Tải bản đầy đủ (.doc) (510 trang)

Đức Phật Và Phật Pháp - Đại Đức Narada Maha Thera, 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 510 trang )

ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP
Đại Đức Narada Maha Thera, 1980
Việt Dịch : Phạm Kim Khánh 1998
Nguyên tác: "The Buddha and His Teachings",
Buddhist Publication Society, Sri Lanka
---o0o--Nguồn

Chuyển sang ebook 2-7-2009
Người thực hiện : Nam Thiên –
Link Audio Tại Website
Mục Lục
Phần I - Đức Phật
Đản Sanh
Lễ Quáng Đính (đặt tên)
Lễ Hạ Điền
Giáo Dục
Kết Hôn
Xuất Gia
Tìm Chân Lý
CHƯƠNG 02 - Chiến Đấu Để thành đạt Đạo Quả
Cuộc Chiến Đấu
Thay Đổi Phương Pháp: Tuyệt Thực
Ma Vương Ác Tâm Cám Dỗ
Con Đường "Trung Đạo"
Bình Minh Của Chân Lý
CHƯƠNG 03 - Đạo Quả Phật
Đặc Điểm Của Đức Phật
Phật Là Ai?
Tánh Cách Vĩ Đại Của Đức Phật
CHƯƠNG 04 - Sau khi Thành Đạo
Tuần Lễ Đầu Tiên


Tuần Thứ Nhì
Tuần Thứ Ba
CHƯƠNG 05 - Cung Thỉnh Đức Phật Truyền Bá Giáo Pháp
Giáo Pháp Là Thầy
Hai Thiện Tín Đầu Tiên
Trên Đường Đến Banares
CHƯƠNG 06 - Kinh Chuyển Pháp Luân - Bài Pháp Đầu Tiên
Lời Giới Thiệu
Bài Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Vài Nhận Xét về Kinh Chuyển Pháp Luân


Bài Pháp Thứ Nhì - Anattalakkhana Sutta (Kinh Vô Ngã Tướng)
CHƯƠNG 07 - Truyền Bá Giáo Pháp
Cảm Hóa Yasa và Các Bạn Hữu
Những Nhà Truyền Bá Chân Lý Đầu Tiên (Dhammaduta)
Thành Lập Giáo Hội Tăng Già
Thâu Nhận Ba Mươi Thanh Niên
Cảm Hóa Ba Anh Em Kassapa (Ca Diếp)
Aditta Pariyaya Sutta, Bài Kinh Đề Cập Đến "Tất Cả Đều Bị Thiêu Đốt"
Cảm hóa Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) và Đức Moggallana (Mục Kiền Liên)
CHƯƠNG 08 - Đức Phật Và Thân Quyến (I)
Vua Tịnh Phạn Muốn Gặp Đức Phật
Đức Phật Đi Trì Bình và Tế Độ Đức Vua Suddhodana
Đức Phật và Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
CHƯƠNG 09 - Đức Phật và Thân Quyến (II)
Đức Phật và Người Em Khác Mẹ
Đức Phật và Đức Ananda
Cây bồ đề Ananda
Đức Ananda và Giới Phụ Nữ

Đức Phật và Bà Di Mẫu Maha Pajapati Gotami
CHƯƠNG 10 - Những Người Chống Đối và Những Đại Thí Chủ
Đức Phật và Devadatta
Anathapindika (Cấp Cô Độc)
Bà Visakha
CHƯƠNG 11 - Những Đại Thí Chủ Trong Hàng Vua Chúa
Vua Bimbisara (Bình Sa Vương)
CHƯƠNG 12 - Con Đường Hoằng Pháp
Hai Mươi Hạ Đầu Tiên
Đức Phật và Angulimala
CHƯƠNG 13 - Đời Sống Hằng Ngày Của Đức Phật
Buổi Sáng
Buổi Trưa
Canh Đầu
Canh Giữa
CHƯƠNG 14 - Đức Phật Nhập Đại Niết Bàn
Điều Kiện Thịnh Suy
Lời Tán Dương của Đức Sariputta (Xá Lợi Phất)
Pataliputta
Những Cảnh Giới Tương Lai
Gương Trong của Pháp Bảo (Dhammàdàsa)
Ambapali
Đức Phật Lâm Bệnh
Lời kêu gọi của Đức Phật.
Đức Phật Báo Trước Ngày Nhập Diệt
Những Phật Ngôn Tối Hậu
Bốn Điều Tham Chiếu Lớn
Bữa Cơm Nhiều Phước Báu Của Cunda



Phải Tôn Kính Đức Phật Như Thế Nào
Bốn Thánh Tích
Đức Phật Cảm Hóa Subhadda
Quang Cảnh Cuối Cùng
Đức Phật Viên Tịch
Phần II - Phật Pháp
CHƯƠNG 15 - Phật Giáo Là Gì?
Tam Tạng Kinh
Tạng Luật (Vinaya Pitaka)
Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka - Vi Diệu Pháp Tạng)
Phật Giáo có phải là một Triết Học không?
Phật Giáo có phải là một Tôn Giáo không?
Phật Giáo và Luân Lý
Vậy, theo Phật Giáo, tiêu chuẩn của luân lý là gì?
Phật giáo là gì?
CHƯƠNG 16 - Vài Đặc Điểm Của Phật Giáo
Nền tảng của Phật Giáo
Định Luật Nhân Quả và Hạnh Phúc
Đức Khoan Hồng Trong Phật Giáo
Phật Giáo và Đẳng Cấp Xã Hội
Phật Giáo và Hàng Phụ Nữ
Phật Giáo và Tinh Thần Bất Bạo Động
CHƯƠNG 17 - Bốn Chân Lý Thâm Diệu hay Tứ Diệu Đế
CHƯƠNG 18 - Nghiệp Báo
Nguyên Nhân của Sự Chênh Lệch
Không Phải Tất Cả Đều Do Nghiệp
Năm Niyama (Định Luật)
Nghiệp Báo chỉ là một trong năm định luật ấy
CHƯƠNG 19 - Nghiệp là gì?

Nghiệp (Kamma)
Nghiệp và Quả (Kamma và Vipaka)
Nguồn Gốc của Nghiệp
Người Tạo Nghiệp
Nghiệp ở đâu?
CHƯƠNG 20 - Sự báo ứng của Nghiệp
Lộ Trình Tiến Triển Của Một Tư Tưởng
CHƯƠNG 21 - Tính chất của Nghiệp
Duyên Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
CHƯƠNG 22 - Khởi thủy của đời sống là gì?
CHƯƠNG 23 - Đức Phật và vấn đề Thần Linh Tạo Hóa
CHƯƠNG 24 - Do Đâu Tin Có Tái Sanh?
CHƯƠNG 25 - Thập Nhị Nhân Duyên
CHƯƠNG 26 - Những Nình Thức Sanh Và Tử
CHƯƠNG 27 - Những Cảnh Giới
1. Địa Ngục (Niraya)


2. Cảnh Thú (Tiracchana-yoni)
3. Cảnh Ngạ Quỉ (Peta-joni)
4. Cảnh Giới A Tu La (Asura-yoni)
1. Cảnh Người (Manussa).
2. Cảnh Tứ Đại Thiên Vương (Catummaharajika)
3. Cảnh Đạo Lợi (Tavatimsa)
4. Cảnh Dạ Ma (Yama)
5. Cảnh Đấu Xuất Đà (Tusita)
6. Cảnh Hóa Lạc Thiên (Nimmanarati)
7. Cảnh Tha Hóa Tự Tại (Paranimmitavasavatti)
CHƯƠNG 28 - Hiện tượng Tái Sanh
CHƯƠNG 29 - Cái Gì Đi Tái Sanh?

