Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp và đô thị hóa ở Miền núi 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.96 KB, 19 trang )

Bài 4
Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp
và đô thị hoá ở miền núi:
10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra
Phó giáo s, Tiến sĩ Nguyễn Kế Tuấn
Trởng khoa Quản trị kinh doanh công nghiệp và xây dựng,
Đại học Kinh tế quốc dân

I. Vị trí và mối quan hệ tơng hỗ giữa phát triển cơ sở hạ tầng,
phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở miền núi
Không phải chỉ ở Việt Nam, mà ngay ở các nớc có trình độ phát triển cao, miền núi bao
giờ cũng ở tình trạng lạc hậu hơn so với miền xuôi. Do những điều kiện đặc thù về tự nhiên - kinh
tế - xã hội của miền núi, sự lạc hậu hơn ấy là điều không tránh khỏi, song tình trạng này lại có thể
kéo theo những bất ổn về kinh tế - xã hội. Bởi vậy, về cơ bản, các Chính phủ đều coi miền núi
nh một địa bàn trọng điểm và theo những cách thức khác nhau đều cố gắng giành sự quan tâm
nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi. Nói chung, sự phát triển cơ sở hạ tầng,
phát triển công nghiệp và đô thị hoá là những biểu hiện cụ thể của trình độ phát triển miền núi. Sự
phát triển ấy có ảnh hởng to lớn đến biến đổi bộ mặt miền núi từ cảnh hoang sơ, lạc hậu sang
trình độ văn minh, hiện đại, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa miền núi với miền xuôi.
Giữa sự phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp và đô thị hoá có quan hệ tơng hỗ,
nhng trong đó, sự phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội giữ vị trí nh điều kiện tiền đề. Bởi lẽ:
Để phát triển sản xuất công nghiệp, dù với quy mô nào và loại ngành gì, đều đòi hỏi phải có
cơ sở hạ tầng tạo lập cơ sở sản xuất, bảo đảm các yếu tố đầu vào và vận chuyển sản
phẩm tới nơi tiêu thụ.
Sự phát triển đô thị là sự tập trung dân c phi nông nghiệp và ở đó các hoạt động phi nông
nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu. Sự tập trung ấy sẽ chỉ có thể thực hiện khi cơ sở
hạ tầng phát triển đến mức độ nhất định.
ở miền núi, sản phẩm nông lâm nghiệp và các nguồn khoáng sản tạo nên những điều kiện

thuận lợi tiềm tàng về nguyên liệu cho phát triển sản xuất công nghiệp. Song chỉ khi nào có cơ sở
hạ tầng thích ứng, điều kiện tiềm tàng ấy mới đợc khai thác có hiệu quả.


Sự phát triển công nghiệp và đô thị cũng có tác động trở lại đến sự phát triển cơ sở hạ tầng.
Sự tác động này thể hiện ở đòi hỏi và sự thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển công nghiệp và nhu cầu của dân c. Sự hình thành các cơ sở công nghiệp tập trung tất
yếu sẽ đòi hỏi phát triển các dịch vụ bảo đảm các yếu tố đầu vào cho sản xuất và dịch vụ tiêu thụ
sản phẩm sản xuất ra. Đó là những nhân tố quan trọng thúc đẩy hình thành các đô thị mới và
phát huy tác động lan toả tới các vùng phụ cận làm biến đổi bộ mặt miền núi.
Nhận thức mối quan hệ tơng hỗ ấy có ý nghĩa thiết thực với việc hoạch định chính sách và
tổ chức thực hiện trong điều kiện nguồn lực có hạn.

188


II. Điểm lại đôi nét về tình hình
Các vùng miền núi Việt Nam chiếm khoảng 3/4 diện tích cả nớc với trên 24 triệu ngời
thuộc 54 dân tộc khác nhau. Đây là vùng có tiềm năng to lớn, đồng thời cũng là vùng có nhiều
khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển.
Những tiềm năng và nguồn lực nổi trội của miền núi thờng biểu hiện trên các mặt chủ yếu

sau đây:
Diện tích đất đai rộng lớn và nhiều nơi còn cha đợc khai thác phù hợp, có hiệu quả.
Tài nguyên khoáng sản đa dạng, trong đó có một số loại có trữ lợng lớn và giá trị kinh tế
cao.
Tài nguyên thuỷ điện và tài nguyên rừng lớn (gỗ và nhiều loại lâm sản khác)...
Song miền núi cũng đang tồn tại những khó khăn, nổi bật là:
Kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc.
Đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn ở trình độ sơ khai.
Trình độ dân trí thấp kém, còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu.
Sự phát triển kinh tế - xã hội đang chứa đựng những yếu tố cha bền vững, thiếu ổn định.
Trong những năm qua, Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách và

giải pháp đặc biệt với vùng núi. Chơng trình Phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn
ở miền núi và vùng sâu, vùng xa (đợc gọi là Chơng trình 135 theo Quyết định số 135/1998/QĐTTg ngày 31/7/1998 của Thủ tớng Chính phủ) là một ví dụ. Nhờ đó, kinh tế - xã hội ở các vùng
miền núi Việt Nam đã có những bớc phát triển nhất định. Tuy nhiên, đây vẫn là vùng kinh tế
chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc còn gặp nhiều khó
khăn.
Dới đây, xin điểm qua vài nét cơ bản về tình hình phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công
nghiệp và quá trình đô thị hoá ở miền núi.

II.1. Kết cấu hạ tầng ở miền núi
Theo kết quả nghiên cứu do nhóm chuyên gia của các Bộ Lao động, Thơng binh và Xã
hôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng và Giao thông vận tải thực hiện năm
1996, kết cấu hạ tầng nông thôn ở nớc ta hiện nay còn rất thấp kém9. Căn cứ vào mức độ phát
triển kết cấu hạ tầng, nhóm nghiên cứu đã chia các xã thành 3 loại:

9

Báo cáo của nhóm công tác.

189


- Loại I gồm các xã đã hình thành đợc bộ khung kết cấu hạ tầng ở mức khá: đờng ô tô
vào đến trung tâm xã và các thôn xóm; công trình thuỷ lợi cơ bản đã đợc hình thành đồng bộ;
trên 60% số hộ đợc dùng điện; trên 30% số hộ đợc dùng nớc sạch; trờng học, trạm xá, nhà ở
và các công trình công cộng đáp ứng tốt yêu cầu của dân c. Trong cả nớc có 2.001 xã thuộc
loại này, chiếm 23% tổng số xã, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng có đến 1.349 xã (trong số
1.686 xã toàn vùng, bằng 80%), vùng Bắc Trung Bộ có 244 xã (trong số 1.622 xã, bằng 15%).
Trong khi đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung, vùng núi và trung du Bắc
Bộ chỉ có khoảng 8% số xã thuộc loại này. Yếu kém nhất là vùng Tây Nguyên, không có xã nào


đảm bảo đợc mức khá đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng nêu trên.
- Loại II là loại trung bình, gồm các xã có kết cấu hạ tầng cha đợc hình thành đồng bộ với
chất lợng khá nh ở loại I. Ví dụ, còn nhiều đờng đất và nhà ở cấp IV, tỷ lệ số hộ dùng nớc
sạch mới khoảng 25%, thuỷ lợi hoá mới giải quyết đợc ở mức trung bình, tỷ lệ số hộ dùng điện
khoảng 50%, số phòng học đạt công trình cấp IV trở lên mới khoảng 70%, có trạm xá nhng chất
lợng còn thấp, tỷ lệ nhà kiên cố khoảng 50%... Thuộc loại này có gần 6.000 xã, bằng 64% tổng
số xã cả nớc, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu long có 922 xã, bằng 82% số xã trong vùng.
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Bắc Trung Bộ và miền núi, trung du Bắc Bộ
có tỷ lệ số xã từ 70 đến 78% thuộc loại này. Trong khi đó, vùng đồng bằng Bắc Bộ chỉ còn 20%

số xã thuộc loại này.
- Loại III là loại kém, gồm các xã có kết cấu hạ tầng kém phát triển nhất: không có đờng

ôtô vào trung tâm xã hoặc có nhng chỉ đi đợc vào mùa khô; cha có điện hoặc có điện dới
30% số hộ; công trình thuỷ lợi có không đáng kể; nớc sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh; số
phòng học tranh tre chiếm trên 50%; trạm xá đơn sơ hoặc cha có trạm xá; nhà ở tạm bợ chiếm
trên 70% số hộ. Thuộc loại này có 1.136 xã, bằng 13% tổng số xã cả nớc. Trong số này, trừ
vùng đồng bằng sông Hồng, các vùng khác đều có tỷ lệ số xã từ 10 đến 18%, riêng Tây nguyên
là 28%.

