Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bước Đầu Đánh Giá Tác Động Của Hồ Hoà Bình Đối Với Nguồn Lợi Cá Biển Ven Bờ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.05 KB, 16 trang )

Trần Đức Thạnh, Đỗ Đình Chiến, 2003. Bước đầu đánh giá tác động của hồ Hoà Bình đối với nguồn lợi cá
biển ven bờ. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, tập X, Tr.139-160. NXB. Khoa học và Kỹ thuật.

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HỒ HOÀ BÌNH
ĐỐI VỚI NGUỒN LỢI CÁ BIỂN VEN BỜ
Trần Đức Thạnh và Đỗ Đình Chiến

MỞ ĐẦU
Theo thống kê năm 1998, trái đất có 47.655 hồ nước lớn ở trên 150 nước, trong đó
nhiều hồ chứa đã gây ra thiệt hại lớn cho nghề cá biển ven bờ [25]. ở Việt Nam, từ sau
1975, việc xây dựng các hồ phát triển khá mạnh. Cả nước đã có khoảng trên 650 hồ cỡ lớn
và vừa, trên 3.500 hồ cỡ nhỏ [1]. Các hồ có sức chứa lớn tập trung trên lưu vực sông
Hồng và Đồng Nai, trong đó 3 hồ Hoà Bình, Thác Bà và Trị An được xếp vào nhóm 18 hồ
lớn nhất châu Á có dung tích chứa trên 1 tỷ m3 nước [ ].
Công trình hồ Hoà Bình khởi công ngày 6/11/1979 và tổ máy số 1 bắt đầu vận hành
từ ngày 30/12/1988. Hồ Hoà Bình có dung tích chứa 9,45 tỉ m 3, thuộc loại lớn trên thế giới
và đứng hàng thứ tư ở châu Á (tính đến 1995). Tác động tiêu cực của hồ Hoà Bình trên lưu
vực đã được đánh giá qua một số công trình nghiên cứu[13]. Tuy nhiên, việc đánh giá ảnh
hưởng của chúng tới môi trường cửa sông và ven bờ còn rất hạn chế [20]. Sự thay đổi phân
bố và mất đi một lượng lớn nước ngọt, trầm tích và dinh dưỡng từ sông Hồng đưa ra biển
do xây dựng hồ Hoà Bình đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt về môi
trường, tài nguyên vùng cửa sông và biển ven bờ như thay đổi chế độ dòng chảy, xói lở
bờ biển, xâm nhập mặn, mất nơi cư trú, bãi giống và bãi đẻ của sinh vật, suy giảm dinh
dưỡng và giảm sức sản xuất của vùng biển ven bờ, dẫn đến thiệt hại về đa dạng sinh học và
nguồn lợi thủy sản đánh bắt, nuôi trồng.
Bài viết này trình bày kết quả phân tích, đánh giá hậu quả của công trình hồ thuỷ
điện Hoà Bình đối với nguồn lợi nghề cá biển ven bờ tây Vịnh Bắc Bộ (VBB). Việc suy
giảm nguồn lợi nghề cá biển ven bờ do rất nhiều nguyên nhân và việc đánh giá lượng suy
giảm do hồ Hoà Bình dựa theo phương pháp chủ đạo là phân tích và tính điểm trọng số tác
động môi trường, kết hợp sử dụng kinh nghiệm đánh giá của [4] cho trường hợp hồ Tam
Hiệp trên sông Trường Giang. Do hạn chế về tài liệu, những kết quả trình bày ở đây mới


chỉ là bước đầu, có tính bán định lượng, nhưng có ý nghĩa định hướng cho những nghiên
cưú tiếp theo, nhất là đánh giá tác động của hệ thống bậc thang thuỷ điện sông Đà [22].
Công trình này được hoàn thành với sự tài trợ của Hội đồng Khoa học Tự nhiên.
1. Phạm vi ảnh hưởng của dòng vật chất sông Hồng đến vùng cửa sông và biển ven bờ
tây vịnh Bắc Bộ
1.1. Lưu vực sông và dòng vật chất từ hệ thống sông Hồng
Các sông đổ vào bờ tây VBB có thể phân chia thành 4 lưu vực chính: lưu vực các
sông vùng Đông bắc; lưu vực hệ thống sông Hồng và Thái Bình, lưu vực các hệ thống
sông Mã - sông Cả và lưu vực hệ thống sông Gianh- Trị-Hương. Theo hình thái địa hình,
1


dải bờ tây VBB được chia thành 4 vùng ven bờ: Móng Cái- Đồ Sơn; Đồ Sơn - Lạch
Trường (ven bờ châu thổ sông Hồng hiện đại); Lạch Trường-Mũi Ròn và Mũi Ròn- Hải
Vân [17]. Khi đổ ra biển, các nhánh sông của cùng một hệ thống lưu vực có thể đổ vào các
vùng bờ khác nhau, tạo nên sự không đồng nhất giữa lưu vực và vùng ven bờ chịu ảnh
hưởng. Trước đây, những tính toán cơ bản cho VBB thường chỉ tính giới hạn đến khoảng
Mũi Lạy, hết địa phận Quảng Bình. Do vậy, nghiên cứu này chấp nhận giới hạn vừa nêu
để tiện so sánh số liệu. Theo đó, lưu lượng nước sông Hồng-Thái Bình chiếm khoảng 78%
tổng lưu lượng nước đổ vào bờ tây VBB (125km 3/năm so với 160 km 3/năm) và diện tích
lưu vực chiếm 73.6% tổng diện tích các lưu vực bờ tây thu nước vào vịnh (155.000km 2
so với 210.624 km2).
Hàng năm nước các sông đổ ra VBB từ bờ tây thuộc địa phận Việt Nam chiếm
94,5% và từ ven bờ Trung Quốc chỉ 5,5% [10]. Theo Nguyễn Viết Phổ [15], trung bình
hàng năm các sông phía Việt Nam đổ vào vịnh 179 km 3 nước và 125,88 triệu tấn bùn cát
lơ lửng. Nếu ước tính cả bùn cát di đáy chiếm tỷ lệ 10% so với bùn cát lơ lửng thì tổng
bùn cát từ sông đổ ra khoảng 138,6 triệu tấn. Hệ thống Sông Hồng và Thái Bình hàng
năm đổ ra biển một khối lượng nước khoảng 125 tỷ m3, mang 116 triệu tấn các chất rắn, 70
triệu chất tấn rắn hòa tan và một lượng đáng kể chất gây ô nhiễm do hoạt động dân sinhkinh tế dọc theo các triền sông.
Tổng lượng nước bình quân nhiều năm trước của sông Hồng tại Sơn Tây là

114km nước, tương ứng với lưu lượng bình quân năm là 3.613 m 3/s. Dòng chảy mùa mưa
lũ từ tháng 6 đến tháng 10, chiếm khoảng 75% lưu lượng chảy cả năm. Dòng chảy mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 5, chỉ chiếm 25% lưu lượng chảy cả năm. Tổng lượng nước
trung bình nhiều năm của sông Thái Bình tại Phả Lại khoảng 9,0 km 3 ứng với lưu lượng
bình quân năm là 318 m3/s. Dòng chảy mùa mưa lũ từ tháng 6 đến tháng 10 chiếm khoảng
75-80% tổng lượng chảy năm, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 chiếm khoảng 20-25%
tổng lượng chảy năm.
3

Lượng bùn cát lơ lửng trung bình nhiều năm (1958-1970) của sông Hồng tại Sơn
Tây là 114 triệu tấn, trong đó sông Đà đóng góp 53%, sông Thao 35% và sông Lô 12%.
Lượng bùn cát trong mùa lũ lên tới 91,6% của cả năm, còn 7 tháng mùa kiệt chỉ có 8,4%,
lớn nhất vào các tháng 7 và 8, nhỏ nhất vào các tháng 2 và 3. Tổng lượng phù sa của sông
Thái Bình rất nhỏ (1,8 triệu tấn/năm) so với nguồn cấp từ sông Hồng qua sông Đuống (17
triệu tấn/năm), qua sông Luộc (10 triệu tấn/năm) và qua cửa Văn Úc 11 triệu tấn/năm
(65%).
Dinh dưỡng cung cấp cho vùng ven bờ châu thổ sông Hồng (CTSH) từ nhiều
nguồn khác nhau. Nguồn từ sông hàng năm khoảng 40.296 tấn tổng nitơ khoáng hòa tan,
1.200 tấn phốtpho khoáng hòa tan, 17.600 tấn silic khoáng hòa tan. Nguồn dinh dưỡng
khoáng nitơ ở hai dạng NO3- và NO2- từ nước mưa cung cấp trực tiếp cho vùng cửa sông
khoảng 1.066 tấn/năm. Rừng ngập mặn ven bờ hàng năm cung cấp từ 6.237 tấn nitơ và
205.435 tấn Ch/c [7].
Tổng tải lượng thải chất gây ô nhiễm hàng năm trên dải ven biển Quảng NinhThanh Hoá chủ yếu do sông đưa ra, gồm 109,6 nghìn tấn BOD; 157,9 nghìn tấn COD; 76,2
nghìn tấn nitơ; 39,1 nghìn tấn phốt pho; 121,9 triệu tấn chất rắn lơ lửng, gần 830 tấn hoá
chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) và một lượng lớn kim loại nặng gồm 6,8 nghìn tấn Cu,
5,4 nghìn tấn Zn, 885 tấn Pb, 790 tấn Sa, 282 tấn Cd và 28 tấn Hg. So với cả vùng Quảng
2


