LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
Tác giả: PGS. TS. VÕ THỊ MINH CHÍ
PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử Tâm lý học là một lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt nhằm tìm hiểu
những thành tựu của Tâm lý học trong quá trình phát triển của bộ môn khoa
học này.
Những tri thức của Lịch sử Tâm lý học giúp cho các nhà khoa học
nghiên cứu tâm lý... nắm được các học thuyết và các xu hướng khác nhau
của Tâm lý học hiện đại, cũng như các con đường, các khuynh hướng phát
triển của nó. Chỉ khi lồng những tri thức đó vào trời cảnh của lịch sử thì việc
hiểu bản chất, tìm ra những quan điểm gốc, đánh giá những đóng góp chân
chính, nhận thức ý nghĩa lịch sử của vấn đề mới trở nên sâu sắc hơn.
1. Đối tượng nghiên cứu của Lịch sử Tâm lý học
Lịch sử Tâm lý học không nghiên cứu chính các hiện tượng tâm lý mà
nghiên cứu những khái niệm về các hiện tượng đó và xem xét chúng đã biến
đổi như thế nào trong các giai đoạn phát triển khác nhau của khoa học.
Nhiệm vụ của Lịch sử Tâm lý học là phân tích sự nảy sinh và những
phát triển tiếp theo của các tri thức khoa học về tâm lý.
Trong lịch sử phát triển của Lịch sử Tâm lý học đã có ba khái niệm về
đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học: là khoa học về tâm hồn, về ý thức và
về hành vi.
Do yếu tố lịch sử, sự thay đổi các quan điểm về đối tượng của tâm lý
học liên quan đến vấn đề kế thừa, nghĩa là tiếp tục phát triển các tri thức và
những tiến bộ trong khoa học tâm lý. Nhìn chung, sự phát triển tâm lý từ khoa
học về tâm hồn đến khoa học về nguồn gốc hoạt động của tâm lý và ý thức
đã chứng tỏ sự tiến bộ của các tri thức tâm lý học. Tiêu chí đánh giá sự tiến
bộ này là mức độ tiếp cận ngày càng sát hơn với việc nhận thức về khách thể
nghiên cứu: cái tâm lý. Trong khuôn khổ khoa học về tâm hồn, tâm lý học bị
gò vào khái niệm tâm hồn như là một nguyên tắc lý giải. Việc chối bỏ khoa
học về tâm hồn để đi đến khoa học về ý thức (mà chính xác hơn là cái tâm lý
được ý thức) liên quan đến việc tách ý thức từ cái tâm lý với tư cách là khách
thể nghiên cứu. Ý thức lúc này đồng thời vừa là đối tượng nghiên cứu, vừa là
nguyên tác lý giải. Tâm lý học như là một khoa học về hành vi, đã hướng đến
việc vượt qua tính chủ quan của tâm lý học ý thức, tìm đến các con đường
nghiên cứu khách quan. Tuy nhiên, chính bước tiến này lại làm mất đi khách
thể nghiên cứu - tâm lý và ý thức. Ở giai đoạn cuối cùng, cho đến thời điểm
ngày nay, cùng với sự phát triển các tư tưởng tâm lý học, sự thống nhất của ý
thức và hành vi (hoạt động) mới được phục hồi trên cơ sở cách tiếp cận
khách quan trong nhận thức tâm lý.
2. Các giai đoạn của Lịch sử Tâm lý học
Tâm lý học đã có từ nhiều thế kỷ. Những khái niệm khoa học đầu tiên
nảy sinh vào thế kỷ VI trước Công nguyên. Do vậy, nói về các giai đoạn của
Lịch sử Tâm lý học tức là chia tách quá trình này, phân thành các giai đoạn và
xác định nội dung của từng giai đoạn cụ thể.
Lịch sử Tâm lý học được phân thành hai thời kỳ rõ rệt: Khi các tri thức
về tâm lý học phát triển trong lòng triết học và các ngành khoa học khác, mà
trước hết là khoa học tự nhiên (kéo dài từ thế kỷ VI trước Công nguyên đến
giữa thế kỷ XIX).
Khi Tâm lý học phát triển như một ngành khoa học độc lập (từ giữa thế
kỷ XIX cho đến ngày nay).
Theo lời của G.Êbingaoxơ - nhà tâm lý học thực nghiệm người Đức Tâm lý học có quá khứ lâu dài nhưng lịch sử thì ngắn ngủi.
Sự phân kỳ thành hai mốc lịch sử nêu trên rõ ràng không cần bàn cãi vì
tiêu chí phân kỳ là hiển nhiên. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn phát triển Tâm lý học
lại diễn ra trong các thập niên với điều kiện xã hội - lịch sử khác nhau, do vậy
cần có sự phân kỳ các giai đoạn phát triển lịch sử Tâm lý học một cách tỉ mỉ
hơn. Xuất phát từ đây, có nhiều tiêu chí để từ đó thực hiện việc phân kỳ Lịch
sử Tâm lý học. Song, nếu trên cơ sở xem xét sự tiến bộ của từng giai đoạn
phát triển, được quyết định bởi việc thay đổi các quan điểm nhìn nhận về bản
chất của cái tâm lý, có thể tham khảo bảng dưới đây.
Các giai đoạn phát triển của Lịch sử Tâm lý học
Thời gian
Nội dung nghiên
cứu của từng giai
Kết quả
đoạn
Từ thế kỷ Nảy sinh những khái Tâm lý là khoa học về tâm hồn và hình
VI
trước niệm khoa học về thành hai xu hướng: chủ nghĩa duy vật và
Công
Tâm
Nguyên
những
lý
học
khởi
và chủ nghĩa duy tâm. Sự hình thành những
sắc, tri thức đầu tiên về các quá trình tâm lý -
đến thế kỷ phát triển đầu tiên.
cảm giác (tri giác), trí nhớ, tưởng tượng,
V
tư duy, ý chí: tìm ra vấn đề về quan hệ
giữa tâm hồn và cơ thể: chỉ ra cảm giác
bên trong như là phương thức nhận thức.
Từ thế kỷ Phát triển học thuyết Hình thành tâm lý học nguyên tử: Sự bắt
V đến thế về tâm hồn trong đầu của các phương pháp luận nghiên
kỷ XIII
khuôn khổ triết học cứu thực nghiệm.
và trên cơ sở các tri
thức y học.
Từ thế kỷ Sự phát triển tiếp Từ chối việc coi tâm hồn là khách thể: là
XIV
đến tục của học thuyết nguyên tắc để lý giải các hiện tượng cơ
thế kỷ XVI
về tâm hồn trên cơ thể và tâm lý. Lần đầu tiên sử dụng thuật
sở tri thức giải phẫu ngữ “Tâm lý học”.
- sinh lý và những
phát minh vĩ đại của
thế kỷ từ XIV đến
XVI.
Từ thế kỷ Ý thức là đối tác Hình thành tâm lý học kinh nghiệm nội
XVII
đến nghiên cứu. Sự hình quan và liên tưởng. Nảy sinh các vấn đề
giữa
thế thành các cơ sở lý tâm vật lý và tâm - sinh lý, khái niệm về
kỷ XIX
luận của Tâm lý tâm lý vô thức.
học.
Từ
đầu Sự phát triển Tâm lý Tâm lý học trở thành khoa học độc lập.
thế
XIX học như là một khoa Các phương pháp thực nghiệm nghiên
độc lập.
cứu hoạt động của hệ thần kinh và cơ
đến
những
Sự hình thành các quan nhận cảm. Hình thành môn Tâm lý
năm
60 tiền đề khoa học tự vật lý, Đo đạc tâm lý, Thuyết về cảm giác
của thế kỷ nhiên của tâm lý học và tri giác.
XIX
như là một khoa học
độc lập.