Năm 1996, trong 1.700 xã nghèo của cả nớc có tới 1.136 xã có kết cấu hạ tầng loại III,
còn lại là các xã thuộc loại II. Đó là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc - miền núi,
vùng mới định canh định c, vùng khí hậu khắc nghiệt... Nh vậy, rõ ràng một trong những

nguyên nhân cơ bản của nghèo nàn, lạc hậu là tình trạng kết cấu hạ tầng kém phát triển.
Tiếp theo những số liệu bảng 1 dới đây có thể thấy kết cấu hạ tầng ở các vùng trung du và
miền núi Việt Nam có trình độ thua kém xa so với các vùng khác.
Chỉ thị số 393/TTg ngày 10/6/1996 của Thủ tớng Chính phủ về quy hoạch dân c, tăng
cờng cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi đã xác định: "... Phấn đấu đến
năm 2000, hình thành đợc 500 trung tâm cụm xã... Phấn đấu đến năm 2000, có 60% số dân vùng

dân tộc và miền núi đợc dùng nớc sạch... ". Đến năm 2001, các nhiệm vụ này đều không đạt

đợc.

190


Bảng II.4.1. Kết cấu hạ tầng nông thôn cả nớc và phân theo vùng năm 1999 (%)
Vùng

Xã có điện

Xã có đờng

Xã có đờng

Xã có trờng

Xã có trạm

ôtô đến xã

ôtô đến thôn

Tiểu học

y tế

ĐBSH


99,9

99,9

99,6

99,9

100,0

Đông Bắc

78,1

94,8

67,5

97,8

96,9

Tây Bắc

54,6

85,4

54,9


95,8

99,4

Bắc Trung Bộ

88,4

94,7

87,7

99,6

99,4

Duyên hải
Nam Trung Bộ

79,8

93,8

85,5

97,4

96,9

Tây Nguyên


64,5

97,2

86,7

96,4

95,7

Đông Nam Bộ

94,4

99,3

96,4

100

99,0

ĐBSCL

95,5

75,3

58,8


99,6

98,3

Cả nớc

85,8

92,9

79,8

98,8

98,0

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000

Dới đây xin trình bày một số nội dung cụ thể:

II.1.1. Về giao thông miền núi
Trong những năm qua, cùng với việc cải tạo và nâng cấp một số tuyến đờng quốc lộ trọng
yếu ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên từ nguồn vốn ngân sách Nhà nớc10, Nhà nớc cũng đẩy
mạnh phong trào xây dựng giao thông nông thôn bằng nguồn vốn từ ngân sách trung ơng, ngân
sách tỉnh, ngân sách xã và huy động sự đóng góp bằng tiền của và công sức của nhân dân. Hiện
nay đờng Hồ Chí Minh đang đợc triển khai xây dựng dọc theo dãy Trờng Sơn tạo thêm một
trục đờng chiến lợc nối liền Nam Bắc. Với những nỗ lực ấy, hệ thống giao thông nông thôn
miền núi đã đợc cải thiện một bớc, tạo điều kiện khai thác các nguồn lực và lợi thế của miền núi
và mở rộng giao lu trao đổi hàng hoá và tình cảm giữa các vùng trong nớc. Tuy nhiên, mạng

lới giao thông miền núi có chất lợng thấp và đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Đờng lên các
huyện vùng cao chỉ có thể đi đợc bằng ô tô vào mùa khô, còn tới 460 xã ở miền núi cha có
đờng ô tô đến trung tâm xã. Mạng lới đờng giao thông liên xã, liên bản phát triển rất chậm. Đó
cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho kinh tế hàng hoá chậm phát triển, tình
trạng du c du canh, phá rừng làm nơng, triệt phá nguồn tài nguyên quý giá do thiên nhiên
mang lại.

Về mạng lới điện
Đến nay, tất cả các huyện miền núi đều đã có điện lới quốc gia, nhiều xã ở vùng cao cũng

đã đợc sử dụng điện lới. Đồng thời, việc phát triển thuỷ điện nhỏ và cực nhỏ cũng đợc khuyến
khích phát triển. Năng lợng điện đã góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất và cải
thiện đời sống của dân c miền núi. Tuy nhiên, đến nay mới có hơn 30% dân số miền núi đợc
hởng điện lới quốc gia. Miền núi là nơi cung cấp nguồn năng lợng điện chủ yếu, nhng lợng
điện thơng phẩm đợc cung cấp chỉ bằng 10-15% mức bình quân chung cả nớc 11. Việc phát

10

Đó là các quốc lộ số 2, 3, 6, 4A, 4B, 4C, 18 lên các tỉnh miền núi phía Bắc, các quốc lộ số 14, 24, 25, 26, 27 ở Tây
Nguyên

11

Xem: Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, PGS.TS. Lê Du
Phong chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 1998.

191


triển mạng lới điện trung thế và hạ thế ở các xã, bản gặp nhiều khó khăn do địa hình phức tạp,

mức đầu t lớn trong khi nguồn vốn có hạn, trình độ phát triển kinh tế và mức sống của dân c
còn thấp dẫn tới nhu cầu sử dụng điện cha cao.

Về phát triển các công trình thuỷ lợi
Nhiều công trình thuỷ lợi, trong đó có các công trình trọng điểm của Nhà nớc đợc đầu t
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nớc, nh Azun Hạ, Sông Quao, Easup, Phú Ninh...
Các địa phơng cũng đẩy mạnh việc xây dựng mới, kiên cố hoá và nâng cấp hàng loạt công trình
thuỷ lợi vừa và nhỏ để phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của dân c. Việc cấp nớc
sạch cho dân c các tỉnh miền núi cũng đợc chú trọng. Song nhìn tổng thể, việc phát triển các
công trình thuỷ lợi và cấp nớc sạch ở miền núi còn thấp xa so với yêu cầu.
Tình hình cơ sở hạ tầng văn hoá xã hội (trờng học, trạm xá, nhà văn hoá) và thông tin liên
lạc cũng ở tình trạng tơng tự.
Điều dễ quan sát thấy là ngay ở các tỉnh miền núi cũng đang xảy ra tình trạng cơ sở hạ
tầng phát triển quá chênh lệch giữa các tỉnh lỵ, huyện lỵ với các thôn bản.