CHƯƠNG 30 - Trách Nhiệm Tinh Thần
CHƯƠNG 31 - Nghiệp Chuyển Lên Và Nghiệp Chuyển Xuống
CHƯƠNG 32 - Nghiệp Báo Và Tái Sanh Với Người Phương Tây
CHƯƠNG 33 - Niết Bàn
Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn.
CHƯƠNG 34 - Đặc Tánh Của Niết Bàn
CHƯƠNG 35 - Con Đường Niết Bàn (I)
CHƯƠNG 36 - Con Đường Niết Bàn (II)
Tâm Định (Samadhi)
Đề mục Tử thi (Asubha)
Niệm về Hồng Ân Của Đức Phật (Buddhanussati)
Niệm Về Giới đức (Silanussati)
Niệm Về Tâm Bố Thí (Caganussati)
Niệm Về Những Đặc Tính Của Niết Bàn (Upasamanussati)
Niệm Về Sự Chết (Marananussati)
Niệm Thân (Kayagatasati)
Niệm Hơi Thở (Anapanasati)
Tứ Vô Lượng Tâm (Brahmavihara)
CHƯƠNG 37 - Chướng Ngại Tinh Thần
CHƯƠNG 38 - Con Đường Niết Bàn (III)
CHƯƠNG 39 - Phẩm Hạnh A La Hán
CHƯƠNG 40 - Lý Tưởng Của Bồ Tát, Hay Bồ Tát Đạo
CHƯƠNG 41 - Ba La Mật
1. Bố Thí ( Dana)
2. Trì Giới (Sila)
3. Xuất Gia (Nekkhamma)
4. Trí Tuệ (Panna)
5. Tinh Tấn (Viriya)
6. Nhẫn Nại (Khanti)
7. Chân Thật (Sacca)

8. Quyết Định (Adhitthana)
9. Tâm Từ (Metta)
10. Tâm Xả (Upekkha)
CHƯƠNG 42 - Tứ Vô Lượng Tâm


1. Tâm Từ (Metta)
2. Tâm Bi (Karuna)
3. Tâm Hỷ (Mudita)
4. Tâm Xả (Upekkha)
CHƯƠNG 43 - Tám Pháp Thế Gian
1. Được và Thua (Labha và Alabha)
2. Danh Thơm và Tiếng Xấu (Yasa và Ayasa)
3. Ca Tụng và Khiễn Trách (Pasamsa và Ninda)
4. Hạnh Phúc và Đau Khổ (Sukha và Dukkha)
CHƯƠNG 44 - Những Vấn Đề Của Kiếp Nhân Sinh
1. Con người là gì?
2. Từ Đâu Đến?
3. Đi Về Đâu?
4. Con Người Đi Về Đâu?
5. Tại Sao?
Phụ Bản 1 - Hạnh Phúc Kinh - (Mangala Sutta)
Phụ Bản 2 - Kinh Suy Đồi (Parabhava Sutta)
Phụ Bản 3 - Kinh Hạng Cùng Đinh
Phụ Bản 4 - Tam Bảo Kinh (Ratana Sutta)
Phụ Bản 5 - Từ Bi Kinh (Metta Sutta)
Phụ Bản 6 - Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta)
Lời Mở Đầu
I. Đầu tiên là Kayanupassana, Thân Quán Niệm Xứ, hay Niệm Thân
II. Pháp thứ nhì, Thọ Quán Niệm Xứ, hay Niệm Thọ, Vedananupassana

III. Pháp thứ ba, Tâm Quán Niệm Xứ, hay Niệm Tâm, Cittanupassana
IV. Pháp thứ tư là Pháp Quán Niệm Xứ, hay Niệm Pháp, Dhammanupassana
Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta)
I. Niệm Thân (Kayanupassana)
II. Niệm Thọ (Vedananupassana)
III. Niệm Tâm (Cittanupassana)
IV. Niệm Pháp (Dhammanupassana)

---o0o--Phần I - Đức Phật
Namo tassa Bhagavato Arahato Samma-Sambuddhassa
Con xin thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Ngài là bậc Úng Cúng, Đấng Chánh Biến Tri
-oOoCHƯƠNG 01 - Từ Đản Sanh đến Xuất Gia


"Một Chúng Sanh duy nhất, một Con Người phi thường, xuất hiện trong thế
gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi
mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại." -Tăng Nhứt A Hàm 1
---o0o--Đản Sanh
Nhằm ngày trăng tròn tháng năm 2, năm 623 3 trước D.L., trong vườn
Lumbini 4 (Lâm Tỳ Ni) tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) 5 bên ranh giới Ấn
Độ của xứ Nepal ngày nay, có hạ sanh một hoàng tử mà về sau trở thành vị
giáo chủ vĩ đại nhất trên thế gian.
Cha hoàng tử là Đức Vua Suddhodana 6 (Tịnh Phạn) thuộc quý tộc
Sakya (Thích Ca) 7 và mẹ là Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da). Sau khi hạ
sanh hoàng tử được bảy ngày thì hoàng hậu thăng hà. Em bà là Maha
Pajapati Gotami, cũng cùng kết duyên với Vua Tịnh Phạn, thay thế bà để
dưỡng dục hoàng tử và gởi con là Nanda cho một bà vú nuôi chăm sóc.
Khi tin lành hoàng tử chào đời được loan truyền trong dân gian, tất cả thần
dân trong vương quốc đều vui mừng không xiết kể.

Thuở ấy có một đạo sĩ tên Asita (A Tư Đà), cũng được gọi là Kaladevala đặc
biệt hoan hỷ. Ông là một người thân tín của nhà vua nên xin được vào thăm
hoàng tử. Đức Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng hoàng tử ra đảnh
lễ đạo sĩ. Nhưng, trước sự kinh ngạc của mọi người, hoàng tử bỗng nhiên
quay về phía đạo sĩ và đặt hai chân lên đầu tóc của ông.
Đang ngồi trên ghế, vị đạo sĩ vội vã chỗi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử 8.
Ông tiên tri rằng về sau hoàng tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của
nhân loại. Đức vua cũng làm theo đạo sĩ, xá chào hoàng tử.
Xong rồi đạo si thoạt tiên cười khan, cười rồi lại khóc. Mọi người đều ngạc
nhiên trước những cảm xúc vui buồn lẫn lộn của ông. Vị đạo sĩ giải thích
rằng ông cười vì lấy làm hoan hỷ được biết rằng về sau hoàng tử sẽ đắc Quả
Phật, và ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào
cảnh giới Vô Sắc (Arupa-loka) 9. Do đó ông sẽ không được phước lành thọ
giáo với bậc trí tuệ cao minh, Chánh Đẳng Chánh Giác.
---o0o---


