Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bảo Vệ Môi Trường Và Phát Triển Bền Vững Và Những Vấn Đề Môi Trường Làng Nghề Tại Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.29 KB, 19 trang )

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TẠI HẢI PHÒNG
Sở Tài nguyên và Môi trường, Tháng 12/2012

I.

LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1. Nhu cầu tất yếu của phát triển bền vững
Cùng với sự phát triển kinh tế để đáp ứng sự phát triển xã hội của loài người, đã gây
ra những tác động mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên cũng như các hệ sinh thái trên trái
đất.
Từ những năm đầu của thập niên 60, các nhà sinh thái học đã kéo hồi chuông báo
động về nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và tình trạng suy thoái môi trường. Mối
quan tâm thật sự đối với các vấn đề môi trường bắt đầu nóng lên tại Hội Thượng đỉnh lần
thứ nhất (Stockholm, 1972) về môi trường và con người, là hành động đầu tiên đánh dấu
sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Một
trong những kết quả của hội nghị lịch sử này là sự thông qua bản tuyên bố về nguyên tắc
và kế hoạch hành động chống ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, Chương trình Môi trường
của Liên Hợp Quốc cũng được thành lập.
Năm 1987, Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới đưa ra Báo cáo
Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ "phát triển bền
vững", sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát
triển lâu dài.
Cùng với những vấn đề nhức nhối khác như hạn hán, lũ lụt, mưa axít, tình trạng ô
nhiễm không khí và nước, suy thoái ồ ạt tài nguyên đất, sự phá huỷ cảnh quan, sự mất đi
nhanh chóng nhiều loài động thực vật, sự suy giảm tầng ôzôn ở Nam Cực.v.v. đã là tiếng
chuông cảnh báo cho sự phát triển hiện nay. Nếu các Quốc gia không tìm được tiếng nói
chung để giải quyết \ những vấn đề nóng bỏng nói trên thì sự suy thoái môi trường sẽ dẫn
đến sự diệt vong của loài người.
Để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển,


nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực đến môi trường và tài
nguyên. Phát triển đương nhiên sẽ biến đổi môi trường, nhưng làm sao để môi trường vẫn
làm đầy đủ ba chức năng: đảm bảo không gian sống với chất lượng tốt cho con người,
cung cấp cho con người các loại tài nguyên cần thiết, tái xử lý các phế thải của hoạt động
của con người. Hay nói cách khác là giữ cân bằng giữa hoạt động bảo vệ môi trường và
phát triển kinh tế xã hội.
2. Khái niệm về phát triển bền vững
Theo Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển thì "Phát triển bền vững là phát
triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm thương tổn đến khả năng của các thế
hệ tương lai đáp ứng như cầu của bản thân họ"
3. Những nhân tố của phát triển bền vững
Phát triển hiện nay đã và đang được hiểu theo nghĩa phát triển bền vững, tức là cùng
với việc không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống con người phải bảo vệ các hệ sinh
thái thiên nhiên. Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa được 03 nhân tố: kinh tế, xã
hội và môi trường.
3.1. Nhân tố kinh tế:
Ở những nước công nghiệp hoá, việc tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn rất
nhiều so với các nước đang phát triển. Vì vậy ở những nước này, sự phát triển bền vững có
1


nghĩa là phải từ bỏ những mô hình tiêu thụ có nguy cơ đe doạ môi trường và ảnh hưởng
đến tính đa dạng sinh học.
Giữa nghèo nàn, thoái hoá đất, suy thoái môi trường và sự tăng nhanh dân số có
những mối liên hệ ràng buộc. Những dân tộc mà nhu cầu sơ đẳng chưa được thoả mãn thì
không thể nhận thức được sự cần thiết phải đầu tư cho tương lai của hành tinh và dĩ nhiên
họ chưa có điều kiện để quan tâm đến sự phát triển bền vững.
3.2. Nhân tố xã hội
Sự phát triển bền vững được biểu hiện bằng bình đẳng, tiến bộ trong xã hội, trong
một quốc gia và giữa các quốc gia.

3.3. Nhân tố môi trường:
Sự phát triển bền vững đòi hỏi bắt buộc phải bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phải sử dụng có hiệu quả hơn các loại đất trồng trọt và các nguồn nước, sử dụng các
công nghệ tiên tiến để tăng năng suất, tránh sử dụng qua mức các loại phân hoá học, thuốc
trừ sâu để hạn chế việc làm thoái hoá sông, hồ, không gây nhiễm độc thức ăn, nước uống
và tránh quảng canh trên đất dốc vì dễ có nguy cơ xói mòn nhanh chóng. Sự phát triển bền
vững đòi hỏi phải giảm mạnh và nếu có thể chấm dứt sự huỷ hoại hệ các sinh thái.
Phát triển bền vững còn đòi hỏi phải đề phòng sự mất ổn định khí hậu và các hệ sinh
- địa - lý toàn cầu và sự phá hoại tầng ôzôn bảo vệ trái đất do các hoạt động của con người
gây ra.
4 . 8 nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững:
Một xã hội có nền kinh tế và môi trường bền vững phải đảm bảo 8 nguyên tắc sau
đây:
Thứ nhất: Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng:
Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng, nói lên trách nhiệm phải quan tâm đến mọi
người xung quanh. Đó là một nguyên tắc đạo đức đối với lối sống. Điều đó có nghĩa là, sự
phát triển của nước này không làm thiệt hại đến quyền lợi của những nước khác cũng như
không gây tổn hại đến thế hệ mai sau. Chúng ta phải chia sẻ công bằng những phúc lợi và
chi phí trong việc sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, giữa những con người và giữa
thế hệ chúng ta với các thế hệ mai sau.
Thứ hai: Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người:
Mục đích cơ bản của phát triển là cải thiện cất lượng cuộc sống của con người. Mỗi
dân tộc có những mục tiêu khác nhau trong sự nghiệp phát triển, nhưng lại có một điểm
thống nhất. Đó là mục tiêu xây dựng một cuộc sống lành mạnh, có một nền giáo dục tốt,
có đủ tài nguyên đảm bảo cho cuộc sống không những cho riêng mình mà cho cả thế hệ
sau, có quyền tự do bình đẳng, được bảo đảm an toàn, mỗi thành viên trong xã hội có cuộc
sống ngày càng tốt hơn.
Thứ ba: Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất:
Sự phát triển trên cơ sở bảo vệ đòi hỏi phải có những hành động thích hợp, thận
trọng để bảo tồn chức năng và tính đa dạng của các hệ sinh thái. Đa dạng sinh học tích luỹ

trong hệ thống thiên nhiên của trái đất mà loài người chúng ta đều phải lệ thuộc vào nó.
Hệ thống này là những quá trình sinh thái đảm bảo sự nuôi dưỡng và phát triển sự sống, có
vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều chỉnh khí hậu, cân bằng nước và làm cho không
khí trong lành, điều hoà dòng chảy, cấu tạo và tái tạo đất màu phục hồi các hệ sinh thái.
Bảo vệ tính đa dạng sinh học có nghĩa là không chỉ bảo vệ tất cả các loài động vật, thực
vật trên hành tinh mà còn bao gồm cả gene di truyền có trong mỗi loài. Đa dạng sinh học
giữ vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp cũng như bảo
2


vệ môi trường, đồng thời góp phần nâng cao trí thức, thúc đẩy tiến tới một xã hội văn
minh.
Thứ tư: Giữ vững trong khả năng chịu đựng của Trái đất:
Mức độ chịu đựng của trái đất nói chung hay của một hệ sinh thái nào đó, dù là tự
nhiên hay nhân tạo, đều có giới hạn. Con người có thể mở rộng giới hạn đó bằng kỹ thuật
truyền thống hay áp dụng công nghệ mới để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhưng nếu
không dựa trên quy luật phát triển nội tại của tự nhiên thì thường phải trả giá đắt bằng sự
suy thoái, nghèo kiệt đa dạng sinh học hoặc suy giảm chức năng cung cấp. Các nguồn tài
nguyên không phải là vô tận mà bị giới hạn trong khả năng tự phục hồi của hệ sinh thái,
hoặc khả năng hấp thụ các chất thải một cách an toàn. Sự bền vững không thể có được nếu
mức độ dân số thế giới ngày càng tăng dẫn tới nhu cầu sử dụng các nguồn tài nguyên ngày
càng lớn, vượt quá khả năng chịu đựng của trái đất. Vì vậy:
+ Những người sống ở các nuớc có thu nhập cao, tiêu thụ nhiều tài nguyên cần phải
giảm bớt chi dùng và nên tiết kiệm.
+ Các Quốc gia giàu phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước nghèo.
+ Quản lý các nguồn tài nguyên một cách bền vững.
+ Thống nhất việc quản lý dân số và tiêu dùng tài nguyên.
+ Giảm bớt việc tiêu dùng quá mức và lãng phí tài nguyên.
+ Cung cấp thông tin, phương tiện chăm sóc y tế và kế hoạch hoá gia đình
+ Nâng cao dân trí, tiến hành các biện pháp để tất cả mọi người hiểu rằng khả năng