Những
năm
Nảy sinh và những Xuất hiện những phương pháp thực
60 phát triển ban đầu nghiệm trong Tâm lý học. Hình thành các
của thế kỷ của Tâm lý học như chương trình lý luận về tâm lý, xuất hiện
XIX
đến là một khoa học lộc các nghiên cứu ứng dụng trong tâm lý học:
cuối
thế lập.
nảy sinh các lĩnh vực mới trong Tâm lý
kỷ XIX
học.
Những
năm
đến
Khủng hoảng trong Nảy sinh các trường phái tâm lý ở nước
10 Tâm lý học và sự ngoài: Hành vi chủ nghĩa, Phân tâm học,
giữa trưởng
những
năm
của Tâm lý học cấu trúc (Ghestan), Tâm lý học
Tâm lý học Xô viết.
30
của thế kỷ
XX
thành
xã hội Pháp, Tâm lý hiểu biết, Tâm lý học
cá nhân, Tâm lý học phân tích v.v...
Sự ra đời của Tâm lý học Xô viết.
Xây dựng cơ sở lý luận của Tâm lý học
trên nền tảng triết học Mác-xít: học thuyết
tâm thế, văn hóa - lịch sử, hoạt động v.v...
Sự phát triển của các ngành Tâm lý ứng
dụng trong Tâm lý học Xô viết: Tâm lý học
kỹ thuật và Tâm lý học sư phạm. Phát triển
các khái niệm khoa học tự nhiên về cơ chế
sinh lý của hoạt động tâm lý và các vận
động.
Cuối
Suy
những
hoảng trong tâm lý trong thời kỳ khủng hoảng: hành vi mới,
năm
giảm
khủng Sự tiến hóa của các trường phái khoa học
30 học ở các nước. phân tâm mới. Sự ra đời của các lĩnh vực
-60 thế kỷ Phát triển của Tâm và xu hướng mới: Tâm lý học phát triển,
XX
lý học Xô viết trong các quan điểm cá thể hóa của nhân cách.
lĩnh vực lý luận.
Các tranh luận trong Tâm lý học Xô viết về
sự cải tổ khoa học trên cơ sở học thuyết
Páplốp, thuyết về tâm thế. Phát triển học
thuyết hoạt động trong Tâm lý học Xô viết.
Sự ra đời của thuyết các giai đoạn hình
thành động tác trí tuệ và khái niệm của
P.Ia.Ganpêrin.
Những
năm
Sự tìm kiếm những Sự ra đời của những trường phái mới
60 cách tiếp cận lý luận trong Tâm lý học: tâm lý học nhân văn,
thế kỷ XX mới trong Tâm lý tâm lý học nhận thức, liệu pháp dạy nói,
đến nay
học hiện đại.
các thuyết định hướng Mác-xít.
Các tranh luận trong Tâm lý học Xô viết về
đối tượng tâm lý học, về các vấn đề vô
thức, giao tiếp v.v...
3. Các quy luật phát triển của Lịch sử Tâm lý học
Quy luật cơ bản và chung nhất của sự phát triển các tri thức khoa học
tâm lý là cuộc đấu tranh tư tưởng, mà trước hết, giữa chủ nghĩa duy vật và
duy tâm về bản chất tâm lý. Chủ nghĩa duy vật trước Mác, dưới các hình thức
khác nhau (chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa tầm thường hay khoa học tự
nhiên) đều thể hiện khát vọng hiểu tâm lý và ý thức như là một quá trình tự
nhiên, như là một biểu hiện của cuộc sống với các quá trình vật chất của nó.
Đó là cách tiếp cận duy vật hướng đến lý giải cái tâm lý. Theo hướng này,
ngay trong tâm lý học cổ đại, đã nảy sinh và phát triển (ở những giai đoạn tiếp
theo) khái niệm về các quá trình vật chất của não là cơ sở của các hiện tượng
tâm lý. Sự phát triển của quan điểm duy vật liên quan mật thiết đến những
thành tựu của khoa học tự nhiên.
Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tâm lý và ý thức hoàn toàn
bị tách biệt với các quá trình vật chất, chuyển thành thực thể đặc biệt - tinh
thần. Thực thể này cả về nguồn gốc, thuộc tính và phương pháp nhận thức
đều đối ngược với thế giới vật chất và thực tiễn.
Sự phân chia Tâm lý học thành duy vật và duy tâm diễn ra trong suốt
quá trình phát triển của Tâm lý học và cho đến ngày nay. Tuy vậy, mỗi quan
điểm (duy vật hay duy tâm đều có những đóng góp của mình trong việc nhận
thức tam lý: Chẳng hạn, quan điểm duy tâm, khi đề cập đến tính đặc thù của
cái tâm lý, (khác với các quá trình duy vật) đã đưa ra ý tưởng về bản chất
hoạt động tích cực của tâm hồn. Việc quan tâm đến khía cạnh này của các
hiện tượng tâm lý là một sự kiện tiến bộ. Do vậy, nghiên cứu Tâm lý học duy
tâm mặc dù trong các quan điểm của nó không cho phép tìm ra con đường
nhận thức các quy luật nhưng lại là một phần không thể thiếu được trong lịch
sử Tâm lý học.
Một quy luật quan trọng khác là xu hướng đi tìm ra một lý thuyết duy
nhất. Quy luật này có thể thấy rất rõ ở giai đoạn tâm lý học bị rơi vào khủng
hoảng đầu thế kỷ XX. L.X.Vưgốtxki đã đưa ra nhận định rằng, lúc đó, Tâm lý
học nhận thức rất rõ “vấn đề cái sống và cái chết đối với Tâm lý học là cần
phải tìm ra được nguyên tắc lý giải chung”. Sự xuất hiện các dòng tâm lý học
khác nhau lúc đó (Tâm lý học chiều sâu, Tâm lý học hành vi và Tâm lý học
Ghestan và các dòng khác) cũng là muốn để tìm ra học thuyết kiểu như thế
này. Tuy nhiên, như đánh giá của L.X.Vưgốtxki, việc tìm ra sự kết nối chung
mang tính quy luật, sự triển khai từ các phát minh riêng lẻ trong từng lĩnh vực
cụ thể để đi đến các quy luật chung và phổ biến, lan truyền lên toàn bộ khoa
học tâm lý, để từ đó chuyển thành các hệ thống triết học, thậm chí thế giới
quan đã cho thấy, trong số các nguyên lý đã tìm ra không có một nguyên lý
nào có thể thỏa mãn vị thế của một lý thuyết thống nhất trong Tâm lý học. Tuy
vậy, nhu cầu khách quan này vẫn luôn là động lực phát triển Lịch sử Tâm lý
học.
4. Động lực và các nguyên nhân phát triển lịch sử các tư tưởng
tâm lý
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, sự phát triển các tri thức về Tâm
lý hóc là một quá trình được quyết định bởi lôgíc nhận thức về bản chất của
khách thể nghiên cứu - cái tâm lý.
Tâm lý học, cũng như các ngành khoa học khác đều mang tính độc lập
tương đối, các nhà tâm lý và các nhà khoa học khác đều phải chịu ảnh hưởng
thống trị của sự phát triển kinh tế. Những quan hệ phức tạp giữa khoa học và
xã hội được L.X.Vưgốtxki thể hiện như sau: “Quy luật về sự thay thế hay phát
triển tư tưởng, nảy sinh hay sự suy thóai của khái niệm, thậm chí việc thay
đổi sự phân loại v.v... đều có thể giải thích trên cơ sở mối quan hệ của ngành
khoa học đó với các điều kiện văn hóa - xã hội thời đương đại, với các điều
kiện và quy luật chung của nhận thức khoa học, với các yêu cầu khách quan,
nhằm nghiên cứu bản chất hiện tượng ở giai đoạn lịch sử cụ thể”.
Có thể nói, việc thừa nhận sự tác động của môi trường văn hóa xã hội
đối với khoa học mang tính chất chung là ý kiến chung của các nhà khoa học.