II.2. Công nghiệp ở miền núi
Bảng II.4.2. Giá trị sản xuất công nghiệp ở 3 vùng và 19 tỉnh miền núi
(giá so sánh năm 1994 và tỷ đồng)

Cả nớc
11 tỉnh Đông bắc
1. Hà Giang
2. Cao Bằng
3. Lào Cai
4. Bắc Cạn
5. Lạng Sơn
6. Tuyên Quang
7. Yên Bái
8. Thái Nguyên
9. Phú Thọ

10. Bắc Giang
11. Quảng Ninh
3 tỉnh Tây Bắc
12. Lai Châu
13. Sơn La
14. Hoà Bình
4 tỉnh Tây Nguyên
15. Kon Tum
16. Gia Lai

17. Đắk Lắk
18. Lâm Đồng
19. Bình Phớc

1995

2000

103.374,7
6.179,2

195.321,4
10.291,5

188,9
166,5

44,2
47,3
160,2

17,5
109,5
184,9
132,3
1.310,7
1.701,2
459,7
2.011,6
320,5
114,6
52,3
153,6
1.223,8
99,5
242,6
307,5

90,4
156,0
289,0
29,9
182,8
256,4
319,6
1.901,4
3.046,0
515,7
3.504,3
527,8
154,0

132,0
241,8
1905,0
164,9
424,7
502,1

204,5
329,8
180,3
170,8
166,7
138,6
241,5
145,0
179,0
112,1
174,2
164,6
134,3
252,3
157,4
155,6
165,7
175,0
163,2

574,2
276,0


813,3
266,3

141,6
96,4

192

2000/1995 (%)


Ghi chú: Giá trị sản xuất công nghiệp theo bảng thống kê trên đây có nguồn từ Niên giám thống
kê năm 2000, là giá trị toàn bộ công nghiệp, kể cả công nghiệp Trung ơng và địa
phơng, công nghiệp lớn và công nghiệp nhỏ trên mỗi địa bàn.
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000.

Trong thời gian 1995 - 2000, nếu giá trị sản xuất công nghiệp cả nớc tăng thêm 88,9%,
miền Đông Nam Bộ tăng đến 91%, thì tại 11 tỉnh trung du và miền núi Đông Bắc tăng 66,5%, 3
tỉnh Tây Bắc tăng 64,6% và 4 tỉnh Tây Nguyên tăng 55,6%. Nh vậy, công nghiệp tại các tỉnh
miền núi này có tốc độ tăng chậm hơn so với cả nớc. Năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp
của cả 3 vùng miền núi chỉ chiếm 6,51% giá trị công nghiệp cả nớc (11 tỉnh Đông Bắc chiếm
5,27%, 3 tỉnh Tây Bắc chiếm 0,27% và 4 tỉnh Tây Nguyên chiếm 0,97%), trong khi chỉ vùng Đông
Nam Bộ đã chiếm đến 50,2% và riêng thành phố Hồ Chí Minh 25,8%. Trong 19 tỉnh miền núi, giá
trị sản xuất công nghiệp năm 2000 của Bắc Cạn là bé nhất chỉ đạt 29,9 tỷ đồng, Hà Giang đạt
90,4 tỷ đồng.
100
90
80
70
60

50
40
Tây
Nguyên

Tây Bắc

Đông Bắc

Đông
Nam Bộ

Cả nớc

Đồ thị II.4.1. Giá trị sản xuất Công nghiệp giai đoạn 1995-2000

Trong những năm qua, với định hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, trình độ phát triển công nghiệp ở miền núi cũng đã có sự phát triển ở mức độ
nhất định với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Những ngành công nghiệp đợc phát triển
phổ biến ở các tỉnh miền núi là:
Công nghiệp khai thác khoáng sản, từ quy mô lớn (apatit Lào Cai, quặng sắt và than đá ở
Thái Nguyên... ) đến quy mô nhỏ một cách có tổ chức và tự phát (phổ biến ở tất cả các
tỉnh miền núi có mỏ quặng).
Công nghiệp thuỷ điện (các công trình thuỷ điện ở Hoà Bình, Yaly, sông Hinh,... và một số
trạm thuỷ điện vừa và nhỏ).
Công nghiệp chế biến nông sản và lâm sản (chế biến đờng, sơ chế cà phê, hạt điều và
cao su, sản xuất giấy và bột giấy, chế biến chè và hoa quả, xẻ gỗ... ).
Công nghiệp khai thác vật liệu xây dựng (chủ yếu là khai thác đá).

193



Các nghề thủ công, trong đó có một số nghề thủ công truyền thống (dệt thổ cẩm, mây tre
đan, mộc, rèn... ).
Sự phát triển công nghiệp đã có tác động tích cực nhất định đến thay đổi bộ mặt miền núi,
khai thác các nguồn lực và lợi thế của miền núi, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Tỷ
trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu kinh tế các tỉnh miền núi có xu hớng gia tăng. Song
nhìn chung, trình độ phát triển công nghiệp ở miền núi còn hết sức thấp kém. Công nghiệp miền
núi chủ yếu mới thực hiện nhiệm vụ sản xuất và cung cấp nguyên liệu, năng lợng cho miền xuôi
và một phần nhỏ cho xuất khẩu. Phần sản xuất và tiêu dùng tại chỗ, phần công nghiệp chế biến
thành phẩm hàng hoá chiếm tỷ trọng nhỏ bé. Sự phát triển thủ công nghiệp ở miền núi mang dấu
ấn của sản xuất hàng hoá nhỏ, tự cấp tự túc. Nhu cầu hàng công nghiệp của sản xuất và đời
sống ở các tỉnh miền núi một phần đợc đa từ miền xuôi lên, phần khác thông qua con đờng
biên mậu (tiểu ngạch hoặc nhập lậu).

II.3. Đô thị hoá ở miền núi.
Cùng với những chuyển biến về kinh tế - xã hội, quá trình đô thị hoá ở miền núi cũng đang
diễn ra theo những chiều hớng khác nhau.
Các tỉnh lỵ vốn đợc hình thành từ thời kỳ thuộc Pháp nay vẫn đợc xác định là trung tâm
kinh tế, chính trị xã hội của tỉnh. Hệ thống cơ sở hạ tầng đợc chỉnh trang, nâng cấp và phát triển
tơng đối đồng bộ (đờng giao thông nội đô, hệ thống cấp thoát nớc, mạng lới điện, bu điện,
trờng học, bệnh viện, nhà văn hoá, sân vận động). Quá trình này đợc đẩy mạnh từ sau khi thực
hiện chủ trơng phân tách tỉnh, tái lập các tỉnh cũ. Một số tỉnh lỵ đợc nâng cấp thành thành phố
thuộc tỉnh (Buôn Ma Thuột của Đắk Lắk, Pleiku của Gia Lai... ).
Bộ mặt các thị trấn huyện lỵ cũng có những thay đổi đáng kể, song chủ yếu ở hệ thống
công sở và nhà ở. Hệ thống hạ tầng đô thị phát triển chắp vá và còn thấp xa so với yêu cầu đô thị
văn minh hiện đại.
Các thị trấn và thị tứ mới đợc hình thành trên cơ sở các cơ sở công, nông nghiệp tập trung
hoặc tụ điểm giao thơng. Tại những thị trấn hình thành trên cơ sở phát triển các doanh nghiệp
công nghiệp, cơ sở hạ tầng đợc phát triển ở mức độ nhất định từ nguồn đầu t của chính các

doanh nghiệp công nghiệp cho cán bộ công nhân viên của họ (nhà ở, bệnh xá, trờng học, cấp
điện và cấp nớc), từ đó cuốn hút dân c phi nông nghiệp và cả dân c nông nghiệp ở khu vực
lân cận. Loại thị tứ hình thành từ tụ điểm giao thơng, nhất là ở các khu vực ven biên giới, cũng đã
xảy ra tình trạng thiếu thốn về cơ sở hạ tầng đô thị, lộn xộn về trật tự trị an.
Những số liệu dới đây có thể minh hoạ rõ hơn tình hình nêu trên.
Bảng II.4.3. Dân số phân theo thành thị, nông thôn của 3 vùng miền núi năm 2000
(đơn vị 1000 ngời và%)
Cả nớc

%

Đông Bắc %

Tây Bắc %

Tây Nguyên %

Tổngdân số

77.685,5

100%

8.952,4 100%

2.287,7 100%

4.248,0

100%


- Thành thị

18.619,9

23,97

1.572,0 17,56

277,8

1.128,0

26,50

- Nông thôn

59.065,6

76,03

7.380,4 82,44

2.009,9 87,90

3.120,0

73,50

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000


194

12,10


Bảng II.4.4. Dân số trung bình năm 2000 của 19 tỉnh phân theo nam / nữ và thành thị / nông
thôn
(đơn vị !000 ngời và%)
Tổng số