chịu đựng của trái đất không phải là vô hạn.
Thứ năm: Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân:
Việc thay đổi thái độ và hành vi của con người đòi hỏi phải có một chiến dịch tuyên
truyền, giáo dục đồng bộ, để mọi người ý thức được rằng: nếu con người có thái độ hành
vi đúng đắn với môi trường thiên nhiên thì con người sẽ được tận hưởng những vẻ đẹp của
thiên nhiên và chính bản thân thiên nhiên sẽ phục vụ lợi ích con người tốt hơn, lâu bền
hơn. Nhưng nếu con người có thái độ tàn nhẫn với thiên nhiên, thì sẽ gặp phải những bất
hạnh do chính bản thân mình gây ra. Vì lẽ đó, bất cứ kế hoạch hành động nào trong cuộc
sống cũng phải dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về môi trường.
Thứ sáu: Để cho cộng đồng tự quản lý môi trường của mình:
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở, không ai hiểu biết môi trường bằng dân bản địa. Khi
dân biết tự mình tổ chức cuộc sống bền vững trong cộng đồng của mình, họ sẽ có sức sống
mạnh mẽ cho dù cộng đồng của họ là giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn.
Một cộng đồng muốn được sống bền vững thì trước hết phải quan tâm bảo vệ cuộc
sống của chính mình và không ảnh hưởng đến môi trường của cộng đồng khác. Họ cần
biết cách sử dụng tài nguyên của mình một cách tiết kiệm, bền vững và có ý thức về việc
thải các chất phế thải độc hại và xử lý một cách an toàn, bảo vệ hệ thống nuôi dưỡng sự
sống và tính đa dạng của hệ sinh thái ở bản địa. Chính dân hoàn toàn có khả năng thực
hiện công việc qản lý môi trường sống của họ, nếu được giao đầy đủ quyền lực và trách
nhiệm. Tất nhiên Chính phủ cần phải quan tâm đến nhu cầu kinh tế và xã hội của họ cũng
như hướng dẫn họ, đồng thời phải có những hành động ưu tiên như cho phép cộng đồng có
thể điều khiển toàn bộ cuộc sống của mình bao gồm cả việc sử dụng tài nguyên, đồng thời
có trách nhiệm quản lý nguồn tài nguyên ở địa phương mình cũng như tham gia bàn bạc
thảo luận các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường chung, cho
phép cộng đồng sử dụng tài nguyên trong vùng thoả mãn một số nhu cầu trong cuộc sống,
tạo mọi điều kiện giúp đỡ cộng đồng bảo vệ môi trường sống của mình.
3


Thứ bảy: Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và

bảo vệ:
Một xã hội muốn bền vững phải xây dựng được một sự đồng tâm nhất trí và đạo đức
cuộc sống bền vững trong các cộng đồng. Chính quyền trung ương cũng như địa phương
phải có cơ cấu thống nhất về quản lý môi trường, bảo vệ các dạng tài nguyên. Muốn có
một cơ cấu quốc gia thống nhất, phải thống nhất kết hợp nhân tố con người, sinh thái và
kinh tế. Điều này rất quan trọng đối với việc xây dựng cuộc sống tốt đẹp về mọi mặt.
Thứ tám: Xây dựng một khối liên minh toàn cầu :
Muốn bảo vệ môi trường để phát triển bền vững chúng ta không thể làm riêng lẻ mà
phải có sự liên minh giữa các nước. Sự bền vững trong liên minh phụ thuộc vào các hiệp
ước quốc tế liên quan. Do đó, các quốc gia phải nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường chung trên trái đất, cần tham gia
ký kết và thực hiện các Công ước quốc tế về Phát triển ền vững..
5. Những thách thức của sự phát triển phát triển bền vững
5.1. Ô nhiễm tầng khí quyển:
Các chất làm ô nhiễm tầng khí quyển chủ yếu do 3 nguồn:
a- Khí thải của công nghiệp:
Trong khí thải của công nghiệp lượng khí thải lớn nhất là dầu hoả trong quá trình
cháy đã sinh ra khí CO2, CO, Nox, SO2. Mỗi năm lượng khí CO2 do con người đốt
nguyên liệu khoáng thể thải vào không khí là trên 5 tỷ tấn, đồng thời tốc độ tăng dần hàng
năm là 0,5%. Hàm lượng khí CO2 trong khí quyển của thế kỷ trước là 300ppm tăng dần
lên, dự tính đến năm 2000 sẽ là 365 - 380ppm. Ngoài ra, hàng năm công nghiệp còn thải
vào khí quyển 200 triệu tấn SO2, 150 triệu tấn oxit nitơ và 110 triệu tấn bụi phấn.
b- Khí thải gia đình:
Khí thải gia đình là một nguồn ô nhiễm không khí ở tầng thấp với lượng khí thải ra
rất lớn, diện phân bố rộng, có tính nguy hại nhiều, nhất là ở những thành phố lớn mà mật
độ dân số tập trung.
c- Khí thải của các xe có động cơ:
Các loại xe có động cơ đã thải vào trong không khí từ 150 - 200 loại hợp chất sunfua
và oxit nitơ, trong đó nguy hại nhất là khí CO, chì và các hợp chất sunfua... Khí oxit
cacbon trong không khí là 80% do ô tô thải ra.

* Tác hại của ô nhiễm không khí:
- Trước hết là “Hiệu ứng nhà kính” (sẽ trình bày ở phần sau) - Làm cho mức nước
biển dâng cao, vùng khí hậu sẽ chuyển dịch về hai cực Nam Bắc, dẫn tới việc làm đảo lộn
dòng khí quyển, tăng thêm hạn hán, lũ lụt, đem lại ảnh hưởng xấu lớn cho môi trường sinh
thái và xã hội.
- Khi quyển bị ô nhiễm không những làm giảm cơ năng sinh lý của thực vật mà còn
làm giảm sự sinh sôi của cây cối, biểu hiện chủ yếu là cây cối sinh trưởng chậm, sức đề
kháng sâu bệnh suy giảm.
- Khí quyển bị ô nhiễm có hại cho sức khoẻ con người chủ yếu thông qua 3 mặt: tiếp
xúc bề mặt, ăn và uống những chất ô nhiễm, hít thở không khí ô nhiễm, trong đó việc hít
thở phải những chất ô nhiễm là thường gặp nhất và cũng nguy hại nhất.
5.2. Nguy cơ về nước đối với cuộc sống
* Các nguyên nhân chủ yếu hình thành nguy cơ về nước:
a- Nguồn tài nguyên nước là có hạn: Nước trên trái đất, 96,5% là nằm trong các đại
dương, là nước mặn không thể dùng để uống hoặc để tưới cho cây trồng. Tổng lượng nước
4


trên thế giới là 1,4 tỷ km3, nhưng số nước ngọt có thể dùng được chỉ chiếm 2,53%, còn
đại bộ phận nước đóng băng dự trữ ở hai cực của trái đất. Trong lớp băng dầy đó, con
người chỉ có thể dùng được khoảng 0,35% tổng trữ lượng.
b- Nước phân bố không đều: Trong các châu lục của thé giới, lưu lượng của các dòng
sông ở Nam Mỹ là lớn nhất, chiếm 27% tổng lượng của thế giới, còn châu Phi, châu Âu và
châu Đại dương thì rất ít, chỉ bằng 11%, 11% và 5%. Vùng nhiệt đới châu Phi thì mưa
nhiều (lượng mưa hàng năm đạt 5000mm), còn ở vùng ả Rập thì khô hạn (lượng mưa hàng
năm thường bằng 0).
c- Lượng dùng nước ngày càng tăng:
Đầu thế kỷ này, dân số toàn cầu có khoảng 1,6 tỷ người. Dự tính đến năm 2000 sẽ là
6 tỷ người, tăng 3,75lần, như vậy lượng nước dùng sẽ tăng vọt.
Cuối thế kỷ này, lượng nước dùng cho công nghiệp tăng 20 lần, dùng cho nông

nghiệp tăng 7 lần, dùng cho sinh hoạt tăng gấp 10 lần.
Dân số tăng nhanh và lượng nước dùng ngày càng nhiều sẽ làm cho lượng nước bình
quân đầu người gaỳ càng giảm.
d- Con người gây ra ô nhiễm cũng là một nguyên nhân rất cơ bản của nguy cơ về
nước, làm cho nguồn tài nguyên này vốn đã rất hạn chế nay lại càng thêm thiếu hụt.
Theo dự đoán của Liên Hiệp Quốc thì cuối thế kỷ này, lượng nước bình quân đầu
người toàn cầu sẽ giảm 24%,từ 3000m3 xuống còn 2280m3. Hiện nay trên thế giới có hơn
100 quốc gia và khu vực thiếu nước với mức độ khác nhau, trong số đó có 43 quốc gia
thiếu nước nghiêm trọng, các vùng thiêu nước trên trái đất chiếm tới 60% diện tích châu
lục.
5.3. Ô nhiễm đại dương:
Nước của đại dương trên trái đất luôn luôn bị ô nhiễm bởi các chất phế thải do các
dòng sông, bờ biển đổ rác rưởi xuống, như lời của Brazin Aotit, học giả người Anh đã nói:
các đại dương đang trở thành một thùng rác của trái đất.
* Những chất chủ yếu làm cho các đại dương bị ô nhiễm :
- Thuốc hoá học hữu cơ như ĐT, hợp chất có gốc Clo và Benzen (PCBS) và HCB...
Chúng theo nước bẩn, không khí và các chất khác chảy vào đại dương, tích tụ trong cơ thể
các loài cá và động vật biển làm cho biển mất cân bằng sinh thái.
- Các kim loại nặng như kẽm, đồng, thạch tín, selen, crôm, cadmium, thuỷ ngân ,
chì... trong đó thuỷ ngân là nguy hại nhất. Thuỷ ngân trong nước biển, duới tác động của
mọt số vi sinh vật có thể chuyển hoá thành thuỷ ngân có gốc kali. Hợp chất này dễ tan
trong mỡ, ngấm vào trong tế bào của sinh vật và ức chế hoạt tính của các tế bào. Theo dự
báo, đến năm 2000, trong lớp nước dày 100m của bề mặt đại dương, nồng độ của thuỷ
ngân sẽ tăng thêm 30%.
- Các chất phóng xạ nhân tạo. Các chất phóng xạ được thải vào biển chủ yếu là các
chất phóng xạ mà con nguời dùng trong sản xuất. Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, đến
năm 2000 tổng lượng chất phóng xạ có trong đại dương sẽ tăng lên rõ rệt so với năm 1970,
trong đó chất thoát biến và chất phóng xạ sẽ tăng gấp 100 lần, chât triti (hydro siêu nặng)
sẽ tăng gấp 1000 lầ.
- Dầu mỏ: Theo thống kê, từ 1970 - 1990, toàn cầu đã xảy ra hơn 1000 sự cố để rò rỉ

dầu. Mỗi năm số dầu bị rò rỉ trong quá trình vận chuyển, bị phun ra từ các giếng khai thác
đổ vào các đại dương từ 5 đến 10 triệu tấn, số dầu của các xí nghiệp công nghiệp mỗi năm
đổ xuống biển và dòng sông từ 3 đến 5 triệu tấn. Những dầu đó chìm trong các vịnh, nơi
ẩm ướt, vùng đầm lầy gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sinh tồn và sinh sản
của động vật biển.
5