Do vậy, việc phân tích sự phát triển các tri thức tâm lý cần được nghiên cứu
trên phông của lịch sử và trên cơ sở của sự tác động qua lại giữa Tâm lý học
với các ngành khoa học khác. Sự ảnh hưởng của các ngành khoa học (Sinh
lý học, Ngôn ngữ học, Sinh học v.v...) lên Tâm lý học cũng rất khác nhau vì
một mặt, trong khuôn khổ của các ngành khoa học này, tri thức về Tâm lý học
cũng đã được tích lũy; mặt khác, vì Tâm lý học cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu của các ngành khoa học đó và cũng do Tâm lý học cũng
như các ngành khoa học khác, đều sử dụng phương pháp luận khoa học. Sự
tác động qua lại giữa Tâm lý học và các khoa học khác còn tiếp tục cho đến
ngày nay và điều đó cũng không có nghĩa là các quy luật của Tâm lý học đã
hòa nhập vào quy luật của các ngành khoa học khác.
Khi nói đến mối quan hệ giữa Tâm lý học với ngành khoa học khác và
việc phụ thuộc của nó vào sự phát triển của các yếu tố văn hóa xã hội, cần
phải tìm ra được lôgíc phát triển các ý tưởng của Tâm lý học như là một quá
trình khách quan, mà theo V.I.Lênin đấy là lôgíc của các quy luật biện chứng.
Trong lịch sử Tâm lý học, theo M.G.Iarôsépxki, có 3 loại đơn vị khái
niệm: các số liệu kinh nghiệm (các yếu tố), học thuyết và phạm trù. Các tác
giả khác nhau cũng đã đưa ra những phạm trù khoa học chuyên biệt mô tả
các khía cạnh khác nhau của đời sống tâm lý: hình ảnh, động tác, động cơ,
các quan hệ tâm lý xã hội, nhân cách. Cùng với việc phân tích các phạm trù
diễn ra do thay đổi các học thuyết khoa học, với tính đa dạng của các nhân tố
mới đã cho phép tìm ra bản chất ổn định của tri thức, hạt nhân đa dạng của
các tri thức đó.
5. Các nguyên tắc phân tích Lịch sử Tâm lý học
Quan trọng nhất là nguyên tắc lịch sử. Nguyên tắc này đòi hỏi không
được quên đi các quan hệ lịch sử cơ bản, các vấn đề xem xét phải xuất phát
từ các thời điểm lịch sử cụ thể, các giai đoạn cơ bản mà quá trình hình thành
và phát triển hiện tượng đó đã trải qua và từ đó đưa ra nhận định về hiện
tượng đó là gì? Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học
phải xem xét từng giai đoạn của quá khứ với đầy đủ nội dung của nó trong hệ
thống các điều kiện xã hội văn hóa, để từ đó chỉ ra tính không lặp lại, tính độc
đáo của hiện tượng nghiên cứu.
Trong nguyên tắc lịch sử cần phải đề cập đến việc đánh giá quá khứ.
Việc đánh giá đó phải chỉ ra được những điểm mới trong tri thức so với giai
đoạn trước, đồng thời chỉ ra điểm hạn chế của mỗi giai đoạn bất kỳ trong phát
triển tri thức.
Nguyên tắc tiếp theo trong nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học là nguyên
tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch sử: Theo nguyên tắc này, nhà sử học không
chỉ đơn giản mô tả giai đoạn này hay giai đoạn khác của sự phát triển các tri
thức lịch sử, mà còn phải nêu lên được sự ổn định từ những tri thức đó. Có
thể nói, nhờ nguyên tắc này có thể hạn chế việc tuyệt đối hóa các sự thật lịch
sử và đánh giá chúng chính xác hơn, đúng với điều kiện của giai đoạn lịch sử
mà chúng nảy sinh và phát triển.
Nguyên tắc thứ ba, theo M.G.Iarôsépxki, là nguyên tắc quyết định luận nguyên tắc giữ vai trò trọng yếu trong việc nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học.
Nguyên tắc này đòi hỏi các nhà lịch sử Tâm lý học phải biết khám phá ra
phương thức lý giải nguyên nhân của hiện tượng tâm lý, cũng như các yếu tố
cấu thành sinh ra nó. Trong lịch sử phát triển của mình, Tâm lý học cũng đã
đứng trước các quyết định luận khác nhau: quyết định luận tiền cơ học, cơ
học, sinh học, tâm lý học, xã hội học.
Như vậy, các nguyên tắc nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học cùng với các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sẽ là cơ sở phân tích khoa học con đường
lịch sử của sự phát triển tâm lý học.
6. Phương pháp nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học
Trước hết, cần nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa kinh nghiệm, nghĩa là sự
mô tả thuần túy về các khái niệm của tư liệu lịch sử là một thực tế rất nguy
hiểm trong nghiên cứu Lịch sử Tâm lý học. Sự nguy hiểm không phải do kinh
nghiệm để từ đó đi đến hình thành các khái niệm về tâm lý nói chung. Điều
cần nói đến là việc sử dụng kinh nghiệm để làm việc với hàng loạt các yếu tố
chưa được kiểm định, không có hệ thống, không được lý giải sẽ làm mất đi
chất lượng của nghiên cứu khoa học vốn rất cần được xem xét từ nhiều
nguồn gốc khác nhau.
Nhiệm vụ cơ bản của phương pháp và các thủ thuật nghiên cứu Lịch
sử Tâm lý học là tập hợp các nguồn tài liệu, tổ chức và hệ thống chúng lại để
tìm ra các dữ kiện, học thuyết, quy luật và khái niệm - cấu thành của nghiên
cứu Lịch sử Tâm lý học theo kinh nghiệm. Tiếp theo, nhà lịch sử Tâm lý học
phải tổng hợp các cách tiếp cận kinh nghiệm và lý luận liên quan đến đối
tượng nghiên cứu. Công việc này đòi hỏi người nghiên cứu phải có hiểu biết
các tài liệu cụ thể, làm chủ được phương pháp luận nghiên cứu lịch sử, nắm
vững được các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và nghiên cứu
lịch sử, cũng như bộ máy khái niệm, cho phép định hướng vào các số liệu đã
thu được. Ngoài ra, việc tìm ra mối liên hệ với thời đại hiện tại cũng là một
yêu cầu quan trọng đối với hoạt động nghề nghiệp của nhà lịch sử Tâm lý
học.
Trong thực tế, nhiều phương pháp và cách tiếp cận nghiên cứu Lịch sử
Tâm lý học được mượn từ môn khoa học lịch sử công dân, từ triết học, v.v…
Do vậy, có thể coi Lịch sử Tâm lý học là môn học mang tính chuyên ngành.
Phương pháp nghiên cứu chính trong Lịch sử Tâm lý học là cấu trúc lại
lý luận, mô tả và phân tích có phê phán hệ thống khoa học của quá khứ. Việc
phân tích dựa vào các nguyên tắc phương pháp luận của nghiên cứu lịch sử
trên quan điểm liên hệ với những thành tựu và các vấn đề của tâm lý học hiện
đại.
Trong Lịch sử Tâm lý học còn sử dụng phương pháp phỏng vấn. Đây
thực chất là cuộc tọa đàm có mục đích nhằm thu thập các tài liệu tương ứng
với nhiệm vụ đặt ra cho nghiên cứu. Trong lĩnh vực Tâm lý học các tác giả
như Jung... đã sử dụng rất thành công phương pháp nghiên cứu này.
