Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Giáo Dục Bảo Vệ Môi Trường Trong Môn GDCD Trung Học Phổ Thông, Tỉnh Bạc Liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 43 trang )

The Project Adaptation to climate change through the promotion of biodiversity in Bac Lieu province

DỰ ÁN

TRONG MÔN GDCD TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - TỈNH BẠC LIÊU


Môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người và sự phát triển của xã hội loài người.
Việc bảo vệ môi trường hiện đang là một trong những vấn đề quan tâm mang tính toàn cầu của nhân loại.
Ở nước ta, môi trường và bảo vệ môi trường được Đảng và Nhà nước quan tâm. Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17 thánh 10 năm 2001 phê duyệt Đề án “Đưa các nội dung
môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Bởi lẽ, nhà trường không chỉ là nơi triển khai nội dung giáo
dục bảo vệ môi trường cho một lượng học sinh và cán bộ, giáo viên rất đông đảo mà còn là một khâu có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc truyền tải những thông tin về giáo dục bảo vệ môi trường cho các thành
viên khác trong xã hội.
Việc giáo dục bảo vệ môi trường qua các môn học ở các trường phổ thông là quá trình hình thành, phát
triển cho học sinh nhận thức và có thói quen quan tâm đến môi trường, nhất là môi trường nơi các em đang
sinh sống. Thông qua đó, hình thành cho các em thái độ, ý thức đúng đắn và các kĩ năng cần thiết để có
những hành động hài hòa với môi trường trong đời sống hằng ngày, giúp các em có đủ năng lực hoạt động
một cách độc lập hoặc phối hợp với các cá nhân khác hay tập thể để tìm ra giải pháp cho các vấn đề môi
trường hiện tại và ngăn chặn những vấn đề môi trường có thể xảy ra trong tương lai, tạo điều kiện cho sự
phát triển bền vững của đất nước.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một hợp phần trong nội dung hoạt động của Dự án GIZ - “Thích ứng với biến
đổi khí hậu thông qua thúc đẩy đa dạng sinh học tỉnh Bạc Liêu”. Được sự hỗ trợ của Dự án, nhóm tác giả các điều phối viên của Dự án đã tiến hành biên soạn bộ tài liệu tham khảo “Giáo dục bảo vệ môi trường
trong các môn học Địa lí, Sinh học, Giáo dục công dân - tỉnh Bạc Liêu” theo hướng tích hợp nội dung
giáo dục bảo vệ môi trường gắn liền với thực tiễn ở địa phương, dùng cho các trường phổ thông trong tỉnh.
Nội dung của bộ tài liệu đề cập tới những kiến thức và kĩ năng cơ bản về môi trường, tình hình môi trường
Việt Nam và môi trường tỉnh Bạc Liêu, các địa chỉ và nội dung tích hợp sát với nội dung của Dự án, có tính
chất định hướng phương thức thực hiện với các hình thức và phương pháp tích hợp hiệu quả.
Cấu trúc của tài liệu bao gồm các phần nội dung chính sau:
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


• Một số kiến thức cơ bản về môi trường
• Tình hình môi trường Việt Nam hiện nay
• Vài nét nổi bật về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên Bạc Liêu
• Diễn biến môi trường tỉnh Bạc Liêu
• Một số biện pháp khai thác hợp lí tài nguyên và BVMT ở Bạc Liêu.
• Một số vấn đề về giáo dục bảo vệ môi trường tỉnh Bạc Liêu
Phần thứ hai: GIÁO DỤC BVMT TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN SINH HỌC, ĐỊA LÍ, GDCD Ở CÁC
TRƯỜNG PHỔ THÔNG - TỈNH BẠC LIÊU
• Mục tiêu
• Chương trình tích hợp giáo dục BVMT tỉnh Bạc Liêu trong môn học
• Phương thức tích hợp giáo dục BVMT tỉnh Bạc Liêu trong môn học
• Một số bài soạn minh họa.
Bộ tài liệu này được biên soạn với sự tham vấn và góp ý của các chuyên viên sở ngành liên quan, các nhà
sư phạm và nhiều giáo viên có kinh nghiệm của tỉnh Bạc Liêu. Hy vọng, nó sẽ là tài liệu hữu ích đối với các
giáo viên hiện đang giảng dạy bộ môn Địa lí, Sinh học, GDCD ở các trường phổ thông trong tỉnh.
Mặc dù đã rất cẩn trọng và có nhiều cố gắng trong quá trình biện soạn tài liệu, song cũng không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những nhận xét và ý kiến đóng góp quí báu của các
bạn đồng nghiệp để nội dung của bộ tài liệu này được hoàn thiện hơn.


Bạc Liêu, tháng 7 năm 2011
Các tác giả


Phần thứ nhất

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

I. MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG
1. Định nghĩa

“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người
và sinh vật” (Điều 3, Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005).
Môi trường sống của con người theo
nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự nhiên
và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản
xuất của con người như tài nguyên thiên
nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng,
cảnh quan, quan hệ xã hội. Theo nghĩa
hẹp thì môi trường sống của con người
chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố
xã hội trực tiếp liên quan đến chất lượng
cuộc sống của con người như diện tích
nhà ở, nước sạch, điều kiện vui chơi, giải
trí, chất lượng bữa ăn.
Môi trường sống của con người được
phân thành: Môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội.
• Môi trường tự nhiên bao gồm các thành
phần của tự nhiên như địa hình, địa chất,
đất trồng, khí hậu, nước, sinh vật,…
• Môi trường xã hội là tổng thể các
mối quan hệ giữa con người với con
người, định hướng hoạt động của
con người theo khuôn khổ nhất định,
tạo thuận lợi cho sự phát triển, làm
cho cuộc sống của con người khác

với các sinh vật khác. Môi trường xã
hội được thể hiện cụ thể bằng các
luật lệ, thể chế, quy định.

4

Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái
niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả
các yếu tố do con người tạo ra như: nhà
ở, các phương tiện đi lại, công viên,…
Môi trường nhà trường bao gồm không
gian trường, cơ sở vật chất trong trường
như: lớp học, phòng thí nghiệm, sân
chơi, vườn trường, thầy giáo, cô giáo,
học sinh, nội quy của trường, các tổ chức
xã hội như Đoàn, Đội.
2. Các chức năng cơ bản của môi trường
a) Môi trường là không gian sinh sống
của con người và thế giới sinh vật
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người
cần một khoảng không gian nhất định
để phục vụ cho các nhu cầu sống như:
không khí để thở, nước để uống, nhà để
ở, đất để sản xuất, lương thực và thực
phẩm, vui chơi, giải trí,… Theo tính toán,
trung bình mỗi người mỗi ngày cần 4m3
không khí sạch để hít thở, 2,5 lít nước để
uống; một lượng lương thực, thực phẩm
đủ để sản sinh ra khoảng 2.000 - 2.400
calo năng lượng nuôi sống bản thân.

Chức năng này đòi hỏi phải có khoảng
không gian thích hợp cho mỗi người,
được tính bằng m2 hay ha đất đai để ở,
sinh hoạt và sản xuất của con người.

b) Môi trường là nơi chứa đựng các
nguồn tài nguyên cần thiết cho đời
sống và sản xuất của con người
Để tồn tại và phát triển, con người đã tác
động vào các hệ thống tự nhiên để tạo
ra của cải vật chất, năng lượng cần thiết
cho hoạt động sinh sống, sản xuất. Thiên
nhiên là nơi cung cấp nguồn tài nguyên,
các nguồn vật chất cần thiết phục vụ cho
đời sống con người.
Các nguồn tài nguyên này bao gồm:
• Rừng tự nhiên: Tạo độ phì nhiêu cho
đất, bảo tồn đa dạng sinh học, cung
cấp gỗ củi, dược liệu và duy trì sự cân
bằng sinh thái,…
• Nguồn nước: Cung cấp nước cho sinh
hoạt, sản xuất, thủy hải sản, năng
lượng, giao thông đường thủy và là
cảnh quan cho du lịch,…
• Động vật và thực vật: Cung cấp lương
thực, thực phẩm và các nguồn gen
quý hiếm,…
• Khí hậu: Gồm không khí, nhiệt độ,
ánh sáng mặt trời, gó, mưa,… không
thể thiếu được trong sự sống của con

người và động, thực vật.
• Các loại khoáng sản: Than, dầu mỏ,
khí tự nhiên, thiếc, đồng,… cung cấp
năng lượng và nguyên liệu cho các
hoạt động sản xuất và đời sống sinh
hoạt,…
c) Môi trường là nơi chứa đựng các
chất phế thải của đời sống và sản xuất
Trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt, con
người đã thải các chất thải vào môi trường.
Chất thải dưới tác động của các vi sinh vật
và các yếu tố môi trường khác như nhiệt độ,
độ ẩm, không khí,… sẽ bị phân hủy, biến đổi
từ phức tạp thành đơn giản, từ những thứ
bỏ đi thành các chất dinh dưỡng nuôi sống
cây trồng và nhiều sinh vật khác, làm cho các
chất thải trở lại trạng thái nguyên liệu của tự
nhiên. Tuy nhiên, do sự gia tăng dân số, do
đô thị hóa, công nghiệp hóa, lượng chất thải
vào môi trường ngày càng nhiều và phần lớn
không qua xử lý, dẫn đến ở nhiều nơi, nhiều
chỗ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường.

Vai trò của môi trường trong quá trình
này được thực hiện qua:
• Biến đổi lý - hóa: Pha loãng, phân hủy
hóa học nhờ ánh sáng; hấp thụ; tách
chiết các vật thải và độc tố.
• Biến đổi sinh - hóa: Khử các chất độc
bằng con đường sinh hóa thông qua

các chu trình vật chất của Nitơ, Cacbon, hấp thụ các chất dư thừa,…
• Biến đổi sinh học: Vai trò của vi sinh vật
trong quá trình này là rất quan trọng,
chúng phân giải, tổng hợp và làm biến
đổi chất của các thành phần tự nhiên.
d) Môi trường là nơi lưu trữ và cung
cấp thông tin cho con người
• Cung cấp thông tin về lịch sử địa chất,
lịch sử tiến hóa của vật chất và sinh
vật, lịch sử xuất hiện và phát triển của
loài người: các hiện vật, di chỉ được
con người phát hiện, giúp giải thích
được nhiều bí ẩn diễn ra triong quá
khứ. Khi kết nối giữa những sự kiện
của hiện tại với quá khứ, con người sẽ
dự đoán được những sự kiện xảy ra
trước đây và trong tương lai.
• Cung cấp các chỉ thị mang tính chất tín
hiệu để báo động sớm các hiểm họa
đối với con người và các sinh vật sống
trên Trái Đất. Nhiều sinh vật do phản
ứng sinh lý của cơ thể với những biến
đổi của điều kiện tự nhiên đã thông
báo sớm cho chúng ta những sự cố
như bão, động đất, núi lửa,…
• Môi trường còn lưu trữ và cung cấp
cho con người sự đa dạng nguồn vốn
gen sinh vật; các hệ sinh thái tự nhiên
và nhân tạo, cảnh quan thiên nhiên …


5


3. Thành phần của môi trường
a) Thạch quyển
Thạch quyển là toàn bộ lớp vỏ của Trái
Đất và phần trên cùng của lớp Manti (đến
độ sâu khoảng 100 km) dưới đáy Đại
Dương được cấu tạo bởi các vật chất ở
trạng thái cứng rắn.
Lớp trên cùng của thạch quyển là tầng
đá trầm tích do các vật liệu vụn, nhỏ bị
nén chặt tạo thành. Khi lớp trên cùng của
tầng này tiếp xúc với khí quyển và sinh
quyển tạo thành lớp vật chất mềm, xốp
được gọi là thổ nhưỡng (đất). Các thành
phần chính của đất gồm: các khoáng
chất: 40%, nước: 35%, không khí: 20%,
mùn và các loại sinh vật (chất hữu cơ):
5%. Đất là tư liệu sản xuất độc đáo, là
nguồn tài nhiên vô giá mà tự nhiên đã
ban tặng cho con người. Đất mang trên
mình nó các hệ sinh thái và là giá đỡ để
con người tác động vào các hệ sinh thái
tạo nên các nền văn minh, đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Trong vỏ Trái Đất chứa đựng nhiều tài
nguyên khoáng sản. Khoáng sản được
sử dụng trực tiếp trong công nghiệp hoặc
có thể lấy ra từ đó kim loại và khoáng vật

dùng cho các ngành công nghiệp.
b) Thủy quyển
Khoảng 71% diện tích bề mặt Trái Đất
được bao phủ bởi nước, tương đương
với 361 triệu km2. Nước rất cần cho tất
cả các sinh vật sống trên Trái Đất và là
môi trường sống của nhiều loài sinh vật.
Nước tồn tại ở 3 thể: rắn (băng, tuyết),
lỏng và hơi nước.
Theo tính toán, tổng lượng nước là
1386.106km3. Nhưng nước ngọt rất ít,
chỉ chiếm 2,5%, mà hầu hết lại tồn tại ở
thể rắn (băng, tuyết chiếm 2,24%); lượng
nước ngọt mà con người có thể sử dụng
được lại còn ít ỏi, chỉ chiếm 0,26% tổng
lượng nước.
Dân số tăng nhanh cùng với quá trình