- Nước thải sinh hoạt: Hàng ngày đại dương chứa đựng tất cả nước bẩn của các thành
phố, các nông trường, nhà máy...Trong nước bẩn này có chứa một lượng lớn các hợp chất
của cacbon va thuỷ ngân, chât anbumin, chất béo, chất hữu cơ của gỗ. Nó cung cấp cho
cac loài thực vật biển những chất dinh duỡng cần thiết cho sự sinh trưởng nhưng lại quá
liều lượng, làm cho thực vật biển phát triển mạnh, uy hiếp nghiêm trọng các động vật phù
du và các loại cá, thậm chí làm cho chúng chết vì bị ngạt thở; đồng htời, sau khi các chất
hữu cơ phân giải đã hình thành một lượng lớn chất dinh dưỡng, khiến cho các loài tảo phat
triển nhanh chóng, gây thành “thuỷ triều đỏ” nguy hại đến đời sống của các loài tôm, cua,
ốc.
- Nước thải công nghiệp: Hàng năm thế giới thải vào đại dương hàng trăm tỷ tấn
nước phế thải, làm cho các khu vực gần bờ biển đều bị nhiễm bẩn. Phần lớn các chất ô
nhiễm, nhât là các chất khó phân giải chìm ngay tại chỗ, đe doạ sự cân bằng sinh thái của
biển làm cho sinh vật biển bị bệnh, thậm chí bị diệt vong
- Chất thải rắn: Mỗi năm thế giới thải xuống biển 650 triệu tấn rác bao gồm cả rác
thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp, làm cho một số cá lớn, rùa biển và những động vật
có vú chết vì vướng phải hoặc ăn nhầm các chât dẻo.
- Mất cân bằng sinh thái: do khai thác quá lượng cho phép, nhanh chóng làm cho tài
nguyên biển bị suy giảm, đe doạ sự diệt chủng của một số loài như sư rử biển, gấu bắc
cực, bò biển...
5.4. Biến đổi khí hậu
Nhiều biểu hiện của biến đổi khí hậu và trái đất; tan băng và mực nước biển dâng cao
do băng tan, ngập úng các vùng đất thấp và các đảo nhỏ trên biển; sự di chuyển của các

đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất, đe doạ sự sống
của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người; sự thay đổi cường độ
hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và
các chu trình sinh địa hoá khác; sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất
lượng và thành phần của hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh
quyển, địa quyển; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
II. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG HẢI PHÒNG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Hải Phòng là thành phố cảng biển quốc tế, đô thị loại 1 cấp quốc gia có tính đặc thù
cao (có biển, có rừng). Với hệ thống hạ tầng giao thông thuận lợi về đường biển, đường
bộ, đường sắt, đường hàng không và đường thủy, Hải Phòng được xác định là cửa chính ra
biển của Miền Bắc Việt Nam và của 2 tuyến hành lang, 1 vành đai hợp tác kinh tế giữa
Trung Quốc và Việt Nam. Hải Phòng còn có nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học và đào
tạo nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển hàng đầu cả nước và là nơi tập trung nhiều
ngành kinh tế biển mũi nhọn như công nghiệp đóng tàu, công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng, chế biến thủy sản, dịch vụ cảng , vận tải biển và du lịch.
Trong những qua, bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội đã đạt được, Hải
Phòng đang đối mặt với tình trạng suy giảm về môi trường, ô nhiễm môi trường ngày càng
trở nên nghiêm trọng. Hiện trạng môi trường HP những năm gần đây có thể được khái
quát qua 11 môi trường thành phần đặc trưng.
1. Về môi trường đất:
Hải Phòng là địa phương có quỹ đất ít, tổng diện tích tự nhiên là 151.919 ha, bình
quân khoảng 905 m2/người, và có xu hướng giảm do dân số tăng và nhu cầu đất chuyên
6


dùng tăng. Nguồn tài nguyên đất chưa được khai thác, sử dụng có hiệu quả đặc biệt là đối
với đất dốc (đất đồi núi); năng suất trung bình của các loại cây trồng chính còn thấp.
Bên cạnh đó, sự phân bố dân cư chưa hợp lý, tập trung chủ yếu ở đô thị. Đất đô thị
bình quân khoảng 264 m2/người và ngày càng giảm dần. Thoái hoá đất là xu thế phổ biến

đối với nhiều vùng rộng lớn do phương thức canh tác lạc hậu, do việc lạm dụng hoá chất
và các loại thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, canh tác không đúng kỹ thuật gây ô
nhiễm và suy thoái nhiều vùng đất. Những kỹ thuật tiến bộ, thân thiện với môi trường
chưa được phổ biến và áp dụng rộng rãi trong sản xuất nông, lâm và ngư nghiệp.
2. Về môi trường nước:
Các sông Đa Độ, sông Rế và sông Giá là những nguồn cung cấp nước ngọt chính cho
thành phố với trữ lượng nước 21.077.300 m3 và được cung cấp liên tục từ hệ thống sông
thượng nguồn.
Hiện nay chất lượng nguồn nước bị nhiễm mặn, nhiễm phèn và có độ cứng cao, có
hàm lượng chất hữu cơ, dầu, quá tiêu chuẩn cho phép do nước thải đồng ruộng mang theo
dư lượng hoá chất của thuốc bảo vệ thực vật, phân đạm, do nước thải công nghiệp, đô thị
và từ các hoạt động giao thông thuỷ gây ra. Nước sông Rế, sông Giá hiện có dư lượng hoá
chất bảo vệ thực vật, đặc biệt tích luỹ cao trong trầm tích đáy sông.
Ô nhiễm dầu trong môi trường nước mặt ở vùng cửa sông ven biển Hải Phòng đã
vượt tiêu chuẩn cho phép và chủ yếu do các hoạt động giao thông thuỷ gây ra.
Việc khai thác nước ngầm ở một số khu vực nội thành, ngoại thị đã gây nên hiện
tượng hạ nhanh mực nước ngầm, làm giảm lưu lượng và làm ô nhiễm nguồn nước.
3. Về môi trường không khí:
Môi trường không khí bị ô nhiễm chủ yếu ở khu vực nội thành do hoạt động công
nghiệp, giao thông và sinh hoạt. Các chỉ tiêu bụi đang xấp xỉ ở mức tiêu chuẩn cho phép,
một số khu vực đã có nồng độ bụi vượt quy chuẩn Việt Nam về môi trường.
Ô nhiễm khí độc hại và tiếng ồn có tính cục bộ, chủ yếu tại các nút giao thông chính
của thành phố. Trong tương lai, mức ô nhiễm do sinh hoạt sẽ được giảm xuống cùng với
sự tăng mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm do công nghiệp và giao thông
có xu hướng gia tăng nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá.
Môi trường không khí vùng nông thôn, các khu du lịch, vùng ven biển và hải đảo của
thành phố nhìn chung còn chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm.
4. Về rừng và độ che phủ của thảm thực vật:
Hải Phòng có tổng diện tích rừng là 17.998,7 ha, trong đó: rừng đồi núi là 12.527 ha,
rừng ngập mặn: 2.253 ha và rừng ven sông là 710 ha. Hiện nay, diện tích rừng đang bị

biến động, cả về số lượng loài do cây rừng chết tự nhiên hoặc chuyển mục đích canh tác.
Tỷ lệ che phủ rừng trên đất đai tự nhiên đạt 28,8%, và độ che phủ bình quân là 0,15m2 /
người. Rừng tự nhiên tập trung chủ yếu trên đảo Cát Bà, phổ biến là thực vật tự nhiên
sống trên núi và các thung lũng đá vôi. Vườn Quốc Gia Cát Bà thuộc loại hình rừng tự
nhiên, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như Lát hoa, Trai Lý, Chò Đài, Kim
Giao, Độc Nếp.
Thực vật biển: ở Hải Phòng chủ yếu tập trung ở một số bộ rong tảo, rong câu và
thực vật phù du, trong đó có các loài thực vật biển có giá trị kinh tế cao như các loài rong
câu, phân bố trên khu vùng triều giữa và độ sâu từ 0-1m. Hàm lượng Agar trong rong câu
ở Đình Vũ và huyện Tiên Lãng tương đối cao. Sự suy thoái đa dạng sinh học ở Hải Phòng
gần đây đã đến mức báo động. Nguyên nhân là do môi trường sống của sinh vật bị biến
đổi, bị ô nhiễm, bị săn bắt trái mùa, bằng các phương tiện huỷ diệt, khai thác trái phép các
động, thực vật quí hiếm.
7