Lễ Quáng Đính (đặt tên)
Khi hoàng tử được năm ngày, Đức Vua Tịnh Phạn đặt tên là Siddhattha (Sĩ
Đạt Ta) có nghĩa là người được toại nguyện. Gotama (Cồ Đàm) là họ Ngài
10
. Theo phong tục thời bấy giờ, vua cho thỉnh nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn
học rộng tài cao vào triều nội để dự lễ đặt tên cho hoàng tử. Trong các đạo
sĩ, có tám vị đặc biệt lỗi lạc. Sau khi quan sát đặc tướng của hoàng tử, bảy vị
đưa lên hai ngón tay và giải thích rằng có hai lẽ. Một, là hoàng tử sẽ trở nên
vị hoàng đế vĩ đại nhất thế gian. Hai, là Ngài sẽ đắc Quả Phật. Nhưng vị đạo
sĩ trẻ tuổi và thông minh nhất trong tám vị, tên Kondanna 11 (Kiều Trần
Như), chỉ đưa lên một ngón quả quyết rằng ngày kia hoàng tử sẽ hoàn toàn
thoát tục và đắc Đạo Quả Phật.
---o0o--Lễ Hạ Điền

Một sự kiện lạ lùng đã xảy ra trong thời thơ ấu của Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ
Đạt Ta). Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần sẽ giúp hoàng tử thật nhiều
sau này, khi Ngài quyết tâm tìm chân lý. Sự kiện ấy cũng là cái chìa khoá
mở đường cho Ngài tiến đến Giác Ngộ 12.
Lúc bấy giờ, để khuyến khích nông dân, Vua Tịnh Phạn ra lệnh tổ chức một
cuộc lễ gọi là Hạ Điền. Đây quả thật là một cơ hội cho tất cả, giàu như
nghèo, sang như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỷ hạ một bữa, trước khi
bắt tay vào công việc ruộng nương đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần
thần, áo mặc chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta)
cũng được cung phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng
ra để dưới bóng mát một cội trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa một buổi lễ.
Thấy mọi người vui vẻ theo dõi cuộc vui, các cung phi có phận sự trông nom
hoàng tử cũng lén chạy đi xem. Trái hẳn với cảnh nhộn nhịp tưng bừng của
buổi lễ, tàng bóng mát mẻ dưới cội trâm và khung cảnh êm đềm như mời
mọc tĩnh lặng quán niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm trí đã thuần
thục.
Khác với những người chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử nối tréo
hai chân lại theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú vào hơi thở-vào,
thở-ra, gom tâm an trụ, định, và đắc Sơ Thiền 13.
Giữa lúc mọi người vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng
tử, vội vã trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành thiền


thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức Vua Suddhodana
(Tịnh Phạn) hối hả đến nơi, thấy Hoàng Tử Siddhattha vẫn ngồi tham thiền.
Đức vua đến trước mặt hoàng tử, xá chào con và nói: "Hỡi này con yêu quý,
đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con".
---o0o--Giáo Dục
Mặc dầu kinh sách không chép rõ, Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) chắc
chắn đã hấp thụ một nền giáo dục vững chắc vì Ngài là hoàng tử của một

quốc gia giàu mạnh. Ngài cũng thuộc dòng chiến sĩ nên chắc chắn phải lão
thông binh pháp và võ nghệ cao cường.
---o0o--Kết Hôn
Khi lên mười sáu, theo phong tục thời bấy giờ, hoàng tử kết duyên cùng
Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà la) 14, một người em cô cậu, cũng cùng
tuổi với Ngài. Trong mười ba năm sau ngày hôn lễ, Ngài sống hoàn toàn
cuộc đời vương giả, không hay biết chi đến nỗi thống khổ của nhân loại bên
ngoài ngưỡng cửa cung điện.
Về cuộc đời nhung lụa ấy, khi còn là hoàng tử, đã có lần Ngài nói:
"Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở,
phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu
ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen
trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng
đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng
may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Kasi 15 chở đến.
Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng
che sương đỡ nắng.
Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một, để cho ta ở mùa
lạnh, một, mùa nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu
ngụ tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho
đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không
phải như ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ. 16"


Thời gian trôi qua, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) càng trưởng thành, ánh
sáng chân lý càng rọi rõ sự vật cho Ngài.
Bẩm tánh trầm tư mặc tưởng và lòng từ bi vô lượng vô biên của Ngài không
để yên cho Ngài một mình an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương
giả. Riêng mình được yên vui hạnh phúc, nhưng Ngài hằng nghĩ đến thực
chất của đời sống và biết rằng nhân loại đang đau khổ bên ngoài cung điện,

nên Ngài luôn luôn thương xót.
Sống trong nhung lụa mà Ngài nhận định được rằng đời là đau khổ.
---o0o--Xuất Gia
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) suy niệm như sau:
"Chính ta phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao
vẫn còn mải mê chạy theo tìm những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì
chịu sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của
những điều ấy. Hay ta thử tìm cái chưa được thành đạt, trạng thái tối thượng
và tuyệt đối châu toàn: Niết Bàn! 17"
"Cuộc sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược,
nhưng đời của bậc xuất gia là cảnh trời mênh mông bát ngát! Người đã quen
với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu đựng Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng
Liêng, với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó. 18"
Một ngày vẻ vang kia, thái tử ra khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên
ngoài và trực tiếp tiếp xúc với sự thật phũ phàng của đời sống. Trong phạm
vi nhỏ hẹp của cung điện, Ngài chỉ thấy phần tươi đẹp, nhưng đám đông
nhân loại thì biết bề đen tối, đáng ghê sợ của đời. Chính cặp mắt quan sát
của thái tử đã nhận thấy một cụ già chân mỏi gối dùn, một người bệnh hoạn
đau khổ, một thây ma hôi thúi và một đạo sĩ nghiêm trang khả kính 19. Ba
cảnh già, bệnh và chết, hùng hồn xác nhận quan điểm của thái tử về đời sống
đau khổ của nhân loại. Hình ảnh thong dong từ tốn của nhà tu sĩ thoáng cho
Ngài hé thấy con đường giải thoát, con đường an vui hạnh phúc thật sự. bốn
quang cảnh bất ngờ ấy càng thúc giục thái tử ghê tởm và sớm thoát ly thế
tục.


