Nghĩa, 1999).
Vì vậy, giải quyết việc làm phải là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các
cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động. Điều đó đòi hỏi
không chỉ có các cơ quan Nhà nước mà các doanh nghiệp phải luôn cố gắng tạo ra
nhiều việc làm, còn người lao động thì không ngừng cố gắng để nâng cao chất
lượng làm việc của mình. Có như vậy tỉ lệ người thất nghiệp sẽ giảm và năng suất
lao động cũng sẽ tăng.

11


2.1.2 Vai trò, ý nghĩa của giải quyết việc làm đối với người lao động
2.1.2.1 Vai trò
a. Tạo nguồn thu nhập, ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân
Việc khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lao động là một trong những điều
kiện cần để phát triển kinh tế đất nước. Nếu chúng ta sử dụng hợp lý nguồn lao
động, giải quyết được việc làm cho người lao động sẽ giúp thu nhập của người lao
động tăng lên, tạo điều kiện nâng cao mức sống của người dân, đây là điều kiện
phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế ở nông thôn, là điều kiện quan trọng trong
việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, từ đó thúc đẩy quy mô và tốc độ
phát triển của nền kinh tế đất nước. Đồng thời thể hiện được khả năng lãnh đạo và
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta tới nhân dân nói chung và người lao động nói
riêng (Chu Tiến Quang, 2001).
b. Điều tiết thị trường lao động
Phần lớn mỗi quốc gia đều có nguồn lực riêng trong quá trình phát triển kinh tế
xã hội: Tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ và đặc biệt là nguồn
lực con người, nó quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam là một

quốc gia có dân số trẻ, lực lượng dồi dào, đây là một lợi thế trong quá trình phát
triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, nguồn lực trên vẫn còn ở dạng tiềm năng, chưa
được sử dụng hiệu quả, do vậy cần sử dụng hợp lý nguồn lực này. Giải quyết việc
làm cho người lao động sẽ giúp điều tiết thị trường lao động từng vùng miền, cân
bằng lao động, tránh tình trạng nơi này thừa nơi kia thiếu lao động (Chu Tiến
Quang, 2001).
c. Ổn định an ninh chính trị
Người lao động thất nghiệp thì không có việc làm nên không có thu nhập do
đó bắt buộc họ phải đi làm nhiều công việc khác để kiếm thu nhập trang trải cuộc
sống. Đôi khi vì mục đích kiếm tiền mà người lao động đã làm những công việc trái
pháp luật mà bản chất họ không phải như vậy. Còn đối với những người thiếu việc
làm thì họ luôn bị áp lực về kinh tế bởi mức tiền công thấp và có khả năng bị mất
việc. Do đó, khi việc làm trở nên khan hiếm, một bộ phận người lao động không có
việc làm sẽ dẫn tới các hoạt động phạm pháp, tệ nạn xã hội ngày càng nhiều từ đó
12


làm gia tăng gánh nặng cho xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động
sẽ góp phần phát triển kinh tế, ổn định an ninh – chính trị (Chu Tiến Quang, 2001).
d. Ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững
Khi việc làm trở lên khan hiếm một bộ phận người lao động không có việc
lám sẽ dẫn tới phạm pháp gia tăng, tệ nạn ngày càng nhiều, từ đó làm tăng ngánh
nặng cho xã hội. Việc giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa rất quan
trọng cho sự phát triển và ổn định nền kinh tế. Mọi người lao động có việc làm sẽ
rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo trong xã hội làm cho xã hội công bằng hơn,
phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong công việc. Tóm lại, giải quyết tốt
việc làm sẽ giúp người lao động có cuộc sống tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển của
toàn xã hội, góp phần ổn định và tạo sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước đi lên
trong xu thế hội nhập (Chu Tiến Quang, 2001).
2.1.2.2 Ý nghĩa