Về động vật: có 28 loài thú, 37 loài chim và 20 loài bò sát lưỡng cư. Có 186 loài và
phân loài chim. Khu hệ chim ở Hải Phòng thể hiện tính đa dạng về cấu trúc, thành phần
loài, đa dạng về sự phân bố theo sinh cảnh. Khu vực núi Đấu, Kiến An đang là nơi tập
trung khoảng 5 loài vạc về cư trú, sinh sản và đang phát triển (tuy nhiên do nạn săn bắt
bẫy lưới theo hướng di chuyển của đàn từ phía An Hồng –An Dương đã làm số lượng đàn
chim suy giảm đáng báo động).
Hải sản đa dạng và phong phú với khoảng 105 họ, số họ có từ 5 loài trở lên khoảng
20%. Tôm ở vùng biển Hải Phòng có nhiều loài như tôm he, tôm hùm, tôm gỗ, tôm sú,
tôm nương, trong đó tôm he là chủ yếu. San hô ở vùng biển Hải Phòng gồm khoảng gần
150 loài, phân bố ở vùng biển Cát Bà, Bạch Long Vỹ. Các rạn san hô này đang bị đe doạ
khai thác bừa bãi làm nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ, một phần bị chết do hậu
quả của các lồng bè nuôi bào ngư (đã phủ lớp cát dày trên lớp san hô).
5. Về khoáng sản:
Tiềm năng khoáng sản ở Hải Phòng khá đa dạng, gồm một số loại khoáng sản như:

sa khoáng Titan - Ziriconi, đá vôi xây dựng, đá vôi ốp lát, phốt pho rit, silic hoạt tính, sét...
Đá vôi xây dựng có trữ lượng lớn nhất, ước tính vào khoảng 500 triệu tấn, sét vào khoảng
65 triệu m3, các loại khoáng sản khác đều có trữ lượng nhỏ, không đáp ứng như cầu khai
thác. Các bãi cát lớn như cát sông Đá Bạc, cửa Nam Triệu, nam đảo Đình Vũ, cửa Cấm
chủ yếu là cát đen, lượng cát vàng rất hiếm.
Nhìn chung, các vùng khai thác hầu như chưa được hoàn nguyên môi trường và xử lý
đất, đá thải nên đã ảnh hưởng đến môi trường nghiêm trọng.
6. Về môi trường công nghiệp:
Tốc độ công nghiệp hoá thời gian qua ở Hải Phòng tương đối nhanh. Năm 2000 có
10.094 cơ sở, đến năm 2002 có 11.606 cơ sở, trong đó cơ sở ngoài nhà nước chiếm xấp xỉ
90%.
Các cơ sở công nghiệp đầu tư trong nước nhìn chung có quy mô nhỏ, công nghệ sản
xuất của các cơ sở công nghiệp cũ rất lạc hậu. Đến nay chỉ có khoảng 10,2% cơ sở công
nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ. Đây chính là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng, nhất là các cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong các khu dân cư nhiều năm nay bị khiếu
kiện vì gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm do nước thải ra khu vực xung quanh. Trong 6
khu/cụm công nghiệp thì chỉ có khu công nghiệp NOMURA đã xây dựng hoàn chỉnh hạ
tầng kỹ thuật và hệ thống xử lý nước thải tập trung công suất 10.800 m 3/h, KCN Đình Vũ
và Đồ Sơn mới xây dựng được 01 modul côn suất 2.500 m 3//h,. Các cụm công nghiệp mới
chỉ có CCN Vĩnh Niệm và Tân Liên đã XD khu xử lý nước tập trung nhưng vẫn chưa đưa
váo vận hành, xử lý. Các KCN và CCN còn lại chưa xây dựng khu xử lý nước tập trung.
7. Về môi trường đô thị:
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị còn rất yếu kém, đang bị quá tải nghiêm trọng. Tình
hình môi trường nước đô thị vẫn đang là vấn đề nan giải.
Khu vực nội thành, nước mưa, nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp được
thoát chung qua một hệ thống với các loại đường ống được xây dựng từ trước năm 1954.
Hiện trạng chất lượng của hệ thống thoát nước nội thành còn chưa đáp ứng yêu cầu tiêu
thoát nước do chưa được bảo dưỡng, sửa chữa đầy đủ, thường xuyên bị ngập lụt ở nhiều
nơi do hệ thống thoát nước đã quá tải. Do không được xử lý nên nước thải nội thành rất
bẩn cùng với lượng bùn ga cống trực tiếp gây ô nhiễm cho nguồn nước tiếp nhận tại các

hồ, ao, kênh, mương thuỷ lợi và các con sông xung quanh khu vực nội thành. Diện tích các
hồ điều hoà đang bị thu hẹp dần do bị lấn chiếm, bị bồi lắng không được khai thông. Hiện
nay, thành phố vẫn chưa có trạm xử lý nước thải đô thị tập trung.
8


Chất thải rắn phát sinh trong khu vực đô thị khoảng 1.100 m 3/ngày, được thu gom và
đổ ra bãi rác của thành phố. Biện pháp xử lý chất thải rắn chủ yếu là chôn lấp nhưng
không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường. Chất thải bệnh viện khoảng 10
m3/ngày (4,5 - 5 tấn / ngày) trong đó chất thải độc hại chiếm khoảng 20%. Rác thải bệnh
viện mới có một số bệnh viện lớn (Việt Tiệp, Phụ Sản, Nhi Đức, Kiến An, Lao và bệnh
Phổi ) được phân loại, thu gom và chuyển giao cho Công ty TNHH MTV môi trường đô
thị HP vận chuyển và xử lý đốt tại lò thiêu Tràng Cát, các bệnh viện khác chưa được thu
gom, xử lý đúng quy định (tự xử lý hoặc đổ ra bãi rác chung cùng với chất thải sinh hoạt,
tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch bệnh). Phần lớn các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý
nước thải(trừ BV Việt Tiệp, Ngô Quyền, Kiến An). Có thể nói, cho đến thời điểm hiện
nay, thành phố vẫn chưa quản lý triệt để được chất thải bệnh viện. Ngoài ra, do đặc thù là
thành phố cảng, hàng năm đô thị Hải Phòng còn phải đối mặt với một lượng chất thải rắn
từ các hoạt động cảng như dầu cặn khoảng 3000-5000tấn / năm, hiện mới chỉ thu gom
được xấp xỉ 900 - 1000 tấn /năm (20 -30%), hoặc hàng tạm nhập tái xuất nhưng không
xuất được do chủ hàng từ chối, bỏ hàng đặc biệt nghiêm rọng đối với mặt hàng thực phẩm
đông lạnh..
8. Về môi trường nông thôn, khu du lịch:
Khu vực nông thôn có mật độ cây xanh, hoạt động công nghiệp còn thấp. Chất lượng
môi trường không khí vùng nông thôn còn chưa bị ô nhiễm. Tuy nhiên nước sinh hoạt
nông thôn hiện nay đã trở thành một vấn đề bức xúc. Việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật,
phân hoá học đã và đang cục bộ gây ô nhiễm nguồn nước, đất, làm gia tăng dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật trong nông sản thực phẩm, gây nhiễm độc và ngộ độc cho người sử
dụng. Việc quản lý thuốc bảo vệ thực vật chưa chặt chẽ, kiểm tra và hướng dẫn sử dụng
chưa đầy đủ, thuốc nhập lậu chưa kiểm soát nổi.

Việc nuôi trồng thuỷ sản cũng gây ảnh hưởng đến môi trường, gây suy thoái rừng
ngập mặn; phương thức nuôi có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất là nuôi thâm
canh với mật độ vật nuôi thả dầy và sử dụng nhiều thức ăn. Lượng thức ăn dư thừa, chất
thải vật nuôi tích tụ dưới đáy ao, đầm cùng với việc quản lý ao nuôi kém, thiếu các biện
pháp xử lý môi trường, là nguyên nhân gây nên sự bùng nổ về dịch bệnh cho các vật nuôi (
đặc biệt là nạn thủy triều đỏ đã xuất hiện nhiều lần/năm do phù dưỡng thức ăn, chất hữu
cơ trong nuôi trồng thủy sản).
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề vùng nông thôn của Hải Phòng đang
là vấn đề nghiêm trọng do công nghệ sản xuất rất lạc hậu, thủ công là chính, quy mô sản
xuất nhỏ, phân tán, nằm xen kẽ trong dân cư và hầu hết là không có hệ thống xử lý nước
thải và khí thải. Điển hình là làng nghề Mỹ Đồng- huyện Thuỷ Nguyên chuyên đúc các
mặt hàng như chân máy khâu, nồi gang, cối, tượng.
Nước sinh hoạt ở nông thôn Hải Phòng đã có những tiến bộ đáng kể, trên 90% tổng
số dân nông dân được sử dụng nước sạch. Các khu du lịch Đồ Sơn, Cát Bà, Núi Voi với
các loại hoạt động dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng, mật độ người tại đây tăng rất cao
vào mùa hè đã nảy sinh một vấn đề bức xúc về rác thải đô thị và du lịch. Rác thải từ trên
bờ, dầu mỡ thải từ các tàu thuyền đánh bắt hải sản trong khu vực làm giảm chất lượng
nguồn nước, hoạt động du lịch quá tải về mùa hè đang gia tăng sức ép lên môi trường và
tài nguyên.
9. Về môi trường cảng, vùng cửa sông ven biển:
Chất lượng nước vùng cửa sông ven biển Hải Phòng đã có những dấu hiệu báo động:
Độ đục khu vực trong mùa lũ khá lớn, tăng lên rất rõ trong thời gian qua ở khu bãi tắm Đồ
Sơn và vùng Đông Nam Cát Bà. Khu vực biển Hải Phòng nhìn chung chưa bị ô nhiễm hữu
9


cơ. Sự nhiễm bẩn dầu chủ yếu tại các cảng, bến bãi và dọc theo tuyến luồng giao thông.
Nguyên nhân do rác thải, nước thải từ hệ thống nước thải nội thành, nước thải khu du lịch
không qua hệ thống xử lý. Rò rỉ dầu và chất thải rắn do các hoạt động giao thông đường
thuỷ ngày càng nhiều và chưa quản lý được, ngoài ra còn có lượng dầu tràn do các sự cố