Nhận định rõ ràng rằng những thú vui vật chất mà phần đông tranh nhau tìm
kiếm đều không thể đem lại lợi ích, chỉ có sự xuất gia, sự từ bỏ tất cả mùi
danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, Thái Tử Siddhattha
nhất định rời bỏ cung điện đền đài để ra đi, tìm chân lý và An Dưỡng

Trường Cửu.
Giữa lúc ấy thì có tin đưa đến rằng Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La),
vợ Ngài, vừa hạ sanh hoàng nam.
Đối với thế gian, đó là một tin lành. Nhưng, trái hẳn với mọi dự đoán, Ngài
không quá đỗi vui mừng vì thấy đó là thêm trở ngại. Thế thường, khi sanh
được người con đầuloq, cha mẹ cảm nghe trong lòng chớm nở lần đầu tiên
một tình thương mặn nồng sâu sắc, một tình thương mới mẻ đậm đà, vô
cùng trong sạch. Nỗi vui mừng của người làm cha đầu tiên thật không sao tả
được. Nhưng Thái Tử Siddhattha không phải là một người cha thường, Ngài
than: "Lại thêm một trở ngại, lại thêm một dây trói buộc". Do đó, Đức Vua
Suddhodana (Tịnh Phạn) đặt tên cháu nội là Rahula (La Hầu La) 20.
Đời vương giả không còn thích hợp với vị Phật tương lai nữa. Đối với một
tâm hồn trầm tư mặc tưởng như Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), cung điện
nguy nga không còn là nơi thích đáng. Cả đến người vợ trẻ đẹp và người con
sơ sinh dễ mến cũng không làm sờn ý chí quyết định từ bỏ thế gian. Ngài ra
đi với nguyện vọng góp một phần vô cùng quan trọng và hữu ích hơn là
phận sự của một người chồng, người cha, hay chí đến nhiệm vụ làm chúa tể
các vì vua đi nữa. Cung vàngđiện ngọc không còn sức quyến rũ. Ngài không
tìm thấy thích thú trong đời sống vương giả. Giờ ra đi đã điểm.
Ngài truyền lệnh cho Channa (Xa Nặc), người đánh xe yêu chuộng, thắng
yên ngựa Kanthaka (Kiền Trắc) và thẳng đến điện của công chúa. Ngài khẽ
hé cửa nhìn vợ và con đang yên giấc với một tấm lòng từ ái nhưng bình thản,
không chao động, không trìu mến. Tình thương đối với vợ, con thật mặn
nồng sâu sắc. Nhưng đối với nhân loại trầm luân đau khổ, lòng trắc ẩn của
Ngài lại càng thâm thậm vô ngần. Ra đi, Ngài không lo sợ cho tương lai của
công chúa và hoàng tử, vì biết chắc chắn rằng vợ và con sẽ có đầy đủ tiện
nghi và đảm bảo để sống an toàn và sung sướng. Ra đi, không phải vì kém
tình thương vợ, thương con, mà vì tình thương của Ngài mở rộng cho mọi
người, bao trùm tất cả nhân loại và chúng sanh.
Với một tâm hồn thanh thoát, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) ra đi giữa đêm

khuya, để lại sau lưng tất cả đền đài cung điện, người cha yêu quý, vợ đẹp,


con thơ, và cả một tương lai huy hoàng rực rỡ. Ngài trốn ra khỏi thành và
giục ngựa thẳng xông trong đêm tối. Cùng đi với Ngài chỉ có Channa (Xa
Nặc), người đánh xe trung thành. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây
mai đó, Ngài bắt đầu lần bước trên đường đi tìm Chân Lý và An Tĩnh. Thế
là Ngài từ bỏ thế gian.
Đây không phải là sự từ bỏ của một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của
mình, hay của người bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại phía sau,
nhưng là sự khước từ của một hoàng tử vinh quang giữa thời niên thiếu,
trong cảnh ấm no, sung túc và thạnh vượng. Một sự thoát ly chưa từng có
trong lịch sử.
Lúc ấy thái tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) được 29 tuổi.
Đến sáng hôm sau Ngài đi đã xa. Sau khi Ngài vượt qua sông Anoma, Ngài
dừng bước trên bãi cát, tự cạo râu tóc và trao xiêm y lại cho Channa (Xa
Nặc) đem về. Rồi khoác lên mình tấm y vàng, Hoàng tử Siddhattha (Sĩ Đạt
Ta) tự nguyện sống đời tu sĩ và sẵn sàng chấp nhận mọi thiếu thốn vật chất.
Từ một hoàng tử giàu sang vinh hiển tột bậc, Ngài trở thành đạo sĩ nghèo
nàn, không tiền của, không cửa nhà, sống nhờ lòng từ thiện của bá tánh thập
phương.
Ngài không ở nơi nào thường trực. Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá
vắng vẻ hoang vu nào cũng có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không
giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong
sương gió lạnh lùng. Tâ;t cả xiêm y từ tốn chỉ là những mảnh vải vụn vằn
ráp lại, vừa đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là một bình bát để trì bình khất
thực. Vật thực và bộ y chỉ vừa đủ để sống.
Ngài tận dụng thì giờ và năng lực trong việc khám phá chân lý.
---o0o--Tìm Chân Lý
Như người thênh thang bất định, Ngài đi tìm cái chi tốt đẹp, trạng thái tuyệt

đối vắng lặng. Ngài đến vị đạo sĩ rất lỗi lạc, Alarama Kalama, và nói :
"Này hỡi Đạo Hữu, xin Đạo Hữu cho tôi thọ giáo và sống đời đạo hạnh
thiêng liêng dưới sự hướng dẫn của Đạo Hữu."


Alarama Kalama trả lời: "Hãy ở lại đây với tôi, hỡi người đáng kính, đường
lối dạy dỗ ở đây là giúp cho người thông minh sớm thấu triệt tất cả giáo lý
của vị đạo sư bằng trí tuệ trực giác, và sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy."
Không bao lâu sau, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã học hết giáo lý của thầy,
nhưng không chứng ngộ được chân lý cao thượng hằng mong mỏi.
Tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài :
"Khi Alarama Kalama tuyên bố: 'Ta đã chứng ngộ giáo lý ấy bằng trí tuệ
trực giác. Ta đã sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy', thì ắt đó không phải chỉ
là một lời phát biểu suông của ông. Chắc chắn Alarama Kalama đã thấu triệt,
nhận chân giáo lý này và đã sống trong ấy."
Rồi Ngài đến gặp Kalama và nói :
"Này Đạo Hữu Kalama, giáo lý mà chính Đạo Hữu đã chứng ngộ bằng trí
tuệ trực giác sâu rộng đến mức nào?"
Alarama liền giải thích rằng đó là cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiên
(Akincannayatana) 21, cảnh giới có quan niệm về hư không, một tầng Thiền
(Jhana) khá cao.
Và ý tưởng sau đây phát sanh đến Ngài :
"Không phải chỉ có một mình Alarama Kalama mới có hạnh tinh tấn, niệm,
định và tuệ. Ta cũng có những đức tánh ấy. Hay là ta hãy cố gắng chứng ngộ
giáo lý mà Kalama nói rằng chính ông ta đã chứng ngộ và ẩn náu trong sự
thành đạt ấy."
Và sau đó không bao lâu, chính Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) cũng chứng ngộ
và thành đạt trạng thái ấy đó trí tuệ và trực giác.
Nhưng giáo lý này không giúp Ngài thấu triệt chân lý tối thượng.
Và Ngài đến gần Alarama và nói :

- Này Đạo Hữu Kalama, có phải đây là mức tận cùng của giáo lý mà Đạo
Hữu nói rằng Đạo Hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác và sống ẩn náu
trong sự thành đạt ấy chăng?