a. Về mặt kinh tế
Đối với cá nhân và gia đình: Người lao động ở mọi trình độ, được đào tạo và
không qua đào tạo họ đều mong muốn có được công việc ổn định phù hợp với khả
năng lao động của họ và đáp ứng được phần nào nhu cầu tiêu dùng và mức sống ngày
càng cao của họ. Mọi biện pháp giải quyết việc làm đều hướng vào mục tiêu đó.
Người lao động nói chung có việc làm, có thu nhập phù hợp để trang trải
cuộc sống hàng ngày và chăm sóc gia đình thì họ sẽ yên tâm làm việc, chú trọng
vào công việc để công việc đạt hiệu quả cao nhất, nâng cao trình độ tay nghề tạo
ra nhiều sản phẩm chất lượng ngày càng cao và gia tăng thu nhập cho bản thân.
Đối với nền kinh tế quốc dân: Giải quyết việc làm là vấn đề được đặt ra ở
nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không chỉ có
ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư, những người thiếu việc làm và những người
thất nghiệp mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay, muốn giải quyết việc làm cho người lao động trước
hết cần tạo điều kiện để khai thác tối đa những nguồn lực quan trọng còn đang tiềm
ẩn như tài nguyên vốn, ngành nghề… thông qua lao động của con người. Khi người
lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích lũy.
13


Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo người thất
nghiệp mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ sẽ có thể mang lại tích lũy cho nền
kinh tế quốc dân. Tăng tích lũy sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hút them
nhiều lao động. Mặt khác, khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng từ
đó làm tăng sức mua cho xã hội, tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
(Chu Tiến Quang, 2001).
Nước ta là nước đang phát triển cho nên luôn tồn tại tình trạng thất nghiệp và
thiếu việc làm nghiêm trọng. Đại bộ phận dân cư có mức sống thấp, nhiều người lao
cần có việc làm và việc làm hiệu quả hơn. Giải quyết việc làm ở Việt Nam nói
chung và cho người lao động nói riêng trong điều kiện hiện nay có một ý nghĩa to

lớn đối với quá trình phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và
nâng cao thu nhập quốc dân.
b. Về mặt xã hội
Giải quyết việc làm là một vấn đề mang tính xã hội. Mỗi con người khi
trưởng thành đều có nhu cầu và quyền lợi chính đáng là lao động. Chính vì vậy giải
quyết việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩa rất lớn đối cá nhân và cả xã
hội. Khi Chính phủ có chính sách việc làm thỏa đáng, điều đó sẽ đem đến sự công
bằng cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho tất cả lao động. Từ đó mọi người có thu
nhập hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội có thể giảm bớt. Ngược lại,
nếu không giải quyết tốt việc làm cho người lao động, hiện tượng thất nghiệp và thiếu
việc làm sẽ tăng lên. Điều này luôn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ
bạc, trộm cắp, ma túy… làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hóa nhân phẩm người
lao động. Thất nghiệp ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định về kinh tế và chính trị, có
khi còn là tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một thế hệ, làm mất niềm tin của người
dân đối với Đảng và Nhà nước. Giải quyết việc làm trên phạm vi rộng còn bao gồm
cả những vất đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động. Trên góc độ này, giải quyết việc làm còn góp phần nâng cao chất
lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường, đồng thời xây
dựng nguồn lực lâu dài cho đất nước (Chu Tiến Quang, 2001).

14


Hiện nay, nhiều gia đình và cá nhân người lao động thường di chuyển từ
nông thôn lên thành thị vì mục đích việc làm và thu nhập. Do vậy cần có những giải
pháp việc làm hợp lý cho khu vực nông thôn, khi dòng lao động nông thôn này di
chuyển lên thành thị sẽ gây ra sức ép cho khu vực này trên tất cả các mặt như: nhà
cửa, điện nước, y tế, thậm chí cả những rối loạn về mặt xã hội.
Nước ta đang trong qua trình phát triển, tiến tới CNH-HĐH, giải quyết việc
làm đã trở thành mục tiêu của Đảng, Nhà nước và mong mỏi của mọi người lao