Ninh -Thanh Hoá, khu vực cửa Ba Lạt hàng năm nhận trên 70% lượng chất hữu cơ, 54 65% chất dinh dưỡng, 96% lượng thuốc trừ sâu, 52% lượng phân hoá học, 36% lượng dầu

thải và từ 70 - 96% kim loại nặng từ nguồn lục địa đưa ra biển [8].
1.2. Hình thái địa hình ven bờ châu thổ sông Hồng
VBB rộng khoảng 150.000km 2, sâu trung bình 50m và cực đại 107m tại một trũng
sâu gần cửa vịnh. Dọc đới bờ vịnh, có mặt các vũng vịnh, châu thổ, cửa sông hình phễu và
các đầm phá. Tổng diện tích lưu vực các sông đổ vào vịnh khoảng 300.000 km 2, trong đó
có 155.000km2 lưu vực của sông Hồng ở phía bờ tây. Các đảo trong vịnh tập trung ở vùng
ven bờ tây bắc với số lượng trên 2000 đảo lớn nhỏ. Phía ngoài vịnh, rìa thềm lục địa nằm ở
độ sâu 120m. Địa hình đáy vịnh khá thoải với góc gốc nhỏ hơn 5o, hiếm khi tới 10-30o.
Dải ven bờ CTSH gồm các châu thổ nổi, châu thổ chìm và trước châu thổ. Đới châu
thổ nổi (đồng bằng châu thổ) có diện tích khoảng 17 nghìn km 2. Trong đó, phần châu thổ
hiện đại được hình thành trong khoảng 3.000 năm qua, có diện tích 6.000 km 2, đỉnh nằm
phần Hưng Yên, đáy trải dài khoảng 150 km từ bán đảo Đồ Sơn đến Lạch Trường. Diện
tích châu thổ nổi trong đê không còn chịu ảnh hưởng thuỷ triều, rộng 4500 km 2. Phần châu
thổ nổi ngoài đê, hay là vùng triều, rộng trên 500 km 2. Đới châu thổ ngầm (delta front) là
phần đáy nông, khá bằng phẳng nằm trước cửa sông châu thổ, giới hạn ngoài ở độ sâu 6-12 m
nước, diện tích khoảng trên 1000 km2, rộng 5-15 km và kéo dài từ Đồ Sơn đến Lạch
Trường. Phía ngoài châu thổ ngầm là đới trước châu thổ (prodelta), ở khoảng độ sâu 20-30
m. Tại đây độ dốc tăng, bùn cát sông đưa ra lắng đọng rất ít, vai trò của sông cũng như của
sóng ở đây giảm hẳn, vật liệu từ lục địa đưa ra chủ yếu là các sản phẩm rất mịn như bùn sét
nâu hồng, tích tụ nhờ dòng hải lưu ven vịnh Bắc Bộ. [18].
1.3. Dòng chảy ven bờ
Dòng chảy tổng hợp ven bờ CTSH rất phức tạp và gồm các thành phần dòng triều,
dòng sóng, dòng gió... Mỗi dòng thành phần phát huy ưu thế ở một khoảng nhất định cắt
ngang bờ. Dòng chảy triều thuận nghịch trong ngày và có ưu thế trong vùng nước sát bờ,
trung bình độ sâu 6 m trở vào, có nơi đến 12 m. Dòng chảy sóng phát huy ở đới sóng vỗ
bờ, có hướng phụ thuộc vào hướng gió, địa hình bờ và biến đổi theo mùa. Dòng chảy gió
có tốc độ không lớn, thường 5-15 cm/s, ứng với tốc độ gió phổ biến 4-5 m/s ở ven bờ,
hướng dòng phụ thuộc vào hướng gió, thường phát huy chỉ ở tầng mặt trên không gian
rộng, đóng góp tích cực vào dòng chảy mùa ở ven bờ. Dòng chảy ven bờ phát huy ở độ
sâu 10 m đến 25-30 m nước và có tính chất mùa, hướng chảy thường song song với bờ.

Dòng ven bờ có vai trò quan trọng đối với di chuyển bùn sét lơ lửng và dinh dưỡng trên
phạm vi rộng, đến độ sâu 30 m và vượt khỏi ranh giới phía tây nam, đông bắc của ven bờ
CTSH. Tốc độ dòng chảy ven bờ 10-15 cm/s hướng về phía bắc và đông bắc vào mùa hè;
20-30 cm/s, hướng về phía nam và tây nam vào mùa đông. Hoàn lưu VBB có hướng chảy
dọc ven bờ xuống phía tây nam quanh năm.
1.4. Ngư trường vùng biển ven bờ tây vịnh Bắc Bộ
Vùng biển VBB thuộc Việt Nam có trữ lượng cá nổi nhỏ 390.000 tấn, cá đáy
291.166 tấn, tổng 681.166 tấn. Khả năng khai thác cá nổi 156.000 tấn, cá đáy 116.467 tấn,
tổng cộng 272.467 tấn [5]. Các ngư trường thường phân bố ở vùng nước nông ven bờ có
độ sâu dưới 50 m, mùa vụ đánh bắt chủ yếu từ tháng 6-11. Phần lớn cá vịnh tập trung
thành những đoàn nhỏ di cư gần, mùa đông tập trung ở giữa và phía nam vịnh, mùa hè
3


phân tán hầu như khắp vịnh. Các ngư trường tốt nhất đều nằm ở phía Việt Nam, thường
phân bố ở vùng nước nông ven bờ có độ sâu dưới 50 m, tập trung ở khu vực Bạch Long
Vỹ, Cát Bà- Cô Tô và kéo dài dọc ven bờ tới Quảng Bình. Khu hệ cá có 960 loài, trong đó
49 loài có sản lượng và giá trị kinh tế cao, cá tầng đáy chiếm 40% và cá tầng trên chiếm
60%; 80% sống ở vùng gần bờ và 20% sống ở biển sâu xa bờ. Tháng 4- 9 là mùa vụ sinh
sản chủ yếu của các loài cá và gần bờ phổ biến các đàn cá nổi. Mùa vụ đánh bắt chủ yếu
vào tháng 6-11. Trữ lượng cá đáy khoảng 30 vạn tấn và khả năng khai thác 10-15 vạn
tấn/năm (Phạm Thược, 2002).
Cá tầng đáy có nhiều loài quan trọng như cá Phèn, cá Mối, cá Trác, cá Miễn Sành,
cá Hồng, cá Sạo v.v... Từ tháng 12 đến tháng 4, chúng có xu hướng di chuyển đến vùng
nước sâu và phân bố chủ yếu ở các khu vực Bạch Long Vỹ, giữa vịnh, đông Hòn Mê, Hòn
Mắt và cửa vịnh. Vào cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, chúng di chuyển dần vào khu vực
nước nông ven bờ để sinh sản. Trữ lượng cá đáy phần vịnh phía Việt Nam được đánh giá
khác nhau theo thời gian và tác giả: 44-88 vạn tấn (Trương Lĩnh Cấp, 1958), 37-56 vạn
tấn (Lê Trọng Phấn, 1977), 33 vạn tấn (Nguyễn Xuân Lộc, 1985), 17,5 vạn tấn (Lê Văn
Dũng và Đào Văn Tự, 1994) và chỉ 11,6 vạn tấn (Phạm Thược, 2000).