6

công nghiệp hóa, đô thị hóa, thâm canh
nông nghiệp và các thói quen tiêu thụ
nước quá mức đang gây ra sự khủng
hoảng nước trên phạm vi toàn cầu. Gần
20% dân số thế giới không được dùng
nước sạch và 50% thiếu các hệ thống
vệ sinh an toàn. Sự suy giảm nước ngọt
ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều
vấn đề nghiêm trọng, đó là nạn thiếu
nước sinh hoạt xảy ra ở khắp mọi nơi

trên thế giới.
c) Khí quyển
Khí quyển là lớp vỏ không khí bao bọc
xung quanh Trái Đất. Khí quyển được
phân chia thành các tầng: tầng đối lưu,
tầng bình lưu, tầng giữa, tầng ion (tầng
nhiệt) và tầng ngoài (tầng khuếch tán).
Phần lớn khối lượng của khí quyển tập
trung ở các tầng thấp: tầng đối lưu và
tầng bình lưu (khoảng 5.105 tấn).
Tầng đối lưu là tầng thấp nhất của khí
quyển, chiếm khoảng 80% khối lượng
không khí của khí quyển, có nhiệt độ
giảm dần từ +400C ở lớp không khí sát
mặt đất tới tới -500C ở trên cao. Ranh
giới trên của tầng đối lưu trong khoảng
7 - 8km ở hai cực và 16 - 18 km ở vùng
xích đạo. Ở tầng này, không khí chuyển
động theo chiều thẳng đứng, tập trung
nhiều nhất lượng hơi nước, bụi và xảy ra
các hiện tượng thời tiết chính của khí hậu
như mây, mưa, bão,…
Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu. Ranh
giới trên của tầng bình lưu dao động trong
khoảng độ cao 50km. Nhiệt độ không khí
tăng dần từ -560C ở phía dưới lên tới
-20C ở trên cao. Trong tầng bình lưu, ở
độ cao khoảng 25km, có một lớp không
khí giàu khí ôzôn (O3) thường được gọi là
tầng ôzôn. Tầng ôzôn có chức năng như

một lá chắn của khí quyển, bảo vệ cho
Trái Đất khỏi những ảnh hưởng độc hại
của tia tử ngoại từ Mặt Trời chiếu xuống.
Trong tầng bình lưu luôn tồn tại quá trình
hình thành và phân hủy khí ôzôn. Hoạt
động công nghiệp và sinh hoạt của con

người thải ra nhiều loại khí có khả năng
phân hủy ôzôn làm cho có chỗ lớp ôzôn
bị mỏng đến mức chiều dày chỉ còn vài
cm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của
con người và các loài sinh vật khác.
Không khí đóng vai trò quan trọng trong
đời sống con người và thế giới sinh vật.
Các thành phần chính của không khí bao
gồm nitơ, ôxy, hơi nước và một số loại
khí trơ cũng tham gia vào mọi quá trình
xảy ra trên Trái Đất. Hiện nay tình trạng ô
nhiễm không khí đang thật sự gây hại cho
sự sống trên bề mặt Trái Đất.
d) Sinh quyển
Sinh quyển là một hệ thống tự nhiên
động, rất phức tạp. Nó bao gồm động,
thực vật, các hệ sinh thái. Sự sống trên
bề mặt Trái Đất được phát triển chính là
nhờ vào tổng hợp các mối quan hệ tương
hỗ giữa các sinh vật với môi trường, tạo
thành dòng liên tục trong quá trình trao
đổi vật chất và năng lượng mà chúng
ta thường gọi là các chu trình sinh địa

hóa như chu trình nước, chu trình cacbon, chu trình nitơ, chu trình phospho,...
Nhờ hoạt động của các chu trình này mà
vật chất được chu chuyển, sinh vật sống
được và tồn tại trong một trạng thái cân
bằng động, giúp cho chúng ổn định và
phát triển.
II. TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM
HIỆN NAY
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội trong những năm qua đã làm thay
đổi xã hội Việt Nam. Chỉ số tăng trưởng
kinh tế không ngừng được nâng cao. Tuy
nhiên, sự phát triển kinh tế chưa đảm bảo
cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Vì
vậy, môi trường Việt Nam đã xuống cấp,
nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra

nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải
quyết các vấn đề về môi trường. Hoạt
động bảo vệ môi trường được các cấp,
các ngành và đông đảo các tầng lớp
nhân dân quan tâm và bước đầu đã thu
được những kết quả đáng khích lệ. Tuy
vậy, việc bảo vệ môi trường ở nước ta
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới. Nhìn chung, môi trường
nước ta vẫn đang có xu hướng tiếp tục bị
xuống cấp nhanh, có lúc, có nơi đã đến
mức báo động.

1. Về đất đai
Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên
331.314 km2 (theo Wikipedia. org, 2008).
Phần đất liền là 31,2 triệu ha (chiếm
94,5% diện tích tự nhiên), xếp hàng thứ
58 trong tổng số 200 nước trên thế giới.
Nhưng vì số dân đông (năm 2006 là
84.156.000 người) nên diện tích đất bình
quân đầu người thuộc loại rất thấp, xếp
thứ 159/200 quốc gia và bằng 1/6 mức
bình quân của thế giới. Mặc dù diện tích
trên đầu người thấp nhưng diện tích đất
chưa sử dụng vẫn còn lớn, tính đến năm
2006 là khoảng 5,28 triệu ha, trong đó 5
triệu ha là đất đồi núi bị thoái hóa nặng.
Diện tích đất canh tác trên đầu người có
xu hướng giảm. Chất lượng đất không
ngừng bị giảm do xói mòn, rửa trôi. Đất
nghèo kiệt dinh dưỡng do các quá trình,
thoái hóa hóa học đất, khô hạn, sa mạc
hóa, mặn hóa, phèn hóa, lầy hóa, ngập
úng, ô nhiễm do chất thải, do sử dụng
phân hóa học và do chất độc hóa học.
Hậu quả nghiêm trọng của thoái hóa
đất là mất khả năng sản xuất của đất,
dẫn đến cạn kiệt tài nguyên động, thực
vật và giảm đất nông nghiệp trên đầu
người, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội.


Bảng 1. Diện tích đất canh tác trên đầu người ở Việt Nam qua các năm
Năm

1940

1960

1970

1992

2000

2005

Bình quân đầu người (ha/người)

0,2

0,16

0,13

0,11

0,10

0,11

7



2. Môi trường rừng
Sự đa dạng về địa hình, sự phân hóa khí
hậu tạo cho nước ta có nhiều loại rừng:

rừng lá rộng thường xanh, rừng nửa
rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá
vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng
tràm, rừng ngập mặn,…

Bảng 2. Diễn biến diện tích rừng qua các năm
Năm

1945

1976

1980

1985

1990

1995

2002

2005


Tổng diện tích
(triệu ha)

14,300

11,169

10,608

9,892

9,175

9,302

11,785

12,617

Rừng trồng
(triệu ha)

0

0,092

0,422

0,584


0,745

1,050

1,9195

2,334

Rừng tự nhiên
(triệu ha)

14,300

11,076

10,186

9,3083

8,4307

8,2525

9,865

10,283

Độ che phủ (%)

43,0


33,8

32,1

30,0

27,8

28,2

35,8

37,0

Bình quân rừng/người
(ha/người)

0,57

0,31

0,19

0,14

0,12

0,12


0,14

0,15

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (tính đến tháng 12 năm 2005).

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của
nước ta. Rừng có vai trò điều hòa khí hậu,
bảo vệ đất, giữ nước ngầm và là nơi lưu
giữ các nguồn gen quý giá. Tuy nhiên,
độ che phủ rừng của Việt Nam trong

thời gian dài có xu hướng giảm. Những
năm gần đây, các hoạt động trồng rừng
được coi trọng, diện tích rừng có được
tăng lên nhưng chất lượng rừng vẫn
tiếp tục giảm sút.

3. Về nước
Việt Nam có lượng mưa lớn, hệ thống
sông hồ dày đặc nên tài nguyên nước
mặt khá phong phú. Tổng lượng nước
trung bình hàng năm là 880 tỉ m3. Tuy
vậy, do nằm ở cuối hạ lưu các con sông
Mê Công, sông Mã, sông Cả và sông
Hồng nên lượng nước được hình thành
trong lãnh thổ Việt Nam chỉ khoảng
325 tỉ m3 trên năm. Điều đó dẫn tới khả
năng thiếu nước, đặc biệt là trong mùa
khô khi các quốc gia thượng nguồn sử

dụng nước nhiều, nằm ngoài tầm kiểm
soát của Việt Nam. Hơn nữa, lượng mưa
phân bố không đều theo thời gian trong
năm và giữa các vùng, nên ở các tỉnh
trung du Bắc Bộ, các tỉnh Trung Bộ và
Tây Nguyên thường xảy ra hạn hán.
Dân số tăng, các hoạt động kinh tế gia
tăng và công tác quản lý chưa tốt khiến
tài nguyên nước ở Việt Nam đang bị sử
dụng quá mức và ô nhiễm. Chỉ số lượng
nước trên đầu người năm 1943 là 16.64
m3/người, nếu số dân tăng lên 150 triệu
người thì chỉ số chỉ còn 2.467m3/người/
năm, xấp xỉ các quốc gia hiếm nước.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường Việt
Nam năm 2001: Trong thời gian gần đây,
ở Việt Nam đã xảy ra tình trạng khan
hiếm nước. Nhiều nơi thuộc Trung Bộ đã
có biểu hiện tình trạng hoang mạc hóa,
vùng ven biển có quá trình mặn hóa và
muối hóa. Ở các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và một số vùng
khác đã xảy ra tình trạng căng thẳng về
nước. Các thành phố như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Việt Trì, Biên
Hòa,… nước đã bị ô nhiễm tới mức nghiêm trọng. Môi trường nước ở một số
dòng sông như sông Cầu (ở Bắc Bộ),
sông Thị Vải, sông Sài Gòn, sông Vàm
Cỏ Đông (ở Nam Bộ) đã bị ô nhiễm nặng.


Hình 1. Rừng Cúc Phương ở tỉnh Ninh Bình (nguồn: Internet)

8

Nguyên nhân chính dẫn tới ô nhiễm môi
trường nước là do nước thải công nghiệp,
nước thải sinh hoạt chưa được xử lý đã
xả trực tiếp vào nguồn nước mặt. Việc sử
dụng hóa chất trong sản xuất công, nông

Hình 2. Nước thải xả xuống sông Thị Vải
(nguồn: dantri.com.vn).

nghiệp cũng đang làm cho nguồn nước
ngầm bị ô nhiễm.
4. Về không khí
Ở vùng núi và nông thôn nước ta, nhìn
chung, môi trường không khí còn chưa
bị ô mhiễm (trừ một số làng nghề và các
khu vực gần khu công nghiệp, đường
giao thông).
Kết quả quan trắc cho thấy, hầu hết các
đô thị Việt Nam đều bị ô nhiễm bụi. Nhiều
đô thị bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức
báo động. Nồng độ bụi ở các khu dân cư
bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp hoặc
gần các đường giao thông lớn đều vượt
trị số tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 3
lần. Trường hợp cá biệt, gần nhà máy
gạch và bia ở Thị xã Lào Cai vượt 5 lần.

Nơi bị ô nhiễm lớn nhất là khu dân cư gần
các Nhà máy Xi măng Hải Phòng; Nhà
máy VICASA (TP. Biên Hòa); Khu công
nghiệp Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh); Nhà
máy tuyển than Hòn Gai (TP. Hạ Long).
5. Đa dạng loài và sự suy giảm các
loài tự nhiên
Việt Nam là một trong những nước có đa
dạng sinh học cao thứ 16 trên thế giới, về
các loài sinh vật, do sự phong phú về các
dạng địa hình, khí hậu. Qua các tài liệu
điều tra cơ bản, tới nay đã có các con số
thống kê sau đây.