đắm tàu.
Hoạt động phá dỡ tàu cũ đang ngày càng gia tăng với nhiều chủng loại tàu được phá
dỡ. Phương pháp phá dỡ hầu hết là thủ công. Chất thải từ hoạt động này chứa nhiều chất
dễ cháy, nổ, chất thải độc hại. Hầu hết các bến bãi phá dỡ không có hệ thống xử lý nước
thải, thậm chí không có cầu cảng, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, đất. Hoạt động
này hiện nay gần như là tự phát do nhu câu về nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp thép.
Thành phố đã có văn bản hạn chế cấp phép hoạt động cho một số loại hình, lĩnh vực, trong
dó có loại hình phá dỡ tàu cũ.
Hoạt động chuyển tải xăng dầu tại Bạch Đằng 8, vịnh Lan Hạ là khu vực nhạy cảm
môi trường đang có xu thế gia tăng. Khu vực Lan Hạ gần như không có cơ sở hạ tầng cho
hoạt động dịch vụ cảng, càng không có các phương tiện phòng chống sự cố dầu tràn.
Những hoạt động này tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố, tai biến môi trường rất nghiêm trọng.
10. Về môi trường lao động:
Trình độ công nghệ của công nghiệp Hải Phòng còn thấp, máy móc, thiết bị cũ kỹ và
thiếu hệ thống xử lý ô nhiễm, vì vậy, môi trường lao động hiện đang không đảm bảo theo
tiêu chuẩn an toàn lao động. Công tác an toàn, trang bị thiết bị bảo hộ lao động được nhiều
đơn vị quan tâm nhưng chưa thoả đáng, đặc biệt những cơ sở có phát thải chất thải độc hại
chưa đảm bảo môi trường an toàn để tái tạo sức sản xuất cho người lao động.
11. Về sự cố môi trường:
- Tràn dầu: Hải Phòng có 14 cảng. Các cảng chiếm trên diện tích lớn của khu vực
cửa sông đã gây nên hàng loạt các vấn đề về môi trường nguy hiểm nhất vẫn là sự cố tràn
dầu do những vụ đắm tàu, bơm nước la canh trong khu vực cảng. Thành phố chưa có kế
hoạch ứng cứu tràn dầu, chưa đầu tư phương tiện ứng cứu ( hiện mới chỉ có thiết bị của
Công ty 128 Hải quân, thuộc Ủy ban tìm kiếm cứu nạn, ứng phó sự có tràn dầu có thiết bị,
phương tiện chuyên dùng).
- Rò rỉ và tồn đọng hoá chất độc hại: Các sự cố môi trường do rò rỉ hoá chất công
nghiệp xảy ra trên địa bàn thành phố không nhiều, nhưng đã để lại những hậu quả cho môi
trường và xã hội. Điển hình là vụ nổ kho xăng dầu K31 Thuỷ Nguyên.
- Ô nhiễm môi trường tại bãi rác Tràng Cát: Bãi rác Tràng Cát gây ô nhiễm môi
trường nước, không khí (mùi khó chịu) do không tuân thủ yêu cầu kỹ thuật của bãi chôn

lấp chất thải. Cho đến nay vẫn chưa xử lý được.
III.

MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TẠI HẢI PHÒNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG

III.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TẠI HẢI PHÒNG
1. Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề tại Hải Phòng
Lịch sử làng nghề tại Hải Phòng đã có từ lâu đời, như làng tạc tượng Bảo Hà, huyện
Vĩnh Bảo từ thế kỷ thứ 10, làng đan tre Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên đã trên 400 năm,
làng chiếu cói Lật Dương, huyện Tiên Lãng từ thế kỷ 17, làng đúc kim loại Mỹ Đồng,
huyện Thủy Nguyên đã trên 200 năm. Hải Phòng đã từng tồn tại 60 làng nghề với 20 loại
hình khác nhau.
10


Hiện nay, Hải Phòng có 31 làng nghề đang duy trì và phát triển với 17 làng nghề
truyền thống và 14 làng nghề mới, thuộc 25 xã, phường, thị trấn với 11 loại hình nghề
khác nhau như: Chế biến nông sản thực phẩm; rèn đúc kim loại; thủ công mỹ nghệ; sản
xuất vật liệu xây dựng; mây tre đan; gốm sứ….. Các làng nghề thu hút khoảng 10.700 hộ
và 66 cơ sở tham gia sản xuất. Tổng lao động khoảng 24.100 người. Giá trị sản xuất đạt
trên 250.000 triệu đồng.
2. Thực trạng làng nghề Hải Phòng
Các làng nghề đại bộ phận nằm xen kẽ với khu dân cư, quy mô sản xuất chủ yếu là
hộ gia đình, công nghệ và kỹ thuật sản xuất lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, sản xuất mang tính tự
phát, gặp khó khăn về vốn, đầu ra sản phẩm phụ thuộc nhiều vào nhu cầu thị trường. Quan
hệ sản xuất nhỏ và trình độ lao động thấp, là tồn tại lớn nhất ở các làng nghề hiện nay và
sản xuất càng phát triển thì nguy cơ lấn chiếm khu vực sinh hoạt càng cao. Các hoạt động
sản xuất kinh doanh tại làng nghề đã gây ra những ảnh hưởng xấu tới môi trường, tác động
tới sức khoẻ người lao động và cộng đồng, những xung đột môi trường đã xuất hiện ở các

làng nghề do ô nhiễm môi trường gây ra. Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động gần
như không có.
Một biểu hiện dễ thấy trong các làng nghề là không gian sản xuất chật hẹp, liền kề
với nơi sinh hoạt hàng ngày nên càng có nguy cơ gây ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe của người lao động và xung quanh. Các bệnh tật của người dân sống trong vùng làng
nghề thường cao hơn các làng thuần nông. Những bệnh mà người dân làng nghề thường
gặp phải là các bệnh liên quan đến đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài
da.
Một tồn tại rất lớn nữa của làng nghề là trình độ lao động thấp, chính điều này đã làm
hạn chế về năng suất và sản lượng cũng như nhận thức về vấn đề môi trường. Ngoài ra còn
một số vấn đề như: quan hệ sản xuất bị ràng buộc bởi quan hệ dòng tộc, làng xã; công
nghệ sản xuất và thiết bị kỹ thuật lạc hậu.
3. Áp lực môi trường từ các hoạt động của các làng nghề tại Hải Phòng
Theo thống kê đánh giá của viện khoa học Thủy lợi (Bộ nông nghiệp-Phát triển nông
thôn) cho thấy: Chất thải rắn phát sinh từ các Làng nghề, chế biến nông sản thực phẩm,
dược liệu khoảng 55%, tái phế liệu 22%; đúc kim loại, vật liệu xây dựng 11%; ươm tơ dệt
vải 7-8%; các nghề khác khoảng 1-3%. Trong chăn nuôi chất thải rắn từ trâu, bò khoảng
10-15kg/ngày; lợn 2-3kg/ngày; gà vịt khoảng 0,1kg/ngày. Khối lượng vỏ bao thuốc bảo vệ
thực vật tồn lại khoảng 15%. Rác thải sinh hoạt còn tồn khoảng 1m3/hộ/tháng.
Dựa theo đặc thù sản xuất của từng loại nghề, mỗi làng nghề ảnh hưởng đến môi
trường ở mức độ khác nhau, có thể phân loại theo 09 nhóm ngành nghề như sau:
Nhóm 1: Chế biến nông sản: sản xuất bún, bánh đa, chế biến cau khô
Là loại hình cổ xưa nhất, thường sản xuất theo quy mô hộ gia đình, sản xuất ra các
sản phẩm phục vụ tiêu dùng chủ yếu của cư dân trong vùng.
Do đặc thù của ngành chế biến là dùng nhiều nước nên lượng nước thải ra là tương
đối nhiều, nước thải ra của làng nghề thường chứa nhiều chất hữu cơ, dễ phân hủy sinh
học. Các chỉ số BOD5, COD, Nitơ tổng, chất rắn lơ lửng TSS đều cao. Các loại nước thải
này thải thẳng ra nguồn tiếp nhận nên nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước mặt là khá lớn.
Ô nhiễm mùi do quá trình phân hủy kỵ khí nước thải hoặc bã thải gây ra tạo ra các
khí ô nhiễm như H2S (sunfua hydro), NH3 (amoniac),..Ngoài ra, phần lớn chế biến nhiệt

dùng tới nguyên liệu hóa thạch như than sẽ sinh ra các loại khí độc như CO 2, CO, SO2,
NOx,các loại khói, khí độc thường không được xử lý. Đây chính là yếu tố gây ô nhiễm
không khí xung quanh.
11


Do các ảnh hưởng gây ô nhiễm nước mặt và khí thải nói trên nên khu vực làng nghề
phát sinh nhiều loại bệnh như đau mắt, bệnh hô hấp, bệnh ngoài da
Nhóm 2: Sản xuất mỹ nghệ: Sơn mài, tac tượng, làm mộc cao cấp , làm gốm, sứ
Loại hình sản xuất này có nhiều nguy cơ gây ô nhiễm nước và không khí, cụ thể như
sau:
Nước thải từ việc sản xuất các ngành này có các thông số TSS, COD, ion kim loại
nặng cao và đặc biệt có Phenol, dung môi hữu cơ.
Không khí sẽ có đặc ô nhiễm bởi hơi dung môi hữu cơ, các khí thải từ các lò gốm sứ
là các khí NO2, CO2, SO2. Ô nhiễm môi trường tập trung chủ yếu là ô nhiễm bụi cơ học,
hơi hóa chất. Ví dụ như quá trình bào, đánh ráp, cưa, xẻ trà, mài làm phát sinh rất nhiều
bụi cơ học như bụi gỗ là rất cao, quá trình sản xuất sử dụng sơn, véc ni để phun phủ, làm
bóng làm phát sinh nồng độ chất hữu cơ cao.
Sản xuất sứ cũng làm phát sinh bụi do quá trình vận chuyển, gia công đất, vào và ra
lò. Việc sử dụng than, củi để sấy gỗ hoặc để nung sứ cũng làm phát sinh ô nhiễm không
khí bởi các loại khí độc CO2, CO, SO2, NOx.
Bụi, hơi khí độc không được xử lý nên gây ô nhiễm môi trường không khí cục bộ,
môi trường nước mặt, nước ngầm. Người lao động trong các làng nghề này phải làm việc
với cường độ cao, nồng độ bụi, khí độc lớn nên thường mắc các bệnh về đường hô hấp, da,
mắt.
Nhóm 3: Sản xuất hàng thủ công: dệt chiếu, đan tre, mây
Loại hình sản xuất này có nhiều nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước và không khí.
Bên cạnh đó, ô nhiễm không khí cũng là rất cao. Tính chất của ngành này thường
dùng các loại hóa chất lưu huỳnh để đốt, sông SO 2 chống mốc, dùng phẩm nhuộm mầu
(nhuộm nóng), ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các công nhân lao động và các hộ