Trong nhóm cá nổi, cá Trích , cá Nục sò, cá Cơm là những loài quan trọng nhất.
Các loài cá Thu, cá Ngừ, cá Bạc má có kích thước lớn hơn, phân bố chủ yếu ở ngoài khơi,
cửa vịnh và chỉ vào gần bờ trong mùa sinh sản. Khoảng tháng 4-9 là mùa vụ sinh sản chủ
yếu của các loài cá, do đó khu vực gần bờ hầu như ở đâu cũng gặp những đàn cá nổi sinh
sống. Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau cá nổi tập trung chủ yếu ở phía đông và đông bắc
Bạch Long Vỹ, nam đảo Long Châu, đông bắc Hòn Mê và vùng khơi Thanh Hoá- Hà Tĩnh.
VBB có trữ lượng 2.353 tấn mực, trong đó mực ống 1.647 tấn và mực nang 706
tấn, tập trung chủ yếu xung quanh các đảo phía bắc, từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Cát
Bà (Hải Phòng), Thái Bình, ở độ sâu từ 20 m vào bờ (Bộ Thuỷ sản, 1996). Các loài mực
ống (Loliginidae) thường vào ven bờ đẻ trứng vào mùa hè, từ tháng 4-9, chủ yếu tháng 7-8.
Các loài mực nang (Sepiidae) vào ven bờ đẻ trứng vào mùa đông từ tháng 12-3 (Phạm
Thược, 2002).
ở vùng biển gần bờ tây vịnh có các bãi đánh bắt Mỹ Miều, Bái Tử Long-Hạ Long
và Vân Hải - tây nam Cô Tô, Cát Bà -bắc cửa Ba Lạt (Hải Phòng-Thái Bình), nam cửa Ba
Lạt đến Hòn Nẹ, Hòn Nẹ-Lạch Ghép, Lạch Ghép-Lạch Quèn, vịnh Diễn Châu và từ cửa
Hội đến cửa Sót. Trong 9 khu vực này, quan trọng nhất là các bãi Mỹ Miều (Quảng Ninh),
Cát Bà-bắc cửa Ba Lạt, Hòn Nẹ - Lạch Ghép và Lạch Ghép-Lạch Bạng. Trong chuyến
khảo sát tháng 3 - 4 năm 2002 của Viện Nghiên cứu Hải sản ở vùng biển ven bờ tây VBB,
khu vực có độ sâu dưới 30 m có trữ lượng tức thời 1.408 tấn tôm He, 152 tấn tôm Vỗ; khu
vực độ sâu trên 30 m có 278-321 tấn tôm Vỗ [6].
1.5. Phạm vi ảnh hưởng của dòng vật chất sông Hồng
Độ mặn nước tầng mặt VBB ở mức cao phổ biến 32-33%o và chịu ảnh hưởng của
nước sông cùng vật chất đi kèm, chủ yếu từ sông Hồng đến gần toàn bộ không gian vịnh ở
mức độ khác nhau. Theo chỉ thị về hình thái địa hình, trầm tích đáy và lơ lửng, độ mặn,
khối nước sông Hồng ảnh hưởng mạnh, thường xuyên đến độ sâu khoảng 30 m (ranh giới
ngoài của đới trước châu thổ) và ảnh hưởng rõ đến khoảng độ sâu 50 m. Khoảng độ sâu 50
m là một biên tự nhiên quan trọng đối với nghề cá biển mà ảnh hưởng của khối nước sông
4



là một trong những yếu tố quan trọng. Khoảng 70% -80% sản phẩm cá biển Việt Nam hiện
đang được khai thác ở phía trong độ sâu này. Ra phía ngoài độ sâu này, ảnh hưởng của
nước, vật chất tan và trầm tích lơ lửng yếu đi, chủ yếu vào mùa mưa lũ.
Dọc bờ về phía đông bắc, trầm tích lơ lửng từ hệ thống sông Hồng - Thái Bình ảnh
hưởng mạnh đến đông nam Cát Bà và Vịnh Hạ Long, còn nước và vật chất tan ảnh hưởng
đến vịnh Bái Tử Long và có thể còn xa hơn. Dọc bờ về phía tây nam, dòng cát từ sông
Hồng ảnh hưởng rõ đến Sầm Sơn, dòng bùn ảnh hưởng rõ rệt tới tận Mũi Đầu Rồng (vĩ độ
19o15'N) [17]. ảnh hưởng của dòng vật chất tan, trong đó có các chất gây ô nhiễm có thể
đến tận mũi Hải Vân [8].
Như vậy, dòng vật chất từ sông Hồng có ảnh hưởng trên diện rộng của vùng biển
ven bờ tây VBB, nơi phân bố các bãi tôm, cá và mực quan trọng và là các ngư trường đánh
bắt chủ yếu. Vì thế, đây cũng là không gian tác động của hồ Hoà Bình đến nguồn lợi cá
biển ven bờ.
2. Tác động của hồ Hoà Bình đến môi trường vùng cửa sông và biển ven bờ
2.1. Đặc điểm hồ hoà bình và chế độ điều tiết
Sông Đà có chiều dài 980km, trong đó 440km ở Trung Quốc, 540km ở Việt Nam,
diện tích lưu vực 51.700km 2 (52,4% trên lãnh thổ Việt Nam), chiếm 37% diện tích lưu vực
sông Hồng (141.892 km2). Lưu lượng trung bình nhiều năm của sông Đà tại Hoà Bình là
1.770m3/s. Tổng lượng chảy tính đến Hoà Bình là 55.83 tỷ m 3, bằng 51% tổng lượng chảy
sông Hồng.
Công trình hồ thuỷ điện Hoà Bình nằm trên sông Đà, tại thị xã Hoà Bình, khởi công
ngày 6/11/1979 và Tổ máy số 1 bắt đầu vận hành ngày 30/12/1988. Hồ có chức năng chính
là sản xuất điện năng, sau đó là ngăn ngừa, phòng chống lũ lụt. Các nhu cầu khác sử dụng
hồ chỉ là sản phẩm phụ. Hồ có chiều dài 230 km, diện tích 208 km 2 và diện tích lưu vực
cấp nước 51.700km2. Hồ chứa có cao trình 123 m, mực nước dâng bình thường 115 m,
dung tích tính tới mực nước dâng bình thường 9.450 triệu m 3, chiếm 8,29% tổng thủy
lượng hệ thống sông Hồng; dung tích hữu ích 5.650 triệu m3; dung tích chống lũ đến mực
nước gia cường 5.870 triệu m3. Hồ có công xuất lắp đặt 1.920 MW, sản xuất 7,8 tỉ Kwh
điện, cung cấp 40% năng lượng điện của Việt Nam và có thể giảm mức lũ Hà Nội năm
1971 từ 14,8m xuống 13,3m.

Chế độ điều tiết nước của hồ đảm bảo ưu tiên không được để mực nước hồ vượt
mực nước lũ cưỡng bức quy định với mọi trận lũ có tần xuất 0,01% ứng với lưu lượng đỉnh
lũ sông Đà tại Hoà Bình là 37.800 m 3/s và ưu tiên tham gia cắt lũ cho hạ du bao gồm lũ
thường xuyên và lũ thiết kế. Với nhiệm vụ chống lũ từ ngày 15/6 đến 15/9, ba thời kỳ vận
hành được quy định là: lũ sớm từ 15/6 đến 15/7; lũ chính vụ từ 16/7 đến 25/8 và lũ muộn
từ 26/8 đến 15/9. Duy trì mực nước +91m ±2 m trong thời kỳ lũ sớm, 90 m ±2 m trong thời
kỳ lũ chính vụ. Dung tích kỳ lũ muộn tuỳ theo tình hình thời tiết cuối tháng 8, dự báo đầu
tháng 9 và đảm bảo hiệu ích phát điện trong các tháng sau lũ [2].
2.2. Những tác động của hồ Hoà Bình ảnh hưởng đến nguồn lợi cá biển ven bờ
Làm mất hoặc ảnh hưởng đến nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống và chặn đường di cư đi
đẻ của một số loài thuỷ sinh.
5


Hồ Hoà Bình đã chặn đường di cư từ biển lên thượng nguồn đi đẻ của một số loài
cá kinh tế, trong đó nổi bật nhất là cá mòi và cá cháy. Nhiều hồ trên thế giới có thiết kế
cầu vượt cho cá đi đẻ, nhưng hồ Hoà Bình không có loại cầu vượt này. Hồ còn làm mất
bãi đẻ của các loài cá kinh tế như cá mòi, cá cháy do vùng thị xã Hoà Bình bị chìm trong
lòng hồ, mất bãi đẻ của cá mòi và cá ngạnh do lòng sông từ hồ đến Trung Hà bị xói sâu 78m. Khoảng 500 triệu cá bột (khoảng 40-50% cá bột sông Hồng) bị giảm do xây đập (Bộ
Thuỷ sản, 1996). Dải ven bờ tây VBB, trong đó có vùng trước cửa sông Hồng là các bãi
giống bãi đẻ của các loài thuỷ sản. Hầu hết các loài tôm cá và thuỷ sản khác di cư vào
vùng ven bờ đi đẻ trong khoảng tháng 4-9. Đây là thời gian điều kiện sinh thái các bãi đẻ
bị xáo động nhiều do điều tiết hồ.
Giảm khối lượng lớn bùn cát đưa ra cửa sông ven biển.
Các số liệu công bố khác nhau [21] , [9] , [12], nhưng đều cho thấy lượng bùn cát
bị giữ lại đáy hồ là rất lớn. Theo tài liệu của Trung tâm Tài nguyên nước và Môi trường
(1999), so sánh thời kỳ 1990-1993 và 1961-1970, 91,8% lượng phù sa sông Đà, hay 48,6%
tổng lượng bùn cát sông Hồng lắng dưới đáy hồ. Khi trắc diện lòng sông cân bằng sau thời
kỳ dài, tổng lượng bồi tích sông Hồng sẽ giảm thực tế trung bình khoảng 48,6%, tức là
gần một nửa do bồi lắng dưới hồ Hoà Bình, khoảng 55 triệu tấn mỗi năm. Do vậy, ở vùng