Nam

Nữ

Thành thị

Nông thôn

100%

Tổng

%

Tổng

%

Tổng


%

Tổng

%

77.685,5

38.188,7

49,16

39.496,8

50,84

18.619,9

23,97

59.065,6

76,03

8.952,4

4.446,6

49,66


4.505,8

50,34

1.572,0

17,56

7.380,4

82,44

1.Hà Giang

618,4

306,2

49,5

312,2

50,5

65,7

10,6

552,7


89,4

2. Cao
Bằng

497,4

241,2

48,5

256,2

51,5

65,8

13,2

431,6

86,8

3. Lào Cai

613,6

306,4


49,9

307,2

50,5

105,1

17,1

508,5

82,9

4. Bắc Cạn

280,7

140,3

50,0

140,4

50,0

41,7

14,8


239,0

85,3

5. Lạng Sơn

710,7

352,6

49,6

358,1

50,4

134,4

18,9

576,3

81,1

6. Tuyên
Quang

685,5

339,0


49,5

346,5

50,5

60,9

8,8

624,6

91,2

Cả nớc
11 tỉnh
Đông Bắc

7. Yên Bái

691,6

345,0

49,9

346,5

50,1


135,9

19,6

555,7

80,4

8. Thái
Nguyên

1.054,0

525,2

49,8

528,8

50,2

220,6

20,9

833,4

79,1


9. Phú Thọ

1.273,5

625,4

49,1

648,1

50,9

180,6

14,2

1.092,9

85,8

10. Bắc
Giang

1.509,3

746,0

49,4

763,3


50,6

112,1

7,4

1.397,2

92,6

11.Quảng
Ninh

1.017,7

519,3

51,0

498,4

49,0

449,2

44,1

568,5


55,9

3 tỉnh Tây
Bắc

2.287,7

1.145,0

50,06

1.142,7

49,94

277,8

12,1

2.009,9

87,9

303,2

49,5

538,1

87,7


453,0

50,0

811,3

89,5

386,5

50,4

660,5

86,0

2.102,6

49,5

3.120,0

73,5

162,1

49,7

222,8


68,3

12. Lai
Châu

613,3

13. Sơn La

906,8

14. Hoà
Bình

767,6

4 tỉnh Tây
Nguyên
15. Kon
Tum

4.248,0
326,5

310,1
453,8
381,1
2.145,4
164,4


50,5
50,0
49,6
50,5
50,3

75,2
95,5
107,1
1.128,0
103,7

12,2
10,5
14,0
26,5
31,7

16. Gia Lai

1.020,5

515,4

50,5

505,1

49,5


249,6

24,4

770,9

75,6

17. Đắk Lắk

1.862,6

941,7

50,5

920,9

49,5

373,2

20,0

1.489,4

80,0

18. Lâm

Đồng

1.038,4

523,9

50,4

514,5

49,6

401,5

38,6

636,9

61,4

19.Bình
Phớc

687,4

350,4

50,9

337,0


49,1

104,3

15,1

583,1

84,9

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000

Nếu xem xét mức độ đô thị hoá qua tỷ lệ số dân sống ở thành thị và nông thôn, có thể thấy

rằng năm 2000 tỷ lệ này của cả nớc là 23,97% và 76,03%, thì ở 11 tỉnh Đông Bắc tơng ứng là
17,57% và 82,44%, 3 tỉnh Tây Bắc là 12,1% và 87,9%, 4 tỉnh Tây Nguyên là 26,5% và 73,5%.
Trong khi 4 tỉnh Tây Nguyên đạt mức độ đô thị hoá bình quân cao hơn cả nớc (26,5% so với
23.97%), thì ở Tây Bắc có tỷ lệ thấp nhất (12,1% so với 23,97%). Tỉnh Quảng Ninh có mức độ đô
thị hoá cao nhất trong số 19 tỉnh này, đạt 44,1%, kế đến là Lâm Đồng 38,6%, rồi Kon Tum

195


31,7%, Gia Lai 24,4%, Thái Nguyên 20,9%, Đắk Lắk 20%... Mức độ đô thị hoá thấp nhất là Bắc
Giang chỉ có 7,4% và Tuyên Quang 8,8%.
Có thể tham khảo thêm lịch sử và đặc điểm đô thị hoá ở miền núi qua thực tế của Tây
Nguyên và Tây Bắc 12. ở Tây Nguyên, tại các đô thị, dân số ngời Kinh cũng chiếm tỷ lệ lớn hơn.
Năm 1979, tại 4 thành và thị xã lớn - thủ phủ của 4 tỉnh hiện nay (Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Plâycu,
Kon Tum), ngời Kinh chiếm đến 82,14% dân số (Kon Tum 60,46%, Plâycu 93,84%, Buôn Ma

Thuột 76,61% và Đà Lạt 96,12%). Tại các đô thị, dân c thuộc các dân tộc thiểu số chiếm một tỷ
lệ đã ít nhng lại thờng c trú ở vùng ngoại thị, tức vành đai nông thôn bao quanh các đô thị và
cuộc sống của họ gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp. ở thị xã Kon Tum, c dân các
dân tộc ít ngời, phần lớn là ngời Ba Na chiếm 39,54% tổng dân số nhng lại chỉ có gần 1/3 số
ngời đó sống ở 2 phờng nội thị là Thắng Lợi và Quyết Thắng, còn hơn 2/3 sống ở các vùng
ngoại vi. ở Buôn Ma Thuột, ngời Ê Đê có 31.968 ngời, đông thứ hai sau ngời Kinh nhng
cũng chỉ có 1.135 ngời, chiếm 3,55% sống tại 7 phờng nội thị, còn tuyệt đại đa số (hơn 90%)
sống tại các xã tức vùng nông thôn của thị xã... Lại đơn cử ở Tây Bắc, nh ở thị xã Sơn La, năm
1979, c dân địa phơng ngòi Thái tới 58,27%, ngời Kinh chỉ chiếm 39,39% dân số thị xã,
nhng nếu xét riêng các khu phố nội thị, ngời Thái chỉ chiếm có 20,04%, còn ngời Kinh chiếm
tới 76,82%... Từ sau đổi mới, năm 1986, với việc xuất hiện ngày càng nhiều thị trấn, thị tứ đã làm
cho số dân thành thị ở miền núi tăng lên. ở Tây Nguyên, từ năm 1979 đến 1989, số dân thành thị
tăng từ 19,64% lên 22,13% (và năm 2000 lên 26,5%) và so với dân số chung của vùng thì dân số
đô thị tăng với tốc độ nhanh hơn (bảng 5).
Bảng II.4.5. Sự phát triển thành thị ở Tây Nguyên qua các năm 1979-1989
Đơn vị: %
Tốc dộ tăng dân số hàng năm
của thời kỳ 1979-1989

Tỷ lệ dân c thành thị

1979

1986

1987

1989

Dân số chung


Thành thị

Toàn vùng

19,10

21,9

21,42

22,13

5,05

6,15

Gia Lai Kon Tum

18,52

20,0

17,92

20,03

3.77

4,52


Đắk Lắk

14,65

18,6

16,65

16,95

6,61

7,89

Lâm Đồng

27,64

28,9

32,55

32,80

4,68

6,32

Nguồn: Các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển Kinh tế - xã hội ở miền núi, Bế Viết

Đẳng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

ở thị xã Buôn Ma Thuột, từ năm 1979 đến năm 1989, số ngời Ê Đê sống ở 7 phờng nội

thị đã tăng gần 3 lần, từ 1.135 ngời lên 3.154 ngời và từ chỗ chỉ có 3,55% dân số sống ở nội thị
đã tăng lên 10,13%. Trong những năm tiếp đó, nhiều điểm dân c đô thị đợc mọc lên, trong đó
ngời dân tộc chiếm một tỷ lệ lớn nh thị trấn Ch Prông, huyện Ch Prông, tỉnh Gia Lai, ngời
Gia rai chiếm 1/3 dân số ; thị trấn Ea Pố huyện Ch Mgar tỉnh Đắk Lắk, ngời Ê Đê chiếm tới
40,96% dân số; thị trấn Định Văn huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, ngời Kơ Ho chiếm gần 1/2
(45,95%) dân số thị trấn. Thậm chí, ngày càng có nhiều thị trấn dờng nh là của ngơì dân tộc
nh thị trấn Kon Chro huyện Kon Chro, tỉnh Gia Lai, ngời Ba Na chiếm tới 85,57% dân số thị

12

Các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển Kinh tế - xã hội ở miền núi, Bế viết Đẳng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.