động. Đại hội Đảng IX đã đề ra: “Giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của chính sách xã hội, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu
bức xúc của người dân…” (Chu Tiến Quang, 2001).
2.1.3 Đặc điểm của lao động, việc làm khu vực nông thôn
2.1.3.1 Đặc điểm của lao động.
- Người lao động rất đa dạng nhưng giản đơn, người lao động Việt Nam mang
nhiều đặc điểm riêng biệt do nhiều nguyên nhân cấu thành như: Văn hóa vùng miền,
Lịch sử, tập quán, điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên...
- Người lao động có thể tham gia ở hầu hết các công việc trong đời sống xã
hội, tuy nhiên, phần lớn đều là những công việc phổ thông. Đây cũng có thể xuất
phát từ chính nguyên nhân thuộc về đặc điểm của người lao động như yếu tố sức
khoẻ, trình độ văn hoá, chuyên môn hay tay nghề...
- Việc làm cho người lao động còn mang tính thời vụ và có sự dịch chuyển
giữa các ngành, các vùng
- Sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ bởi các
quy luật sinh học và điều kiện tự nhiên của từng vùng (khí hậu, đất đai...). Do đó,
quá trình sản xuất mang tính thời vụ cao, thu hút lao động không đồng đều. Chính
vì tính chất này đã làm cho việc sử dụng người lao động ở các vùng nông thôn trở
nên phức tạp hơn (Phan Công Nghĩa, 1999).
- Lao động rất dồi dào, đa dạng về độ tuổi và có thích ứng lớn. Do đó việc
huy động và sử dụng đầy đủ nguồn lao động có ý nghĩa rất quan trọng và phức tạp,
đòi hỏi phải có biện pháp tổ chức quản lý lao động tốt để tăng cường lực lượng lao
động cho sản xuất nông nghiệp (Phan Công Nghĩa, 1999).
15


- Người lao động ở địa phương rất đa dạng, ít chuyên sâu, trình độ thấp. Sản
xuất nông nghiệp có nhiều việc gồm các khâu với các tính chất khác nhau. Hơn nữa
mức độ áp dụng máy móc, thiết bị vào sản xuất còn thấp vì thế mà sản xuất nông

nghiệp chỉ đòi hỏi về sức khỏe, sự lành nghề và kinh nghiệm. Mỗi người lao động
có thể đảm nhận nhiều công việc khác nhau nên người lao động ít chuyên sâu hơn
so với người lao động trong các ngành công nghiệp và một số ngành khác. Bên cạnh
đó, phần lớn người lao động đều mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản xuất chủ
yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức khỏe, tổ chức lao động đơn giản, công cụ lao
động cũng thô sơ mang tính tự chế cao. Lực lượng chuyên sâu, lành nghề, lao động
chất xám không đáng kể, phân bố lao động không đồng đều, vì vậy mà hiệu suất lao
động thấp, khó khăn trong việc tiếp thu công nghiệp hiện đại vào sản xuất (Phan
Công Nghĩa, 1999).
2.1.3.2 Đặc điểm của việc làm ở các khu vực nông thôn
Khu vực nông thôn của nhiều nước đang phát triển nói chung và nước ta nói
riêng có đặc điểm chung là nguồn lao động hàng năm tăng với tốc độ cao mà khả
năng giải quyết việc làm của nền kinh tế luôn thấp hơn nhu cầu việc làm của người
lao động. Do người lao động tại các vùng nông thôn có những đặc điểm riêng cho
nên cũng kéo theo việc làm có sự khác biệt nhất định.
- Việc làm chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy giải quyết việc làm
cho người lao động trước tiên cần phải thực hiện các giải pháp phát triển ngành nông
nghiệp sau đó mới đào tạo thêm nghề mới cho người lao động tại khu vực nông thôn
(Chu Tiến Quang, 2001).
- Người lao động ở khu vực nông thôn có chất lượng lao động thấp cho nên
việc làm thường đơn giản, ít chuyên sâu, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và dễ dàng
thay đổi chuyển từ việc làm này sang việc làm khác. Do vậy giải quyết việc làm cho
người lao động khu vực này chính là việc nâng cao trình độ cho người lao động, thay
đổi việc làm theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH), kích thích
khả năng của người lao động, làm cho thị trường lao động ngày càng sôi động hơn
(Chu Tiến Quang, 2001).
- Việc làm trong khu vực nông nghiệp thường mang tính thời vụ cao: Sản
xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ của các quy luật sinh
16