ven bờ xói lở tăng lên và bồi tụ giảm đi, dẫn đến giảm mức gia tăng tự nhiên của diện tích
nơi sinh cư của các loài thuỷ sản ven bờ châu thổ.
Trong giai đoạn 1930-1965 tốc độ tiến ra biển trung bình là 28,7 m/năm. Trong giai
đoạn 1965-1990, tốc độ tiến ra biển trung bình 29,1 m/năm [18]. Tính toán bằng phương
pháp thể tích với lượng bùn cát thay đổi trước và sau xây hồ Hoà Bình cho thấy tốc độ bồi
tụ ven bờ CTSH giảm từ 27,4 m/năm xuống 14,7 m/năm, mất đi 12.7 m/năm, tương
đương 190 ha/năm. Có thể nhận định rằng, hậu quả xói lở bờ châu thổ và giảm tốc độ bồi
sẽ rất lớn và thể hiện ngày càng rõ trong thời gian tới. Sự thiếu hụt bùn cát từ lục địa ra
biển do bị lưu giữ lại ở đáy hồ Hoà Bình là một trong những nguyên nhân quan trọng góp
phần tăng cường xói lở bờ biển Bắc Bộ với cường độ lớn [19]. Vùng triều CTSH là nơi
có tiềm năng lớn phát triển đầm lầy sú vẹt và hệ sinh thái rừng ngập mặn có năng xuất sinh
học thuộc loại cao nhất ở vùng ven bờ. Do tốc độ bồi tụ giảm đi và xuất hiện xói lở mạnh ở
một số đoạn bờ dẫn đến thiệt hại về đa dạng sinh học và các sản phẩm của hệ sinh thái.
Theo tính toán, mỗi năm tốc độ bồi tụ giảm 150 ha, tương ứng với giảm khả năng hình
thành 3.000 ha rừng ngập mặn sau 20 năm.
Thay đổi phân bố nước, bùn cát lơ lửng ở cửa sông ven biển.
Khi bắt đầu vận hành (1988), hồ phải tích đủ nước cho dung tích chết 3,8 tỉ m 3, sau
đó tích đủ dung ích hữu ích để đạt mực nước dâng bình thường với dung tích 9,45 tỉ m 3.
Vì thế đây là thời điểm gây thay đổi đột ngột điều kiện sinh thái ven bờ. Khi hồ đi vào hoạt
động đều đặn, mức độ tác động xáo trộn ít đi trong điều kiện thích ứng mới. Trong quá
trình vận hành thuỷ điện và cắt lũ, về nguyên tắc hồ không gây tiêu hao nước, chỉ trữ nước
mùa lũ và xả nước mùa khô. Nhưng lượng trữ nước mùa mưa lũ cho dung tích hữu ích
5,65 tỉ m3, chiếm khoảng 4,95% tổng lưu lượng nước hệ thống sông Hồng - Thái Bình, đã
làm giảm 6,6% tổng lượng nước mùa lũ và tăng 18.8% tổng lưu lượng nước mùa cạn. Mặc
dù lượng nước qua hồ được hoàn nguyên qua năm, nhưng lượng nước xả lớn hơn về mùa
khô tạo cơ hội cho sử dụng nước tưới vùng hạ du tăng lên. Vì vậy, tổng lưu lượng nước
sông Hồng ra biển vẫn bị giảm, nhưng khối lượng chưa được đánh giá cụ thể.
6



Khi hồ Hoà Bình xả nước về mùa khô, lượng chảy hệ thống sông Thái Bình và Văn
Úc tăng lên so với trước [23]. Tổng lượng nước phân phối cho hệ thống sông Thái Bình
tăng lên rõ rệt. Thời kỳ 1956-1989 sông Hồng chuyển nước cho sông Thái Bình qua sông
Đuống trung bình là 24,5% lượng nước qua Sơn Tây vào mùa lũ và 19,95% vào mùa cạn.
Tỷ lệ này là 27% vào mùa lũ và 24,6% vào mùa cạn sau xây hồ Hoà Bình. Nếu tính trung
bình nhiều năm thì tỷ lệ chuyển nước này là 24% trước xây hồ Hoà Bình và 27% sau xây
hồ Hoà Bình (Lương Phương Hậu và nnk, 2002). Trên sông Cấm, lưu lượng nước vào đầu
những năm 60 khoảng 9-10 km3/năm (khảo sát của các chuyên gia Liên Xô cũ) và vào đầu
những năm 90 lưu lượng nước là 12 - 13 km 3/năm (tài liệu dự án UNDP VIE-88/014,
1992).
Sau xây hồ, tổng lượng bùn cát tại trạm Sơn Tây giảm từ 114 triệu tấn xuống còn
69,2 triệu tấn. Trong khi đó, lượng bùn cát qua trạm Thượng Cát (trên sông Đuống) giảm
không đáng kể, từ 26,3 triệu tấn xuống 25,9 triệu tấn, chỉ giảm khoảng 1,5%. Sau xây hồ,
tổng lượng bùn cát sông Hồng tại Sơn Tây 69,2 triệu tấn năm, hệ thống sông Thái Bình
khoảng 1,8 triệu tấn và tổng hai hệ thống là 72 triệu tấn. Tỷ lệ phân bố bùn cát khu vực
của hệ thống sông Thái Bình, đặc biệt là ở cửa Nam Triệu tăng lên và tỷ lệ bùn cát khu vực
phía nam Cửa Ba Lạt giảm đi sau xây hồ. Trước xây hồ Hoà Bình, lượng bùn cát đưa ra
ven biển từ Đồ Sơn đến Kim Sơn 113 triệu tấn năm, ra vùng cửa Cấm-Nam Triệu khoảng 3
triệu tấn/năm. Tương quan này là 67 triệu tấn và 5 triệu tấn sau xây hồ.
Thay đổi dòng chảy và phân bố độ mặn vùng cửa sông.
Về nguyên tắc, do hoạt động phát điện và cắt lũ, về mùa mưa lũ tốc độ dòng chảy
lớn và cực đoan vùng cửa sông sẽ giảm đi. Ngược lại, về mùa khô khoảng cách chảy
ngược từ cửa sông, thời khoảng và vận tốc dòng chảy ngược sẽ giảm đi, tốc độ và thời gian
dòng chảy xuôi sẽ tăng lên, thời gian dừng chảy ở cửa sông tăng lên, đặc biệt là với các
cửa hệ thống sông Thái Bình. Sự thay đổi phân bố lưu lượng nước theo mùa chắc chắn gây
thay đổi đáng kể độ mặn vùng cửa sông, mặc dù theo Nguyễn Thượng Hùng và nnk
(1995), sự tăng độ mặn hạ du do hồ chứa vào mùa mưa không đột ngột và về mùa khô độ
mặn lớn nhất cửa sông có thể giảm 2-3,5%o, đường ranh giới xâm nhập mặn 4%o sâu nhất
có thể bị đẩy lùi về phía cửa sông 4-6km và ranh giới xâm nhập mặn 1%o thay đổi không
đáng kể. Thực tế cho thấy, so với trước xây hồ khu vực ven bờ cửa hệ thống sông Thái

Bình có xu hướng chung giảm độ mặn và tăng độ đục đáng kể, nhất là về mùa khô.
sự gia tăng bùn cát lơ lửng và lượng nước ngọt khu vực Cấm-Nam Triệu gây ảnh
hưởng đục và ngọt rõ ràng và nghiêm trọng đến khu vực Đông nam Cát Bà và một phần
Vịnh Hạ Long, gây chết san hô, làm tổn thất đáng kể các giá trị sinh thái, nguồn giống và
đa dạng sinh học khu vực này trong những năm 1998-1999 (Nguyễn Huy Yết và nnk,
2000). Nhiều loài quý hiếm trên các rạn san hô khu vực này đã bị suy giảm nghiêm trọng
và có nguy cơ bị tiêu diệt cùng với sự khai thác quá mức như tôm hùm, bàn mai, ốc nón
v.v... Về lâu dài, đục hoá và ngọt hoá còn ảnh hưởng đến tiềm năng du lịch sinh thái khu
vực Cát Bà và Hạ Long.
Hạn chế khả năng đưa vật chất từ sông ra ngoài khơi xa.
Tổng lượng nước sông được đưa ra tạm coi như không đổi, nhưng do hồ cắt lũ và
điều tiết dòng ổn định phục vụ mục tiêu phát điện, nên dòng chảy cửa sông ổn định hơn,
không có các giá trị tốc độ cực đoan hoặc quá lớn. Vì vậy, khả năng phát tán bồi tích lơ
7


lửng, dinh dưỡng và các vật chất tan khác ra ngoài khơi xa bị hạn chế đi rất nhiều. Do
không được đưa ra xa, khả năng ảnh hưởng của dòng vật chất sông Hồng dọc bờ nhờ hoàn
lưu ven vịnh xuống phía tây nam vịnh cũng bị giảm đi đáng kể.
Suy giảm dinh dưỡng vùng biển ven bờ.
Suy giảm dinh dưỡng là tác động quan trọng nhất của hồ Hoà Bình đối với nguồn
lợi nghề cá biển ven bờ. Theo Chen T. A. C. (2000), nguồn dinh dưỡng giảm đi rất lớn lại
chính do mất nguồn nước ngọt bị hồ giữ lại, làm hạn chế quá trình cung cấp dinh dưỡng từ
đáy lên lớp nước mặt. Việc xây dựng hồ Tam Hiệp trên sông Trường Giang làm giảm
nguồn dinh dưỡng ra biển Đông Trung Hoa. Nhưng dinh dưỡng photpho mất đi từ sông chỉ
là nguồn rất nhỏ. Lớp trầm tích mặt đáy biển ven bờ vốn khá giàu photpho nguồn gốc sinh
vật là nguồn cung cấp cho thực vật nổi trong nước tầng mặt phát triển nhờ dòng nước trồi
thẳng đứng từ đáy lên, liên quan đến cơ chế cân bằng nước - muối khi có nguồn nước
ngọt từ sông đưa ra. Nếu dòng chảy sông giảm 10% do hồ thì sẽ làm giảm mạnh dinh
dưỡng photpho đưa lên tầng mặt, năng suất sơ cấp và sản lượng cá sẽ giảm tương ứng là