9


Sinh vật nước ngọt: Có khoảng 1.438
loài vi tảo thuộc 259 chi và 9 ngành; trên
800 loài động vật không xương sống;
1.028 loài cá nước ngọt. Trong đó, đáng
lưu ý là riêng họ cá chép (Cyprinidae)
có 79 loài thuộc 32 giống, một phân họ
được coi là đặc hữu ở Việt Nam với một
giống, 40 loài và phân loài mới cho khoa
học. Trong thành phần giáp xác, có tới
10 giống với 39 loài tôm, cua, 4 giống với
52 loài trai, ốc lần đầu tiên được mô tả tại
Việt Nam. Điều đó thể hiện tính đặc hữu
rất cao của động vật thủy sinh nước ngọt

của Việt Nam.

Thực vật: Tổng kết các công bố về hệ
thực vật Việt Nam, đã ghi nhận có 13.894
loài thực vật, trong đó 2.400 loài thực vật
bậc thấp, 11.494 loài thực vật bậc cao,
14 loài cỏ biển, 151 loài rong biển (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2010). Hệ thực
vật Việt Nam không có họ đặc hữu và chỉ
có khoảng 3% số chi là đặc hữu.
Động vật ở cạn: Hiện nay đã xác định
được 307 loài giun tròn (Nematoda) trên
cạn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc,
200 loài giun đất (Oligochaeta), gần
800 loài động vật khác, 150 loài ve giáp
(Acartia), 113 loài bọ nhảy (Collembola),
trên 7.750 loài côn trùng (lnsecta), 260
loài bò sát (Reptilia), 162 loài ếch nhái
(Amphibia), 840 loài chim (Aves), 312
loài và phân loài thú trên cạn (Mammalia).

Sinh vật biển: Đến nay, đã phát hiện
được trên 11.000 loài sinh vật sống trong
vùng biển Việt Nam. Trong đó, có 6.300
loài động vật đáy; 2458 loài cá với trên
100 loài cá kinh tế; 653 loài rong biển;
657 loài động vật nổi; 537 loài thực vật
nổi; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài
tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển;
25 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài

chim nước.

Vi sinh vật: Đã ghi nhận 7.500 loài, trong
đó có hơn 2.800 loài gây bệnh cho thực
vật, 1.500 loài gây bệnh cho người và gia
súc, hơn 700 loài vi sinh vật có lợi.

Bảng 3. Số lượng các loài bản địa và các loài đặc hữu của Việt Nam

Các loài

Loài đặc hữu

Loài bản địa

Lưỡng cư

52

153

Chim

7

665

Động vật có vú

19


263

Bò sát

74

30

Thân mềm

0

3

Cá nước ngọt

214

37

Cá biển

10

131

Thực vật

27


261

Tổng

403

1543

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010).

10

Tỷ lệ số loài đặc hữu và loài bản địa khá
cao. Đây là nguồn bảo tồn gen, giống
mang nhiều đặc tính tốt, quý hiếm, đặc
trưng của nước ta.
Bên cạnh tính đa dạng cao của các loài
sinh vật trong các hệ sinh thái, thì sự giảm
sút ngày càng nhiều các cá thể, các loài
trong tự nhiên là vấn đề đáng báo động
ở Việt Nam. Về mức độ suy thoái, Việt
Nam được xếp vào nhóm 15 nước hàng
đầu thế giới về số loài thú, nhóm 20 nước
hàng đầu về số loài chim, nhóm 30 nước
hàng đầu về số loài thực vật và lưỡng cư.
Trong số 248 loài ưu tiên bảo tồn trong
chương trình đầu tư cho bảo tồn đa dạng
sinh học của Quỹ đối tác về các hệ sinh
thái (CEPF) cho khu vực Đông Dương,

Việt Nam có số loài được ưu tiên cao
nhất với 131 loài.
Theo lUCN, ở Việt Nam, số loài bị đe
dọa toàn cầu không chỉ tăng về số
lượng, mà còn tăng về mức độ đe dọa.
Trong Danh sách đỏ của lUCN năm
1996 liệt kê 25 loài động vật của Việt
Nam ở mức nguy cấp (EN) thì đến năm
2004, con số này đã tăng lên đến 46
loài, và đến năm 2010 là 47. Trong
số những loài mới bị xếp hạng này có
những loài như Bò rừng, Sói đỏ, Voọc
vá chân nâu và Voọc vá chân đen.

Các loài sinh vật hoang dã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam 2007 cũng tăng về
mức độ đe dọa và số loài bị đe dọa. Tổng
số loài bị đe dọa (3 mức: rất nguy cấp,
nguy cấp và sắp nguy cấp) được liệt kê
trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 là 418 loài
động vật và 464 loài thực vật, tăng hơn
so với Sách Đỏ Việt Nam 1992 - 1996.
Đối với động vật, trong Sách Đỏ Việt Nam
1992 -1996, về mức độ bị đe dọa của
các loài chỉ mới dừng lại ở hạng nguy
cấp, thì năm 2007 đã có tới 9 loài được
xem là đã tuyệt chủng và tuyệt chủng
ngoài tự nhiên. Đó là: tê giác hai sừng,
bò xám, heo vòi, cầy rái cá, cá chép gốc,
cá chình Nhật, cá lợ thân thấp, cá sấu

hoa cà, hươu sao.
Trong hệ thực vật, loài Lan hài đã tuyệt
chủng ngoài tự nhiên, điều mà trước đây
chưa từng có. Tất cả các loài hiện đang
ở mức nguy cấp và rất nguy cấp thì trước
đây chỉ thuộc mức sắp nguy cấp trong
Sách Đỏ Việt Nam 1992 -1996. Trong
số các loài thực vật rất nguy cấp hiện
nay, có các cây gỗ quý như: hoàng đàn
rủ, hoàng đàn, bách vàng, bách tán Đài
Loan, một số cây thuốc quý như: ba gạc
hoa đỏ, sâm vũ diệp, tam thất hoang, các
loài thực vật đặc hữu của Việt Nam như:
giác đế Tam Đảo, sao lá cong.

Quần thể của hầu hết các loài bị đe dọa
toàn cầu, tại Việt Nam đều bị đánh giá là
đang có chiều hướng suy giảm. Nhiều
loài được đánh giá bị đe dọa không cao
trên quy mô toàn cầu nhưng lại bị đe dọa
ở mức rất cao ở Việt Nam. Ví dụ như
Hạc cổ trắng không có tên trong danh
sách đỏ của lUCN (2004), nhưng lại là
loài sắp nguy cấp (VU) ở Việt Nam do
mất sinh cảnh và thức ăn bị ô nhiễm.

Sự suy giảm về thành phần loài không chỉ
xảy ra đối với hệ sinh thái rừng, mà các hệ
sinh thái đặc trưng khác của Việt Nam cũng
ở tình trạng tương tự. Điển hình là sự suy

thoái về đa dạng loài ở các hệ sinh thái rạn
san hô và thảm cỏ biển. Trong rạn san hô,
độ phong phú của các loài sinh vật có giá
trị kinh tế như cá, động vật không xương
sống, thân mềm, và giáp xác… giảm tại
hầu hết các điểm giám sát, đặc biệt nhóm
cá có kích thước lớn.

Đáng lưu ý, theo lUCN, trong khi một số loài
động vật đã được coi tuyệt chủng ngoài tự
nhiên lãnh thổ Việt Nam, thì vẫn còn tồn tại
ở một số quốc gia lân cận. Điều này thể hiện
rõ những biến động lớn về đa dạng sinh học
ở Việt Nam so với những vùng lãnh thổ khác
trong thời gian vừa qua.

Tình trạng suy thoái về đa dạng loài cũng
đang diễn ra ở hệ sinh thái thảm cỏ biển.
Kết quả giám sát của Viện Hải Dương học
tại 9 điểm ở Phú Quốc vào tháng 10/2009
cho thấy: Các loại cá có giá trị kinh tế thì
hết sức nghèo nàn, như cá Dìa, mật độ
1,7 con/250m2. Các loài cá có giá trị thấp

11


xuất hiện phổ biến trên thảm cỏ biển,
nhiều nhất là các loài thuộc họ cá Đổng
với mật độ 20 con/250m2. Hai nguồn lợi

sinh vật đáy quan trọng của Phú Quốc
là ghẹ và ốc nhảy cũng giảm sút nghiêm
trọng và có giá trị mật độ rất thấp (tương
ứng là 0,6 và 0,3 con/250m2); Hải sâm
cũng ở trong tình trạng tương tự, với mật
độ 0,8 con/250m2.
6. Về chất thải

lên đến hơn 15 triệu tấn mỗi năm, tăng
trung bình hàng năm là 15%, trong đó
chất thải sinh hoạt từ các hộ gia đình, nhà
hàng, các chợ và nơi kinh doanh chiếm
khoảng 75 - 80% tổng lượng chất thải
phát sinh cả nước. Lượng chất thải còn
lại phát sinh từ các cơ sở sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp… Chất thải công
nghiệp và chất thải y tế tuy phát sinh với
khối lượng ít hơn nhưng lại có nguy cơ
gây hại cho sức khỏe và môi trường cao.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế
và đời sống của người dân ngày càng
đi lên, lượng chất thải cũng ngày càng
nhiều hơn. Sự gia tăng dân số, quá trình
đô thị hóa ngày càng phát triển mạnh đã
làm tăng lượng chất thải vào môi trường.
Lượng phát sinh chất thải rắn ở Việt Nam

• Chất thải sinh hoạt: Các khu đô thị
ở Việt Nam tuy có số dân chỉ chiếm

khoảng hơn 26% số dân của cả nước
nhưng lại phát sinh đến hơn 6 triệu tấn
chất thải mỗi năm (tương ứng với 50%
tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của
cả nước).



Bảng 4. Lượng chất thải phát sinh năm 2003 và năm 2008
Loại CTR

Đơn vị tính

Năm 2003

Năm 2008

CTR đô thị

tấn/năm

6.400.000

12.802.000

CTR công nghiệp

tấn/năm

2.638.400


4.786.000

CTR y tế

tấn/năm

21.500

179.000

CTR nông thôn

tấn/năm

6.400.000

9.078.000

CTR làng nghề

tấn/năm

774.000

1.023.000

Tổng cộng

tấn/năm


15.459.900

27.868.000

Phát sinh CTR sinh hoạt trung bình
tại khu vực đô thị

kg/người/ngày

0,8

1,45

Phát sinh CTR sinh hoạt trung bình
tại khu vực nông thôn

kg/người/ngày

0,3

0,4

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010).

• Chất thải công nghiệp: Lượng chất thải
công nghiệp phát sinh chiếm khoảng
20% tổng lượng chất thải. Gần một
nửa lượng chất thải công nghiệp của cả
nước phát sinh ở khu vực Đông Nam

Bộ, trong đó TP. Hồ Chí Minh chiếm tới
31%. Chất thải công nghiệp phát sinh
từ các làng nghề ở vùng nông thôn chủ
yếu tập trung ở miền Bắc. Khoảng 1.450
làng nghề phân bố ở các vùng nông thôn
trên toàn quốc, mỗi năm thải ra khoảng
774.000 tấn chất thải công nghiệp.

12

• Chất thải nguy hại: Năm 2003, tổng
lượng chất thải nguy hại là khoảng
160.000 tấn, trong đó khoảng 130.000
tấn phát sinh từ công nghiệp. Chất
thải y tế nguy hại từ các bệnh viện, cơ
sở y tế và điều dưỡng chiếm khoảng
21.000 tấn. Nguồn phát sinh chất thải
nguy hại từ hoạt động nông nghiệp là
khoảng 8.600 tấn. Phần lớn chất thải
công nghiệp nguy hại phát sinh ở miền
Nam, chiếm khoảng 64% tổng lượng
chất thải nguy hại phát sinh của cả

Hình 3. Chất thải phát sinh từ hoạt động nông nghiệp (Ảnh: Lâm Văn Khanh-2009)

nước (Báo cáo diễn biến môi trường
Việt Nam, năm 2004, Bộ Tài nguyên và
Môi trường).
Theo ước tính, lượng chất thải sẽ tăng
lên đáng kể. Theo dự báo, đến năm 2010

lượng chất thải sinh hoạt sẽ tăng 60%,
chất thải công nghiệp tăng 50%, chất thải
nguy hại tăng 3 lần (Báo cáo diễn biến
môi trường Việt Nam, năm 2004. Bộ Tài
nguyên và Môi trường).
Hiệu quả thu gom chất thải còn thấp, ở
các các khu đô thị, nhất là tại các thành
phố lớn thì việc thu gom chất thải đã
hoảng từ 70 - 75% nhưng ở nông thôn
thu gom thì việc thu gom chất thải mới
chỉ đạt 20%.

Việc xử lý chất thải chưa đảm bảo kỹ
thuật gây nên hiện tượng ô nhiễm, ảnh
hưởng đến môi trường sống của cư dân,
đặc biệt là chất thải độc hại ở các bệnh
viện, các khu công nghiệp.
7. Về vệ sinh môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm, cung cấp nước sạch
ở đô thị và nông thôn
Hiện nay mới có 60 - 70% dân cư đô thị,
dưới 40% dân ở nông thôn được cấp
nước sạch và chỉ có 28 - 30% hộ gia đình
ở nông thôn có hố xí hợp vệ sinh.
Nhiều vụ ngộ độc thực phẩm đã xảy ra,
vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang
cần được quan tâm của toàn xã hội.