196


trấn, thị trấn Ea Hding huyện Ea Ka tỉnh Đắk Lắk, ngời Ê đê cũng chiếm tới 55,17% dân số. Tuy
vậy, vì cha có sự thay đổi về cơ bản tâm lý - xã hội, truyền thống còn là gánh nặng đè lên họ,
nên có 2 thực tiễn diễn ra: một là, c dân đô thị các tộc ngời dân số ít tụ lại hoặc vì công tác ở
các cơ quan Nhà nớc, hoặc phải chịu một sức ép tâm lý xã hội, sự cạnh tranh trong kinh doanh;
hai là, họ đang hoà đồng vào lối sống thành thị, xã rời ngời đồng tộc và nếu không chú ý, con
cháu họ rất dễ lãng quên bản sắc của dân tộc mình... 13.

35
30


Toàn vùng

% 25

Gia Lai-Kon Tum

20

Đắk Lắk

15

Lâm Đồng

10
1979

1986

1987

1989

Đồ thị II.4.2. Sự phát triển thành thị ở Tây Nguyên trong các năm 1979-1989

Từ tình hình khái quát trên, có thể rút ra mấy nhận xét sau đây về sự phát triển các đô thị ở
miền núi:
Sự hình thành và phát triển các đô thị với những cấp độ khác nhau ở miền núi gắn liền với
sự phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp và giao lu hàng hoá.
Dù ở cấp độ nào, các đô thị miền núi luôn đóng vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực và của vùng. Thông thờng, về mặt kinh tế, đó là đầu mối thực hiện

sự giao lu hàng hoá, về mặt xã hội, đó là nơi sinh hoạt văn hoá tập trung.
Giữa các đô thị miền núi cùng cấp độ và giữa các cấp độ (thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ)
có sự chênh lệch rõ rệt về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất và mức
sống của dân c.
Bản sắc riêng của các đô thị miền núi đang có nguy cơ bị mất dần do sự lai tạp của dân c,
do sự xâm nhập của các "loại văn hoá ngoại lai".
Đang xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trờng sinh thái và môi trờng văn hoá - xã hội ở các đô
thị miền núi.
Tuy còn ở trình độ phát triển cha cao, nhng sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,
mức sống vật chất và tinh thần ở đô thị và các thôn bản đang có xu hớng ngày càng
mở rộng...

13

Nh trên.

197


III. Một số kết luận tổng quát
III.1. Những tác động tích cực
Sự phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị ở miền núi tuy mới ở trình độ phát triển
ban đầu, nhng đã có những tác động tích cực nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội miền
núi. Đó là:
Các nguồn lực, lợi thế về điều kiện tự nhiên và tài nguyên ở miền núi bớc đầu đợc huy
động. Một số vùng đã và chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá tập trung.
Bộ mặt miền núi có những thay đổi, tính hoang sơ, sự cách trở bớc đầu đợc xoá bỏ.
Đời sống văn hoá và tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi đợc cải thiện từng bớc.
Nhiều vùng, dân c đã đợc thụ hởng những sản phẩm văn hoá tinh thần hiện đại,
thông tin kinh tế - xã hội đợc cập nhật...


III.2. Một số vấn đề nảy sinh
Trong khi thừa nhận những tác động tích cực nhất định của phát triển cơ sở hạ tầng, công
nghiệp và đô thị ở miền núi, cũng cần nhìn nhận một cách khách quan và đúng mức những tác
động tiêu cực đến môi trờng và kinh tế - xã hội của quá trình này. Cũng còn những ý kiến khác
nhau về vấn đề này. Thật ra, cha đủ dữ liệu để đánh giá và so sánh một cách cụ thể để kết luận
rằng mức độ tác động tiêu cực lớn hơn tác động tích cực hay ngợc lại. Nhng rõ ràng là dù ở
mức độ nào chăng nữa, những tác động tiêu cực về môi trờng và kinh tế - xã hội ở miền núi là
điều không tránh khỏi.
Có thể nêu ra mấy nét cơ bản sau đây:
Tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa miền núi và miền xuôi, giữa
các tỉnh vùng núi với nhau và giữa các huyện, xã ngay trong một tỉnh thể hiện ngày
càng rõ. Cơ hội và điều kiện phát triển của các vùng rất khác nhau. Bởi vậy, sự chênh
lệch là hiện tợng không thể tránh khỏi, song khoảng cách chênh lệch ngày càng lớn
lại chứa đựng những yếu tố có thể gây nên sự bất ổn định về mặt chính trị - xã hội.
Các nguồn lực và lợi thế ở miền núi cha đợc khai thác một cách đầy đủ và có hiệu quả
phục vụ cho sự phát triển của bản thân miền núi và góp phần vào sự phát triển chung
của đất nớc. Việc phát triển hệ thống giao thông miền núi đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc khai thác lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng để phát triển khai thác lâm
sản, hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung với quy mô lớn (chè ở Hà Giang,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái và Lâm Đồng; cao su, cà phê ở Đắk Lắk, Gia Lai,
Lâm Đồng), phát triển thuỷ điện, công nghiệp khai thác... Song theo những mức độ
khác nhau, sự phát triển kinh tế ấy đã biến miền núi trở thành nơi cung cấp nguyên liệu
cho miền xuôi và cho xuất khẩu. Ngoài công nghiệp chế biến chè tạo thành phẩm
ngay tại miền núi, các loại công nghiệp chế biến khác còn hết sức nhỏ bé và chủ yếu
mới ở trình độ sơ chế nguyên liệu. Mức độ phát triển này lại dẫn đến sự chênh lệch về
mức độ hiệu quả có thể thu đợc trong quá trình tái sản xuất: vai trò của ngời sản

198



xuất nguyên liệu luôn đợc đề cao, song mức lợi ích họ thu đợc lại hết sức khiêm tốn
so với ngời chế biến và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng.
Bản sắc, đặc trng dân tộc và miền núi trong phát triển không những không thể hiện rõ, mà
còn có nguy cơ bị biến chất. Điều này thể hiện đặc biệt rõ trên khía cạnh văn hoá và
trong kiến trúc đô thị miền núi. Dờng nh các đô thị ở miền núi đều có dáng vẻ khá
đồng nhất, hơn nữa các đô thị này cũng không mấy khác biệt với các đô thị ở miền
xuôi. Những đô thị sinh thái, ở đó con ngời đợc sống trong một môi trờng trong
sạch, thông thoáng, hài hoà với điều kiện tự nhiên, ngày càng ít đi. Bê tông hoá, những
kiểu nhà với kiểu dáng kiến trúc lai căng (thậm chí có phần kệch cỡm) của những trọc
phú mới nổi lên bằng nhiều cách khác nhau ở các đô thị ngày càng trở nên phổ biến.
Gần đây lại xuất hiện hiện tợng một số dân đô thị lớn mua lại nhà sàn của dân miền
núi đem về lắp ráp lại tại những khu "nhà nghỉ" ở ngoại thành, dân miền núi hoặc chặt
rừng làm lại nhà sàn khác, hoặc sử dụng tiền bán nhà sàn làm nhà mới bằng bê tông.
Sự chân chất, nhân hậu của con ngời miền núi, đặc biệt là của dân c đô thị và ven đô thị
dờng nh đang bị mất dần. Những thói h tật xấu của tầng lớp thị dân trong buổi đầu
của cơ chế thị trờng đã có ảnh hởng tiêu cực đến lối sống của dân c bản địa. Đồng
thời, những hiện tợng xã hội tiêu cực của các đô thị cũng đã thâm nhập vào các đô thị
và vùng ven đô thị ỏ miền núi. Dờng nh đô thị miền núi cũng có đủ những tệ nạn xã
hội nh ở các đô thị miền xuôi.
Môi trờng sinh thái ở miền núi đang trong tình trạng suy thoái. Sự phát triển cơ sở hạ tầng,
công nghiệp và đô thị miền núi không tách khỏi điều kiện tự nhiên và đang gây nên
những tác động tiêu cực đến môi trờng tự nhiên: diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp do
phải nhờng đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở công nghiệp và mở rộng đô thị;
rừng tự nhiên, trong đó có cả rừng phòng hộ, bị tàn phá lấy gỗ làm nguyên liệu và lấy
đất làm nơng rẫy; sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đô thị đa ra môi trờng các loại
chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí và tiếng ồn. Những ràng buộc về môi trờng
của các dự án công nghiệp ở miền núi dờng nh cha đợc chú trọng đầy đủ. Tình
trạng khai thác tài nguyên vô tổ chức (khai thác vàng sa khoáng, quặng pirit... ) không
chỉ huỷ hoại rừng tự nhiên, gây tình trạng ô nhiễm nguồn nớc và còn gây nên nhiều tệ