9%. Với kết quả của công trình nghiên cứu này, có thể đánh giá định lượng những thiệt
hại nghề cá biển do hồ thượng nguồn gây ra.
Nếu tổng lượng nước ngọt mùa mưa lũ các sông đổ vào VBB, phần biển Việt Nam
tính đến hết phạm vi Quảng Bình là 127 tỉ m3 (75% cả năm), thì khối lượng trung bình tích
nước mùa mưa lũ và xả nước mùa khô của hồ Hoà Bình là 5,65 tỉ m 3 (tương đương dung
tích hữu ích của hồ), bằng 4,448% tổng lượng này. Mặc dù hồ xả nước vào mùa khô tiếp
theo, nhưng việc giảm lưu lượng nước mùa mưa lũ (tháng 6-9) làm giảm dinh dưỡng,
năng xuất sơ cấp và sinh khối, cắt đứt mắt xích liên tục trong chuỗi thức ăn. Đây là thời
gian cá đẻ và sinh trưởng mạnh. Theo chế độ vận hành hồ, mực nước +91m ±2m được duy
trì trong thời kỳ lũ sớm 15/6- 15/7 hàng năm, nằm giữa mùa cá di cư vào gần bờ đi đẻ. Tác
động gây thiếu hụt dinh dưỡng và thức ăn vùng cửa sông và biển ven bờ vào thời kỳ này
gây tác động lớn đến nghề cá cả năm. Lượng nước ngọt tích lại khi kết thúc mùa mưa lũ
được xả phát điện vào mùa khô đưa ra biển sẽ có tác dụng nhất định đối với sản lượng
nghề cá, nhưng không lớn vì những lý do sau: một lượng nước ngọt đáng kể được sử dụng
tưới về mùa khô nhờ điều tiết nước hồ; lượng còn lại đưa ra cửa sông ven bờ chỉ tập trung
sát cửa sông, không đủ động năng đưa ra xa vào khu vực biển ven bờ, nên tác dụng dinh
dưỡng chỉ trong phạm vi rất hẹp sát bờ; thời gian xả nước phát điện mùa khô không phải là
mùa sinh đẻ và phát triển mạnh của các loài thuỷ sản (mùa tôm cá đẻ tháng 4-9).
Các chất dinh dưỡng trong nước sông đưa ra dải ven bờ tồn tại ở trạng thái tan, huyền phù
và nằm trong chất rắn lơ lửng. Chắc chắn khi xây hồ, trữ nước, dinh dưỡng dạng huyền
phù và chất rắn sẽ bị giữ lại lượng đáng kể. Thậm chí, điều kiện hoá lý trong hồ cũng có
thể làm thay đổi hàm lượng dinh dưỡng tan trong nước và lưu giữ một phần tại hồ. Trong
số các chất dĩnh dưỡng, quan trọng nhất là nguồn phot pho, được đánh giá là tải lượng
14.860 P043- tấn/năm đối với hệ thống sông Hồng (Phạm Văn Ninh, 1995). Việc lưu giữ
khoảng 5,65 tỉ m3 nước trong hồ vào mưa lũ cũng có nghĩa là làm giảm đi một lượng dinh
dưỡng đáng kể sông tải ra lục địa, tương đương 736 tấn phospho tan. Lượng phospho này,
nếu tham gia vào chuỗi dinh dưỡng của hệ sinh thái có thể tạo ra hàng ngàn tấn thuỷ sản.
Theo Chen A.T.C. (2000), lượng cá mất đi do giảm trực tiếp dinh dưỡng từ sông Trường
Giang liên quan đến thiếu hụt phospho chiếm khoảng 7% so với tổng lượng cá bị mất đi do
tác động của hồ chứa.

8


Gia tăng khả năng ô nhiễm vùng cửa sông.
Cùng với sự gia tăng khối lượng chất thải do các hoạt động dân sinh kinh tế trên
lưu vực, sự giảm tải nước sẽ làm tăng hàm lượng chất gây ô nhiễm trong nước sông đổ ra
biển, dẫn đến mức độ tập trung cao của chúng ở ven bờ tại các bẫy ô nhiễm, tác động xấu
đến các hệ sinh thái ven bờ phía bắc. Tình trạng ô nhiễm một số yếu tố trong môi trường
nước và trầm tích cửa sông ven bờ đã được ghi nhận. Đã nhận thấy có sự tích tụ cao các
kim loại nặng và biểu hiện bị ô nhiễm đồng, chì, kẽm, thủy ngân trong cơ thể sinh vật, nhất
là các loài hai mảnh vỏ có tập tính ăn lọc có khả năng tích tụ các kim loại nặng cao hơn các
loài khác. [8].
2.3. Đánh giá tổng hợp các tác động đối với nguồn lợi cá biển ven bờ.
Các tác tác động chính, không gian tác động (theo 4 cấp rất lớn, lớn, vừa và nhỏ)
và mức độ tác động của chúng (rất mạnh, mạnh, trung bình, yếu) của hồ Hoà Bình tới
vùng cửa sông và biển ven bờ được tổng hợp trên bảng 1.
Bảng 1. Tổng hợp các tác động phát sinh do điều tiết hồ thuỷ diện Hoà Bình.
Không gian tác động
Mức độ tác động
T Loại tác động
rất
lớn vừa nhỏ rất
mạnh trung yếu
lớn
1

Mất nơi cư trú.

2


Mất hoặc ảnh hưởng xấu đến
bãi giống, bãi đẻ và chặn
đường di cư đi đẻ.
Giảm bùn cát đưa ra ven bờ X
Giảm nguồn dinh dưỡng X
vùng biển ven bờ.
Thay đổi cân bằng, phân bố
nước, bùn cát lơ lửng và
dòng chảy các cửa sông.
Thay đổi phân bố độ mặn
vùng cửa sông.
Hạn chế khả năng phân tán X
vật chất từ sông đi xa.
Tăng khả năng tập trung chất
ô nhiễm vùng cửa sông.

3
4
5
6
7
8

mạnh

bình

X
X


X
X
X
X

X

X
X

X
X

X

X

ở mức độ tác động rất lớn có: giảm bùn cát đưa ra ven bờ; giảm nguồn dinh dưỡng ở vùng
biển ven bờ và mất bãi giống, bãi đẻ và chặn đường di cư đi đẻ. ở mức độ lớn có: thay đổi
cân bằng, phân bố nước, bùn cát lơ lửng và dòng chảy các cửa sông và hạn chế khả năng
phân tán vật chất từ sông ra xa. ở mức độ vừa: tăng khả năng tập trung chất gây ô nhiễm ở
vùng cửa sông. ở mức độ yếu: thay đổi phân bố độ mặn vùng cửa sông và mất nơi cư trú.
Như vậy, suy giảm đa dạng sinh học và suy giảm nguồn lợi thuỷ sản đánh bắt, nuôi
trồng liên quan đến hồ Hoà Bình thông qua các tác nhân như: chặn đường di cư đi đẻ, mất
bãi giống, bãi đẻ và mất nơi cư trú; đảo lộn cân bằng sinh thái và các yếu tố môi trường
liên quan đến điều tiết hồ; thiếu hụt dinh dưỡng; tập trung chất gây ô nhiễm ven bờ và các
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp khác. Sự suy thoái các hệ sinh thái do mất nơi cư trú, ô
nhiễm và đảo lộn các yếu tố sinh thái đã dấn đến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi
thủy sản đánh bắt, nuôi trồng.
9