Một phương pháp cũng hay được sử dụng trong nghiên cứu Lịch sử
Tâm lý học là phương pháp phân tích lý lịch và tự chuyện. Phương pháp này
có khả năng giúp cho các nhà nghiên cứu xây dựng lại bầu không khí của
cuộc sống thực - nguồn tri thức về sự phát triển tinh thần của các nhà bác học
ở các giai đoạn phát triển khoa học khác nhau của họ. Nhờ phương pháp này
có thể thu thập các tài liệu có một không hai về cuộc sống khoa học của con
người, về sáng tạo khoa học của họ. Ở phương Tây, công trình khoa học thu
hút sự chú ý của nhiều độc giả theo phương pháp nghiên cứu này là Lịch sử
Tâm lý học trong các bản lý lịch do K.Mertrinson làm chủ biên, hay trong Tâm
lý học Xô viết là tác phẩm Các giai đoạn của con đường đã qua. Lý lịch khoa
học của A.R.Luria (M, 1982).
7. Nguồn gốc của Lịch sử Tâm lý học
Đó là các tư liệu phản ánh quá trình lịch sử tích lũy các tri thức tâm lý,
mà trước tiên, là các công trình của các nhà tâm lý cũng như các nhà triết học
đã nghiên cứu về Tâm lý học ở các giai đoạn trước.
Nguồn gốc quan trọng nhất để phát triển tri thức tâm lý chính là thực
tiễn xã hội - y học, dạy học và giáo dục, thực tế pháp luật, sản xuất vật chất
v.v...
Ngày nay, lĩnh vực mà từ đó các nhà tâm lý học thu được nhiều tư liệu
quý giá để phát triển chuyên ngành khoa học của mình là Tâm thần học.
Nguồn gốc của tri thức Tâm lý học còn tìm thấy trong các ngành khoa
học tự nhiên (như Vật lý, Hóa học, Thiên văn học), cũng như các ngành khoa
học khác (Ngôn ngữ học, Dân tộc học).
Phần một. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC TRI THỨC TÂM LÝ HỌC TRONG
KHUÔN KHỔ HỌC THUYẾT VỀ TÂM HỒN
Chương 1. TÂM LÝ HỌC CỔ ĐẠI
Khái niệm về tâm hồn tồn tại từ khá lâu, trước cả thời điểm xuất hiện
khái niệm khoa học đầu tiên về nó. Những khái niệm này được thể hiện dưới
dạng niềm tin của những người tiền sử, được mô tả trong các huyền thoại,
trong các sáng tác nghệ thuật của nhân dân. Đó là những khái niệm không
khoa học và ngoài khoa học, tuy vậy chúng được nhắc đến dưới các hình
thức rất phong phú. Tâm hồn là một cái gì đó rất siêu nhiên như “con thú
trong giới động vật, con người trong con người”. Hoạt động của con vật và
con người được giải thích là nhờ có tâm hồn; sự yên lặng của con vật (người)
trong giấc ngủ là do sự thiếu vắng của tâm hồn (trong giấc ngủ thì tâm hồn
tạm thời thiếu vắng, còn trong cái chết - tâm hồn thiếu vắng ổn định, vĩnh
hằng). Như vậy, cái chết do là sự thiếu vắng của tâm hồn vĩnh viễn nên có thể
ngăn chặn được nó, bằng cách hoặc đóng đường đi ra khỏi cơ thể của tâm
hồn, hoặc nếu nó đã ra được thì tìm cách bắt nó quay trở lại. Các phương
thức biểu hiện để thực hiện được nhiệm vụ này là thực hiện đúng các điều
cấm kỵ - như là các lệ ước, nhằm ngăn chặn sự thiếu vắng thường xuyên của
tâm hồn hay sự bắt nó quay trở về với cơ thể.
Những khái niệm khoa học về tâm hồn đầu tiên xuất hiện trong Triết
học cổ đại và được đưa ra dưới dạng học thuyết về tâm hồn. Học thuyết này
chính là những tri thức đầu tiên, mà trong hệ thống này; các khái niệm của
Tâm lý học được phát triển.
Triết học xuất hiện vào thời điểm thay đổi chế độ cộng sản nguyên thủy
bằng chế độ chiếm hữu nô lệ; xảy ra đồng thời ở phương Đông (Ấn Độ cổ,
Trung Hoa cổ) và phương Tây (Hy Lạp cổ, La Mã cổ); Các vấn đề của Tâm lý
học trở thành một bộ phận của Triết học và nó đã nảy sinh một cách tất nhiên,
vì đối tượng của suy luận triết học là nhằm giải thích hợp lý thế giới nói chung
trong đó bao gồm cả vấn đề con người và tâm hồn của họ. Trong mối quan
hệ này, xuất hiện việc tiếp thu, kế thừa các tri thức Tâm lý học ở các nước
phương Đông và phương Tây, và sự ảnh hưởng qua lại của các tư tưởng tâm
lý và triết học giữa các nước này. Sự giao thiệp của các sắc tộc, sự tác động
qua lại, của các nền văn hóa là yếu tố ổn định của sự phát triển lịch sử. Thời
này, Hy Lạp cổ đại có mối quan hệ rất phong phú với nhiều nước Trung cận
đông như Xiri, Babilon... Vào thế kỷ VI trước Công nguyên, Triết học đã xuất
hiện ở Hy Lạp cổ, còn ở các nước Trung cận đông vẫn đang tiếp tục tồn tại
các tư tưởng tôn giáo - thần thoại với phát triển các ngành như Thiên văn học
và Toán học. Những tri thức này được các nhà nghiên cứu của Hy Lạp cổ đại
tiếp thu rất tích cực. Hàng loạt các khái niệm về tự nhiên và tâm lý được đồng
loạt công bố trong các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại, Ấn Độ và Trung
Hoa cổ. Chẳng hạn như công bố tâm hồn là khởi nguồn của vận động hay là
bản chất cái vật lý nằm trong cấu thành các hiện tượng tâm lý. Ý tưởng về sự
phân bố rải khắp nơi của tâm hồn đều được các nhà tư tưởng Ấn Độ, Trung
Hoa cổ và Hy Lạp cổ đại thừa nhận. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh triết
học Ấn Độ cổ là nguồn gốc của mọi tư tưởng triết học của phương Đông, còn
triết học Hy Lạp cổ có nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Hoa cổ và ảnh hưởng đến
văn hóa châu Âu là triết học Hy Lạp cổ. Các khái niệm về tâm lý học của các
nhà tư tưởng ở Tây Âu có nguồn gốc từ Tâm lý học cổ đại.
Mặt khác, các nhà triết học, tâm lý học ở phương Tây rất quan tâm đến
các tư tưởng của phương Đông: chiều sâu nội hàm phần hồn của các tư
tưởng này, cũng như khái niệm về con người, các con đường hoàn thiện
cũng như các nguồn lực tác động lên nó.
Sự khác biệt lớn nhất giữa triết học phương Đông và phương Tây
được xác định bởi những đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước ở
phương Tây và phương Đông, bởi các truyền thống trong đời sống tinh thần
gây cản trở cho việc khái quát hóa các khái niệm về con người v.v....
Tóm lại, Tâm lý học cổ đại ra đời và phát triển trong điều kiện chế độ
chiếm hữu nô lệ thời Cổ đại với tư cách như là sự phản ánh của thực tiễn xã
hội liên quan đến khoa học lúc bấy giờ. Những thay đổi mà phương thức sản
xuất chiếm hữu nô lệ đã trải nghiệm, vị trí nhân cách trong xã hội ở các giai
đoạn khác nhau của lịch sử đã giải thích tính đặc thù trong khái niệm về con
người (trong đó có học thuyết về tâm hồn) giải thích sự thay đổi các khía
cạnh, các xu hướng trong cách tiếp cận với những vấn đề liên quan đến tâm
hồn.
Tâm lý học cổ đại đã được nuôi dưỡng bởi tính nhân văn của văn hóa
Hy Lạp, của những tư tưởng về phát triển hài hòa của cơ thể và tâm hồn; bởi
nền văn minh về một cơ thể sống, khoẻ mạnh, xinh đẹp; bởi tình yêu đối với
cuộc sống trên Trái Đất. Tâm lý học cổ đại là khởi nguồn của toàn bộ nền
khoa học tâm lý, của tất cả các vấn đề cơ bản liên quan đến tâm lý.