dân cư lân cận.
Ngoài ra, sử dụng đốt nguyên liệu hóa thạch như than trong quá trình gia công sản
xuất cũng gây ô nhiễm không khí bởi các loại khí CO2, CO, SO2, NOx,… Các ô nhiễm trên
gây nên các loại bênh ngoài da, viêm mũi, viêm họng và suy nhược thần kinh.
Việc sử dụng phẩm nhuộm (trừ đan đăng, đó)và các loại hóa chất khác để gia công
cũng tạo ra nguy cơ nước thải gây ô nhiễm. Loại hình này tiềm ẩn các nguy cơ gây ô
nhiễm nước tới nguồn nước mặt, nước ngầm. Thành phần nước thải thường gồm: TSS,
BOD5, P tổng, TSS, Độ mầu thường rất cao.
Nhóm 4: Vận tải thuỷ, đóng tàu với công suất nhỏ, sửa chữa tàu
Đặc thù sản xuất của ngành này gây ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí.
Nguồn nước mặt có nguy cơ bị ô nhiễm bởi: dầu mỡ, các ion kim loại nặng, TSS.
Không khí bị ô nhiễm bởi hoạt động của loại hình này, như phát sinh các loại khói,
hơi, bụi như bụi sơn, bụi gỉ kim loại, khói hàn, hơi xăng dầu làm ô nhiễm không khí xung
quanh đặc biệt tại môi trường làm việc của công nhân lao động
Đất tiềm ẩn nguy cơ bị ô nhiễm bởi các chất thải nguy hại bị tháo dỡ từ tàu cũ.. Các
loại chất thải nguy hại (dầu, mỡ thải, nước la canh lẫn dầu, amiăng, cặn gỉ, bụi sơn…) phát
sinh khi sửa chữa tầu thuyền không được quản lý chặt chẽ là một nguy cơ ô nhiễm rất cao
với đất, nước và không khí.
Nước thải sản xuất và từ nước mưa tràn mặt là nguy cơ lớn làm ô nhiễm nguồn nước
mặt với các thành phần ô nhiễm như kim loại nặng, dầu mỡ, chất rắn lơ lửng.
Nhóm 5: Sản xuất hàng cơ khí: đúc gang, đúc kim loại màu, rèn kỹ thuật cao
Nhóm sản xuất này tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm không khí khí thải từ các lò
nấu kim loại và lò rèn với các thông số: Bụi kim loại, CO2, NO2, SO2. Các trang thiết bị rất
12


thô sơ, sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá để nấu chảy kim loại. Bụi phát sinh rất
nhiều từ khâu phân loại, gia công sơ bộ, tẩy gỉ, nấu, đúc, lò rèn,... Bụi tại các làng nghề
này thường có kim loại như bụi oxit sắt, chì, thiếc, đồng,... các loại bụi than và nhiệt phát
ra từ các lò, việc dùng than để đốt sinh ra các loại khí độc hại như khí CO 2, CO, SO2, NOx,

…các loại khí này không được hút triệt để và không được xử lý nên làm cho môi trường
không khí cục bộ tại xưởng sản xuất bị ô nhiễm và gây ra cho người lao động mệt mỏi và
khó chịu.
Nguy cơ ô nhiễm nước mặt do nước thải từ sản xuất hoặc nước thải từ nước mưa tràn
mặt không được xử lý cũng làm ô nhiễm tới nguồn nước mặt, đất hoặc nước ngầm do các
thành phần kim loại nặng, hóa chất khác.
Bụi, khí độc, nhiệt, nước thải là các ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người
lao động nơi đây phát sinh các loại bênh như viêm phổi, phế quản, đau mắt.
Nhóm 7: Nuôi trồng thuỷ sản
Tiềm ẩn nhiểu nguy cơ gây ô nhiễm nước mặt bởi các thông số: BOD 5, TSS, Ptổng,
Ntổng. Quá trình nuôi trồng thủy, hải sản hiện nay thường sử dụng các loại thức ăn tổng
hợp, khi dư thừa sẽ tồn lưu trong môi trường nước nuôi và dẫn đến ô nhiễm nguồn nước
nuôi. Khi thay nước nuôi trong ao hồ, đầm thì sẽ làm phát tán nước ô nhiễm này ra môi
trường. Quá trình đào đầm, ao nuôi tôm cá hiện nay thường dùng phương pháp đào hút
bùn bằng máy đào hút bùn rồi bơm ra sông làm cho độ đục của các dòng sông rất cao, nên
lại ảnh hưởng đến chính những người nuôi tôm, cá khi lấy nước vào nuôi. Các nguồn thải
này chứa rất nhiều chất độc hại như các chất hữu cơ dư thừa, các sản phẩm kỵ khí độc hai,
NH3, H2S, phèn lắng, kim loại nặng, Phôtpho tổng, Nitơ tổng. Chính điều này làm ảnh
hưởng không những đến những người nuôi trồng thủy, hải sản mà cả đến chính nguồn
nước sinh hoạt của các cư dân sống gần vùng nuôi trồng thủy sản.
Nhóm 8: Dịch vụ sản xuất nhỏ, làm đăng đó, đánh bắt cá gần, xa bờ:
Chủ yếu gây ảnh hưởng ô nhiễm tới nguồn nước mặt do các chất thải từ tầu bè ra
sông, biển, trong đó là các loại dầu mỡ từ nước la canh, chất thải sinh hoạt (không được xử
lý),..các chất thải này ở một mức độ gây ô nhiễm nước mặt. Tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm
nước bởi các thông số TSS, BOD5, P tổng, N tổng.
Nhóm 9: Tái chế chất thải:
Là nhóm làng nghề tận dụng phế liệu làm nguyên liệu cho sản xuất, tạo ra một mạng
lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu và chất thải, sản phẩm của làng nghề này rất đa dạng và
phong phú.
Tuy nhiên, do chạy theo lợi nhuận, ý thức về bảo vệ môi trường chưa cao nên làng

nghề này đứng trước một thực trạng báo động về cả môi trường đất, nước và không khí. Ví
dụ: Các loại nhựa phế liệu gồm có bình acquy hỏng, túi, vỏ bao nilon,.... các loại này thu
thập từ nhiều nguồn và chứa các chất nguy hại, dung môi hữu cơ, thuốc trừ sâu,...nên làng
nghề này phải sử dụng rất nhiều nước để rửa, tính bình quân phải sử dung 20-25m 3/ 1 tấn
nhựa phế liệu. Nước thải từ hoạt động sản xuất này không được xử lý và thải thẳng ra
kênh thoát nước, nên gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, đất, biểu hiện rõ nhất là ô nhiễm
về mùi. Đối với nghề tái chế giấy, ô nhiễm chủ yếu từ khâu ngâm, tẩm, nấu và nghiền
nguyên liệu, nước thải này cũng thải thẳng ra kênh thoát, nước thải này chứa các hóa chất
dư, bột giấy và hàm lượng chất hữu cơ cao. Ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu của tái
chế giấy là hơi kiềm, Cl2, H2S.
Nói chung, thành phần nước thải của loại làng nghề này rất phức tạp chứa nhiều
thành phần hóa chất vô cơ, hữu cơ, vi sinh vật gây bệnh. (Ví dụ số liệu quan trắc nước thải
13


tại phường Tràng Minh 2007 cho thấy hàm lượng TSS, Nitơ tổng, P tổng, NH 3-N,
Coliform đều vượt Tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5945-2005 cột B), đặc biệt Coliform vượt
TCCP 800 lần; nước ngầm có điểm đã bị nhiễm Coliform quá TCCP 3000.000 lần). Ngoài
ra, trong các khâu xay, nghiền, phơi, phân loại, thu gom đều phát sinh bụi nên gây ô nhiễm
về không khí.
Các ô nhiễm nói trên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân trong
làng nghề, các loại bệnh phổ biến như phụ khoa, da liễu, phổi,đau mắt hột, giun sán, hô
hấp (số liệu năm 2006 tại làng nghề Tràng Minh: có đến 70% nữ mắc bệnh phụ khoa, 80%
đau mắt hột, hô hấp 75%, 80% giun sán,...)
III.2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TẠI HẢI PHÒNG
1. Những thách thức cho sự phát triển bền vững làng nghề tại Hải Phòng
Qua khảo sát sơ bộ tại các làng nghề về qui mô sản xuất và hiện trạng môi trường tại
các làng nghề cho thấy:
- Hầu hết các hộ làm nghề thuộc 9 nhóm kể trên đều sản xuất thủ công tại gia đình
riêng chỉ có làng nghề Mỹ Đồng đã được qui hoạch và sản xuất tập trung.