- Đúng vậy, đây chính là giáo lý mà tôi nói rằng tôi đã chứng ngộ và ẩn náu
trong sự thành đạt ấy. Đây là mức sâu rộng tận cùng của chân lý.
- Nhưng, hỡi Đạo Hữu, tôi cũng đã chứng ngộ đến mức này và ẩn náu trong
sự thành đạt ấy.
Vị đạo sư không có lòng ganh tỵ, lấy làm hoan hỉ thấy đệ tử lỗi lạc của mình
thành công mau chóng, đặt Đạo Sĩ Gotama lên ngang hàng với mình cùng
chung hưởng tất cả vinh dự, và nói:
"Hỡi này Đạo Hữu, tôi rất lấy làm hoan hỷ. Thật vậy, tôi thật vô cùng hoan
hỷ được gặp một người đồng tu đáng kính như Đạo Hữu. Giáo lý mà tôi đã
chứng ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố thành đạt. Đạo Hữu cũng chứng ngộ
bằng tuệ giác và ẩn náu trong sự thành đạt ấy. Giáo lý mà Đạo Hữu chứng
ngộ bằng tuệ giác và ẩn náu trong sự thành đạt ấy, chính tôi cũng đã chứng
ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố thành đạt. Như vậy, giáo lý mà tôi đã biết,
Đạo Hữu cũng biết. Và giáo lý mà Đạo Hữu biết, tôi cũng đã biết. Tôi như
thế nào thì Đạo Hữu cũng như thế ấy. Vậy, hãy đến đây, Đạo Hữu, chúng ta
hãy cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ này."
Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không thỏa mãn với một kỷ luật và giáo lý chỉ
đưa đến tầng khá cao của tâm định mà không dẫn đến "trạng thái ghê tởm,
buông xả (không luyến ái), chấm dứt (mọi đau khổ), tình trạng tĩnh lặng,
trực giác, giác ngộ và Niết Bàn". Nguyện vọng của Ngài cũng không phải là
dẫn dắt một nhóm đạo sĩ, dầu là hợp sức với một đạo sư quảng đại khoan
hồng cũng đã thành đạt mức tiến bộ tinh thần như Ngài. Trước tiên, tự Ngài
chưa làm cho mình được toàn thiện và cảm nghĩ rằng như vậy không khác
nào người mù dẫn dắt người mù. Chưa được toại nguyện, Ngài từ giã
Alarama Kalama ra đi.

Vào những ngày thanh bình an lạc thuở bấy giờ, trong xứ không bị hoàn
cảnh chánh trị làm xáo trộn, hàng trí thức xứ Ấn Độ chỉ lo nghiên cứu học
hỏi và truyền bá hệ thống tôn giáo của mình. Xã hội cung ứng mọi dễ dàng
những nơi vắng vẻ ẩn dật cho người có khuynh hướng trở về với đời sống
đạo đức. Phần lớn các vị này có một số đông đệ tử, và Đạo Sĩ Gotama không
gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đạo sư.
Ngài đến thọ giáo với một vị đạo sư trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta.
Không bao lâu, vị đệ tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý
của thầy và chứng đắc đệ bát thiền Vô Sắc tức là tầng cao nhất của thiền Vô
Sắc Giới: cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, không còn tri giác (sanna,


tưởng), mà cũng không có không-tri-giác (N'eva sanna N'asannayatana) 22,ấy
là tầng thiền cao nhất trong tam giới. Khi đắc được Thiền này, tâm trở nên
vô cùng tinh vi tế nhị đến nỗi không thể nói là có tâm hay không. Vào thời
bấy giờ không có ai đắc được thiền nào cao hơn nữa.
Vị đạo sư cao thượng lấy làm hoan hỷ được biết sự thành công rực rỡ của
người đệ tử hoàng phái đặc sắc của mình. nhưng không như vị đạo sư trước,
đạo sĩ Uddaka Ramaputta mời Ngài nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm dạy dỗ
hàng môn đệ:
"Hỡi này Đạo Hữu, tôi lấy làm hoan hỷ. Thật vậy, tôi vô cùng hoan hỷ được
gặp một người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như Đạo Hữu. Giáo lý mà
Rama đã hiểu biết, Đạo Hữu cũng hiểu. Giáo lý mà Đạo Hữu hiểu, Rama
cũng đã hiểu biết. Rama đã như thế nào thì hôm nay Đạo Hữu cũng như thế
ấy. Ngày nay Đạo Hữu như thế nào thì Rama đã như thế ấy. Vậy, hỡi này
Đạo Hữu, hãy ở lại đây, Đạo Hữu sẽ dẫn dắt nhóm đạo sĩ này".
Tuy nhiên Đạo Sĩ Gotama cảm thấy rằng đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu
cánh. Ngài đã hoàn toàn chế ngự, làm chủ tâm mình, nhưng mục tiêu cuối
cùng vẫn còn ở mãi xa. Ngài đang tìm con đường Niết Bàn tức là tuyệt đối
siêu thoát ra khỏi vòng phiền não trầm luân và tận diệt mọi hình thức ái dục.

Không thỏa mãn với phương pháp tu tập của Ramaputta, Ngài lại ra đi.
Ngài nhận thấy rằng không ai có đủ khả năng để dẫn dắt mình thành tựu
mục tiêu vì tất cả đều chưa thoát ra khỏi vòng vô minh. Từ đó Ngài không
tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài nữa.
Chân lý và sự vắng lặng chỉ tìm được ở bên trong chúng ta.
---o0o--CHƯƠNG 02 - Chiến Đấu Để thành đạt Đạo Quả
"Làm việc xấu xa và vô ích thì dễ, Nhưng làm được những điều hữu ích và
tốt đẹp, quả thật là rất khó." -- Kinh Pháp Cú.
Cuộc Chiến Đấu
Luôn luôn gặp trở ngại, nhưng Đạo Sĩ Gotama không bao giờ nản chí. Với
tinh thần bất khuất, nay đây mai đó trong xóm Maghada (Ma Kiệt Đà) để
tìm trạng thái Thanh Bình An Lạc và Chân Lý tối thượng. Một ngày kia,


Đạo Sĩ đến Uruvela, thị trấn của xứ Senani. Nơi đây Ngài tìm ra một địa
điểm giữa đám rừng tươi tốt, bên cạnh một dòng sông ngoạn mục, uyển
chuyển uốn mình trong lòng hai bãi cát trắng, không xa có xóm làng thạnh
vượng, hằng ngày có thể đến đó trì bình khất thực. Ngài nghĩ như sau:
"Cảnh vật quả thật hữu hình, cụm rừng đẹp đẽ, dòng sông thú vị với bãi cát
trắng và thôn xóm không xa. Ta có thể dễ dàng đến đó trì bình. Đối với
những mầm non đạo đức quyết tâm cố gắng hướng đến mục tiêu cao quý, thì
đây quả thật là nơi thích hợp" 23.
Địa điểm thích nghi với công phu hành thiền. Không khí an lành, cây cỏ sum
suê, phong cảnh xanh tươi. Ngài nhất định lưu lại đây để thành tựu nguyện
vọng.
Khi hay tin Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) từ bỏ đền đài cung điện để ra đi
sống đời tu sĩ, Kondanna (Kiều Trần Như) là vị đạo sĩ Bà La Môn trẻ tuổi đã
tiên đoán rằng về sau thái tử sẽ đắc Quả Phật, cùng với bốn người con của
bảy vị đạo sĩ khác tên Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji cũng đi tìm
Ngài để tu học.