13



III. VÀI NÉT NỔI BẬT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ
NHIÊN VÀ CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN
CỦA TỈNH BẠC LIÊU
1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lí
• Bạc Liêu là tỉnh nằm ở phía Đông Bán
đảo Cà Mau, trải rộng từ 9o00’,00” đến
9o38’,9” vĩ độ Bắc và từ 105o14’15” đến
105o51’54” kinh độ Đông, tỉnh có các
mặt tiếp giáp như sau:
• Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và
Kiên Giang;
• Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh
Sóc Trăng;
•Phía Đông và Đông Nam giáp
biển Đông;
• Phía Tây và Tây Nam giáp Kiên Giang
và Cà Mau (hình 4).
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 259.409,50
ha, toàn tỉnh có 7 đơn vị hành chính
huyện - thành phố, bao gồm thành phố
Bạc Liêu và các huyện: Vĩnh Lợi, Hòa
Bình, Phước Long, Hồng Dân, Giá Rai,
Đông Hải; với tổng cộng 64 xã, phường
và thị trấn. Trung tâm hành chính tỉnh là
thành phố Bạc Liêu cách thành phố Cần
Thơ 110 km và cách thành phố Hồ Chí
Minh 280 km. Diện tích tự nhiên ở Bạc
Liêu có tăng nhẹ qua các năm (tỷ lệ tăng

khoảng 0,2 - 0,35%) chủ yếu là do quá
trình bối đắp phù sa diễn ra mạnh hơn
quá trình sạt lở.
Khu vực Gò Cát - Đông Hải đến giáp ranh
huyện Vĩnh Châu - tỉnh Sóc Trăng được
bồi đắp nhiều nhất. Bờ biển Bạc Liêu trải
dài 56 km, nhờ phù sa của sông Cửu
Long nên hàng năm vùng bãi bồi ven
biển tỉnh Bạc Liêu lấn ra biển khoảng 75
- 80m, diện tích bãi bồi tính trong phạm vi
từ bờ trở ra 2km lên đến 12.337ha (Báo
cáo hiện trạng môi trường tỉnh Bạc Liêu
giai đoạn 2006 - 2010).
b. Địa hình
Tỉnh Bạc Liêu nằm trong vùng đất mới
của Đồng Bằng Sông Cửu Long, nằm ở

14

rìa vùng đồng bằng châu thổ. Địa hình
tương đối bằng phẳng và thuần nhất, độ
cao trung bình từ 0,3 - 0,5 m. Địa hình
có xu hướng thấp dần từ bờ biển vào nội
đồng, từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Độ
dốc trung bình của địa hình khoảng từ 1 1,5 cm/km, chia thành hai khu vực rõ rệt:
• Khu vực phía Nam quốc lộ 1A có địa hình
với những giồng cát biển không liên tục,
cao trung bình từ 0,4 - 0,8m, với hướng
nghiêng thấp dần vào nội địa.
• Khu vực phía Bắc quốc lộ 1A là vùng

trũng, độ cao trung bình từ 0,2 - 0,3m
so với mực nước biển.
Đặc điểm địa hình thuận lợi cho việc đưa
nước biển vào nội đồng phục vụ nuôi
trồng thủy sản, làm muối,… song cũng
rất dễ hình thành các vùng trũng chua
phèn cục bộ, đặc biệt là ở các huyện
Phước Long, Hồng Dân và Giá Rai.
Ngoài ra, tỉnh còn có bờ biển với chiều
dài khoảng 56 km, với hệ sinh thái rừng
ngập mặn ven bờ phong phú cùng với hệ
thống sông ngòi chằng chịt, với các của
sông lớn như Gành Hào, Cái Cùng, Nhà
Mát, Chùa Phật là điều kiện thuận lợi để
giao thương, trung chuyển hàng hoá ra
vào tỉnh. Quốc lộ 1A chạy qua địa bàn
tỉnh, nối thành phố Bạc Liêu với thành
phố Cà Mau.
Tuyến đường Cao Văn Lầu dài 8 km nối
quốc lộ 1A với bờ biển, cùng nhiều tuyến
đường xương cá nối Quốc lộ 1A với các
nơi khác trong tỉnh, thuận tiện cho giao
thông và đi lại.
c. Khí hậu
Khí hậu có tính chất cận xích đạo gió
mùa với 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng
5 đến tháng 11. Mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau.
*Lượng mưa


Do nằm ở vĩ độ thấp nên ít chịu ảnh
hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới;
không chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt
từ hệ thống Sông Cửu Long.
Năm 2010, lượng mưa trung bình cả

Hình 4. Bản đồ tỉnh Bạc Liêu.

15


năm là 2.409,5 mm, tăng hơn so với
năm 2009 là 2.150,8 mm và năm 2006
là 1.971,6 mm. Lượng mưa trung bình
các tháng trong năm dao động từ 11,4
- 1.331,1 mm, tháng có lượng mưa cao

nhất là tháng 7 và tháng có lượng mưa
thấp nhất là tháng 12. Cụ thể như sau:
Nhìn chung, khí hậu Bạc Liêu khá thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
trồng lúa nước và nuôi trồng thủy sản .

Từ kết quả cho thấy nhiệt độ không khí
có xu hướng gia tăng và đây cũng là một
trong những nguyên nhân của sự biến
đổi khí hậu.

*Độ ẩm


Độ ẩm trung bình cả năm, trong năm
2010 là 82% và có giá trị dao động từ 76
- 88%, tháng 10 và 11 có độ ẩm cao nhất

Bảng 5. Lượng mưa trung bình các tháng trong các năm (Đơn vị: mm)
Năm
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

I


-

0,6

-

-

-

-

24,3

23,1

0,9

3,5

2,6

II

0,5

17,9

-


-

-

-

-

-

8,4

36,7

-

III

22,6

144

-

2,6

0,4

7,0


0,4

17,4

0,3

0,2

-

IV

182,0

84,6

17,5

39,8

5,5

-

65,2

83,5

39,5


95,0

-

V

103,0

193,4

92,2

260,1

172,7

186,3

239,9

300,6

424,2

239,6

94,6

VI


280,7

301,3

217,8

258,7

356,6

251,9

466,4

278,7

237,6

220,9

300,5

VII

240,4

228,5

195,9


381,6

251,5

323,8

434,0

307,3

254,1

443,9

206,4

tháng

VIII

320,3

221,5

419,2

323,9

342,8


155,1

468,3

584,4

223,7

263,6

477,3

IX

136,1

376,2

181,7

351,1

308,8

138,2

386,4

224,4


221,0

394,5

214,7

X

383,6

448,1

198,4

375,2

234,7

532,1

246,9

583,5

345,3

402,6

320,9


XI

227,2

154,6

306,3

182,6

21,6

163,1

17,1

466,5

184,2

49,0

759,6

XII

75,2

18,2


1,6

9,5

33,0

129,8

25,9

2,2

78,3

1,3

32,9

Cả
năm

1971,6

2188,9

1630,6

2185,1

1727,6


1992,3

2354,8

2871,6

2017,5

2150,8

2409,5

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu các năm 2000 - 2010.

*Nhiệt độ

Trong năm 2010, nhiệt độ trung bình cả
năm là 27,6oC, tăng hơn so với năm 2009
là 0,5oC và so với năm 2000 là 0,90C.

16

Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm
dao động từ 25,8 - 30,3 oC, tháng có nhiệt
độ cao nhất là tháng 5 và tháng có nhiệt
độ thấp nhất là tháng 1 (bảng 3).

Hình 5. Biểu diễn lượng mưa trung bình các tháng trong các năm 2000 – 2010


Bảng 3. Nhiệt độ không khí trung bình các tháng trong các năm (Đơn vị: oC)
Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

I

25,8

25,6


25,1

25,1

25,7

25,0

25,7

25,7

25,1

24,2

25,8

II

26,0

26,0

25,7

26,4

25,5


26,3

26,9

25,8

26,6

26,1

26,7

III

27,1

26,9

27,0

27,6

27,2

27,1

27,4

27,6


27,0

28,0

28,3

IV

27,7

28,6

28,9

29,0

29,1

28,2

28,5

28,8

28,2

28,9

29,4


V

27,7

28,0

28,8

28,1

28,7

29,0

28,1

28,1

27,7

28,1

30,3

VI

29,9

27,0


27,8

28,3

27,4

28,2

27,7

28,1

27,7

28,2

28,7

VII

27,0

27,5

28,0

27,0

27,2


27,0

27,3

27,1

27,2

26,9

27,8

VIII

26,4

26,8

26,8

27,5

27,0

27,9

27,1

27,2


26,9

27,9

27,6

IX

26,8

26,8

27,0

26,9

27,1

27,2

26,9

27,3

26,7

26,8

27,5


X

26,1

26,6

26,9

26,5

26,8

27,3

27,4

27,1

27,2

27,0

26,6

XI

26,5

25,6


26,9

26,9

27,4

27,0

27,6

26,2

26,1

26,8

26,6

XII

26,0

25,8

26,9

25,0

25,4


25,3

26,1

26,0

25,4

26,1

26,3

Cả năm

26,7

26,8

27,2

27,0

27,0

27,1

27,2

27,1


26,8

27,1

27,6

tháng

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu các năm 2000 - 2010.

17


Hình 6. Nhiệt độ không khí trung bình các tháng trong các năm 2000 - 2010

là 88% và tháng 4 và 12 có độ ẩm thấp
nhất là 76%. Nhìn chung, độ ẩm không
khí trung bình các tháng trong các năm
2000 - 2010 tương đối ổn định và không
có sự biến động lớn phù hợp với khí hậu
vùng nhiệt đới.

d. Chế độ thủy văn
Bạc Liêu có hệ thống kênh rạch chằng
chịt với hai trục kênh chính là Bạc Liêu Cà Mau và Quản Lộ - Phụng Hiệp. Chế
độ thủy văn của hệ thống kênh rạch trên

Bảng 7. Độ ẩm không khí trung bình các tháng trong các năm (Đơn vị: %)
Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

I

82

83

79


80

80

81

83

82

82

85

82

II

82

83

78

79

81

80


76

80

75

84

80

III

81

84

78

79

78

79

80

80

76


80

76

IV

85

84

78

77

76

76

80

78

79

81

76

V


87

86

82

85

80

80

83

85

85

84

76

VI

89

86

87


84

84

82

86

86

85

85

83

VII

88

87

85

88

86

86


87

87

86

89

85

VIII

88

89

8

87

87

84

87

87

88


86

86

IX

89

90

86

88

87

87

88

87

88

89

86

X


91

91

88

90

90

88

86

88

88

88

88

XI

87

87

88


87

85

87

84

86

89

85

87

XII

86

84

84

85

82

88


84

82

88

81

-

Cả năm

86

86

83

84

83

83

84

84

84


85

82

tháng

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu các năm 2000 – 2010

18

địa bàn chịu ảnh hưởng giao thoa của
thủy triều biển Đông và biển Tây.
• Thủy triều biển Đông ảnh hưởng trực
tiếp đến vùng Nam Quốc lộ 1A là chế
độ bán nhật triều không đều, biên độ
triều lớn, chênh lệch đỉnh triều lớn 30
- 40 cm. Trong một tháng có 2 lần triều
cường, tốc độ truyền triều 15 km/giờ.
• Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của
chế độ thủy văn sông Hậu nên khá
phức tạp. Khu vực Bắc quốc lộ 1A
chịu ảnh hưởng của chế độ nhật triều
biển Tây qua sông Cái Lớn tỉnh Kiên
Giang. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng
không rõ, biên độ triều biển Tây nhỏ
so với biển Đông nên khả năng tiêu
thoát nước kém.
Do khí hậu cận xích đạo gió mùa nên
lượng mưa phân hoá theo mùa đã gây ra
hạn hán và ngập úng cục bộ ở một số thời

điểm trong năm; các đợt tiểu hạn vào thời
kỳ đầu và giữa mùa mưa; trong mùa mưa
hạn chế rõ nét nhất cần lưu ý từ tháng 5
đến tháng 10 do lượng mưa tại chỗ lớn,
cùng với triều cường và nước từ thượng
nguồn kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp đổ về
gây ngập úng, xói lở một số khu vực làm
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và sinh hoạt
của người dân. Việc tăng cường hoàn
chỉnh hệ thống thủy lợi là biện pháp quan
trọng để khắc phục khó khăn này.