I. NHỮNG TƯ TƯỞNG CHÍNH CỦA HỌC THUYẾT DUY VẬT VỀ TÂM HỒN
TRONG TÂM LÝ HỌC CỔ ĐẠI
Học thuyết duy vật về tâm hồn trong Tâm lý học cổ đại được hình thành
và phát triển như một bộ phận của Triết học duy vật, xuất hiện vào thế kỷ thứ
VI trước Công nguyên và là hình thức lịch sử đầu tiên của nền Triết học Hy
Lạp cổ. Đỉnh cao của duy vật cổ đại là chủ nghĩa duy vật nguyên tử. Người
khởi xướng dòng triết học này và hướng nó vào nghiên cứu tâm hồn là
Đêmôcrít - học trò của ông Epiquya (thế kỷ V TCN).
Đêmôcrít hoạt động vào thời kỳ phát triển rực rỡ của chế độ chiếm hữu
nô lệ, diễn ra cùng với sự thăng hoa của các ngành khoa học, nghệ thuật
(kiến trúc, điêu khắc) và văn học Hy Lạp cổ. Thời kỳ hoàng kim, học thuyết
của Đêmôcrít được Epiquya và trường phái của ông phát triển (từ thế kỷ IV
đến thế kỷ III TCN). Người kế tục Epiquya là Lukrexia (thế kỷ I TCN). Hệ
thống duy vật nguyên tử được phát triển nhờ các nhà khắc kỷ vào giai đoạn
đầu tiên của sự phát triển của họ (thế kỷ III TCN).
1. Các tư tưởng tâm lý của chủ nghĩa duy vật nguyên tử cổ đại
Theo thuyết duy vật nguyên tử, mọi cái tồn tại đều cấu trúc từ hai khởi
nguồn: tồn tại và không tồn tại (khoảng không). Nguyên tử là những phần tử
nhỏ nhất, không thể phân chia được và không thể nhận thức bằng cảm xúc.
Nguyên tử khác nhau về hình thức, đại lượng và tính chuyển động. Tất cả
mọi đồ vật đều được tạo thành từ các nguyên tử. Nhưng những phẩm chất
cảm tính như màu sắc, khẩu vị, v.v… theo Đêmôcrít không cấu tạo từ nguyên
tử. Những phẩm chất này nảy sinh trong tri giác của con người và là sản
phẩm của sự liên kết của các nguyên tử.
Epiquya cho rằng, các phẩm chất cảm tính đều tồn tại một cách khách
quan. Tác giả đã mô tả nguyên tử là vật chất có trọng lượng - điều kiện quan
trọng để cơ thể có thể vận động theo lực hút. Ngoài ra, trong học thuyết của
mình tác giả còn nêu lên ý tưởng tư dao động của các nguyên tử, nhờ đó mà
chuyển động của nguyên tử diễn ra theo đường cong. Như vậy, nguồn gốc
của thế giới, Trái Đất là kết quả va chạm của các nguyên tử.
Các nhà khắc kỷ đưa ra học thuyết về các giai đoạn tiếp hóa của thế
giới. Ở giai đoạn khởi đầu chỉ tồn tại các phần tử nhỏ nhất - nguyên tử lửa.
Toàn bộ Trái Đất là một trí tuệ dày đặc, sau đó Trái Đất bắt đầu chuyển động
và ngày càng trở nên nặng nề hơn. Sự hình thành Trái Đất chính là sự
chuyển các nguyên tử lửa khởi đầu thành các đại lượng dưới dạng hơi. Và từ
đây, trước hết là hình thành thế giới bất động vật, sau đó là thực vật, động vật
và cuối cùng là thế giới loài người. Qua một thời gian, quá trình lại bắt đầu lại
từ đầu, chu kỳ của thế giới được hoàn chỉnh. Kết quả là sự hình thành thế
giới mới và ở đấy mọi quy luật trước đó cũng vẫn được tuân thủ. Cuộc sống
của thế giới được cấu trúc từ các chu kỳ lặp đi lặp lại vô tận.
Trên cơ sở các khái niệm vật lý, học thuyết tâm lý về tâm hồn, về nhận
thức… cũng đã được các nhà tâm lý học cổ đại nghiên cứu.
2. Học thuyết về tâm hồn trong duy vật cổ đại
Đêmôcrít hiểu tâm hồn là nguyên nhân gây chuyển động của cơ thể.
- Tâm hồn mang tính vật chất được cấu tạo từ các nguyên tử có hình
thức nhỏ, tròn, phẳng chuyển động không ngừng và phân bố ở khắp cơ thể.
- Tâm hồn và lửa đều cấu tạo từ những nguyên tử này; do vậy tâm hồn
là những nguyên tử lửa về hình thức cũng như về hoạt tính.
- Khi các nguyên tử đi vào cơ thể nó trở nên nặng hơn và theo bản chất
không bao giờ chịu đứng yên, mà luôn vận động trở thành tâm hồn của cơ
thể.
Tóm lại, tâm hồn là sản phẩm phân bố của các nguyên tử:
- Tâm hồn có thuộc tính là vận động trong không gian. Khi cơ thể chết
đi, tâm hồn đi ra theo một lối rất nhỏ, các nguyên tử được chuyển ra ngoài
không gian và rơi xuống. Nói cách khác, tâm hồn sẽ chết và bị tiêu diệt cùng
với cơ thể. Quá trình hô hấp thở ra, hít vào là quá trình đưa vào (đẩy ra) cơ
thể một phần nào đó của tâm hồn. Như vậy, tâm hồn có ở khắp mọi vật thể.
Ngay cả khi cơ thể chết đi, ở đó cũng có tâm hồn, tuy rất ít. Tâm hồn có cả ở
người, ở thực vật, thậm chí ở cả đá.
- Bệnh tật - biểu hiện sự thay đổi của nguyên tử. Tuổi già là do số
lượng các nguyên tử chuyển động bị giảm.
- Sở dĩ các cơ quan nhận cảm có khả năng tri giác các đồ vật vì ở đó
các nguyên tử nhỏ bé tiếp cận gần nhất với thế giới bên ngoài.
- Não bộ là nơi có chức năng tâm hồn cao cấp. Ở đó tương quan đặc
biệt giữa các nguyên tử năng và nguyên tử nhẹ. Chỉ có não mới có khả năng
nhận thức. Cơ quan của những đam mê là tim; còn cơ quan của những ham
muốn trực quan và quyền lực - gan.
Như vậy, theo Đêmôcrít, tâm hồn là sản phẩm tổ chức của cơ thể chứ
không phải là nguyên lý khởi đầu. Tâm hồn không tồn tại ngoài cơ thể. Hạn
chế trong quan điểm của Đêmôcrít chính là nguyên tắc định lượng; chính nó
không cho phép phân biệt các quá trình tâm lý khác với các quá trình vật chất
nói chung. Đặc trưng nhất là khi phân biệt tâm hồn với cơ thể thì tác giả lại
gọi tâm hồn là cơ thể, một cơ thể đặc biệt.
Epiquya và Lukreria cũng như các nhà khắc kỷ, tiếp tục triển khai
nghiên cứu tâm hồn theo quan điểm của Đêmôcrít.
Epiquya cho rằng, chỉ có ở tâm hồn mới có bản chất mà nhờ đó mới có
khả năng cảm giác.
Các nhà khắc kỷ chia tâm hồn thành 8 phần:
- Phần thứ nhất là khởi nguồn điều khiển: như trí tuệ ở con người hay
bản năng ở con vật. Từ khởi nguồn này xuất phát bảy bộ phận khác của tâm
hồn trải ra ở khắp cơ thể tương tự như ở con bạch tuộc. Cơ quan này nằm ở
trong đầu.