3. Đánh giá tổn thất nguồn lợi cá biển ven bờ do công trình hồ Hoà Bình
3..1. Diễn biến thực tế
Nguồn lợi nghề cá vùng cửa sông ven biển có xu hướng giảm rõ rệt do nhiều
nguyên nhân, trong đó chắc chắn có nguyên nhân xây dựng hồ trên lưu vực. Khoảng 50%
trữ lượng tôm, cua cá, nước lợ và biển nông bị giảm sau thời gian xây hồ Hoà Bình. Sản
lượng cá cháy Maerura reeverssi ở sông Hồng, cửa Ba Lạt, cửa Bạch Đằng trong khoảng
thời gian từ 1962-1964 là 8-15 nghìn tấn/năm, đến nay không còn khai thác. Sản lượng cá
mòi Clupanodon thrisa trên sông Hồng trong thời gian 1964-1979 là 40-356 tấn/năm, đến
nay cũng không còn khai thác. Do nhiều lý do, sản lượng cá khai thác tự nhiên ở đồng
bằng sông Hồng nay chỉ còn 1.000 tấn/năm so với trước đây là 5.000 tấn/năm. Nguồn lợi
mỏ tôm Cát Bà- Ba Lạt giảm 50% so với trước đắp hồ Hoà Bình và hồ trên thượng nguồn
có thể là một nguyên nhân quan trọng [3].
Trữ lượng trung bình cá nổi VBB (phần biển Việt Nam) khoảng 390 nghìn tấn và
khả năng khai thác 156 nghìn tấn (Bộ Thuỷ sản, 1996). Trữ lượng cá tầng đáy tính trung
bình theo nhiều tác giả từ 1958 đến 1985 khoảng 456 nghìn tấn và khả năng khai thác 226
nghìn tấn. Tổng cộng trữ lượng cá VBB trước 1985 là 846 nghìn tấn và khả năng khai thác
456 nghìn tấn. Theo Bùi Đình Chung và nnk (2001), vùng biển Việt Nam thuộc VBB, trữ
lượng cá nổi nhỏ 390.000 tấn, cá đáy 291.166 tấn, tổng 681.166 tấn.
Những năm gần đây (1997-2002), trữ lượng cá biển VBB phần thuộc Việt Nam
được đánh giá trung bình khoảng 567.353 tấn, khả năng khai thác bền vững hàng năm
trung bình 226.942 tấn. Nguồn lợi cá giảm sút, đặc biệt vùng nước ven bờ. Sản lượng khai
thác một số loài cá có giá trị kinh tế cao như chim, thu, nhụ hang, cá sạo... giảm mạnh,
trong khi cá tạp lại tăng như miễn sành hai gai, úc, trích ve v.v. Trước năm 1990, các kết
quả đánh giá trữ lượng cá đáy khoảng 420-560 nghìn tấn, theo kết quả của dự án ALMR V
năm 2002 chỉ còn 167 nghìn tấn, giảm đi khoảng 60-70%[16].
Trữ lượng cá tầng đáy VBB có xu hướng giảm đi, được đánh giá khoảng 37-56
vạn tấn vào năm đánh giá 1974 (Lê Trọng Phấn), 50 vạn tấn vào nawm 1977 (Phạm
Thược), 33 vạn tấn vào năm 1985 (Nguyễn Xuân Lộc), 17,5 vạn tấn vào năm 1994 (Lê Văn

Dũng và Đào Văn Tự) và 11,6 vạn tấn vào năm 2000 (Phạm Thược). Ngoại trừ phương
pháp đánh giá khác nhau, có rất nhiều lý do dẫn đến suy giảm mạnh mẽ này, đặc biệt là
đánh bắt quá mức. Tuy nhiên không thể không ghi nhận mối quan hệ hình thức là trữ lượng
cá đáy giảm đi gần hai lần trong khoảng thời gian 1985-1994 là khi hồ thuỷ điện Hoà Bình
đi vào hoạt động.
Năng suất khai thác của nhiều loại nghề giảm. Nghề cá nổi có sản lượng chiếm gần
60% sản lượng khai thác nhưng sản lượng của nhiều nhóm cá đã vượt ngưỡng cho phép,
dẫn đến số lượng đơn vị nghề khai giảm ở miền Bắc. Số lượng đơn vị nghề vó kết hợp ánh
sáng giảm trên 90% so với năm 1977. Năng suất khai thác trên đơn vị tàu thuyền giảm.
Nghề vó kết hợp ánh sáng trước kia năng suất đạt 100 tấn/vàng/năm nay chỉ còn 3040tấn/vàng/năm. Sản lượng bình quân của 1 mã lực máy tàu trong 1 năm từ 0,92 tấn/CV
năm 1981, chỉ còn 0,36 tấn/CV năm 2001, giảm 61%. Sản lượng cá đáy cũng giảm tới
30-36%. Nhiều loại nghề khai thác cá nổi khác cũng giảm tương tự. Tỷ lệ các loài có giá
trị kinh tế cao như: cá Sạo, cá Hồng, cá Mòi, cá Đé, cá Song, cá Sủ giảm đi nhiều so với
trước đây, năng suất đánh bắt ở nhiều khu vực giảm đi rõ rệt (Phạm Thược, 2002).
10


Tôm đánh bắt giảm cả về sản lượng và kích cỡ. ở bãi tôm Mĩ Miều, sản lượng
tháng 7 năm 1975 đạt 5,88 kg/giờ, tháng 7 năm 1995 chỉ còn 2,65 kg/giờ. Mật độ sản
lượng tháng 7 năm 1975 đạt 120 kg/km 2, tháng 7 năm 1995 chỉ còn 54kg/km 2 [3]. Trong
đợt khảo sát vào tháng 3-4 năm 2002 từ Quảng Ninh tới bắc Nghệ An, từ 30 m nước trở
vào phía tây vịnh, so với trước đây có biến động lớn về các loài tôm nhóm tôm he
(Penaeus), không thấy xuất hiện tôm sú (Penaeus monodon), tôm he mùa (Penaeus
merguiensis), tôm he ấn Độ (Penaeus indicus) và tôm he phương đông(Penaeus
orientalis). Nói chung, năng xuất đánh bắt tôm giảm từ bờ ra khơi và giảm rõ rệt trong
khoảng độ sâu 20-30 m nước trở ra [2]. Ước tính trữ lượng tôm vùng biển phía tây vịnh
Bắc Bộ (tháng 3-4 năm 2002) là 1.322 tấn, trong đó dải độ sâu dưới 20 m (13.700 km 2) là
494,5 tấn, dải 20-30 m (16.250 km2) là 684, 4 tấn và dải 30-50 m (20.640 km 2)là 143,1 tấn.
Trữ lượng và khả năng khai thác ở độ sâu dưới 30m giảm 23,44% so với thời kỳ 19751988 (1.540 tấn). Năng xuất khai thác thấp, trung bình đạt 2,9 kg/giờ. Mật độ tôm trên toàn
vùng biển khảo sát là 40,77 kg/km 2, bằng 57,64% của thời kỳ 1975-1990. Thành phần sản

lượng của các loài tôm kinh tế thấp [6].
Đánh giá chung, có thể thấy rằng năng suất đánh bắt các loại hải sản ở vùng biển
ven bờ tây VBB giảm khoảng 40-50% khi so sánh thời kỳ 1988-1990 so với nhiều năm
trước. Những nguyên nhân suy giảm cơ bản này là do khai thác quá mức, do mất bãi
giống-bãi đẻ, mất nơi cư trú, do ô nhiễm tại chỗ và nguồn thải từ đất liền, do đảo lộn điều
kiện sinh thái cửa sông ven bờ và suy giảm dinh dưỡng. Trừ khai thác quá mức, các
nguyên nhân còn lại ở mức độ khác nhau, đều liên quan đến xây dựng và điều tiết hồ Hoà
Bình.
3.2. Đánh giá tổn thất nguồn lợi cá biển ven bờ
Việc tính tổn thất trữ lượng cá biển ven bờ tây VBB dựa vào phương pháp tính
điểm trọng số tác động môi trường kết hợp với kinh nghiệm của Chen T.A.C (2000) cho
trường hợp đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang đối với biển Đông Trung Hoa.
Bảng 2: Ma trận xác định điểm trọng số các yếu tố tác động làm giảm trữ lượng
cá vịnh Bắc Bộ, phần Việt Nam.
TT Tác động trên hệ thống
Điểm
Do hồ Hoà Bình
lưu vực bờ tây vịnh Bắc Bộ
trọng số
1
Khai thác quá mức và đánh bắt huỷ 50
0
diệt nguồn lợi.
2
Giảm dinh dưỡng cửa sông và vùng 20
15 (2 giảm trực tiếp dinh dưỡng từ
biển ven bờ.
sông và 13 giảm nguồn phospho
từ đáy do giảm nước ngọt từ
sông).