- Các công cụ sản xuất phần lớn đã cũ kĩ và lạc hậu tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm
MT rất cao
- Các hộ làm nghề nằm xen kẽ trong khu dân cư vì vậy, mức độ ảnh hưởng do ô
nhiễm môi trường tại các khu vực sản xuất trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng dân cư nói
chung là không thể tráng khỏi
- Hầu hết các hộ làm nghề chỉ ở qui mô hộ gia đình, nguồn vốn còn hạn chế, và qui
mô sản xuất còn manh múm vì vậy việc đầu tư cho các thiết bị bảo hộ lao động, phòng
cháy chữa cháy và bảo vệ môi trường là hầu như không được quan tâm.
- Các hộ sản xuất tại gia đình và sống ngay tại đó, nơi ở và nơi sản xuất cùng là một
chỗ vì vậy mặt bằng rất chật hẹp, điều kiện hạ tầng về vệ sinh môitrường còn nhiều hạn
chế, thậm chí còn chưa được tiếp cận được với nguồn nước sạch. Đặc biệt đối với các hộ
chế biến nông sản thì tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môI rất lớn và chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm không thể đưỵơc đảm bảo.
- Nhận thức về pháp luật bảo vệ môi trường của người dân tại các hộ làm nghề cũng
như của dân cư sở tại còn rất hạn chế dẫn đến ý thức bảo vệ môi trường còn thấp kém
- Trình độ văn hoá và kiến thực cập nhật về khoa học công nghệ của người dân tại
các vùng làng nghề còn hạn chế dẫn tới ý thức tự bảo vệ sức khoẻ cho mình và bảo vệ môI
trường còn rất hạn chế.
- Do tính cách của người nông dân Việt Nam còn nặng nề về tính cả nể, quan hệ bà
con, hàng xóm nên việc phát giác các cơ sở gây ô nhiễm môI trường của bà con xung
quanh, cũng như việc xử lý của chính quyền sở tại ở nhiều nên còn nhiều hạn chế.
- Đời sống của bà con nông dân ở các vùng quê còn thấp vì thế họ bất chấp việc sản
xuất kinh doanh để thu lợi nhuận cho gia đình để trang trải cho cuộc sống hàng ngày hơn
cả việc bảo vệ sức khoả và môi trường sống cho bản thân và cộng đồng.
- Vì Bảo vệ môi trường là một công việc cần sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều
cấp. Tuy nhiên tại nhiều địa phương sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể còn nhiều
hạn chế cũng như nhận thức pháp luật về Bảo vệ môi trường của các cán bộ trong chính
quyền còn nhiều bất cập dẫn tới việc thực thi pháp luật về bảo vệ môI trường tại cấp xã
chưa được thực hiện đúng theo qui định của pháp luật.
14



- Ngoài ra, tại các chính quyền xã việc trao đổi thông tin, kinh ngiệm quản lý và các
văn bản pháp luật còn nhiều hạn chế, dãn tới những trường hợp ô nhiễm môi trường tại
các làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp diễn biến trong một thời gian khá dài, gây
ra ô nhiễm môi trường lâu ngày rồi mới được phát hiện gây khó khăn cho việc xử lý sau
này.
2. Các biện pháp cơ chế chính sách về làng nghề đã thực hiện
* Trung ương:
- Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQQ-TU ngày
15/11/2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước;
- Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 17/2/2009 của Chính phủ phê duyệt chiến lược
quốc gia về quản lý tổng thể chất thải rắn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050;
- Chỉ thị số 36/2008/CT-BNN ngày 20/2/2008 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường trong nông nghiệp nông thôn;
- Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường do Bộ Tài nguyên và
Môi trường ban hành được áp dụng chung cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
cũng như làng nghề.
* Địa phương:
- Nghị quyết số 22/NQ-TU ngày 24/3/2005 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về công tác
bảo vệ môi trường đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
- Quyết định số 2714/2005/QĐ-UB ngày 23/11/2005 của UBND thành phố về việc phê duyệt đề án
Quy hoạch bảo vệ môi trường thành phố Hải Phòng đến năm 2020;
- Quyết định số 571/2006/QĐ - UB về chương trình hành động của Ủy ban nhân dân thành phố về
công tác bảo vệ môi trường Hải Phòng đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Nghị quyết số 09/2010/NQ-HĐND ngày 15/7/2010 của Hội đồng nhân dân thành phố về nhiệm
vụ, giải pháp thu gom xử lý chất thải rắn ở nông thôn trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010 – 2020;
- Quyết định số 1711/QĐ-UBND ngày 11/10/2012 của UBND thành phố về việc phê duyệt Quy

hoạch xử lý chất thải rắn trên địa bàn thành phố Hải Phòng đến năm 2025.
- Nghị quyết số 9/2012/NQ-HĐND ngày 20/7/2012 về nhiệm vụ, giải pháp XD nông thôn mới
thành phố Hải Phòng giai đoạn 2012- 2015, định hướng đến 2020.
Kế hoạch số 7469/KH-UBND ngày 5/11/2012 triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
NTM trên địa bàn TP Hải Phòng giai đoạn 2012 – 2020.

3. Các biện pháp về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững các làng nghề đã
thực hiện
3.1. Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các Bộ, Uỷ ban nhân dân các
cấp đối với bảo vệ môi trường tại làng nghề
Chính phủ, các Bộ ngành, Ủy ban nhân dân thành phố đã có các chỉ đạo thể hiện các
văn bản về công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề. Hiện đã có những cuộc khảo sát
của Bộ Tài nguyên và Môi trường để đánh giá hiện trạng môi trường tại các làng nghề làm
căn cứ để đề ra những giải pháp thiết thực để đưa công tác bảo vệ môi trường tại các làng
nghề vào nền nếp. Tuy nhiên, để giải quyết đồng bộ và triệt để vấn đề ô nhiễm tại làng
nghề, đòi hỏi phải thực hiện những dự án, giải pháp đồng bộ. Ví dụ như việc quy hoạch
các cụm công nghiệp làng nghề, việc ưu đãi vay vốn và các chế tài cụ thể và tuyên truyền
sâu rộng về công tác bảo vệ môi trường thì mới giải quyết được.
3.2. Tổ chức bộ máy, năng lực quản lý nhà nước về BVMT các cấp đối với làng
nghề.
15


Tổ chức bộ máy, năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường: Chi cục Bảo vệ
môi trường Hải Phòng làm công tác quản lý chung về môi trường thành phố với 17 cán bộ,
nhân viên có bố trí 01 cán bộ theo dõi về môi trường làng nghề. Sở Công thương có Phòng
Kỹ thuật, An toàn và Môi trường bố trí 01 cán bộ chuyên trách về môi trường,gồm môi
trường làng nghề. Phòng Tài nguyên Môi trường cấp quận, huyện làm công tác quản lý
môi trường trên địa bàn bố trí 01 phó phòng phụ trách môi trường và 01 cán bộ chuyên
trách về môi trường.

Hệ thống quan trắc môi trường đối với làng nghề: Hiện nay chưa có hệ thống quan
trắc môi trường, số liệu quan trắc liên tục để đánh giá cụ thể về ô nhiễm môi trường làng
nghề.
Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về MT đối với làng nghề: Hàng năm,
các quận, huyện có tổ chức các đợt tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường; kiểm tra,
hướng dẫn công tác bảo vệ môi truờng tại các cơ sở trong làng nghề. Tuy nhiên, công tác
này chưa thật sự thường xuyên và sâu rộng, sự quan tâm của chính quyền cấp xã đối với
công tác này còn chưa được đầy đủ nên hiệu quả chưa cao.
3.3 Việc đầu tư và sử dụng kinh phí cho công tác quản lý môi trường tại làng
nghề
Hiện tại, công tác quản lý về bảo vệ môi trường tại các làng nghề được giao cho
UBND các quận, huyện vì qui mô các hộ, đơn vị SX-KD nghề trong các làng nghề có qui
mô nhỏ, thuộc diện phải lập cam kết bảo vệ môi trường/Đề án BVMT do UBND các quận,
huyện cấp và quản lý. Kinh phí hoạt động được giao chung trong tổng kinh phí cấp cho
Phòng TN&MT (cấp huyện) và công quản lý đô thị, vệ sinh môi trường tại các xã,
phường, thị trấn.
Ngoài ra, các trường hợp khiếu nại, tố cáo của dân về các vụ việc ô nhiễm môi
trường, kinh phí phục vụ cho việc quan trắc môi trường được lấy từ ngân sách BVMT của
Sở Tài nguyên và Môi trường.
3.4. Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại
làng nghề
Phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong làng nghề thuộc đối
tượng làm cam kết bảo vệ môi trường. Theo điều khoản 2 Điều 122 Luật Bảo vệ môi
trường về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân dân các
cấp thì việc thanh tra, kiểm tra các đối tượng này thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện. Hàng năm Phòng Tài nguyên và môi trường cấp quận, huyện có tổ chức kiểm
tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn trong đó có đối tượng các cơ sở thuộc làng
nghề. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, thanh tra chưa được toàn diện và đầy đủ vì thiếu cán
bộ chuyên môn, kinh phí hạn chế và phương tiện thiết bị kỹ thuật hoàn toàn chưa được
đầu tư. Việc kiểm tra đi đôi với việc tuyên truyền, đôn đốc các cơ sở thực hiện Luật Bảo

vệ môi trường. Việc xử phạt hành chính về môi trường hầu như còn rất ít.
3.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật về môi trường
Trong thời gian gần đây, tại địa bàn các làng nghề đã có những kiến nghị của nhân
dân khu vực đối với công tác bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất trong làng nghề,
hầu hết các kiến nghị này được Uỷ ban nhân dân quận huyện chủ trì, phối hợp Sở Tài
nguyên và Môi trường tổ chức các đoàn kiểm tra để giải quyết. Nói chung các khiếu nại đã
được Sở, Uỷ ban nhân dân quận, huyện giải quyết nên hầu như không dẫn đến các sự việc
phức tạp về anh ninh trật tự liên quan tới môi trường trong khu vực các làng nghề.
3.6. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật về
bảo vệ môi trường đối với làng nghề
16