- Năm phần tiếp theo thuộc về các cơ quan nhận cảm: thị giác, khứu
giác, thính giác, vị giác và xúc giác. Trong đó: thị giác - khí lực lan truyền từ
khởi nguồn điều khiển đến mắt; thính giác - khí lực lan truyền từ bộ phận điều
khiển đến hai tai; khứu giác khí lực lan truyền từ khởi nguồn điều khiển đến
mũi; vị giác - khí lực lan truyền từ phần điều khiển đến lưỡi và cuối cùng, xúc
giác - những khí lực lan truyền từ khởi nguồn điều khiển đến bề mặt của vật
thể, có thể gây ra cảm giác.
- Phần thứ bảy: là khí lực từ khởi nguồn điều khiển đến các cơ quan
sinh dục.
- Phần thứ tám: là khí lực lan truyền từ khởi nguồn điều khiển đến các
bộ phận như cuống họng, lưỡi và các bộ phận khác làm chức năng ngôn ngữ.
Bộ phận này được các nhà khắc kỷ gọi là bộ phận của giọng nói.
Như vậy, qua nghiên cứu của các nhà khắc kỷ cho thấy trí tuệ là bộ
phận cao cấp, chủ đạo trong tâm hồn.
Có thể nói rằng, trong duy vật cổ đại, tâm hồn được vật chất hóa, tâm
hồn không chỉ được xem xét trong mối liên hệ thống nhất với cơ thể, mà bản
thân nó cũng chính là cơ thể nếu tâm hồn được chuyển động nhờ cơ thể thì
bản thân nó cũng mang tính cơ thể; và cơ chế tác động của tâm hồn lên cơ
thể được tư duy như là quá trình vật chất kiểu như một “cú híc, đẩy”.
3. Học thuyết về nhận thức
Trong duy vật, nguyên tử cổ đại có hai dạng nhận thức được đề cập
đến: cảm giác (hay là tri giác) và tư duy. Cảm giác và tri giác là khởi đầu hay
còn gọi là nguồn gốc của nhận thức; đem lại những tri thức về đồ vật. Cảm
giác không thể nảy sinh từ những cái không tồn tại. Các lỗi trong cảm giác
xuất hiện là do sự tham gia, quấy rối của trí tuệ.
Đêmôcrít gọi nhận thức cảm tính là dạng nhận thức tối tăm, mù mờ. Nó
bị hạn chế khả năng trong các trường hợp phải đi sâu nghiên cứu những
phần tử nhỏ bé nhất, chẳng hạn như nguyên tử.
Trong học thuyết về cảm giác của Đêmôcrít chứa đựng tính không trật
tự, liên quan đến việc phân biệt chất lượng của tồn tại khách quan. Do vậy,
qua học thuyết này chỉ có thể đưa ra một cách “nói chung” hay “ý kiến chung”
về cảm giác mà thôi.
Còn tri giác được xem xét như là một quá trình vật lý tự nhiên: từ đồ
vật, các thước phim mảnh mai, các copy, hình ảnh... được tách ra; về hình
thức bên ngoài, chúng giống với các đồ vật thực tế. Đấy chính là hình thức
hay các dạng của vật chất (đồ vật); chúng thoạt đầu bay lơ lửng trong không
gian rồi sau đó “rơi” vào các cơ quan thụ cảm, thể như mắt chẳng hạn. Tiếp
theo, từ mắt một dòng nguyên tử của tâm hồn được chuyển đi để “bắt” được
cái hình ảnh đó. Hình ảnh của đồ vật vốn dĩ rất to, được giảm đi về kích cỡ,
cho phép đi vào mắt. Khi mà dòng hình ảnh ở bên trong trùng với dòng hình
ảnh đi từ ngoài vào thì không khí nằm giữa con mắt và đồ vật sẽ thu được
các dấu ấn phản ánh trong đôi mắt ướt. Như vậy, hình ảnh xuất hiện mà
không cần sự tham gia của chủ thể, vì nó chỉ được “bắt lấy”.
Từ cơ chế trên, các nhà duy vật cổ điển cho rằng, hình ảnh có thể được
tri giác bởi bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, nhưng lúc đó hiệu quả tri giác sẽ
kém hơn, nếu không qua bộ phận nhận cảm.
Có thể nói, học thuyết của Đêmôcrít - một phương thức ấu trĩ khi giải
quyết về quá trình tri giác. Tuy nhiên vấn đề quan trọng ở đây là trong học
thuyết đã tìm thấy những cố gắng lý giải quá trình tri giác một cách duy vật,
hoàn toàn bằng con đường tự nhiên.
Epiquya là người bảo vệ quan điểm của học thuyết tri giác của
Đêmôcrít và tiếp tục lý giải các quá trình nghe, nhìn và cảm giác mùi vị đã
diễn ra như thế nào. Epiquya cho rằng, tri giác là một quá trình trọn vẹn; mọi
thuộc tính cảm tính của đồ vật bị “bắt” được không phải từng bộ phận rời rạc
riêng lẻ mà theo tổ hợp chung.
Lukrexia quan tâm đến một số vấn đề về tri giác như cường độ tác
động để có thể gây cảm giác hay vấn đề tri giác khoảng cách. Tác giả cũng
khẳng định vai trò rất quan trọng của cảm giác vì chính cảm giác bao giờ
cũng đem lại tri thức chính xác.
Các nhà khắc kỷ cũng đem vào học thuyết về nhận thức một số điểm
cần chú ý. Họ cho rằng, khi con người được sinh ra, bộ phận điều khiển giống
như tờ giấy cuốn thuốc lá, luôn trong tư thế sẵn sàng đón nhận các dòng chữ
- văn bia. Chính tâm hồn con người đã viết lên các ý tưởng của mình và dòng
đầu tiên viết được nhờ vào các cảm giác. Còn các khái niệm, mà các nhà
khắc kỷ cho đấy là tiêu chí của mọi đối tượng, được hình thành như là sản
phẩm của một quá trình đặc biệt, nhất thiết phải có sự tham gia của trí tuệ.
Tiếp theo cảm giác là tư duy.
Đêmôcrít gọi tư duy là dạng nhận thức sáng sủa, nhận thức bằng pháp
luật. Tư duy là một bộ phận nhận thức tinh tế chứa đựng các nguyên tử mà
cảm giác không thể có được.
Epiquya cho rằng, tư duy đem lại các tri thức chung ở dạng khái niệm
hay các hình ảnh biểu tượng; do vậy, tư duy bao hàm số lượng các hiện
tượng riêng lẻ nhiều hơn. Đấy chính là ưu thế của tư duy so với cảm giác.
Các nhà khắc kỷ phân biệt tư duy bên ngoài và tư duy bên trong. Trí
tuệ bên trong là khả năng bám sát các mối quan hệ của đồ vật trong một hoàn
cảnh cụ thể và có kỹ năng xác định chính xác hành vi tương ứng. Loại tư duy
này hình thành trên cơ sở của tri giác. Còn tư duy (hay trí tuệ) bên ngoài (và
còn có thể gọi là ngôn ngữ bên ngoài) là tư duy ngôn ngữ, là sự chuyển
những ý nghĩ trong đầu thành các suy luận bên ngoài. Do vậy, các nhà khắc
kỷ cũng chú ý đến việc nghiên cứu từ ngữ như là một hiện tượng của tiếng
nói.
Tuy nhiên, hạn chế trong học thuyết về nhận thức cần được đánh giá ở
đây là, trong quá trình nhận thức thì mức độ cảm tính không tách rời với tư
duy, mặc dù các nhà duy vật cổ đại đã phân biệt chúng khá rõ ràng. Mặt khác,
cơ chế diễn ra các quá trình cảm giác và tư duy được các nhà duy vật cổ điển
xác định là giống nhau, đều trên cơ sở các hình ảnh được tách ra từ đồ vật.