Thuở bấy giờ người Ấn Độ rất thiết tha trung thành với các nghi lễ, các hình
thức khổ hạnh và các thể thức cúng tế. Theo sự tin tưởng ấy, nếu không ghép
mình vào nếp sống khắt khe khổ hạnh thì không thể giải thoát. Trưởng thành
trong tín ngưỡng này, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) và năm anh em Kondanna
(Kiều Trần Như) bắt đầu cuộc chiến đấu phi thường kéo dài sáu năm trường,
tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ cho đến một ngày kia thân hình
tráng kiện của Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) chỉ còn là bộ xương bọc da. Càng
ép xác khổ thân, Ngài càng lìa xa mục tiêu.
Nhiều bài kinh đã ghi chép lời của chính Đức Phật, mô tả đầy đủ sự nỗ lực
kiên trì, những phương pháp khác nhau mà Ngài đã áp dụng , và sự thành
công cuối cùng của Ngài, trong cuộc tranh đấu vạn phần cam go đau khổ
này.
Kinh Maha Saccaka Sutta 24 mô tả hạnh tinh tấn của Bồ Tát như sau:
"Lúc ấy tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi:
"Hay là ta cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi dùng tâm (thiện)
đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện)!


"Rồi tôi cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, và nỗ lực đè nén, chế
ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện) bằng tâm (thiện). Lúc tôi chiến
đấu như vậy thì mồ hôi từ trong nách chảy tuôn ra.
'Như người mạnh nắm lấy đầu hay hai vai một người yếu rồi đè xuống, dùng
sức cưỡng bách và khắc phục, không cho ngóc lên, cũng dường thế ấy, tôi
chiến đấu và khắc phục (những tư tưởng bất thiện).
"Sự tinh tấn của tôi quả thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi thật là
vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an
lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ -- thể xác phải chịu khuất phục trước
sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân tôi,
nó không làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi nghĩ như sau: Hay ta thử trau giồi pháp hành thiền nín thở!

"Rồi tôi kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi
tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra
từ lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ
hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc tôi ngừng thở, luồng hơi
từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh cũng to như thế ấy.
"Dẫu sao, hạnh tinh tấn của tôi vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi
vẫn vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và
không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ -- thể xác phải chịu khuất
phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh
đến thân tôi, nó không làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi: Hay là ta thử trau giồi pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng thở
bằng miệng, mũi và tai thì hơi (bị dồn ép) đập mạnh trong đầu tôi. Như có
người thật mạnh khoan vào sọ tôi một lưỡi khoan thật bén, khi tôi ngừng
thở, hơi đập vào đầu tôi cũng làm đau đớn như vậy. Mặc dầu những cảm
giác đau đớn như vậy phát sanh ở thân tôi, nó không ảnh hưởng đến tâm tôi
chút nào.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta thử hành pháp thiền nín thở ấy một lần nữa!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra từ miệng, mũi và tai. Và lúc tôi ngừng
thở, đầu tôi nghe đau bưng lên. Trạng thái đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ


giống như có một lực sĩ dùng dây thừng siết chặt đầu tôi lại. Tuy nhiên, hạnh
tinh tấn của tôi vẫn một mực kiên trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây
ảnh hởng đến tâm tôi.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta thử hành thiền về pháp nín thở một lần nữa!
"Rồi tôi ngưng thở bằng miệng, mũi và tai. Khi tôi kiểm soát hơi thở như thế
ấy thì một luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng tôi. Tên đồ tể, thiện nghệ
hay mới tập sự, dùng dao bén rạch một đường trên bụng, làm đau đớn thế
nào thì luồng gió mạnh thọc xuyên qua bụng làm tôi đau đớn dường ấy. Tuy

nhiên tôi vẫn một mực kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn ấy không
ảnh hưởng đến tâm tôi.
"Lần nữa tôi tự nghĩ: Hay ta thử hành thiền thêm về pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-ra, thở-vào từ miệng, mũi và tai. Và khi nín thở
như vậy tôi cảm giác như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và bao
trùm lấy tôi. Như có người mạnh nắm chặt một người yếu và đặt lên ống lửa
than đang cháy đỏ cho đến lúc hoàn toàn thiêu rụi, lửa thiêu đốt thân tôi lúc
ngừng thở cũng nóng dường thế ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì tinh tấn.
Những cảm giác đau đớn không gây tổn hại đến tâm tôi.
"Lúc ấy có những vị Trời thấy tôi vậy thì nói với nhau: Đạo Sĩ Gotama (Cồ
Đàm) đã chết! Vài vị khác ghi nhận: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn, nhưng
đang chết dần! Trong lúc ấy cũng có vị nói: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn
cũng không phải đang chết dần. Ngài là một vị A La Hán. Đây là lối sống
của một vị A La Hán."
---o0o--Thay Đổi Phương Pháp: Tuyệt Thực
"Rồi tôi nghĩ: Hay ta thử hành pháp tuyệt thực!
"Lúc ấy có những vị Trời gần tôi và nói: "Bạch Ngài, xin Ngài chớ nên hành
pháp tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa thì chúng tôi
sẽ rót trên thân Ngài những chất bổ của cảnh Trời để cho nó thấm vào lỗ
chân lông và nuôi sống Ngài."


"Và tôi nghĩ: Nếu ta hành pháp tuyệt thực mà các vị Trời lại rót chất bổ của
cảnh Trời để nuôi sống thân này thì quả là một điều gian dối, nên tôi từ chối
rằng: "Điều ấy không cần thiết".
"Lúc ấy tôi suy nghĩ như sau: Hay ta thử dùng chút ít vật thực, mỗi lần chỉ
một chút thôi, một ít nước đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu trắng.
"Khi mà tôi chỉ dùng thật ít vật thực như thế, ở thể đặc hay tể lỏng, thì thân
tôi trở nên cực kỳ gầy yếu. Vì thiếu vật thực, những bộ phận lớn và nhỏ
trong thân tôi ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống hay những cây

đăng tam thảo. Bàn tọa của tôi chỉ còn bằng cái móng của con lạc đà. Xương
sống tôi cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và cong vào. Xương sườn
tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Trong mắt tôi không khác nào hình
ảnh của những ngôi sao mà ta có thể thấy dưới một cái giếng sâu. Trái mướp
đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng làm da mướp teo lại, nhăn
nhó và héo tàn thế nào thì da đầu tôi lúc ấy, vì thiếu chất dinh dưỡng, cũng
nhăn nhó và héo tàn như thế ấy. Khi muốn rờ da bụng thì tôi đụng nhằm
xương sống. Và khi muốn rờ xương sống thì tôi lại đụng nhằm da bụng. Vì
thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương sống và, lúc muốn đứng dậy đi
tiểu tiện, thì tôi luống cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ trên chân, tay để làm
cho thân mình sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên mình tôi lả tả rơi
xuống đất vì đã chết gốc. Thấy tôi như vậy, có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama
đen'. Vài người nói: 'Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không đen mà xanh dương'.
Cũng có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không xanh dương
mà nâu sậm'. Màu da sáng sủa và trong trẻo của tôi tàn tệ đến như thế ấy vì
thiếu vật thực.
"Rồi tư tưởng sau đây phát sinh đến tôi: Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ
hạnh trong quá khứ đã chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay
xót xa như thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn nữa. Dầu
các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong tương lai sẽ chịu những cảm giác
nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa thế nào, thì cũng đến mức này là
cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu khắc khổ, khó khăn
và đau đớn mà ta không đạt được điều chi tốt đẹp, xứng đáng với sự giác nộ
cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những trạng thái cao thượng của loài người.
Hay là còn con đường nào khác dẫn đến Giác Ngộ chăng?"
---o0o---