nạn xã hội nghiêm trọng. Điều đáng lo là bản thân dân c miền núi và các quan chức
quản lý các địa phơng miền núi cha nhận biết đợc tình trạng ô nhiễm này và không
đánh giá đầy đủ hậu quả trực tiếp và hậu quả lâu dài của tình trạng này.
Tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực với phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, việc

phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị ở miền núi cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
cả về kinh tế, xã hội và môi trờng, có những tác động tiêu cực không phải chỉ trong tơng lai mà
ngay bây giờ đã bộc lộ khá rõ nét.

III.3. Những nguyên nhân cơ bản
Điều kiện địa hình của các tỉnh miền núi và giữa các huyện, xã trong một tỉnh có độ phức
tạp khác nhau, do đó khả năng phát triển và nhu cầu đầu t ở các vùng rất khác nhau
trong khi nguồn vốn đầu t luôn là đại lợng bị giới hạn. Cơ sở hạ tầng của Tây

199


Nguyên nhìn chung có sự phát triển cao hơn vùng núi phía Bắc do địa hình ở đây ít
phức tạp hơn.
Cơ sở vật chất ban đầu ở các địa phơng rất khác nhau: có những vùng đã có cơ sở vật
chất ở mức độ nhất định, có vùng hầu nh cha có gì đáng kể. ở vùng Tây Nguyên đã
có cơ sở hạ tầng ban đầu khá hơn các vùng khác, chủ yếu là hệ thống đờng giao
thông hình thành từ trớc ngày giải phóng. Đó là nền tảng để thực hiện việc nâng cấp
và mở đờng nhánh từ những trục lộ này. Trong khi đó, hệ thống đờng quốc lộ ở vùng
núi phía Bắc đợc hình thành từ thời kỳ thuộc Pháp, trớc ngày thống nhất đất nớc hệ
thống này không có điều kiện cải tạo, nâng cấp.
Điều kiện phát triển kinh tế ở các vùng cũng khác nhau. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi (đất
đai, khí hậu), Tây Nguyên là vùng cây công nghiệp tập trung (cà phê, cao su, chè, dâu
tằm) lớn vào bậc nhất đất nớc. Đây cũng là vùng có diện tích rừng và trữ lợng gỗ lớn.
Trong khi đó, vùng núi phía Bắc đất đai ít phì nhiêu hơn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt

hơn, nên điều kiện phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn hơn. Chính vì vậy đã xảy ra
tình trạng di dân tự do từ ngay các tỉnh miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà
Giang... ) tới các tỉnh Tây Nguyên, chứ không xảy ra dòng di dân ngợc lại.
Xét về mặt kinh tế, suất đầu t phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp ở miền núi cao hơn
hẳn ở miền xuôi. Điều đó trong nhiều trờng hợp vợt quá khả năng đầu t của ngân
sách Nhà nớc vốn đã rất hạn hẹp và không tạo nên sự hấp dẫn với các nhà đầu t
ngoài Nhà nớc, trong khi các chính sách khuyến khích đầu t vào miền núi của Nhà
nớc cha đủ độ tạo nên động lực mạnh mẽ. Cũng cần phải nói thêm rằng việc quản lý
vốn ngân sách của Nhà nớc còn nhiều khiếm khuyết nên đầu t cha mang lại hiệu
quả mong muốn, thậm chí trong một số trờng hợp tình trạng tham nhũng đã gây nên
những tác động tiêu cực.
Sự phối hợp các mục tiêu trong phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng doanh nghiệp và mở
mang đô thị ở miền núi cha đợc thực hiện rõ ràng. Còn có tình trạng sự phát triển
cha thoát khỏi mục đích tự thân. Chẳng hạn, việc xây dựng mạng lới điện trung thế
và hạ thế ở miền núi, đa điện về các xã, các thôn bản xuất phát thuần tuý từ kế hoạch
phát triển mạng điện của ngành điện chứ cha tính toán đầy đủ nhu cầu sử dụng điện,
làm cho hiệu quả đầu t thấp kém. Đảng và Chính phủ đã có định hớng chung về
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, các tỉnh đều đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội. Song những quy hoạch này có chất lợng cha cao, quy hoạch
cha đợc sử dụng nh một công cụ quan trọng trong quản lý vĩ mô, cha có sự phối
hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nớc, bởi vậy tình trạng thiếu
đồng bộ trong phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị là không thể tránh khỏi.
Trình độ dân trí cha cao, chất lợng lao động còn thấp, cán bộ thiếu năng lực là một
nguyên nhân quan trọng ảnh hởng đến sự phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và
đô thị ở miền núi. Nếu ở miền xuôi, với tình trạng đất chật ngời đông, khả năng phát
triển nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt của nhiều vùng đang tiệm cận đến mức tới hạn,
việc rút lao động khỏi nông nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động trở thành một yêu
cầu cấp thiết trên cả phơng diện kinh tế và xã hội, thì vấn đề này ở miền núi có mức

200



độ dịu hơn, song cũng cần đợc đặt ra ngay từ bây giờ để có những biện pháp mang
tính chiến lợc thích ứng, tránh tình trạng giải quyết vấn đề mang tính tình thế, hiệu quả
không cao14. Điều này lại liên quan đến 2 vấn đề lớn: (1) sự phát triển cơ sở hạ tầng
và phát triển công nghiệp - những bộ phận có khả năng thu hút thêm lao động mới; (2)
chất lợng đội ngũ lao động. Lao động đợc đào tạo ở miền núi còn chiếm tỷ lệ khá
khiêm tốn15. Lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ở các tỉnh miền núi
chủ yếu là từ miền xuôi lên.

IV. Một số khuyến nghị
Để phát triển có hiệu quả cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị ở miền núi, phải giải quyết

đồng bộ nhiều vấn đề từ nhiều phía, nhiều cơ quan và nhiều cấp khác nhau. Dới đây xin nêu
một số khuyến nghị tổng quát.