2. Tài nguyên thiên nhiên
a. Tài nguyên đất
* Tài nguyên đất
Quĩ đất của tỉnh Bạc Liêu luôn biến động
với hai quá trình trái ngược nhau: quá
trình bồi tụ và quá trình sạt lở. Quá trình
bồi tụ có tốc độ nhanh hơn quá trình sạt
lở nên hằng năm quĩ đất của tỉnh được
tăng thêm một diện tích đáng kể.
• Vùng bồi tụ kéo dài từ Gò Cát (Đông
Hải) đến giáp tỉnh Sóc Trăng. Tốc độ
bồi ra biển có năm lên tới 60 - 80 m
và hiện nay đã hình thành một bãi bồi
ven biển rộng từ 1 - 2 km, dài 40 km từ
thành phố Bạc Liêu đến Gò Cát huyện
Đông Hải.
• Vùng sạt lở gần khu vực kè Gành Hào
thuộc thị trấn Gành Hào, kè Nhà Mát

thuộc thành phố Bạc Liêu, khu vực này
đã được xây dựng kè và đê biển nên
tốc độ sạt lở không đáng kể. Bên cạnh
đó một số vùng cạnh các sông trong
vùng do dòng chảy xoáy xiết tạo hàm
ếch nên gây ra hiện tượng sạt lở như
kênh Bạc Liêu – Cà Mau, nhưng tốc độ
sạt lở không lớn.
Đất đai của tỉnh Bạc Liêu phần lớn được
hình thành chủ yếu do quá trình bồi tích
của sóng biển và thủy triều, gồm các
nhóm đất chính như sau:

Hình 8. Sạt lở ven biển Bạc Liêu (Ảnh Lâm Văn Khanh, 2011).

19


• Nhóm đất cát: Diện tích khoảng 8.367,77
ha (chiếm 3,24% diện tích tự nhiên),
phân bố dọc theo bờ biển thành phố
Bạc Liêu và huyện Hòa Bình, khu vực
Giồng Nhãn và Giồng Giữa thuộc xã
Hiệp Thành, Thuận Hòa của thành phố
Bạc Liêu và xã Vĩnh Hậu thuộc huyện
Hoà Bình.
• Nhóm đất mặn: Diện tích khoảng 99.276,92
ha chiếm 38,44% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, bao gồm: đất mặn thường xuyên dưới
rừng ngập mặn, đất mặn trung bình và đất

ít mặn. Phân bố chủ yếu ở phía Nam quốc
lộ 1A và một phần đất ít mặn dọc theo phía
Bắc Quốc lộ 1A.
• Nhóm đất phèn: Diện tích lớn nhất
133.626,11 ha, chiếm 51,74% tổng diện
tích tự nhiên toàn tỉnh, bao gồm: đất
phèn tiềm tàng, đất phèn hoạt động, đất
phèn hoạt động bị thủy phân. Nhóm đất
phèn phân bố chủ yếu ở phía Bắc quốc
lộ 1A, thuộc các huyện Hồng Dân, Vĩnh
Lợi và huyện Giá Rai.
• Nhóm đất phù sa: Diện tích khoảng 5.242,77
ha (chiếm tỷ lệ 2,03%), phân bố chủ yếu ở
phía Đông Bắc huyện Hồng Dân.
• Nhóm đất nhân tác: Diện tích khoảng
11.751,04 ha (chiếm 4,55% diện tích
tự nhiên toàn tỉnh), phân bố tập trung
dọc theo các kênh rạch, các trục lộ
giao thông lớn và các khu dân cư tập
trung. Đất nhân tác bao gồm các đất
thổ cư, đất lập líp, đất xây dựng cơ
bản., không dùng cho canh tác và sản
xuất nông nghiệp.
Xét về khả năng thích nghi, đất đai Bạc
Liêu chia thành hai khu vực:
• Khu vực phía Bắc quốc lộ 1A có 11 vùng
thích nghi, phía Đông Bắc thích hợp với
trồng lúa, hoa màu và các loại cây khác,
phía Tây thích hợp cho nuôi trồng thủy sản.
• Khu vực phía Nam quốc lộ 1A có 10

vùng thích nghi, phù hợp với nuôi trồng
thủy sản, làm muối và phát triển rừng
ngập mặn.
Đất phèn chiếm tỉ lệ cao nhất: 51,74%
diện tích tự nhiên của tỉnh), tiếp đó là đất
mặn (chiếm 38,44%). Đất phèn là loại
đất có chứa độc tố nhôm tiềm tàng cao,
độ axit cao và thiếu lân. Loại đất này rất
nhạy cảm trước những hoạt động canh

20

tác, lượng phèn phát sinh sẽ ảnh hưởng
tới độ pH của nước trong các kênh rạch.
*Hiện trạng sử dụng đất
Đến cuối năm 2010, Bạc Liêu có diện tích
257.094 ha, trong đó diện tích đất nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản là 225.568,66
ha chiếm 87,74 % diện tích đất tự nhiên.
Điều này cho thấy tỉnh Bạc Liêu hiện nay
vẫn phát triển ngành nông nghiệp, thủy
sản là ngành chính trong đó thế mạnh là
phát triển nuôi trồng thủy hải sản.
Cơ cấu sử dụng đất chung của tỉnh đang
chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn phù
hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh và
dần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Phần lớn diện tích đất đã được khai
thác đưa vào sử dụng cho các mục đích
dân sinh, kinh tế.

Với đường bờ biển dài 56 km, vùng biển
rộng 40.000 km² cùng hệ thống ao hồ,
kênh rạch chằng chịt, diện tích bãi bồi
hàng năm lên đến 12.337 ha, diện tích
nuôi trồng thủy sản chiếm ưu thế. Trên
cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế
địa phương vào phát triển kinh tế, nuôi
trồng thủy sản được xác định là ngành
kinh tế quan trọng của tỉnh Bạc Liêu.
Cơ cấu đất nông nghiệp đang dần được
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ lệ
sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao như
nuôi trồng thủy sản, giảm tỉ lệ đất sản
xuất nông nghiệp và diêm nghiệp kém
hiệu quả. Diện tích đất có ý nghĩa đối với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh như đất ở, đất quốc phòng – an ninh,
đất trụ sở các cơ quan, đất sản xuất kinh
doanh và đất các công trình công cộng
chiếm gần 70% diện tích đất chuyên dùng.
Qua phân tích số liệu thống kê về tình
hình sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu, cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu
đất sản xuất nông lâm ngư nghiệp mang
lại hiệu quả kinh tế cho tỉnh Bạc Liêu. Tuy
nhiên, cũng có những tác động không
nhỏ đến môi trường sinh thái nói chung
và môi trường đất nói riêng, tiềm ẩn các
nguy cơ ngày càng làm mất đi sự cân
bằng sinh thái và làm giảm độ đa dạng

sinh học hệ sinh thái rừng ngập mặn ven
biển giàu tiềm năng của tỉnh.

Bảng 8. Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Bạc Liêu (Đơn: Nghìn ha)

Năm

Tổng
diện
tích

Đất
nông nghiệp
Diện
tích

Đất lâm
nghiệp có
rừng

Nuôi trồng
thuỷ sản

Đất
chuyên
dùng

Đất ở

Tỷ lệ

%

Diện
tích

Tỷ lệ
%

Diện
tích

Tỷ lệ
%

Diện
tích

Tỷ lệ
%

Diện
tích

Tỷ lệ
%

2000

254,2 165,00


64,91

5,88

2,31

45,55

17,92 13,31

5,24

3,51

1,38

2001

254,2 128,60

50,59

5,88

2,31

84,08

33,08 13,31


5,24

6,51

2,56

2002

254,7

111,30

43,70

5,39

2,12

100,01 39,27 12,96

5,09

3,87

1,52

2003

254,7


99,00

38,87

5,39

2,12

111,74 43,87 13,58

5,33

4,00

1,57

2004

254,7

87,80

34,47

5,82

2,29

119,02 46,73 17,61


6,91

4,50

1,77

2005

258,3

98,30

38,06

4,83

1,87

120,71 46,73 11,32

4,38

4,18

1,62

2006

258,2


96,60

37,41

5,47

2,12

122,43 47,42 11,70

4,53

4,27

1,65

2007

258,5 104,74

40,52

4,78

1,85

118,16 45,71 10,90

4,22


4,50

1,74

2008

259,4 107,90

41,60

4,78

1,84

115,90 44,68 10,89

4,20

4,40

1,70

2009

259,4

99,60

38,40


4,78

1,84

124,20 47,88 10,89

4,20

4,39

1,69

2010

257,1

110,48

42,97

4,74

1,84

115,12 44,78 10,15

3,95

4,21


1,64

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu các năm 2000 - 2010.

b. Tài nguyên nước

*Nguồn nước trên mặt lục địa
Nguồn nước ngọt của tỉnh là do nguồn
nước mưa và nước ngọt từ sông Hậu
cung cấp, chảy qua hệ thống kênh rạch
cùng với các công trình ngọt hóa qua hệ
thống cống, đập và đê bao ngăn mặn giữ
ngọt. Đây là những nguồn nước ngọt có
vai trò rất quan trọng trong sản xuất và
sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt là trong
thời gian mùa khô. Tuy nhiên, hệ thống
các công trình trong vùng ngọt hóa chưa
khép kín, nên gây khó khăn cho việc
giữ ngọt ổn định. Chất lượng nước mặt
(sông, rạch, ao, hồ) cũng diễn biến theo
mùa. Đặc biệt vào mùa khô, xâm nhập
mặn của triều biển đã gây nhiễm mặn
khá lớn cho khu vực. Vùng phía Nam
Quốc lộ 1A do chịu ảnh hưởng trực tiếp
của triều biển nên dẫn đến hiện tượng
xâm nhập mặn, gây nhiễm mặn nguồn

nước trên mặt ở khu vực ven biển, đặc
biệt vào mùa khô. Ngoài ra, lượng mưa
hàng năm là nguồn nước ngọt bổ sung

vô cùng quan trọng để ngọt hóa diện tích
đất nông nghiệp và phục vụ sinh hoạt
của nhân dân.
Là một tỉnh đồng bằng ven biển, Bạc Liêu
có một hệ thống kênh rạch chằng chịt.
Tổng diện tích các sông, kênh rạch trong
tỉnh chiếm 6.763,7 ha, bằng 2,6% diện
tích đất toàn tỉnh, mật độ bình quân >
1,5 km kênh/km2. Nhìn chung, các sông
và kênh lớn được bắt nguồn từ hai điểm
chính: từ thành phố Cà Mau và từ sông
Hậu - Cần Thơ. Các sông hoặc kênh lớn
này sau khi từ nơi phát nguồn chảy qua
địa phận Bạc Liêu rồi đổ ra các cửa ở
biển Đông và vịnh Thái Lan. Có thể phân
thành hai nhóm: nhóm sông chính và kênh
trục; nhóm các kênh rạch chính:
• Các nhánh sông chính gồm có: sông

21


Gành Hào, sông ngã ba Cái Tàu.
• Các kênh trục gồm: kênh Cà Mau - Bạc
Liêu, kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp.
*Nguồn nước ngầm

Nguồn nước ngầm tầng nông nằm sát
mặt đất được bổ sung bằng nước mưa
và lượng nước từ kênh rạch. Mực thủy

cấp của nguồn nước này thay đổi tùy
theo mùa. Mùa mưa mực nước ngầm
chỉ cách mặt đất khoảng 0,5 – 1 m, mùa
khô mực nước hạ thấp xuống tới độ sâu
khoảng 1 - 3 m. Nguồn nước ngầm ở
tầng gần mặt đất thường bị nhiễm mặn,
nhiễm phèn nên khó có thể sử dụng cho
sản xuất và sinh hoạt. Về mùa khô, nước
ngầm được chuyển lên mặt đất bằng các
mao dẫn, khe hở trong đất mang theo
muối và các chất gây độc không có lợi
cho cây trồng.
Nguồn nước ngầm ở tầng sâu khá phong
phú với trữ lượng lớn, chất lượng khá tốt.
Có bốn tầng nước ngầm có thể khai thác
nằm ở độ sâu khoảng 80 – 500 m trong
địa bàn tỉnh. Hiện tại tầng nước được
khai thác và sử dụng nhiều nhất ở độ sâu
trung bình 80 - 100 m. Trữ lượng khai
thác có thể đạt từ 3,68 triệu m3/ngày. Tuy
nhiên, việc khai thác nước ngầm hiện
nay trong địa bàn tỉnh chưa được quản
lí chặt chẽ, ở một số nơi trong tỉnh vẫn

còn tình trạng khai thác nước ngầm một
cách tự phát,. Vì vậy, cần phải có những
biện pháp để bảo vệ nguồn nước ngầm.
Nhìn chung, nguồn nước ngọt phục vụ
cho sản xuất và sinh hoạt của tỉnh chủ
yếu là nước mưa, nước từ sông Hậu và

nguồn nước ngầm. Trữ lượng nước có
khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển
công nghiệp, nông nghiệp và dân sinh.
c. Tài nguyên rừng
Diện tích rừng và đất rừng khoảng 4.832
ha, chiếm 1,87% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh, trong đó chủ yếu là rừng phòng
hộ (4.657 ha). Cây trồng chủ yếu là mắm
trắng, cây đước, cây tràm. Rừng ở Bạc
Liêu có hai loại sinh thái rừng đặc trưng
của đồng bằng sông Cửu Long là rừng
ngập mặn ven biển và rừng ngập nước
nội địa. Trong đó rừng ngập mặn có năng
suất sinh học cao, có giá trị về phòng hộ
và môi trường.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn Bạc Liêu có
hệ động, thực vật khá đa dạng về mặt
sinh học. Theo thống kê có: 64 loài thực
vật thuộc 27 họ, chủ yếu là cây Đước,
Vẹt, Mắm, Giá. Động vật trong rừng ngập
mặn có 12 loài thú, 12 loài bò sát, 8 loài
ếch nhái, 67 loài chim, 25 loài tôm và 250
loài cá nước mặn.