học và các điều kiện tự nhiên của từng vùng. Do đó, giải quyết việc làm cho người
lao động là làm giảm tính chất lao động thời vụ, tăng năng suất lao động và tăng thu
nhập cho người lao động (Chu Tiến Quang, 2001).
- Khả năng tiếp cận thị trường của người lao động thường kém, thiếu khả
năng nắm bắt sử lý thông tin thị trường. Do đó sẽ hạn chế khả năng phát triển sản
xuất. Do thông tin nắm bắt chậm, khả năng phán đoán thị trường kém dẫn đến
người dân khó theo kịp thị yếu của thị trường. Thường thì khi nào nhu cầu của thị
trường tăng mạnh về một sản phẩm nông sản nào đó, người dân mới biết, họ sẽ đổ
xô đi sản suất, gây dư thừa, hiệu quả kinh tế đem lại thấp (Chu Tiến Quang, 2001).
Khi đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động, cần chú ý tới
đặc điểm của người lao động theo vùng để có những giải pháp hữu hiệu.
Thứ nhất: Người lao động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp thì việc làm cho
người lao động trước tiên phải thực hiện các giải pháp phát triển nông nghiệp sau đó
mới đào tạo thêm nghề mới cho người lao động.
Thứ hai: Người lao động làm việc theo tính mùa vụ cao, nên việc làm cho lao
động là giảm tính chất lao động vùa vụ, tăng năng suất lao động và tăng thu nhập
cho người lao động.
Thứ ba: Chất lượng lao động còn thấp, việc làm đơn giản, ít chuyến sâu, chủ
yếu dựa trên kinh nghiệm; nên tạo việc làm cho người lao động chính là việc nâng
cao trình độ cho người lao động.
Thứ tư: Khả năng nắm bắt thông tin, tiếp cận thị trường của người dân còn
kém, vì thế cần chú trọng công tác tuyên truyền tăng khả năng nhận thức, nắm bắt
thông tin của người dân.
Thứ năm: Các chủ trương, chính sách và định hướng việc làm cho người lao
động cần phù hợp với đặc điểm của vùng. Các giải pháp tạo việc làm cho người lao
động cần diễn ra trong thời gian dài để người lao động có đủ thời gian thích ứng với
các điều kiện việc làm đó.
Việc làm luôn có những đặc điểm riêng biệt mà những đặc điểm này lại có
ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương, chính sách và định hướng việc làm cho người lao


17


động. Nếu có cơ chế phù hợp, mở rộng và phát triển các giải pháp giải quyết việc
làm thích ứng sẽ góp phần giải quyết tốt quan hệ dân số - việc làm tại chỗ.
2.1.4 Nội dung giải quyết việc làm cho người lao động.
Giải quyết việc làm vừa là vấn đề cơ bản có tính chiến lược, vừa là vấn đề
cấp bách trước mắt. Người lao động ở nông thôn chiếm lượng lớn trong tổng số lao
động cả nước, nhưng lực lượng này lại yếu về chất lượng, chủ yếu làm nông nghiệp,
mang tính thời vụ và thu nhập thấp. Do vậy, giải quyết việc làm trong điều kiện
nước ta còn nghèo, chúng ta phải phát huy mọi nguồn tiềm năng trong nước, khai
thác đến mức tối đa tiềm năng trong dân, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các chương trình và dự án việc làm có mục
tiêu. Song cần phải xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước ở các cấp. Nhà nước phải
có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đồng thời tạo ra những điều kiện
cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp để cho công dân tự do làm ăn theo
pháp luật và hỗ trợ một phần về tài chính để dân tự tạo việc làm (xây dựng cơ sở hạ
tầng, trợ giúp về vốn dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi, chuyển giao kỹ
thuật và công nghệ, đào tạo và phổ cập nghề, tìm kiếm thị trường…), thu hút thêm
lao động xã hội (Phan Công Nghĩa, 1999).
Giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề mà các cấp, các ngành và
địa phương cùng tổ chức và thực hiện bao gồm những nội dung sau:
2.1.4.1 Nâng cao trình độ cho người lao động.
a. Đào tạo nghề cho người lao động.
Đứng trước thực trạng nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng lao động
kém đã hạn chế rất lớn đến việc làm và sự phát triển nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tuy nhiên người lao động nông thôn có thu nhập thấp
vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần có sự quan tâm đúng mức của
Nhà nước. Có thể nói đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư trực tiếp, cơ bản và lâu

dài cho sự phồn thịch của đất nước và là hướng đầu tư bền vững nhất. Đào tạo nghề
cho người lao động là một bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm từng
bước nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công

18


×