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, M.A.Dưnhin đã viết, các nhà duy vật
thời Cổ đại cho rằng: “Cả cảm giác lẫn tư duy đều nảy sinh do các hình ảnh đi
từ ngoài vào. Không một ai sẽ có cảm giác hay suy nghĩ nếu như không có
các hình ảnh rơi vào người anh ta”.
4. Vấn đề cảm xúc
Vấn đề cảm xúc trong hệ thống duy vật nguyên tử có liên quan đến đạo
đức.
Đêmocrít phân biệt sự thỏa mãn và không thỏa mãn như là tiêu chí
đánh giá sự có lợi hay có hại. Sự thỏa mãn là trạng thái tương ứng với bản
chất của một cơ thể sống, còn sợ hãi là trạng thái hoàn toàn xa lạ với bản
chất của nó. Mục đích của cuộc sống là sự phân bổ một cách tĩnh tại của linh
hồn. Nó không đồng nhất với sự thỏa mãn mà là một trạng thái bình yên
không bị xáo trộn bởi những sợ hãi, lo âu, bệnh tật hay đam mê bất kỳ. Điều
này chỉ có thể đạt được khi sự thỏa mãn không bị phụ thuộc vào các vật chất
xung quanh.
Epiquya gọi cảm xúc là rối nhiễu, là trở ngại mà muốn có được trạng
thái hài hòa thì nhất thiết phải tránh xa những xáo trộn đó trong tâm hồn. Ông
khẳng định mục đích của cuộc sống là sự thỏa mãn hay là sự tự do thoát khỏi
những khổ đau của cơ thể và những xáo động trong tâm hồn.
Cảm xúc gây rối loạn sự bình yên của phần hồn là sự sợ hãi trước cái
chết, sợ hãi ông trời - người quyết định số phận của muôn người. Tuy nhiên,
Epiquya cũng lên tiếng về việc cần phải có thái độ đúng hơn khi nói về ông
trời.
Lukrexia cho rằng, xúc cảm hoàn toàn phụ thuộc vào trí tuệ. Nếu
không, xúc cảm sẽ dẫn con người vào những lầm lỗi.
Các nhà khắc kỷ đưa ra khái niệm pha trộn giữa khát vọng với cảm xúc
và gọi chúng là kích động (xâm kích). Họ là những người có công trong việc
đưa ra học thuyết về dạng cảm xúc này.
Kích động (xâm kích) là sự vận động của tâm hồn chống lại một cách
cực đoan với trí tuệ, đem lại những nhận định không đúng về đối tượng. Theo
các nhà khắc kỷ, có tất cả 26 loại kích động (phụ thuộc vào thời gian và khách
thể mà kích động liên quan tới) và phân chúng thành các nhóm sau: thỏa mãn
(sung sướng, vui vẻ, hài lòng), không hài lòng (buồn chán, đau khổ) và các
dạng khác của nó; ham muốn và các dạng của nó (gồm: nhu cầu, căm thù,
căm giận, tình yêu, độc ác...), sợ hãi (bệnh tật, không quyết đoán, xấu hổ, bất
ổn, v.v…).
Có ba giai đoạn kích động:
a) Do ảnh hưởng của những tác động bên ngoài, diễn ra những biến
đổi các chỉ số sinh lý trong cơ thể: (kích động và các biểu hiện của tâm hồn
đều mang tính cơ thể).
b) Xuất hiện một cách không chủ định của ý kiến cho rằng, có gì đó đã
diễn ra và cần thiết phải để mắt đến chúng. Đây chính là cấu thành tâm lý
nhưng mang tính không chủ định.
c) Cần thiết phải có sự can thiệp của trí tuệ. Có hai khả năng có thể xảy
ra:
- Trí tuệ cho phép chuyển những đam mê thành kích động và đưa ra
những suy luận từ góc độ xem xét cái ác và cái thiện.
- Trí tuệ suy yếu hay bị ràng buộc bởi những hủ tục sẽ dẫn đến các suy
luận sai và khi đó xuất hiện sự kích động.
Như vậy, dù kích động đối ngược cực kỳ với trí tuệ, song về cơ bản nó
vẫn có trong trí tuệ; nói cách khác, đó chính là những suy luận sai của trí tuệ.
Từ đó suy ra, có hay không những kích động phụ thuộc hoàn toàn vào trí tuệ.
Ở đâu không có trí tuệ, ở đó không có kích động. Cho nên để nảy sinh kích
động hay không kích động là điều hoàn toàn phụ thuộc vào chính con người
chứ không phải vào yếu tố khách quan bên ngoài. Trong trường hợp kích
động không thể không xảy ra, nên có những thủ thuật đấu tranh với chúng.
Đó là:
a) Không để cho kích động có biểu hiện ra bên ngoài vì biểu hiện bên
ngoài thường củng cố các kích động.
b) Không thổi phồng sự kích động bằng các biểu tượng.
c) Cố gắng kéo dài giai đoạn cuối cùng của sự phát triển trạng thái kích
động (chẳng hạn, đếm từ 1 đến 10) nhằm tạo dựng nên khoảng cách giữa
kích động và hoạt động hướng vào sự kích động.
d) Chuyển hướng suy nghĩ sang nhớ lại, hồi tưởng lại các vấn đề thuộc
về các lĩnh vực khác (chẳng hạn, khi sợ hãi thì nhớ lại các hành động dũng
cảm, sự chịu đựng v.v...).
đ) Bộc lộ, vạch trần những hành động dẫn đến kích động.
Có thể nói học thuyết về kích động cũng như thủ pháp đấu tranh ngăn
chặn chúng của các nhà khắc kỷ thời Cổ đại có ý nghĩa quan trọng trong Lịch
sử Tâm lý học; nó thể hiện ý nghĩa giáo dục rất rõ rệt.
5. Vấn đề ý chí và tính cách
Đêmôcrít giải quyết vấn đề ý chí trên cơ sở học thuyết về cái tất nhiên
và cái ngẫu nhiên. Theo ông, không có cái gì xảy ra trên đời một các ngẫu
nhiên, tuy nhiên cũng có một số nguyên nhân xác định làm cho sự việc diễn
ra một cách tự phát, ngẫu nhiên. Song, nhìn chung mọi sự tồn tại trong thế
giới đều tuân thủ quy luật tất nhiên.
Quyết định luận máy móc như trên đã làm mất đi sự tự do của ý chí.
Epiquya phát triển học thuyết về sự dao động của các nguyên tử trong
hành vi của con người, cho rằng trong mỗi con người đều chứa đầy yếu tố tự
do lí chí. Con người không chỉ chịu sự tác động từ ngoài vào mà bản thân là
một chủ thể hoạt động tích cực, tự làm chủ số phận và luôn thực thi các ý
định vươn tới phúc lợi của cuộc sống.
Lukrexia cho rằng, trong thực tế những gì xảy ra trên thế giới với từng
người cụ thể đều phải phục tùng các quy luật tất nhiên. Việc thực thi một cách
tự nguyện cái tất nhiên đó chính là sự tự do.
Các nhà khắc kỷ luôn hướng niềm tin của mình vào việc kính trọng các
tính cách mạnh mẽ. Theo họ, tính cách - đấy là cái được xác định, dấu ấn có
tính đặc thù để từ đó phân biệt hành vi của người này khác so với của người
khác và biểu hiện quan hệ đặc trưng của con người với thế giới, với bản thân
và với mọi người xung quanh. Những nét tính cách cơ bản được các nhà
khắc kỷ cho là: lòng dũng cảm, tự làm chủ bản thân, sự bình yên của linh hồn
và chính nghĩa.