Hình 9. Rừng ngập mặn ven biển Bạc Liêu (Ảnh Lâm Văn Khanh, 2010).

22

d.Tài nguyên biển
Vùng biển Bạc Liêu rộng trên 40.000

km2, trữ lượng hải sản lớn, phong phú về
chủng loại (như cá có tới 661 loài). Nhiều
loại có trữ lượng và giá trị kinh tế cao như
tôm biển các loại, cá Hồng, cá Gộc, cá
Sao, cá Thu, cá Chim, cá Đường. Trữ
lượng cá đáy và cá nổi lên đến trên 800
nghìn tấn, hàng năm có thể khai thác từ
240 nghìn đến 300 nghìn tấn. Tôm biển
có trên 30 loài, có thể đánh bắt khoảng
10 nghìn tấn mỗi năm. Ngoài ra, ở vùng
biển Bạc Liêu còn nhiều loài hải sản khác
có thể khai thác hàng hóa như mực, nghêu, sò huyết…
Với các cửa biển Gành Hào, Nhà Mát,
Cái Cùng cho phép Bạc Liêu có thể phát
triển mạnh các ngành vận tải và du lịch
biển. Gành Hào có khả năng phát triển
thành trung tâm kinh tế biển lớn của tỉnh
cũng như của ven biển phía Đông Nam
Bộ (khu vực từ Mũi Dinh đến Cà Mau),
cung cấp các dịch vụ cho đánh bắt và
chế biến thủy hải sản. Các cửa biển nối
với mạng lưới đường bộ, trong đó Quốc
lộ 1A và hai tuyến Quốc lộ khác sẽ được
xây dựng trong những năm tới.

nằm trên tuyến du lịch trọng điểm của
tỉnh: Vườn Chim - Vườn nhãn - Chùa
Xiêm Cán - Biển.

Hình 9. Vườn chim Bạc Liêu (Ảnh tư liệu)


e. Tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản chủ yếu là muối biển, với
trữ lượng lớn đã tạo cho Bạc Liêu có thế
mạnh phát triển nghề làm muối. Ngoài ra,
các mỏ đất sét nằm rải rác trên địa bàn
tỉnh, cát biển tích tụ ven bờ vùng biển Bạc
Liêu nhưng là loại tài nguyên không tái
tạo và với trữ lượng thấp nên chưa được
cơ quan chuyên môn điều tra, thăm dò
đánh giá tiềm năng. Vì thế, việc khai thác
và sử dụng các loại tài nguyên khoáng
sản này còn rất hạn chế.

• Ngoài ra, còn có nhiều vườn chim tự
nhiên nằm rải rác ở các huyện Đông
Hải, Giá Rai và Phước Long. Vườn chim
Bạc Liêu đã và đang là một trong những
điểm du lịch sinh thái rất hấp dẫn, thu hút
du khách trong và ngoài nước.
• Vườn nhãn: Vườn nhãn Bạc Liêu nằm
song song với bờ biển, cách trung tâm
thành phố Bạc Liêu khoảng 6 km và
cách bờ biển khoảng 3 km, diện tích
trên 50 ha, chạy dài trên 11 km đi qua
hai xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông,
nay thuộc thành phố Bạc Liêu.
Nơi đây có những gốc nhãn cổ hàng
trăm năm tuổi, thật sự là một mô hình du
lịch vườn hấp dẫn. Đến tham quan khu

du lịch vườn nhãn, du khách sẽ được
thưởng thức mùi vị quyến rũ của những
chùm nhãn thơm ngon nổi tiếng – nhãn
Bạc Liêu, cùng với những món ăn dân
dã là đặc sản do biển cả hào phóng ban
tặng. Không những thế, du khách còn
được hưởng không khí trong lành từ gió
biển thổi vào và còn được thưởng thức
âm hưởng của “Đờn ca tài tử Nam Bộ”.

3. Tài nguyên du lịch
a. Tài nguyên du lịch tự nhiên
• Vườn chim Bạc Liêu: Là một sân chim
tự nhiên và hoang dã, nguyên sơ chỉ
cách trung tâm đô thị khoảng 3 km. Với
diện tích 160 ha, hiện có hơn 40 loài
với trên 60.000 con, trong đó có nhiều
loài chim quý như: điên điển, quắm
trắng, quắm đen, còng cọc, vạc, cò
ngà, dang sen,... Vườn chim Bạc Liêu

Hình 10. Vườn nhãn cổ Bạc Liêu (Ảnh tư liệu)

23


• Biển và rừng: Rừng ở Bạc Liêu chủ yếu
là rừng ngập mặn ven biển với nhiều
loài động vật hoang dã. Mỗi khi thủy
triều xuống, bãi biển trải dài hàng cây

số và du khách thỏa thích đi trên bãi
biển. Du khách có thể bơi xuồng len
lách trong những cánh rừng phòng hộ,
câu cá, bắt tôm… Đi giữa rừng mắm
xanh tươi, du khách sẽ được hít thở
không khí trong lành mà không phải
nơi đâu cũng có.

Ngoài ra, du khách có thể ngồi đò, xuồng,
ca nô để vừa thưởng thức cái không khí
mát mẻ của hình thức du lịch sông nướcmiệt vườn; vừa ngắm nhìn cảnh sắc trời
nước bao la, vừa trò chuyện với những
người dân thôn quê mộc mạc, chân chất
càng làm tăng thêm sự hấp dẫn cho
khách tham quan du lịch.
b. Tài nguyên du lịch nhân văn
• Đồng Nọc Nạng: Là một khu di tích lịch
sử, tọa lạc tại ấp 4, xã Phong Thạnh,
huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Khu di
tích có diện tích 3 ha với nhiều hạng
mục: Khu mộ gia đình Mười Chức, phủ
thờ - nhà trưng bày hiện vật, cụm tượng
diễn tả lại sự kiện ngày 17 tháng 02
năm 1928, (trận quyết tử đòi lại ruộng
đất của anh em Mười Chức với bọn địa
chủ, quan lại cướp đất), nhà thủy tạ….
Di tích lịch sử này đã đuợc Bộ Văn hóa –
Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp
quốc gia năm 1991. Nay là tâm điểm du
lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch trong

và ngoài nước.
• Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đền thờ

24

hóa dân tộc, sẽ là nơi tham quan hấp
dẫn của du khách.
• Tháp cổ Vĩnh Hưng: Là di tích kiến trúc
nghệ thuật cấp quốc gia, tọa lạc tại
ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A,
huyện Vĩnh Lợi.
Tháp cổ Vĩnh Hưng không chỉ là một kiến
trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc - Eo còn
sót lại duy nhất ở Tây Nam Bộ, mà trong

nhân văn rất có giá trị của tỉnh và
quốc gia.

Hình 11. Khu di tích lịch sử Nọc Nạng (Nguồn:
Sở VH-TT&DL Bạc Liêu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Châu Thới,
huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu được xây
dựng năm 1972, cách thành phố Bạc
Liêu 18 km về phía Tây Bắc. Tọa lạc
trong khuôn viên hơn 9.300 m2. Đền
được xây dựng bằng gạch, đòn tay
gỗ dầu, phía trước có mái hiên và ban
công đổ mái bằng. Khoảng hơn 300
tài liệu và hiện vật phản ánh quá trình

nhân dân xã Châu Thới chiến đấu bảo
vệ đền thờ và các tư liêu về cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch
được lưu giữ tại nhà trưng bày.
• Đền đã được Bộ Văn hóa Thông tin
xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc
gia năm 1998. Đây là niềm tự hào của

Hình 11. Khu di tích lịch sử Nọc Nạng (Nguồn:
Sở VH-TT&DL Bạc Liêu)

quân và dân Bạc Liêu, hàng năm vào
các ngày lễ lớn, ngày nghỉ đặc biệt
vào ngày sinh nhật Bác có rất đông du
khách và nhân dân thăm viếng. Hiện
nay, Đền thờ đã được qui hoạch mở
rộng với diện tích 45.000 m2 và nhiều
hạng mục công trình mang ý nghĩa
giáo dục truyền thống và đậm nét văn

Hình 13. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu
(Nguồn: Sở VHTT&DL Bạc Liêu)

Hình 13. Tháp cổ Vĩnh Hưng (Nguồn: Sở VHTT&DL Bạc Liêu)

cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các
nhà khảo cổ học còn thu được một bộ
sưu tập hiện vật hết sức quí giá với nhiều
tượng đá, đồng, gốm, đá quí… đánh dấu
một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài

(thế kỷ IV - XIII sau công nguyên) của
tháp cổ Vĩnh Hưng.
Với những giá trị vốn có ấy, tháp Vĩnh
Hưng đã và đang được tu bổ nhằm bảo
tồn và phát huy tác dụng của một di tích
kiến trúc nghệ thuật tầm cỡ quốc gia. Di
tích này đã đuợc Bộ Văn hóa – Thông tin
xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật
cấp quốc gia năm 1992.
• “Dạ cổ hoài lang” – tiền thân của
Vọng cổ ngày nay: Bạc Liêu là một
vùng đất xuất xứ của bài “Dạ cổ hoài
lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã
làm say đắm lòng người Việt Nam
nói chung và người dân Nam Bộ nói
riêng. Một trong những cái nôi của
phong trào “Đờn ca tài tử”, một loại
hình diễn xướng dân gian trong các
lễ hội, tiệc cưới hay chỉ đơn giản tụ
tập nhau cùng đờn ca trong những
đêm trăng sáng ở các xóm làng, nay
đã trở thành loại tài nguyên du lịch

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892 – 1976) là
người sáng tác bản “Dạ cổ hoài lang”
nổi tiếng, tiền thân của bản Vọng cổ
ngày nay. Di tích lịch sử - văn hóa khu
lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu được xây
dựng tại phường 2, thành phố Bạc Liêu
(tại nơi mà gia đình an tang cố nhạc sĩ khi

tạ thế vào năm 1976). Di tích được Ủy
ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là
Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1997.
• Lễ Ooc-om-bok và hội đua ghe ngo: Là
một lễ hội truyền thống của đồng bào
dân tộc Khmer ở Nam Bộ nói chung và
ở Bạc Liêu nói riêng. Lễ hội cúng tế, tạ
ơn thần Mặt Trăng và cầu mong được
an lành, may mắn, mưa thuận gió hòa,
mùa mang tốt tươi. Lễ hội diễn ra vào
tối 14 và ngày 15 tháng 10 âm lịch.
Nghi lễ được người dân thực hiện tại
sân nhà hoặc sân chùa.

Hình 14. Hội đua ghe ngo của đồng bào dân tộc
Khmer (Ảnh tư liệu)

25


Hội đua ghe ngo diễn ra sau ngày lễ cúng
trăng, hằng năm được tổ chức rất sôi nổi
trên sông Maspéro (Sóc Trăng). Những
năm gần đây có nhiều địa phương đến
tham gia như Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang.
Lễ hội gắn liền với môn thể thao truyền
thống này đang phát triển mạnh mẽ, trở
thành sự kiện văn hoá truyền thống lớn
ở Việt Nam.