3
Mất nơi cư trú, mất hoặc tác động 12
3
đến bãi giống, bãi đẻ và chặn đường
di cư đi đẻ:
4
Gia tăng và tập trung chất ô nhiễm. 7
1
5
Thay đổi chế độ thuỷ văn và sinh 6
4
thái cửa sông ven bờ (dòng chảy, độ
mặn, độ đục).
6
Biến động khí hậu-thuỷ văn (nhiệt
độ, mưa, bão, sóng, nước dâng v.v.) 5
0
Tổng cộng
100
23
11


Để tính thiệt hại do hồ Hoà Bình gây ra cho nghề cá biển, cần phải xác định được
tổng thiệt hại do tất cả các nguyên nhân gây ra và tính theo trọng số từng nhân tác (bảng 2).
Do tính chất quá phức tạp của các mối quan hệ nhiều chiều, bài toán chỉ có thể giải được
nhờ xác định trọng số của các yếu tố gây tác động theo ma trận quan hệ theo phương pháp
đánh giá tác động môi trường. Việc lựa chọn điểm trọng số thể hiện tính logic và tính thực
tiễn của các yếu tố tác động trong mối quan hệ tác động và kết quả tính toán phải phù hợp
với những thông số có khả năng xác định được bằng khảo sát thực tiễn. Ví dụ, trữ lượng

cá tính theo các thời điểm tương đối xác định, tỷ lệ suy giảm trữ lượng và năng xuất đánh
bắt theo thời gian.
Áp dụng nghiên cứu của Chen T.A.C (2000) cho hồ Hoà bình trên sông Hồng, thì
phần trữ lượng cá VBB phía Việt Nam giảm do giảm nguồn phospho cung cấp từ đáy sẽ là:
P1 = 4,4488% x P x k x k'

(1)

ở đây:
- P : trữ lượng cá ban đầu của vùng biển ven bờ tây VBB.
- P1: trữ lượng cá biển bị giảm do tích nước ngọt trong hồ Hoà Bình dẫn đến giảm
dinh dưỡng phot pho cung cấp từ đáy biển.
- 4,4488% là hệ số giữa dung tích nước hữu ích của hồ Hoà Bình (tích mùa mưa lũ
để xả phát điện mùa khô) so với tổng lưu lượng tất cả các sông bờ tây đổ vào vịnh.
- k = 0,9 là hệ số có ý nghĩa: khối lượng nước giảm 10%, sản phẩm cá giảm 9%.
- k' = 0,8 là hệ số có ý nghĩa: nếu sản phẩm cá bị mất do tích nước mùa mưa lũ là
100%, thì sản phẩm cá được bù lại khi xả nước mùa khô là 20%. Tổng hợp, sản phẩm cá
chỉ mất 80%.
Căn cứ vào điểm trọng số trên bảng 2, ta có hệ phương trình:
P1 = A x P2/B

(2)

P - P2 = P3

(3)

Ở đây:
- P2: lượng cá vùng biển ven bờ tây VBB bị suy giảm do tổng các tác động khác nhau.
- P3: trữ lượng cá vùng biển ven bờ tây VBB còn lại, ở đây chọn P3 = 567.353 tấn (theo tài

liệu của Đào Mạnh Sơn, 2002) [16].
- A: trọng số điểm tác động giảm dinh dưỡng phospho từ đáy biển do nguồn nước ngọt trữ
lại hồ cho phát điện mùa khô. ở đây A = 13.
- B: tổng trọng số điểm gây tác động suy giảm trữ lượng cá biển ven bờ tây VBB. ở đây B
=100.
Thay (1) vào (2) ta có:
4,4488% P x 0,9 x 0,8 = A x P2/B

(4)

Thay các giá trị A, B vào (4), ta có:
3,203136 % P = 0,13 x P2
Hay:

P2 = 0,246395 x P

(5)

Thay (5) và giá trị P3 = 567.353 tấn vào (3) và ta được:
12


P - 0,246395 x P = 567.353 tấn

(6)

Tính ra ta được :
P = 752.853 tấn; P2 = 185.500 tấn và P1 = 24.115 tấn
Như vậy, qua nhiều năm, trữ lượng cá biển ven bờ giảm đi 185.500 tấn, tương ứng
giảm 24,6% tổng trữ lượng cá ban đầu. Trong đó, điều tiết hồ Hoà Bình làm giảm 42.665

tấn (tương ứng giảm 5,66% tổng trữ lượng cá ban đầu) và riêng tác động lưu giữ nước tại
hồ phát điện mùa khô gây thiếu dinh dưỡng làm giảm 27.825 tấn cá (do giảm trực tiếp
dinh dưỡng từ nước sông 3.710 tấn và do giảm nguồn cung cấp photpho từ đáy biển ven bờ
24.115 tấn). Thiệt hại này mới tính cho đối tượng cá, chưa tính đến các đối tượng khác như
tôm, mực v.v...
Nếu tính sản lượng đánh bắt cho phép hàng năm bằng 50% trữ lượng, hồ Hoà Bình
làm giảm sản lượng cá biển đánh bắt 21.332,5 tấn/năm. Nếu tính giá 20 triệu dồng cho
mỗi tấn, thiệt hại cho đánh bắt cá biển hàng năm là 426,65 tỉ đồng Việt Nam, tương đương
27,6 triệu USD.
Ngoài thiệt hại về sản lượng đánh bắt, còn thiệt hại do đầu tư chi phí trong điều
kiện năng suất đánh bắt giảm. Trong tỷ lệ giảm năng suất đánh bắt 40-50%, tác động của
hồ Hoà Bình đóng góp 9,2- 11,5%. Có nghĩa là, hồ Hoà Bình còn làm tăng chi phí đánh
bắt nghề cá biển vịnh Bắc Bộ (phương tiện tầu thuyền, ngư cụ, dầu mỡ, nhân công) lên
9,2-11,5%. Càng vào những năm khô hạn, khả năng tích nước trong hồ càng tăng và thiệt
hại về sản lượng và chi phí đánh bắt nghề cá biển càng lớn.
KẾT LUẬN
Việc xây dựng và điều tiết hồ Hoà Bình làm mất một khối lượng bùn cát lớn và
thay đổi phân bố lưu lượng nước ngọt, bùn cát và dinh dưỡng từ sông đưa ra biển, đã gây
tác động lớn đến môi trường và tài nguyên không chỉ ở cửa sông mà trên không gian rộng
lớn của vùng biển ven bờ tây VBB. Một trong những hậu quả tác động lớn nhất là suy
giảm nguồn lợi nghề cá biển ven bờ do giảm dinh dưỡng vùng cửa sông và biển ven bờ;
thay đổi điều kiện sinh thái cửa sông ven bờ (dòng chảy, độ mặn, độ đục v.v...); mất nơi
cư trú, mất hoặc tác động đến bãi giống, bãi đẻ và chặn đường di cư đi đẻ một số loài thuỷ
sản; gia tăng và tập trung chất ô nhiễm ở môi trường ven bờ.
Bằng phương pháp đánh giá tác động môi trường, cho điểm trọng số và sử dụng kết
quả nghiên cứu của Chen T.A.C (2000), kết quả tính toán cho thấy qua nhiều năm, trữ
lượng cá biển ven bờ VBB phần Việt Nam giảm đi 185.500 tấn, bằng khoảng 24,6% tổng
trữ lượng cá ban đầu. Trong đó, việc xây dựng và điều tiết hồ thuỷ điện Hoà Bình làm
giảm trữ lượng 42.665 tấn (3.710 tấn do giảm dinh dưỡng trực tiếp từ nước sông, 24.115
tấn do giảm nguồn cung cấp phospho từ đáy liên quan đến hồ trữ nước ngọt mùa mưa lũ và

14.840 tấn do các tác động khác của hồ). Nếu tính sản lượng đánh bắt hợp lý bằng một nửa
trữ lượng cá biển, hồ Hoà Bình làm giảm sản lượng đánh bắt 21.332,5 tấn/năm, trị giá
426,65 tỉ đồng Việt Nam/năm, tương đương 27,6 triệu USD/năm. Hậu quả tác động của hồ
còn làm tăng chi phí đánh bắt (phương tiện tầu thuyền, ngư cụ, dầu mỡ và nhân công) lên
9,2- 11,5%.
Nhu cầu điện năng, chống lũ và nước tưới trong tương lai đòi hỏi xây dựng bậc
thang thuỷ điện sông Đà, trong đó có thuỷ điện Sơn La lớn nhất. Vì thế, sức ép đối với
13


môi trường sinh thái cửa sông ven biển do hồ thượng nguồn ngày càng tăng và tổn thất
đối với nghề cá biển ven bờ sẽ càng lớn. Trong bài toán quy hoạch quản lý tài nguyên nước
lưu vực sông Đà nói chung và xây dựng đập thuỷ điện Sơn La nói riêng, cần có đánh giá
chi tiết tác động đến nguồn lợi cá biển ven bờ để có những giải pháp ứng xử thích hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB, 1993. Vietnam environment sector study. Technical report. pp. 1-116.
2. Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương, 1997. Quyết định của Trưởng ban chỉ
đạo PCLB trung ương về việc phê duyệt "Quy trình vận hành hồ thuỷ điện Hoà
Bình và các công trình cắt giảm lũ sông Hồng trong mùa mưa lũ hàng năm". Quyết
định số 57 PCLBTƯ/QĐ ngày 12 tháng 6 năm 1997.
3. Bộ Thủy Sản, 1996. Nguồn lợi thủy sản Việt Nam. NXb. Nông nghiệp, Hà Nội. Tr
1-616.
4. Chen-Tung Arthus Chen, 2000. The Three Gorges Dam: Reducing the Upwelling
and thus Productivity in the East China Sea. Geophysical Research Letter, Vol.27,
No.3, p. 381-383.
5. Bùi Đình Chung, Chu Tiến Vĩnh , Nguyễn Hữu Đức, 2001. Nguồn lợi cá biển- cơ
sở phát triển của nghề cá biển Việt Nam. Tuyển tập các công trình nghiên cứu
nghề cá biển. Tập II. Nhà xuất bản nông nghiệp. Hà Nội. Tr. 199-210.
6. Nguyễn Công Con, Phạm Quốc Huy, Lại Duy Phương, 2002. Nguồn lợi tôm vùng
Vịnh Bắc Bộ năm 2002. Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học " Điều kiện tự nhiên,