IV.1. Nhận thức đúng đắn vị trí của miền núi và của phát triển cơ sở hạ tầng,
công nghiệp, đô thị ở miền núi; kết hợp hợp lý giữa mục tiêu kinh tế với mục
tiêu xã hội
Thật ra đây không phải là điều mới mẻ, song lại có ý nghĩa hết sức trọng yếu trong điều
kiện hiện nay. Phát triển kinh tế - xã hội miền núi dựa trên nền nhân bản, đạo lý của dân tộc
hớng theo mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Phát triển
miền núi không phải chỉ vì miền núi và cho miền núi mà vì cả nớc và cho cả nớc trên tất cả các
phơng diện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và môi trờng. Đó chính là địa bàn phòng hộ trọng
yếu có ảnh hởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của cả nớc.
Các nội dung của phát triển kinh tế - xã hội miền núi có quan hệ ràng buộc ớc định nhau,
trong nhiều năm tới, sản xuất nông lâm nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Song việc phát
triển các ngành này lại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp.
Bởi lẽ, trong phát triển kinh tế hàng hoá, chính cơ sở hạ tầng kỹ thuật là điều kiện tiên quyết để
mở rộng sự giao lu trao đổi hàng hoá và sự phát triển công nghiệp là điều kiện để bảo đảm hàng

hoá cho sản xuất và sinh hoạt của dân c, công nghiệp chế biến là hộ tiêu thụ hàng hoá lớn nhất
của nông, lâm nghiệp. Nhận thức đúng đắn vị trí của cơ sở hạ tầng và công nghiệp sẽ có định
hớng phát triển và cơ chế chính sách thích hợp thúc đẩy chúng xứng với vị trí cần có.
Trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi, sự kết hợp hợp lý giữa yêu cầu kinh tế và yêu cầu
xã hội chi phối trực tiếp định hớng phát triển, phân bổ các nguồn lực, xây dựng các dự án và
đánh giá kết quả đầu t. Rõ ràng là không thể nhìn nhận các vấn đề thuần tuý về mặt kinh tế,
cũng không thể biệt lập (thậm chí đối lập) vấn đề xã hội với các vấn đề kinh tế. Điều phức tạp
nhng hết sức cần thiết là kết hợp hợp lý giữa yêu cầu kinh tế với yêu cầu xã hội: giải quyết mỗi
vấn đề kinh tế phải tính đến những yêu cầu xã hội và tuân theo những ràng buộc xã hội nhất định;
ngợc lại, thực hiện mục tiêu xã hội phải tính đến khả năng kinh tế và yêu cầu về mặt kinh tế. Sự
kết hợp này ràng buộc cả những đầu t từ ngân sách và những đầu t ngoài ngân sách Nhà
14

Theo kết quả điều tra Lao động và việc làm năm 2000 của Tổng cục Thống kê, tỉ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành
thị ở Tây Bắc tăng nhẹ, tỉ lệ thời gian lao động đợc sử dụng ở Tây nguyên đạt mức 76,74% cao hơn mức bình quân
chung cả nớc (73,86%).

15

Theo tài liệu trên, trong khi tỉ lệ lao động qua đào tạo của cả nớc là 15,52%, thì tỉ lệ này ở Tây Bắc chỉ là 9,56%.

201


nớc. Nhà nớc với vai trò của mình cần cân nhắc cẩn trọng đầu t của mình và tạo môi trờng,
tạo cơ chế khuyến khích các nguồn đầu t khác trong việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội một cách hài hoà.

IV.2. Đổi mới việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển theo
quan điểm liên ngành, liên vùng theo yêu cầu phát triển bền vững
Trong điều kiện cơ chế thị trờng và sự phát triển vũ bão của tiến bộ khoa học và công

nghệ, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi ngành, mỗi vùng không mất đi vị trí quan
trọng của nó, song không thể xây dựng theo kiểu cũ coi mỗi địa phơng là một địa bàn độc lập,
quy hoạch đợc xây dựng có xu hớng khép kín hoặc chủ yếu xuất phát từ khả năng, không tính
toán đầy đủ tới nhu cầu của thị trờng.
Miền núi có những đặc trng rất riêng biệt về tự nhiên, kinh tế và xã hội, ở đó có những lợi
thế riêng và có những khó khăn trong việc phát huy lợi thế ấy. Tuy vậy, các địa phơng trong mỗi
vùng lại có những điểm tơng đồng nhất định, mỗi vùng là bộ phận không thể tách rời của một
quốc gia thống nhất. Bởi vậy, sự đổi mới quy hoạch phát triển miền núi phải thể hiện trên các mặt
chủ yếu sau đây:
Lấy vùng rộng làm đối tợng quy hoạch. Theo đó, ở Việt Nam có các vùng miền núi chủ
yếu là: vùng núi phía Bắc (gồm cả Tây Bắc, Việt Bắc và Đông Bắc); vùng Tây Nguyên
(gồm các tỉnh Tây Nguyên và vùng núi của các địa phơng lân cận); vùng núi Bắc
Trung Bộ.
Quy hoạch vùng đó là một trong những căn cứ quan trọng để các địa phơng xây dựng quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn hành chính - kinh tế.
Đặc biệt chú trọng các quan hệ liên tỉnh, quan hệ liên vùng trong định hớng phát triển cơ
sở hạ tầng, sản xuất công nghiệp và hệ thống các đô thị.
Chú trọng quan hệ liên ngành trong phát triển, không xem xét các ngành một cách biệt lập.
Đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, thúc đẩy hình
thành các cơ sở công nghiệp và các tụ điểm dân c.
Đánh giá đúng mức lợi thế của mỗi vùng và mỗi địa phơng và xác định những điều kiện
thực tế để khai thác lợi thế ấy. Việc khai thác lợi thế phải tính đến nhu cầu của thị
trờng.
Quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị là những bộ phận quan trọng
trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Khi xây dựng các quy hoạch bộ
phận này cần chú ý tới một số vấn đề sau đây:
Lựa chọn mục tiêu u tiên trong đầu t phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Theo mức độ tác
động tới khai thác nguồn lực, lợi thế, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và cải thiện
đời sống dân c, có thể sắp xếp các bộ phận của cơ sở hạ tầng kinh tế theo thứ tự: các
trục giao thông đờng bộ và hệ thống đờng nhánh nối tới trung tâm xã và hệ thống

đờng liên thôn liên bản; mạng lới điện trung thế và hạ thế, chú trọng trớc hết đến
các vùng đã và sẽ phát triển thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô

202


lớn; hệ thống thuỷ lợi giành u tiên cho xây dựng các hồ chứa nớc, các đập ngăn
nớc.
Lựa chọn mục tiêu u tiên phát triển các loại công nghiệp thích ứng với điều kiện từng vùng:
phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở những vùng nguyên liệu tập
trung, chuyển từ sơ chế nguyên liệu sang tinh chế ra sản phẩm cuối cùng cung cấp
cho tiêu dùng và cho xuất khẩu; mở rộng và đầu t chiều sâu cho các cơ sở khai thác
khoáng sản nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và tăng khả năng bảo vệ môi trờng;
phát triển công nghiệp thuỷ điện theo yêu cầu khai thác tốt nguồn thuỷ năng và giải
quyết tốt đời sống của đồng bào dân tộc phải di rời khỏi vùng lòng hồ; khuyến khích
phát triển công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp.
Đẩy nhanh nhịp đô đô thị hoá vùng miền núi trên cơ sở phát triển cơ sở hạ tầng và công

nghiệp, nâng cấp các đô thị hiện có và chú trọng công tác quản lý đô thị.
Trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền
núi phải chú trọng quán triệt yêu cầu phát triển bền vững: phát triển kinh tế trong mối quan hệ
tơng hỗ với phát triển xã hội, khai thác tài nguyên trong sự ràng buộc của việc bảo vệ môi
trờng. Theo yêu cầu bảo vệ môi trờng tự nhiên ở miền núi, trong phát triển cơ sở hạ tầng, công
nghiệp và đô thị cần thiết phải có các chiến lợc về bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên:
Chiến lợc bảo vệ môi trờng và tài nguyên đất: tránh những biến động về lý tính và hoá
tính của đất đai gây bất lợi cho sinh trởng và phát triển của các loài động vật và thực
vật; tránh tình trạng xói mòn, thoái hoá và sụt lở của đất đai; duy trì độ ẩm thích hợp;
hạn chế đến mức tối đa việc phát triển các loại công nghiệp sử dụng hoá chất độc hại
hoặc lạm dụng hoá chất trong sản xuất.
Chiến lợc bảo vệ môi trờng nớc: bảo tồn và tái tạo nguồn nớc ngầm và nớc bề mặt;

ngăn chặn tình trạng phá rừng bừa bãi để duy trì tác nhân tự nhiên giữ nớc, tránh lũ
lụt, hạn hán ở ngay miền núi và cho vùng xuôi; bảo vệ chất lợng nguồn nớc tránh ô
nhiễm nguồn nớc.
Chiến lợc bảo vệ môi trờng không khí: tăng khả năng điều hoà và làm sạch không khí
bằng thảm thực vật vốn hết sức giàu có ở miền núi; có các biện pháp hạn chế chất thải
khí ra môi trờng của một số loại sản xuất công nghiệp (chủ yếu là công nghiệp khai
thác và công nghiệp hoá chất).
Ngay từ bây giờ, khi môi trờng ở miền núi còn khá trong sạch, đã cần thiết phải giành sự
chú ý đúng mức đến các giải pháp về môi trờng trong quy hoạch xây dựng và phát triển cơ sở hạ
tầng, công nghiệp và đô thị ở miền núi. Mức đầu t cho môi trờng ngày hôm nay nếu có cũng sẽ
nhỏ hơn nhiều so với chi phí cho khắc phục hậu quả do không đặt vấn đề môi trờng một cách
đúng mức.