Ngoài ra, các công trình kiến trúc độc đáo
khác như: Chùa Xiêm Cán, Thành Hoàng
Cổ Miếu, … các làng nghề thủ công, tiểu
thủ công mỹ nghệ, lễ hội truyền thống và
văn hóa ẩm thực nổi tiếng càng làm tăng
thêm sự hấp dẫn cho khách tham quan du
lich trong và ngoài nước đến với Bạc Liêu.
IV. DIỄN BIẾN MÔI TRƯỜNG TỈNH BẠC LIÊU

1. Diễn biến môi trường nước
a. Diễn biến môi trường nước
*Tài nguyên nước trên mặt lục địa
Tỉnh Bạc Liêu có hệ thống kênh rạch
chằng chịt như: kênh Quản Lộ - Phụng
Hiệp, kênh Canh Đền, kênh Cà Mau –
Bạc Liêu. Nguồn nước cung cấp chủ yếu
cho sản xuất và sinh hoạt của tỉnh.
Tỉnh có các con kênh lớn dẫn nước ngọt
từ sông Hậu về, cung cấp chủ yếu cho
sinh hoạt và sản xuất ở khu vực phía Bắc
quốc lộ 1A. Đặc biệt là vào mùa mưa lũ,
nước từ vùng ngập lũ đổ về từ sông Hậu
mang một lượng lớn nước ngọt, đẩy lùi
xâm nhập mặn - một yếu tố thuận lợi
cho các hoạt động kinh tế, nhất là sản
xuất nông nghiệp và nuuôi trồng thủy sản
nước ngọt của tỉnh.
Chế độ thủy văn của tỉnh chịu ảnh hưởng
của chế độ bán nhật triều biển Đông và
một phần nhật triều biển Tây. Do đó,

phần phía Bắc quốc lộ 1A có điều kiện
nuôi trồng thủy sản, làm muối và phát
triển rừng ngập mặn.
Hiện nay, nguồn nước trên mặt của Bạc
Liêu đang có nguy cơ bị ô nhiễm do nuôi
trồng thủy sản quá mức và sử dụng hoá
chất trong sản xuất nông nghiệp, cùng
với sự biến đổi của khí hậu, hạn hán
ngày càng gay gắt dẫn đến tình trạng

26

xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng
hơn. Vì vậy, cần phải có biện pháp sử
dụng hợp lí các nguồn nước, hình thành
các hệ thống dự trữ, cấp thoát nước,
tránh để nước thải chưa xử lí lan ra gây
ô nhiễm môi trường nước.
Với đặc trưng về vị trí địa lí và điều kiện
tự nhiên, tỉnh Bạc Liêu đã phân chia địa
bàn tỉnh thành hai vùng sinh thái rõ rệt:
++ Vùng Bắc quốc lộ 1A - vùng sinh thái
nước ngọt - vùng sinh thái trồng lúa,
nuôi thuỷ sản nước ngọt.
++ Vùng Nam quốc lộ 1A - vùng sinh thái
ngập mặn - vùng sinh thái rừng ngập mặn
ven bờ phục vụ ngành nuôi trồng thuỷ sản
nước lợ và nước mặn, làm muối và phát
triển ngành trồng rừng ngập mặn.
++ Theo kết quả quan trắc cho thấy, chất

lượng nước mặt của tỉnh Bạc Liêu
trong 5 năm gần đây (2006 – 2010)
đều có dấu hiệu ô nhiễm, nó được thể
hiện rõ qua các thông số phân tích hóa
lí và sinh học.
Nhìn chung môi trường nước trên mặt
của tỉnh Bạc Liêu hiện nay đã có dấu
hiệu ô nhiễm hữu cơ nhẹ, nồng độ của
BOD5, COD, SS và Coliform đều vượt
tiêu chuẩn khoảng 1 – 2 lần. Đây là hậu
quả của việc xả thải bừa bãi nước thải
trực tiếp chưa qua xử lí, hoặc đã có xử lí
nhưng không đạt tiêu chuẩn xả thải trực
tiếp vào các nguồn nước trên mặt và từ
các nguồn khác.
Ô nhiễm các hợp chất hữu cơ là tình
trạng phổ biến trên tất cả các khu vực
nước trên mặt trong địa bàn tỉnh. Trên
các trục sông chính, cũng như trên các
kênh rạch chỉ tiêu COD và BOD5 đều
vượt tiêu chuẩn từ 1,5 - 2 lần, COD dao
động trong khoảng 10 - 62 mg/L, BOD5
dao động khoảng 5 - 25 mg/L.
Ô nhiễm các chất dinh dưỡng cũng đang
diễn ra trên các nguồn nước trên mặt
do nhiều nguyên nhân: nước thải sinh
hoạt, nước thải các ngành công nghiệp
(các ngành chế biến thủy sản và các sản
phẩm từ nông nghiệp), các làng nghề
đều là những loại nước thải có nồng độ

các chất hữu cơ cao.
Ở các vùng nông thôn, các chất thải từ

các hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm,
sử dụng phân hóa học phục vụ thâm
canh tăng vụ cũng là một trong những
nguyên nhân đáng kể gây ô nhiễm nguồn
nước trên mặt.
Coliform tại các vị trí quan trắc dao động
từ 210 - 24 x 104 MPN/100ml, vượt đến
48 lần so với QCVN 08:2008/BTNMT.
Sử dụng các nguồn nước nhiễm bẩn vi
sinh vật gây ra nhiều bệnh có thể chuyển
thành dịch trong cộng đồng, đặc biệt là ở
các vùng nông thôn.
*Tài nguyên nước dưới đất

Theo khảo sát thực tế và các tài liệu tham
khảo, tỉnh Bạc Liêu có trữ lượng nước
ngầm khá lớn. Hiện tại, tỉnh đang khai
thác và sử dụng nguồn nước ngọt chủ
yếu ở độ sâu từ 80 - 100 m. Nguồn nước
ngọt ở độ sâu này dễ bị nhiễm phèn và ô
nhiễm do nhiều tác nhân.
Nhìn chung nguồn nước ngầm hiện đang
có dấu hiệu ô nhiễm vi sinh cục bộ và tình
trạng xâm nhập mặn vào nguồn nước
ngầm tầng nông tại một số khu vực vùng
Nam quốc lộ 1A. Bên cạnh đó, do việc
khai thác và sử dụng nước ngầm không

hợp lí đã và đang tác động làm suy giảm
trữ lượng nguồn nước ngầm và gián tiếp
làm gia tăng các yếu tố tác động làm suy
giảm chất lượng nguồn nước ngầm của tỉnh.
b. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước
Môi trường nước mặt lục địa bao gồm
nước hồ ao, đồng ruộng, nước sông, kênh
rạch. Nguồn nước các sông và kênh tải
nước thải, các hồ, khu vực đô thị, khu công
nghiệp và đồng ruộng lúa nước của tỉnh là
những nơi thường có mức độ ô nhiễm cao
vì những nguyên nhân sau:
• Do tỉnh Bạc Liêu nằm ở rìa phía đông
nam của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long nên có thể được coi là nơi cuối
cùng tiếp nhận toàn bộ các chất thải
của khu vực và trong địa bàn tỉnh trước
khi thải ra biển.
• Dễ bị tích tụ ô nhiễm, tập trung ô nhiễm
từ các nguồn như chất thải rắn, đất,
nước và kể cả không khí.
• Nguồn gây ra ô nhiễm nước mặt lụa
địa của tỉnh Bạc Liêu phát sinh từ
những nguồn sau:

• Khu đô thị, khu dân cư, hộ dân sống
nông thôn bao gồm: nước bẩn và rác
thải sinh hoạt.
• Khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập
trung, các nhà máy với nước thải công

nghiệp phát sinh, nước và rác thải sinh
hoạt của lực lượng công nhân lao động
trong nhà máy.
• Hoạt động xây dựng công trình, cơ sở
hạ tầng các công trình kinh tế - văn
hoá - xã hội trên địa bàn tỉnh bao gồm:
nước và rác thải xây dựng phát sinh do
hoạt động xây dựng và nước thải sinh
hoạt của công nhân.
• Hoạt động giao thông đường thuỷ bao
gồm: nước và rác thải giao thông vận
tải phát sinh, chất thải nguy hại như
nước cặn dầu hoặc sự cố tràn dầu.
• Chất thải trong chăn nuôi bao gồm:
phân, nước thải.
• Chất thải trong nông nghiệp - trồng trọt
bao gồm: mùi hôi thối, rác thải, lượng
phân bón dư, thuốc trừ sâu phát sinh
trong hoạt động canh tác.
• Chất thải trong nuôi trồng thuỷ sản bao
gồm: phân, nước thải, thức ăn dư thừa
phát sinh trong nuôi trồng thuỷ sản.
• Chất thải trong hoạt động khai khoáng
bao gồm: chất thải rắn và nước thải.
• Chất thải trong các hoạt động dịch vụ
bao gồm: nước, rác thải.
• Chất thải trong hoạt động y tế, chăm
sóc sức khỏe nhân dân bao gồm: rác
và nước thải y tế.
• Hoạt động môi trường – cộng đồng

bao gồm: bùn thải phát sinh trong hoạt
động xử lý rác, nước thải; hoạt động
vận hành của các công trình như cấp
nước, thoát nước, vệ sinh môi trường
phát sinh nước thải và chất thải rắn.
c. Dự báo phát triển liên quan đến môi
trường nước

*Dự báo phát triển liên quan đến môi
trường nước trên mặt lục địa

Với tốc độ tăng dân số nhanh và việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế, áp lực gây ra đối
với nguồn nước mặt càng lớn, đặc biệt
là ở khu các đô thị, các cơ sở sản xuất
công nghiệp trong xu thế quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn của
tỉnh đang diễn ra với tốc độ khá nhanh.

27


• Nước thải đô thị
Chỉ tính riêng nước thải sinh hoạt đô thị, đến
năm 2008 tại các đô thị lên 21.695 m3/ngày
và đến năm 2020 lượng nước thải sinh hoạt
thải trực tiếp vào môi trường khoảng 26.112
m3/ngày, cao gấp 1,2 lần so với năm 2008.
Trong đó, thành phố Bạc Liêu là khu vực có
lượng nước thải sinh hoạt thải trực tiếp vào

môi trường nhiều nhất.
Với lượng nước thải lớn như vậy nếu
không có biện pháp thu gom xử lí triệt để

sẽ là nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm
chất lượng nước trên mặt, nước ngầm và
tác động đến các hệ sinh thái xung quanh.
Qua kết quả dự báo, khối lượng các chất
ô nhiễm trong nước thải đô thị của TP.
Bạc Liêu và các thị trấn trên địa bàn tỉnh
Bạc Liêu thải ra môi trường là khá lớn.
Nếu không được thu gom và xử lí trước khi
thải ra môi trường sẽ gây ô nhiễm nghiêm
trọng tới môi trường, làm ô nhiễm và suy
thoái tài nguyên nước mặt, nước ngầm và

Bảng 9. Lượng nước thải phát sinh tại các đô thị tỉnh Bạc Liêu vào năm 2008,
2009 và dự báo vào năm 2020
Năm

Dân số
(người)

Lưu lượng thải
(m3/ngày)

2008

225.989


21.695

2009

227.764

21.865

2020

272.000

26.112

(Nguồn: Sở Tài nguyện và Môi trường Bạc Liêu, 2010).

tác động trực tiếp đến các hệ sinh thái.
Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nằm xen kẽ
trong khu dân cư và khu đô thị nên không
còn đủ diện tích cho đầu tư xây dựng hệ
thống xử lí nước thải. Ngoài ra, các cơ
sở này hiện nay chỉ có các trang thiết bị,
máy móc cũ kĩ, công nghệ sản xuất lạc
hậu không đảm bảo các yêu cầu về bảo
vệ môi trường trong quá trình sản xuất,
làm phát sinh chất thải với nồng độ và tải
lượng ô nhiễm lớn hơn gấp nhiều lần so
với tiêu chuẩn cho phép khi thải ra môi
trường. Đây là một trong những nhân tố

góp phần gây ô nhiễm môi trường nước
nói chung và tại các khu đô thị nói riêng,
vì thế cần có các biện pháp xử lí triệt để
các nguồn ô nhiễm này.
• Nước thải công nghiệp
Theo quy hoạch phát triển ngành công
nghiệp của tỉnh đến năm 2010 sẽ tập
trung đầu tư xây dựng khu công nghiệp
với tổng diện tích khoảng 66 ha.
Đến năm 2020, các khu và cụm công
nghiệp sẽ được mở rộng quy mô sản