Ma Vương Ác Tâm Cám Dỗ
Ép xác khổ hạnh dưới đủ hình thức, Đạo Sĩ Gotama vẫn không thu hoạch

được kết quả cứu cánh, mà chỉ kiệt sức. Mặc dầu, nhờ lúc thiếu thời sống
trong cảnh đầy đủ ấm no sung túc nên có sức lực dồi dào và thân hình tráng
kiện, nhưng Ngài vẫn thấy không còn chịu đựng được nữa. Vóc mình đẹp đẽ
xưa kia nay đã trở nên gầy còm suy nhược, màu da vàng tươi đã trở thành
xanh lợt. Máu cạn, gân rút, thịt teo, mắt thụt và mờ dần. Ngài chỉ còn là một
bộ xương có sự sống. Nhưng cái chết đã gần kề.
Giữa tình trạng nguy ngập ấy, trong khi ý chí vững chắc của Ngài ở mức độ
cao nhất (Padhana), trong khi Ngài vẫn ngồi bên bờ sông Neranjara (Ni-liênthiền) nỗ lực kiên trì và suy niệm để thành đạt cho được trạng thái châu toàn
tuyệt đối thì Namuci 25 đến gần và nói những lời sau đây 26:
"Hỡi này Đạo Sĩ, người gầy còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến.
"Một ngàn phần (trong thân hình người) đã chết mòn, chỉ còn lại một phần
sống. Hãy sống, hỡi Đạo Sĩ! Sống là hơn. Có sống mới tạo được phước.
"Hãy sống độc thân và hằng cúng tế Thần Lửa, người sẽ tạo được nhiều
phước. Ép mình sống đời khổ hạnh như thế này để làm gì? Con đường kiên
trì nỗ lực quả thật kham khổ, khó khăn, và không phải dễ thành tựu."
Ma Vương đứng trước mặt Đức Thế Tôn, nói những lời như vậy. Để trả lời,
Bồ Tát dạy:
"Này con người xấu xa quỉ quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng!
Ngươi đến đây vì lợi ích riêng của ngươi.
"Đối với ngươi, phước báu nào có giá trị gì, dầu bao nhiêu phước cũng vô
ích. Nhưng bổn phận của ngươi là phải nói như vậy.
"Với niềm tin vững chắc (saddha), tự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo) 27, tinh
tấn (viriya) và trí tuệ (panna), ta tu hành như vậy. Ta đã quyết tâm như vậy,
sao ngươi còn cật vấn ta về đời sống?
"Gió thổi mãi, một ngày kia cũng có thể làm cạn dòng suối, thì máu huyết
của người tu ép xác khổ hạnh (nhịn ăn, nhịn uống) làm gì khỏi bị khô dần?


"Máu cạn thì mật khô, thịt cũng hao mòn. Thịt càng hao mòn thì tâm càng
thanh tịnh. Tâm càng an tịnh, càng an trụ, càng sáng suốt, thì tâm định càng

vững chắc.
"Lúc ấy cơ thể ta đau đớn vô cùng. Thể xác càng đau đớn, tâm hồn càng xa
lìa tham ái. Chừng ấy ta biết rõ thế nào là trạng thái trong sạch của một
chúng sanh!
"Tham dục (Kama) là đạo binh số một của ngươi. Đạo binh thứ nhì là Bất
Mãn với đời sống thánh thiện (Arati). Ba là Đói và Khát (Khuppipasa) 28.
Bốn là Ái Dục (Tanha). Năm là Hôn Trầm Dã Dượi (Thina-Middha, uể oải,
lười biếng và hôn mê). Sáu là Sợ Hãi (Bhiru). Bảy là Hoài Nghi (Vicikiccha)
29
. Tám là Phỉ Báng và Cố Chấp (Makkha-Thambha). Chín là Lợi Lộc
(Labha), Khen Tặng (Siloka), Vinh Dự (Sakkara) và Thinh Danh Bất Chánh
(Yasa), và đạo binh số mười là Sự Đánh Cao Quá Mức Giá Trị Của Mình và
Khinh Rẻ Kẻ Khác (Attukkamsanaparavambhana).
"Namuci, đó là quân đội của ngươi. đó là khách luôn luôn lưu trú bên trong
hạng người xấu xa quỷ quái. Người hèn nhát ươn yếu thì không thắng nổi,
nhưng ai chế ngự được những đạo binh ấy là tìm ra hạnh phúc.
"Ta cột trên ngọn cờ của ta chùm cỏ Munja 30. Đời sống trên thế gian này rõ
là khốn khổ. Thà ta chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại! 31
"Kiểm soát chặt chẽ dòng tư tưởng, và với chánh niệm kiên cố vững chắc, ta
sẽ đi bất định từ nơi này đến nơi khác, rèn luyện một số đông môn đệ.
"Chuyên cần tinh tấn, quyết định, và thực hành giáo huấn của ta -- không
quan tâm đến ngươi - những vị ấy sẽ đến tận nơi mà không còn đau khổ."
Với những lời cương quyết ấy, Đạo Sĩ Gotama cả thắng Ma Vương Tâm Ác,
và nhất định thành đạt cho kỳ được mục tiêu, Đạo Quả Phật.
---o0o--Con Đường "Trung Đạo"
Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm, Đạo Sĩ Gotama đã nhận thức chắc
chắn rằng lối tu khổ hạnh không thể đem lại lợi ích, mặc dầu các triết gia và
các tu sĩ thời bấy giờ quả quyết rằng đó là nếp sống tối cần thiết để đạt đến
cứu cánh. Thấy rằng khổ hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh



thần, Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã từ bỏ lối sống
lợi dưỡng, chỉ làm chậm trễ tiến bộ khoa học, và chọn con đường "Trung
Đạo" mà sau sẽ trở thành một trong những đặc điểm của Giáo Lý Ngài.
Hồi tưởng lại khi còn thơ ấu, vào một buổi lễ Hạ Điền kia, trong lúc vua cha
và mọi người đang chăm chú cử hành các cuộc vui, thì Ngài đã ngồi thế nào
dưới tàng bóng mát mẻ của một cây trâm, tham thiền, nhập định và đắc Sơ
Thiền.
Đó mới thật là con đường dẫn đến Giác Ngộ.
Ngài nhận định rằng vơí tấm thân mòn mỏi không thể hoàn toàn sáng suốt,
một sức khỏe thích nghi rất cần thiết để thành đạt tiến bộ tinh thần, nên
quyết định không nhịn đói nữa mà dùng những vật thực thô sơ.
Năm vị tu sĩ thân tín bấy giờ lâu nay theo hầu cận với bao nhiêu hy vọng,
nay thấy Ngài đột ngột thay đổi phương pháp tu tập như vậy thì lấy làm thối
chí, bỏ đi Isipatana (Vườn Lộc Giả) và nói rằng:
"Đạo Sĩ Cồ Đàm đã trở lại ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng, và đã quay về
đời sống lợi dưỡng."
Trong lúc quyết định quan trọng như vậy, sự hỗ trợ bên ngoài thật vô cùng
khẩn thiết. Chính ngay lúc ấy, những người bạn đồng tu lại bỏ ra đi. Nhưng
Ngài không ngã lòng. Một mình, trong cảnh cô đơn, giữa chốn rừng sâu, các
bậc vĩ nhân thường chứng ngộ những chân lý cao sâu thâm diệu và giải
quyết được những vấn đề phức tạp, khó khăn.
---o0o--Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức
khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu
trong buổi thiếu thời 32. Rồi từ đó dần dần Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và
Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn toàn vững chắc vào một
điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng láng, và mọi sự vật
đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng trở nên
lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh,

vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên


quan đến trạng thái "Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ" (Pubbe-nivasanussati
Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống qúa khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai
kiếp, rồi ba kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm,
một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự
phát triển của nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển
của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng trong gia đình
nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào, và chết
cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sanh vào cảnh nào, có tên gì, sanh
trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau
khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sanh vào cảnh này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp
sống quá khứ.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một,
đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến qúa khứ, Ngài hướng tâm thanh
tịnh về tuệ "Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh" (Cutupapata
Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ
kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác.
Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh
phúc người đau khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi
tạo tác của mỗi người.
Ngài biết rằng người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện,
nguyền rủa bậc Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có
nếp sống của người tà kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa đời, đã tái sanh
vào những trạng thái bất hạnh.

Ngài biết rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp,
biết tôn trọng bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp
sống của người có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã tái sanh
vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.


Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu
hợp trở lại của chúng sanh.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa,
đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh
tịnh về "Tuệ Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân" (Asavakkhaya
Nana, Lậu Tận Minh) 33. Đúng với thực tại, Ngài nhận thức: "Đây là Phiền
Não", "Đây là sự Chấm Dứt Phiền Não". "Đây là Con Đường dẫn chấm dứt
Phiền Não".
Cùng một thế ấy, đúng với thực tại Ngài nhận định: "Đây là Ô Nhiễm". "
Đây là sự Chấm Dứt Ô Nhiễm". "Đây là con đường dẫn đến Chấm Dứt Ô
Nhiễm".
Nhận thức như thế, tâm Ngài giải thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục
vọng), hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm
của vô minh).
Được giải thoát, Ngài biết rằng: "Ta đã được giải thoát" 34 và Ngài nhận
thức: "Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã làm
xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa." 35
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành
Đạo.
Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh
sáng đến.
---o0o--CHƯƠNG 03 - Đạo Quả Phật
"Các Đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"-- Kinh Pháp Cú

Đặc Điểm Của Đức Phật
Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, không
có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không được sự hướng dẫn của một năng lực
siêu phàm nào, đơn độc một mình và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính


mình, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô
nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn
pháp, đã trở thành một vị Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn
Giác. Kể từ ngày ấy, Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama) 36, một
trong chuỗi dài những vị Phật đã xuất hiện trong quá khứ và sẽ xuất hiện
trong tương lai.
Không phải khi sanh ra Ngài đã là Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực
của mình.
Phạn ngữ Buddha (Phật) xuất nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức
tỉnh. Gọi là Buddha (Phật) vì Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lý Thâm
Diệu Cao Quý (Tứ Diệu Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh.
Chẳng những hoàn toàn thấu triệt, mà Ngài còn có đủ khả năng truyền bá
giáo lý nên cũng gọi là Samma Sambuddha (Chánh Biến Tri, âm là TamMiệu Tam-Bồ-Đề) để phân biệt với chư Phật Pacceka (Độc Giác, cá nhân,
đơn độc) chỉ thấu triệt giáo lý mà không thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác
nhưng không thể giác tha.
Trước khi thành đạt Đạo Quả Phật, Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) 37,
có nghĩa là người có nguyện vọng trở thành Phật.
Người muốn đắc Quả Phật phải trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực
trau giồi và phát triển những phẩm hạnh: bố thí, trì giới, từ khước (xuất gia),
trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Trong một thời kỳ chỉ có một đấng Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại
cây, trọn đời chỉ trổ ra một bông, một hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có
một đấng Chánh Biến Tri.
Đức Phật là chúng sanh duy nhất, là nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể

xuất hiện trên thế gian, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc
của chư Thiên và nhân loại. Tôn vinh Ngài là "Acchariya manussa" vì Ngài
là một con người kỳ diệu lạ thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" vì
Ngài đã ban bố tình trạng Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado" vì Ngài là
người đã ban bố tình thương tinh khiết nhất, trí tuệ thâm sâu nhất và chân lý
cao siêu nhất. Cũng tôn vinh Ngài là "Dhammassami" vì Ngài là Pháp
Vương, Chúa của Giáo Pháp (Dhamma).
Như Đức Phật dạy, Ngài là:


"Đấng Như Lai (Tathagata), bậc Ứng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri
(Samma Sambuddha), người đã sanh ra con đường vô sanh, đã sáng tạo con
đường chưa được sáng tạo, đã công bố con đường chưa được công bố, người
đã hiểu biết con đường, người đã mục kích con đường, người đã nhận thức
con đường" 38.
Không có vị thầy nào dạy Đức Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả
Chánh Đẳng Chánh Giác, "Na me acariyo atthi" 39, "một đạo sư, ta không
có", là chính lời của Đức Phật. Ngài có học với những vị thầy để hiểu biết
thế gian pháp 40 nhưng để đến tầng siêu thế thì không. Chính Ngài tự lực
thành đạt trí tuệ trực giác.
Nếu Đức Phật đã nhờ một vị thầy hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn
Độ Giáo chẳng hạn -- tôn giáo mà Ngài đã trưởng thành trong ấy -- để phát
triển trí tuệ siêu phàm, thì ắt Ngài không thể tự gọi là "đạo sư vô song"
(aham sattha anuttaro) 41. Trong bài Pháp đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh
sáng đã rọi rõ cho Ngài trong những việc chưa từng được nghe.
Trong những ngày đầu tiên sau khi xuất gia tầm đạo, Ngài cố tìm đến sự
hướng dẫn của những vị thầy lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo
huấn của các vị thầy này không tìm thấy được điều mong mỏi. Tình thế bắt
buộc Ngài phải tự mình suy niệm và quay trở vào bên trong để tìm Chân Lý.
Và Ngài đã tìm ra Chân Lý bên trong Ngài. Ngài theo dõi đến tận mức thâm

sâu nhất của dòng tư tưởng, và chứng ngộ Chân Lý cùng tột, chưa bao giờ
từng được nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác phát sanh từ bên trong và
rọi sáng những sự vật mà trước kia Ngài chưa từng nghe thấy.
Vì Ngài đã thấu triệt tất cả những gì cần được biết và đã nắm được cái chìa
khóa mở cửa vào mọi kiến thức, nên tôn Ngài là Sabbannu, bậc Toàn Giác.
Đó là trí tuệ siêu phàm mà Ngài đã dày công trau giồi, trải qua vô lượng tiền
kiếp.
---o0o--Phật Là Ai?
Ngày nọ có người theo đạo Bà La Môn tên Dona, nhân khi thấy dấu chân
của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:
- Phải chăng Ngài là một vị Trời (Deva)?


×