Công tác này được lồng ghép trong các công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục,
phổ biến chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường tại vùng nông thôn. Hàng năm, vào
ngày môi trường thế giới các Sở, ban ngành chủ trì phối hợp các quận, huyện, xã đã tổ
chức các đợt thông tin, tuyên truyền về công tác bảo vệ môi trường để nhân dân hiểu rõ
hơn về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường. Hàng năm, theo chương trình phối hợp của Sở
Tài nguyên và Môi trường với các ban ngành như Hội nông dân thành phố, Hội cựu chiến
binh thành phố, đã tiến hành các buổi nói chuyện, hội thảo, phổ biến chính sách pháp luật
về công tác bảo vệ môi trường tại các xã, phường trong đó có làng nghề. Qua công tác
này, ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của nhân dân nông thôn nói chung, các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại các làng nghề nói riêng đã có những tiến bộ đáng kể.
3.7. Xã hội hóa công tác quản lý môi trường đối với làng nghề
Hiện tại, xã hội hóa công tác quản lý môi trường làng nghề nói riêng, vùng nông thôn
nói chung đã được triển khai ở các nơi, đặc biệt với công tác thu gom, xử lý chất thải rắn.
Công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải ở các huyện được thành phố quan tâm chỉ
đạo. Huyện Thủy Nguyên có 26/37 xã, thị trấn có tổ tự quản thu gom rác thải, lượng rác
thải khoảng 30 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom khoảng 43% chủ yếu là chôn lấp và đốt. Huyện An
Dương tự thành lập tổ thu gom rác chôn tại chỗ, hoặc tập trung rác ở bãi rác tại xã Lê Lợi

rồi được đưa về bãi rác thành phố. Huyện Kiến Thụy có 14/17 xã và thị trấn có tổ thu gom
rác với 150 lao động, tổng lượng rác là 200 tấn/ngày; tỷ lệ thu gom đạt 60%; trên địa bàn
17 xã và thị trấn quy hoạch 30 bãi xử lý rác thải với diện tích 128,562m 2. Huyện Tiên
Lãng có 20/23 xã và thị trấn thành lập được đơn vị thu gom rác thải, tỷ lệ thu gom đạt
75%. Huyện Cát Hải giao cho Công ty DV công cộng và dịch vụ đô thị Cát Hải cùng với
tổ tự quản vệ sinh môi trường các xã, thị trấn thu gom và vận chuyển rác thải về hai bãi
rác Đồng Trong thị trấn Cát Bà và bãi rác Gò Đồng Sam, thị trấn Cát Hải, tỷ lệ thu gom
đạt 75%.
Tuy nhiên, điều kiện kinh phí hạn hẹp nên tùy theo khả năng của từng địa phương
đưa ra các hình thức tổ chức quản lý, thu gom rác thải khác nhau. Nhưng nói chung, việc
xã hội hóa công tác này còn chưa được triển khai sâu rộng, vì thế hiện các huyện đều sử
dụng Hạt quản lý đường bộ của huyện, đơn vị được cấp ngân sách, làm lực lượng chính
thu gom và xử lý chất thải rắn của huyện. Các xã tự thành lập tổ thu gom chất thải rắn tại
các thôn xóm, chất thải rắn được chuyển về bãi chôn lấp của xã bằng các loại xe thô sơ
hoặc xe công nông. Việc thu gom chất thải rắn ở nông thôn chưa được đồng bộ, thống nhất
mà phần lớn còn mang tính tự phát, mô hình rất đa dạng (tổ thu gom, xử lý chất thải rắn
của huyện; hợp tác xã nông nghiệp đứng ra tổ chức thu gom, các thôn tự tổ chức thu gom).
Vai trò, trách nhiệm các hiệp hội và của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ về
bảo vệ môi trường tại các làng nghề nói riêng, nông thôn nói chung ở nhiều địa phương
còn chưa được thể hiện rõ nét. Việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường nói chung còn
rất hạn chế, vì thế về lâu dài thì việc phát huy xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường tại
các khu vực này cần được triển khai mạnh mẽ để dần dần làm tốt công tác quản lý môi
trường để cải thiện chất lượng môi trường trong khu vực ngày càng tốt hơn.
4. Những tồn tại
Hầu hết các làng nghề sản xuất với quy mô gia đình, các hộ sản xuất nằm xen kẽ
trong khu dân cư, mặt bằng chật hẹp, điều kiện hạ tầng còn thiếu thốn, nên ô nhiễm sẽ tác
động trực tiếp tới sức khỏe của người lao động và các hộ sản xuất cũng như cộng đồng dân
cư.
Công nghệ sản xuất lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, trình độ lao động hạn chế do đó sử dụng
nguyên, nhiên liệu với hiệu suất thấp. Các loại bụi, khói, khí thải không được xử lý gây ra

17


ô nhiễm cục bộ không khí tại nơi sản xuất, các loại ô nhiễm khác như nhiệt, tiếng ồn chưa
được giảm thiểu ảnh hưởng tới sức khoẻ nhân dân và môi trường xung .
Nước thải không được xử lý gây ô nhiễm tới nguồn nước ngầm, nước mặt ảnh
hưởng tới nguồn nước sinh hoạt, trong khi các làng nghề hiện đều thiếu nước sạch như
nước máy, nên càng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân.
Do không có cơ chế thu gom, không được đầu tư khu xử lý chất thải rắn đúng kỹ
thuật và hợp vệ sinh, chất thải rắn các làng nghề (trong đó lẫn chất thải nguy hại) chủ yếu
được thu gom chôn lấp cùng chất thải rắn sinh hoạt, gây ô nhiễm môi trường đất, nước và
không khí, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh dịch bệnh đối với cả con người và gia súc, gia cầm,
thủy hải sản. Nguồn vốn đầu tư cho công tác này rất hạn chế, chưa có những giải pháp kỹ
thuật phù hợp khi nhu cầu ngày càng bức xúc.
Nhận thức về đổi mới công nghệ đưa tiến bộ vào sản xuất còn rất hạn chế, nhận thức
về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, việc sản xuất chủ yếu do mưu sinh và lợi nhuận
chưa quan tâm tới việc bảo vệ môi trường cũng như bảo vệ sức khỏe cho bản thân người
lao động và công đồng. Sự quan tâm của các cơ quan đặc biệt cấp xã, phường cũng như
của cộng đồng dân cư tại khu vực các làng nghề về ô nhiẽm môi trường chưa được thỏa
đáng, năng lực quản lý cấp cơ sở còn nhiều hạn chế.
5. Những đề xuất để phát triển bền vững làng nghề
5.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách
Trung ương ban hành các văn bản pháp quy rêng, và chi tiết hơn nữa về quản lý môi
trường tại làng nghề, quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị.
Tổ chức Quy hoạch các khu sản xuất tập trung, khu giết mổ, chế biến nông thủy sản tập
trung, các khu sử lý chất thải, rác thải nông thôn phù hợp điều kiện địa phương …
Thành phố ban hành quy chế quản lý môi trường riêng cho từng làng nghề.
Ban hành các chính sách cụ thể về: Tài chính, khen thưởng, nghĩa vụ và quyền lợi
cho công tác quản lý rác thải nông thôn. Ban hành quy chuẩn xây dựng các bộ tiêu chuẩn
về yêu cầu vệ sinh môi trường nông thôn đối với từng lĩnh vực.

5.2. Nhóm giải pháp về kỹ thuật:
Xây dựng mô hình, hướng dẫn thành lập các tổ chức dịch vụ xử lý chất thải nông thôn
tại các làng xã, thị trấn như: cấp xã, liên xã, làng, liên làng có tổ chức thu gom rác. Tăng
cường công tác tập huấn cho cán bộ cơ sở và bà con nông dân.
Đầu tư công nghệ, giải pháp kỹ thật mới phù hợp đối với việc xử lý chất thải nông
thôn. Cụ thể:
a- Xử lý chất thải hữu cơ trong nông nghiệp: Từ cây xanh, phể thải từ động vật, bã
chăn nuôi. Làm phân vi sinh. Các khu chăn nuôi tập trung tiếp tục triển khai xây bể
BOGAS dùng đun nấu, phát điện…
b- Xây dựng các trạm thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt ở nông thôn theo mô hình
xã, liên xã: Tổ chức phân loại và xử lý như công nghệ bãi rác nội thành.
c- Xử lý nước thải bảo vệ môi trường: - Sử dụng các chế phẩm vi sinh vật cho vào
các khu vệ sinh, cống rãnh…
d- Xử lý theo phương pháp truyền thống của nhân dân.
5.3. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
Tập trung tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường thông qua các
hình thức: Thông tin đại chúng, phát động chiến dịch bảo vệ môi trường cho các điạ
phương và mọi người tham gia. Phát động phong trào cộng đồng xã hội tham gia công tác
thu gom rác.
18


Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định về công tác quản lý rác thải và vệ
sinh môi trường nông thôn.
Thành phố xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách từ thành phố tới huyện làm công
tác thanh kiểm tra và xử lý các vi phạm môi trường; có lộ trình di chuyển các cơ sản xuất
nghề độc hại ra xa địa bàn khu dân cư (Sở XD đã có văn bản trình UBND thành phố danh
sách và kế hoạch di dời các doanh nghiệp ra khỏi khu vực nội thành) .
Thành phố chỉ đạo xây dựng và triển khai Đề án “Điều tra khảo sát và đánh giá tình
hình làng nghề và ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn thành phố” làm cơ sở để

triển khai thực hiện các chương trình, giải pháp xử lý vấn đề rác thải và ô nhiễm khu vực
làng nghề trên địa bàn thành phố.
5.4. Nhóm giải pháp về nguồn lực
Trung ương và thành phố cần có kế hoạch đầu tư hỗ trợ kinh phí cho các làng nghề,
đầu tư kỹ thuật xử lý nước thải, khí thải và chất thải rắn. Hỗ trợ làng nghề đầu tư xây dựng
các trạm xử lý nước thải, các khu vực lưu giữ tạm thời chất thải tập trung, bãi xử lý rác
thải…; mỗi huyện có 02 đến 03 khu vực giết mổ tập trung để thuận lợi cho xử lý ô nhiễm
môi trường; mỗi huyện có 01 đến 02 khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt được quy hoạch phù
hợp và đúng tiêu chuẩn ( UBND thành phố đã có Quyết định số 1711/QĐ-UBND ngày
11/10/2012 phê duyệt quy hoạch xử lý rác thải nông thôn đến năm 2025) ./.

19



×