203


IV.3. Đào tạo nhân lực và có chính sách thu hút lao động phát triển kinh tế xã hội miền núi
Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam luôn đặt con ngời ở vị trí trung tâm, con
ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển. Quán triệt t tởng này vào xem
xét những vấn đề liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị miền núi, cần
nhấn mạnh tới một số mặt chủ yếu sau đây:
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác xoá mù chữ, từng bớc phổ cập giáo dục tiểu

học ở các thôn bản vùng sâu và vùng cao. Nội dung này nằm trong khuôn khổ của
việc nâng cao dân trí và tạo cơ sở để thực hiện yêu cầu đào tạo nhân lực. Đó là điều
kiện không thể thiếu để phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp tại miền núi.
Đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật từ chính đồng bào các dân tộc miền núi bằng hệ thống

trờng lớp tập trung do Nhà nớc đầu t và tài trợ, hoặc của các doanh nghiệp. Đội
ngũ lao động đợc đào tạo này là nguồn nhân lực tại chỗ cung cấp cho phát triển công

nghiệp.
Đào tạo đội ngũ cán bộ (công chức, quản lý kinh tế, chính trị). Ngoài việc bảo đảm nội dung

và phơng pháp đào tạo thích hợp với tâm lý và yêu cầu của cán bộ miền núi, cần chú
ý đổi mới phơng thức đào tạo (chú trọng những lớp ngắn ngày; tăng cờng phơng
thức tham quan trao đổi kinh nghiệm).
Những điều nhấn mạnh trên đây có liên quan đến đào tạo và bồi dỡng đội ngũ cán bộ và
công nhân tại chỗ. Trong khi nhấn mạnh vai trò và vị trí của đội ngũ lao động này cũng cần thấy
rằng lao động tại chỗ không đủ đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp ở miền
núi. Việc di chuyển lao động và dân số từ vùng khác, chủ yếu là từ vùng xuôi lên là yêu cầu tất
yếu. Các chính sách thích hợp của Nhà nớc và chế độ đãi ngộ thoả đáng của những ngời sử
dụng lao động sẽ tạo động lực thu hút lao động và giữ chân họ ở lại với miền núi.

IV.4. Đổi mới chính sách đầu t
Trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô cho phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp và
đô thị ở miền núi, chính sách đầu t giữ vị trí trọng yếu.
Việc đổi mới chính sách đầu t cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cho phát triển cơ
sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị miền núi cần quán triệt những t tởng cơ bản sau đây:
Đa dạng hoá các nguồn lực tài chính. Đành rằng với đặc điểm và vị trí của miền núi, đầu t

của Nhà nớc phải đợc coi là nguồn đầu t quan trọng hàng đầu, nhng trong điều
kiện nguồn lực tài chính của Nhà nớc còn hạn hẹp, Nhà nớc cần phải có chính sách
huy động đợc các nguồn đầu t ngoài Nhà nớc. Chính sách của Nhà nớc có tác
động trực tiếp đến huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính này.
Có sự "phân công" hợp lý giữa Nhà nớc và các chủ đầu t khác vào các mục tiêu đầu t
khác nhau. Đầu t của Nhà nớc cần đợc tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng,
trong đó u tiên hàng đầu là hệ thống trục đờng giao thông đến các trung tâm xã,
mạng lới điện, công trình thuỷ lợi, trờng học và trạm xá. Việc phát triển công nghiệp

204



thực hiện theo đờng lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, Nhà nớc đầu t xây
dựng các cơ sở công nghiệp then chốt, trọng yếu có quy mô lớn (thuỷ điện, khai thác
khoáng sản), động viên các nhà đầu t khác phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong các ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản, sản xuất hàng hoá tiêu dùng và
xuất khẩu. Việc xây dựng hạ tầng ở các đô thị miền núi, các đờng liên thôn, các công
trình thuỷ lợi thực hiện theo phơng châm "Nhà nớc và Nhân dân cùng làm"
Có chính sách khuyến khích tạo động lực mạnh mẽ thu hút các nguồn đầu t vào phát triển
cơ sở hạ tầng, công nghiệp và đô thị ở miền núi: chính sách u đãi về đất đai, chính
sách u đãi về tín dụng, chính sách u đãi về thuế. Ngoài ra, việc đơn giản hoá thủ tục
đăng ký kinh doanh cũng có sức hút với các nhà đầu t lên miền núi.
Quản lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đầu t, trớc hết là nguồn đầu t từ ngân
sách Nhà nớc và do nớc ngoài tài trợ, bảo đảm hiệu quả đầu t, ngăn chặn tình
trạng tham ô, biển thủ vốn đầu t./.

205


Ten years of infrastructure construction,
development and urbanization IN UPLAND REGIONS

industry

Associate Professor, Ph.D. Nguyen Ke Tuan,
Head of the Department of Construction and Industrial Management and Business,
National Economic University, Hanoi
Infrastructure development, industry development and urbanization are concrete indications
of the upland development level. Continuing the efforts in the previous periods, in the 10 years of
1990-2000, the State and upland people of Vietnam tried to promote infrastructure construction,

industry development, and formation of new urban areas. But the general view is still dim
compare with other areas. In general, these 3 upland regions are still slow in infrastructure
construction, industry development and urbanization. With regard to infrastructure construction
and industry development, there is obvious progress in the Northeast while urbanization in Tay
Nguyen is fastest, not only in comparison with other upland regions, but also with the whole
country. The Northwest is the weakest region in all the 3 fields above.

Assessment of the infrastructure status in 1999 shows that 3 upland regions are
at the bottom rank. Cars can only reach the center of 85%-95% of the communes,
and 55-68% of the hamlets, in these regions. Of these communes, 55-78% has
electricity, 95-98% has primary schools, and 96-99 % has health stations.
Regarding the value of industry production, while the national growth rate in 5
years (1995-2000) was 88.9%, the same rate in all 3 upland regions is lower: 66.5%
in the Northeast, 64.6% in the Northwest, and 55.6% in Tay Nguyen. Their absolute
value is even lower. The aggregate industry production value of 18 provinces in
these regions makes up merely 6.51% of the national value, equaling just one-fourth
of that of Ho Chi Minh City. Today, Tay Nguyen's urbanization growth is highest
compared to other regions as well as the whole nation (26,5% compared to 23.9%),
but this is not typical for all upland regions. The growth in the Northeast is only
17.5%, and the Northwest, 17.5%. Moreover, the majority of these urban residents
are Kinh people.
Positive progresses in the 3 fields above in upland regions are obvious.
However, some new problems have also arisen. The differences between these
regions and many other regions on development opportunities and conditions are
becoming larger; infrastructure construction, industry development and urbanization
in uplands are having stronger and worse influences on the local resources and
environment which have already been in a critical situation; industrialization and
modernization are threatening the ethnic and upland cultural identity and character.

206




×