tài nguyên và môi trường Vịnh Bắc Bộ". Hải Phòng, 2002.
7. Nguyễn Đức Cự và nnk, 1998. Điều tra khảo sát chất lượng môi trường và động
thái dinh dưỡng vùng cửa sông châu thổ sông Hồng. Báo cáo đề án điều tra cơ bản
cấp nhà nước trong hai năm 1997-1999. Lưu trữ tại Phân viện Hải dương học tại
Hải Phòng.
8. Lưu Văn Diệu, Nguyễn Thị Phương Hoa và nnk, 2001. Đánh giá mức độ ô nhiễm
do nguồn thải từ lục địa, đề xuất giải pháp kiểm soát, quản lý ô nhiễm vùng biển
ven bờ phía bắc (từ Quảng Ninh đến Thanh Hoá). Lưu trữ tại Phân Viện Hải
Dương học tại Hải Phòng.
9. Nguyễn Kiên Dũng, 1999. Bồi lắng bùn cát hồ Hoà Bình tronh giai đoạn đầu tích
nước. Khí tượng Thuỷ văn. No.6 (462). Hà nội. Tr.10-15.
10. Đội liên hiệp Việt-Trung, 1965. Báo cáo điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ. Lưu trữ tại
Phân viện hải dương học tại Hải Phòng.
11. Lương Phương Hậu, Trịnh Việt An và Lương Phương Hợp, 2002. Dòng chảy cửa
sông vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nxb. Xây Dựng. Hà Nội. Tr.1-172.
12. Hoa Mạnh Hùng, 2001. Động lực hình thái cửa sông ven biển đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam phục vụ khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường cửa sông ven
biển. Tóm tắt luận án tiến sỹ Địa lý. Hà Nội. Tr. 1-21.
13. Nguyễn Thượng Hùng và nnk, 1995. Nghiên cứu và dự báo biến động của môi
trường và đề xuất các định hướng phát triển kinh tế -xã hội tại vùng thượng và hạ
du công trình thuỷ điện Hoà Bình. Báo cáo khoa học đề tài nhà nước KT-02-14.
14. Phạm Văn Ninh, 1995. Ô nhiễm biển do sông tải ra. Báo cáo tổng kết đề tài KT 03 - 07. Hà Nội.
14


15. Nguyễn Viết Phổ, 1984. Dòng chảy sông ngòi Việt Nam. NXB. KH và KT. Hà
Nội.
16. Đào Mạnh Sơn, 2002. Tình hình nghiên cứu nguồn lợi hải sản và môi trường ở vịnh
Bắc Bộ trong những năm qua. Tuyển tập báo cáo khoa học hội thảo “Điều kiện tự
nhiên, tài nguyên và môi trường vịnh Bắc Bộ”. Hải Phòng, 2002. Tr.54-61.

17. Trần Đức Thạnh và nnk, 1985. Địa chất địa mạo dải ven biển phía bắc Việt Nam.
Báo cáo chuyên đề. Đề tài 48.06.14: “Nghiên cứu đặc điểm điều kiện tự nhiên và
khả năng nguồn lợi dải ven biển Việt Nam, đề xuất biện pháp sử ụng hợp lí và bảo
vệ nguồn lợi”. Lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng.
18. Trần Đức Thạnh, Đinh Văn Huy và Trần Đình Lân, 1996. Đặc điểm phát triển của
vùng đất bồi ngập triều ven bờ châu thổ sông Hồng. Tạp chí khoa học về trái đất.
Số 18 (1), trang 50-60.
19. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Đình Chiến và Nnk, 2000.
Nghiên cứu dự báo, phòng chống sạt lở bờ biển Bắc bộ từ Quảng ninh tới Thanh
Hóa. Báo cáo dự án KHCN-5A. Lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học tại Hải
Phòng.
20. Trần Đức Thạnh và Đỗ Đình Chiến, 2002. ảnh hưởng của các đập chứa trên lưu
vực đến môi trường sinh thái ven bờ. Tài nguyên và Môi trường biển. Tập IX.
NXB. KH&KT Hà Nội.
21. Ngô Trọng Thuận, 1997. Diễn biến lòng sông Đà do ảnh hưởng vận hành hồ Hòa
Bình trong những năm đầu. Khí tượng thủy văn số 9. Trang 1 - 6.
22. Nguyễn Văn Trang, Nguyễn Tài Sơn và nnk, 2000. Quy hoạch bậc thang thuỷ điện
trên sông Đà. Báo cáo lưu trữ tại Công ty Tư vấn Xây dựng điện I. Tổng Công ty
Điện Lực Việt Nam.
23. Trung tâm Tài nguyên nước và Môi trường, 1999. Nghiên cứu biến động chất
lượng nước mặt hệ thống sông Hồng và Thái Bình. Báo cáo đề tài. Lưu trữ tại Viện
Khoa học Thuỷ lợi.
24. Vũ Văn Tuấn, 1999. Đánh giá ảnh hưởng của hồ Hoà Bình tới môi trường. Tuyển
tập các báo cáo khoa học tại hội nghị môi trường toàn quốc năm 1998. Nxb
KH&KT. Hà Nội. Tr. 486-507.
25. WCD (The World Commission on Dams), 2000. Dams and Development. A new
framework for Decision-Making. The report of from: />26. WB, ADB, FAO, UNDP, NGO. Water Resources Group and Institute of Water
Resources Planning, 1996. “ Vietnam. Water Resources Sector Review”.
Intergrated Report.
27. Nguyễn Huy Yết, Lưu Văn Diệu, Nguyễn Đăng Ngải, Lăng Văn Kẻn, 2000. Sự suy

thoái hệ sinh thái san hô vịnh Hạ Long-Cát Bà trong thời gian gần đây. Tài Nguyên
và Môi trường biển. Nxb, KH&KT. T.VII. Hà Nội. Tr. 146-59.

SUMMARY
Initially impact assessment of Hoa Binh Dam on the fishery resources in
coastal sea
15


The Hoa Binh Dam was started to build on November 6 th, 1979 and its electric generator
of No.1 began upon operation on December 30 th, 1988. Some principal parameters of the dam are
such as catchment area of 51,700 km 2; reservoir area of 208 km2; volume of 9,450 million m3;
effective volume of 5,650 million m3; installed electric power of 1.920 MW; and electric
production of 7.8 billion KWh. The dam could decrease flood level at Hanoi in 1971 from 14.8 m
down to 13.3 m; and the priority is given to its function for controlling flood from 15th June to
15th September, every year.
Analyzing data on current, salinity, bottom topography and sediments, and suspended
sediments, it is noticed that the water volume and accompanied maters from Red River appear to
influence on whole Tonkin Gulf, however, promote the strong effect to the depth of 30m and
obvious effect to the depth of 50m. In the Tonkin Gulf, the best fishing grounds distribute in
Vietnamese sea part and in shallow water less than 50m deep. The bearing season is from April to
September, and the catching season is from June to November. Due to building and operating Hoa
Binh Dam, the change and loss of great volume of fresh water, sediments and nutrients, which are
discharged from the Red River into the sea have made many serious impacts on resources and
environment in estuary and coastal sea. The reduce of fishery resources of coastal sea is one of the
heaviest impacts. It is a combined consequence of reducing nutrient; change in ecological factors
(current, salinity, turbidity etc.); loss or degradation of habitats and breeding grounds, block of
bearing migration of some fish species, and pollutant concentration in coastal environment.
A initial calculation shown that during many last years, fish stock in Vietnamese sea of
Tonkin Gulf has reduced amount of 185,500 ton occupied for 24.6% original stock. The impacts

of building and operating Hoa Binh Dam have contributed to reduce 42,665 ton fishes, from which
3,710 tons have been reduced by decreasing nutrients discharged directly from river; 24,115 tons
by decreasing phosphorous nutrient moved from seabed upward in the situation of fresh water
store in the dam during rainy season; and 14,840 tons by others impacts. Regarding that the suitable
catching production equals a half of sea fish stock, every year Hoa Binh Dam reduces 21,333.5
tons of fish production with valuation of VND 426.65 billions or USD 27.6 millions. Also, this
loss increases the coast of catching included means of shipping, fishing equipment, oil and grease
and manpower from 9.2-11.5%. This assessment needs to be referenced to the bigger hydroelectric
dam of Son La under preparing to build upstream Hoa Binh Dam.

16



×