II. TÂM LÝ HỌC DUY TÂM CỦA PLATÔNG
Theo nhận xét của Ăngghen, nói chung do quan điểm duy vật ấu trĩ,
ngay ở trong số những người Hy Lạp cổ đã hình thành những nhân tố dẫn
đến sự phân hóa sau này. Điều này đã được lịch sử khẳng định. Trong cuộc
đấu tranh giữa các học thuyết về tâm hồn như là một đối tượng nghiên cứu
của Tâm lý học đã xuất hiện dòng duy tâm thời Cổ đại với các tên tuổi như
Xôcrát, Platông v.v…
Xôcrát (469-399 TCN)
Theo nhận định của Hêghen, Xôcrát là “một bước ngoặt lịch sử vĩ đại”
trong Triết học cổ Hy Lạp và La Mã. Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, chỉ
có văn nói mới sống động nên ông đã không để lại một tác phẩm nào.
Trong học thuyết của mình Xôcrát rất quan tâm đến vấn đề con người.
Theo ông, triết học không phải là cái gì khác hơn với sự nhận thức của con
người về chính bản thân mình. Tư tưởng này đã được Xôcrát phát biểu thành
luận điểm nổi tiếng “Con người, hãy nhận thức chính mình” và đó cũng chính
là chủ điểm của các buổi đàm thoại, tranh luận về triết học. Theo Xôcrát, sự
nhận thức chính mình tức là nhận thức về chính bản thân mình như một nhân
cách, như một con người. Để nhận thức được mục đích của mình cũng phải
có tiêu chí đánh giá. Tiêu chí đó, theo Xôcrát, là chân lý đích thực, khách
quan, mọi người đều phải thừa nhận trên cơ sở “tiếng nói chung”, “ngôn ngữ
chung” nhất định của những người tham gia đàm thoại. Và cũng chính nội
dung khách quan nêu trên là cái cơ bản trong ý thức con người. Xôcrát cho
rằng, mỗi người đều có ý kiến và lập trường riêng của mình nhưng chân lý thì
có một đó là cơ sở khách quan chung của tri thức mà ai cũng phải thừa nhận;
và muốn khám phá được chân lý đó thì phải xây dựng được khái niệm về sự
vật, hiện tượng một cách chặt chẽ. Có thể nói, ông là người đầu tiên nói đến
tri thức khái niệm trong nhận thức: Không có khái niệm thì không có tri thức.
Tuy vậy, bản thân Xôcrát cũng nhận thấy việc khám phá ra chân lý đích
thực về bản chất sự vật, tức là phải hiểu nó ở mức độ khái niệm, là một việc
không đơn giản và bản thân ông cũng thường nói: “Tôi biết rằng, tôi không
biết gì cả”. Vì thế, Xôcrát khẳng định trí tuệ của ông trời là nguyên nhân chính
thống của mọi hiện tượng. Khi nói về tâm hồn, tác giả là người đầu tiên chỉ ra
ranh giới giữa cơ thể và tâm hồn, đồng thời khẳng định tính phi vật chất của
tâm hồn. Xôcrát định nghĩa tâm hồn rất đơn giản - đó là cái gì đó khác với cơ
thể. Tâm hồn không nhìn thấy được, nó là trí tuệ, là khởi nguồn của thượng
đế và tâm hồn không thể chết, nó tồn tại vĩnh cửu.
Bằng cách xâm nhập không ồn ào như vậy, xu hướng xem xét tâm hồn
dưới góc độ duy tâm trong triết học, trong tâm lý học cổ đại đã xuất hiện.
Platông (427 - 347 TCN)
Là học trò của Xôcrát, là người đã phát triển chủ nghĩa duy tâm đến
đỉnh cao của nó và được tôn vinh là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm
khách quan. Các tác phẩm của ông đã được để lại là: Đối thoại “Phedon”,
“Phedr”, Nhà nước v.v… và được viết dưới dạng hội thoại.
Vấn đề triết học trung tâm của Platông là học thuyết về các ý tưởng.
Trước hết, điểm qua quan niệm về thế giới của Platông có thể thấy, về
nhận thức luận, khác với Xôcrát. Platông cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan chỉ tồn tại dưới dạng đơn lẻ nhất thời, do đó các tri
thức mang tính chất chung, bao quát (theo quan niệm của Xôcrát) là thuộc về
lĩnh vực tinh thần thuần túy chứ không phải là tri thức về các sự vật, hiện
tượng đó. Nói cách khác, tri thức của con người về sự vật, hiện tượng nào đó
không phải là sự phản ánh, mà là bản chất của chúng.
Ngoài ra, theo Platông, còn tồn tại một thế giới khác - thế giới của các ý
tưởng.
Ý tưởng là những tồn tại bản chất có thật, không thay đổi, vĩnh hằng,
không nảy sinh cũng như không tồn tại trong bất cứ một thực thể nào. Ý
tưởng không nhìn thấy được, không đo lường được và tồn tại độc lập với các
hiện tượng cảm tính. Khác với ý tưởng là vật chất. Vật chất là cái gì đó có thể
trở thành đồ vật bất kỳ, một khi nó được liên kết với một ý tưởng xác định.
Thế giới cảm tính hay còn gọi là thế giới đồ vật, là đồ vật cụ thể của tự nhiên
hay do con người làm ra. Thế giới nảy sinh ra và mất đi, nhưng thực chất nó
không tồn tại. Nói cách khác, theo Platông, mọi sự vật đều chỉ là hiện thân
của các ý tưởng, là cái bóng chúng. Quan hệ giữa ý tưởng và vật chất được
thể hiện ở chỗ trong thế giới đồ vật, ý tưởng luôn đứng ở vị trí số một (không
cần phải bàn cãi). Ý tưởng chính là các hình ảnh, còn đồ vật là sự mô phỏng
của nó.
Một phần khác trong triết học duy tâm của Platông là học thuyết về tâm
hồn. Tâm hồn được coi là cái khởi nguồn trung gian giữa thế giới ý tưởng và
các đồ vật cảm tính.
Tâm hồn tồn tại trước cả khi nó liên kết với một cơ thể nào đó. Ở trạng
thái nguyên thủy của mình, tâm hồn là một bộ phận của thế giới tâm linh, nó
đi vào không gian của thế giới, nơi chân lý và tồn tại trùng khớp với nhau,
thăng hoa thành các ý tưởng vĩnh hằng, không đổi. Vì thế, bản chất của tâm
hồn gần như là bản chất của ý tưởng.
Tâm hồn của mỗi cá thể là hình ảnh và là một phần trong dòng chảy
tâm hồn tổng thể của thế giới. Sự liên kết của tâm hồn với cơ thể được
Platông lý giải bằng sự đoạn tuyệt với chân lý để đi đến sự tồn tại. Về bản
chất, tâm hồn thanh tao hơn phần cơ thể, vì thế nó rất có quyền lực đối với cơ
thể. Phần cơ thể - phần vật chất rất thụ động tiếp nhận mọi sự vận động từ
khởi nguồn tâm hồn. Tuy nhiên, Platông vẫn cho rằng, cần thiết phải đảm bảo
sự tương ứng giữa tâm hồn và cơ thể. Tác giả chia ra 9 thứ bậc của tâm hồn
mà mỗi thứ bậc tương ứng với một con người xác định. Ông chỉ ra rằng, cần
phải phát triển cân đối cả cơ thể lẫn tâm hồn để sao cho giữa chúng có sự
đồng bộ nhịp nhàng. Platông đã đề cập đến ba thành phần của tâm hồn, hay
theo ông, còn gọi là ba khởi nguồn của tâm hồn:
Khởi nguồn đầu tiên và thấp nhất có chung cả ở người, động vật lẫn
thực vật. Đấy là khởi nguồn không mang tính chất trí tuệ mà chỉ là dục vọng.
Nhờ có khởi nguồn này mà mọi tồn tại sống có thể tìm thấy việc giải quyết
những nhu cầu cơ thể của mình. Chính bộ phận này của tâm hồn giúp cho