28

xuất, các nhà máy, xí nghiệp ngày càng
nhiều. Do vậy, nếu không có biện pháp
quản lí, xử lí hợp lí thì đây sẽ là một trong
những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng
làm suy giảm chất lượng nước mặt của
các sông rạch trên địa bàn.
Tuy trong tương lai, tất cả các khu công
nghiệp và cụm công nghiệp đều phải
có hệ thống xử lí nước thải trước khi
xả ra môi trường, nhưng thông thường
phần lớn các doanh nghiệp chỉ nghĩ
đến lợi nhuận, nếu các cơ quan chức
năng không giám sát nghiêm ngặt thì
tình hình xả nước thải không qua xử lí
ra môi trường có thể sẽ xảy ra. Khi đó,
môi trường tỉnh Bạc Liêu phải tiếp nhận

toàn bộ lượng chất ô nhiễm và hậu quả
sẽ không thể lường trước được.
Trong định hướng phát triển của tỉnh,
nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi gia súc
gia cầm và các làng nghề cũng là lĩnh vực
được chú trọng phát triển. Tuy có chiến
lược phát triển nhưng tình trạng đào ao
nuôi tôm, nuôi cá, hoặc nuôi trồng thủy
sản một cách tự phát, tình trạng các làng

nghề nhỏ lẻ vẫn chưa có các biện pháp
xử lí nước thải, chất thải sẽ không tránh
khỏi việc góp phần làm gia tăng nguy cơ
gây ô nhiễm nguồn nước mặt.
• Dự báo nước thải y tế
Theo số liệu thống kê (trong nước và các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á),
lượng nước thải bình quân tại các bệnh
viện, các trạm y tế là 425 lít/giường.ngày.
Trong khi đó, theo quy hoạch phát triển
đến năm 2010 thì số lượng giường bệnh
của tỉnh Bạc Liêu sẽ tăng lên khoảng
3.250 giường và đến năm 2020 là 4.000
giường bệnh. Như vậy, khối lượng nước
thải y tế bình quân thải ra môi trường sẽ
đạt khoảng 1.381,25 m3/ngày vào năm
2010 và 1.700 m3/ngày vào năm 2020.
Nước thải y tế thường chứa các loại hóa
chất có trong thuốc, các dung dịch y tế
dư thừa và đặc biệt là chứa lượng vi sinh

rất lớn. Sau một thời gian, các chất này
nhất là thuốc kháng sinh đi vào cơ thể
con người làm tích tụ các chất kháng sinh
trong cơ thể con người, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe của con người.
Như đã nhận định ở trên, nước thải tại

các bệnh viện lớn của tỉnh tuy đã qua
hệ thống xử lý nhưng vẫn chưa đạt tiêu
chuẩn cho phép khi thải ra môi trường.
Do đó, trong tương lai nếu như tình hình
này vẫn tiếp diễn và nước thải từ các
bệnh viện khác không được xử lí triệt
để sẽ làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi
trường do nước và rác thải y tế.
• Dự báo tải lượng nước thải từ các hoạt
động du lịch, dịch vụ
Trong năm 2009, tổng lượng khách du
lịch của tỉnh Bạc Liêu đạt 350.000 lượt du
khách và có tổng lượng nước thải ước
tính sinh ra mỗi ngày là 63.000 m3. Số
liệu này có được dựa vào tính toán với
giả thiết lưu lượng nước thải ra bình quân
đối với khách du lịch là 180 lít/ngày.người
(Nguồn: Tính toán thiết kế các công trình
xử lý nước thải, Trịnh Xuân Lai).
Theo dự đoán lượng khách sẽ tới tham
quan, du lịch trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
vào năm 2010 là 406.000 lượt người,
tăng lên 730.000 lượt người vào năm

2015 và 1.055.000 lượt người vào năm
2020. Như vậy theo tính toán sơ bộ,
lượng nước thải do hoạt động du lịch thải
ra môi trường sẽ là:

Bảng 10. Ước đoán lưu lượng nước thải do hoạt động du lịch phát sinh trong giai đoạn
2009 - 2020
Năm
Chỉ tiêu
2009

2010

2020

Khách du lịch (người)

350.000

406.000

1.055.000

Tổng lượng nước thải (m3/ngày)

63.000

73.080

189.900


(Nguồn: Sở Tài nguyện và Môi trường Bạc Liêu, 2010).
*Dự báo diễn biến môi trường nước
trên mặt

Như đã tính toán ở trên, trong tương lai,
các nhánh kênh rạch trên địa bàn tỉnh
Bạc Liêu sẽ phải tiếp nhận một lượng
lớn nước thải phát sinh từ quá trình phát

triển kinh tế xã hội. Đây là một trong
những nguyên nhân chính gây nên vấn
đề ô nhiễm nguồn nước của các kênh
đào, sông rạch trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu trong khi khả năng tự làm sạch của
nguồn nước lại có giới hạn.

29


Trong hiện tại, ngành nuôi trồng thủy
hải sản là loại hình sản xuất đang phát
triển mạnh mẽ trong tỉnh, thế nhưng các
giải pháp về xử lí nguồn nước thải, bùn
thải chưa phù hợp. Theo quy hoạch đến
năm 2010 thì ngành nuôi trồng thủy sản
là một trong những ngành mũi nhọn của
tỉnh. Vì thế, các vấn đề sử dụng không
gian nuôi, xử lí chất thải cần phải được
chính quyền địa phương quan tâm xem

xét vì đây chính là nguồn ô nhiễm trực
tiếp đến môi trường nước mặt của tỉnh.
Tuy nhiên, cũng theo quy hoạch phát
triển trong tương lai thì hình thức nuôi
thủy sản sẽ phát triển theo hướng hiệu
quả, bền vững, đảm bảo kiểm soát dịch
bệnh, ô nhiễm nguồn nước. Do đó có thể
nghĩ rằng sự tác động của các chất bẩn
trong ao nuôi sẽ không làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường nước mặt.
Ngành chăn nuôi cũng đang phát triển
vượt bậc, điều này cũng đồng nghĩa
với sự gia tăng lượng chất thải vào môi
trường, làm tốc độ ô nhiễm môi trường
nước mặt sẽ diễn ra nhanh hơn. Theo
ước tính năm 2010 lượng chất thải phát
sinh hàng ngày khoảng 2.188.250 kg/
ngày, và vào năm 2020 là 3.431.675 kg/ngày.
Ngoài những nguồn ô nhiễm do phân,
rác, nước thải sinh hoạt, sản xuất, chất
thải chăn nuôi thì nguồn nước mặt tại
Bạc Liêu đã, đang và sẽ bị tác động bởi
chất thải từ các chợ, chất thải từ các
cơ sở sản xuất công nghiệp, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật dùng trong nông
nghiệp... Đáng chú ý là tình trạng người
dân vứt chai, lọ chứa thuốc bảo vệ thực vật
xuống kênh rạch, hóa chất này sẽ xâm nhập
vào dòng nước làm nguồn nước bị ô nhiễm.
Với những quy hoạch phát triển và các

dự báo trên, tỉnh cần xây dựng báo cáo
môi trường chiến lược, xây dựng các
chương trình hành động để tạo sự phát
triển bền vững. Cần tăng cường công
tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa
học kĩ thuật trong công tác bảo vệ môi
trường như: sản xuất sạch hơn, các công
nghệ xử lí nước thải và chất thải rắn, an
toàn sinh học…góp phần giảm ô nhiễm
nguồn nước mặt nói riêng và các thành
phần của môi trường nói chung.

30

*Dự báo phát triển liên quan đến môi
trường nước dưới đất

Theo dự báo đến năm 2015 thì nhu cầu
dùng nước trong sản xuất nông nghiệp
cũng như trong sinh hoạt tại các vùng
nông thôn sẽ gia tăng. Một phần là do
ảnh hưởng của thời tiết khí hậu trong khu
vực, theo dự đoán của các chuyên gia
trên thế giới cho biết nhiệt độ môi trường
sẽ ngày càng tăng. Một phần là do sự gia
tăng dân số, phát triển kinh tế kéo theo
các cơ sở sản xuất trong các vùng nông
thôn cũng gia tăng theo.
Dựa vào Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu trong giai

đoạn 2010 - 2020, nhu cầu cấp nước
sạch của tỉnh được xác định từ chỉ tiêu
cấp nước trung bình của một người dân.
Với định mức sử dụng nước là 80 lít/
người.ngày thì theo tính toán, nhu cầu sử
dụng nước phục vụ mục đích sinh hoạt
của người dân nông thôn vào năm 2020
sẽ là 50.882 m3/ngày. Ngoài ra, nhu cầu
dùng nước cho việc tưới tiêu trong sản
xuất nông - lâm nghiệp - nuôi trồng thủy
sản cũng rất cần thiết và với một lượng
nước không nhỏ. Với nhu cầu dùng nước
lớn như vậy, nhưng nguồn nước sông
của tỉnh lại đang bị đe dọa do ảnh hưởng
từ hoạt động của người dân nên gây hạn
chế cho việc khai thác để cấp nước cho
sinh hoạt của người dân. Do đó, trong
hiện tại và tương lai gần nhất, người dân
vẫn phải sử dụng nguồn nước ngầm làm
nguồn nước cấp chính.
Các khu công nghiệp trọng điểm cũng có
các dự án khai thác nước ngầm phục vụ
cho sinh hoạt và sản xuất, các ban ngành
cần chú trọng đến công tác giám sát hoạt
động khai thác nguồn nước của các cơ
sở sản xuất này.
Hiện nay, tại khu vực nông thôn, hầu như
người dân đều tự khai thác nguồn nước
ngầm để sử dụng. Tuy nhiên, việc khai
thác này vẫn chưa được quản lí chặt chẽ,

dẫn đến mực nước ngầm dễ bị suy giảm.
Trong tương lai, số lượng giếng khoan
phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất tại
các vùng nông thôn sẽ càng tăng do nhu
cầu của người dân tăng và vấn đề tụt áp

suất nước là vấn đề chắc chắn sẽ xảy ra
trong tương lai. Như thế sẽ rất nguy hiểm
vì điều này sẽ dẫn đến tình hình lớp đất
ngầm sẽ trở nên rỗng và dễ sụt lún. Khi
đó nguồn nước mặt từ các cửa biển sẽ
xâm nhập vào các mạch nước ngầm.
Bên cạnh đó, việc nuôi thủy sản tại các
ao, đầm dễ dẫn đến tình trạng đất bị
phèn hóa, nhất là tại các ao đầm nuôi
tôm. Nếu việc vệ sinh cải tạo môi trường
không thực hiện tốt sẽ làm môi trường
đất bị nhiễm phèn dẫn đến tình trạng
nguồn nước ngầm tại khu vực đó cũng
bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, theo quy hoạch
đến năm 2010, việc nuôi thủy sản sẽ
được kết hợp với nhiều hình thức sản
xuất nông nghiệp khác theo hướng có lợi
cho môi trường nên dự đoán môi trường
nước ngầm sẽ không bị ảnh hưởng nhiều
do hoạt động nuôi thủy sản.
Hiện nay, nguồn nước ngầm ở tầng gần
mặt đất trên địa bàn tỉnh đang có dấu
hiệu bị ô nhiễm vi sinh tại một số khu
vực. Các giá trị đo được cho thấy tổng

Coliform trong môi trường nước ngầm
tại một số nới cao gấp 1.533 lần nồng
độ cho phép và một số nơi khác có giá
trị vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều này
cho thấy, nguồn nước ngầm của tỉnh đã
bị ảnh hưởng bởi nước thải, đặc biệt là
chất thải chăn nuôi, chất thải từ sinh hoạt
của con người.
Dự kiến số lượng vật nuôi sẽ tăng mạnh
trong những năm tới, điều này đồng
nghĩa với lượng chất thải chăn nuôi sẽ
gia tăng. Nếu việc quản lý lượng chất
thải này không thì trong tương lai, nguồn
nước ngầm của tỉnh sẽ tiếp tục bị ô nhiễm
vi sinh và có thể mức độ ô nhiễm sẽ càng
nghiêm trọng hơn so với hiện nay.
Bên cạnh đó, việc ô nhiễm Arsen trong
nước ngầm cũng rất quan trọng gây ảnh
hưởng đến môi trường và đặc biệt là ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe của người dân
nếu sử dụng mà không xử lí. Cùng với
quá trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh,
lượng nước thải vào môi trường ngày
càng nhiều, lượng nước thải nếu không
được thu gom triệt để sẽ chảy tràn ra
môi trường đất, thấm xuống mạch nước
ngầm, từ đó làm gia tăng hàm lượng các

chất ô nhiễm trong nước, nhất là có thể
làm gia tăng nồng độ Arsen có trong môi

trường nước.
2. Diễn biến môi trường không khí
Môi trường không khí mang tính chất
toàn cầu chứ không riêng của một quốc
gia hay một vùng lãnh thổ nào, mức độ
tác động của ô nhiễm không khí ảnh
hưởng trên một phạm vi rộng lớn. Cho
nên, mọi quốc gia trên thế giới đã và
đang tìm cách giảm thiểu nguồn phát
thải gây ô nhiễm không khí để vấn đề ô
nhiễm không khí không còn là gánh nặng
cho đời sống nhân sinh.
Thực tế hiện nay, ô nhiễm không khí
đang là vấn đề nóng bỏng của cả thế
giới, chất lượng không khí đang có nhiều
biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến
con người và các sinh vật. Hàng năm con
người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn
than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng
thải vào môi trường một khối lượng lớn
các chất thải khác nhau như: chất thải
sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí
nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí
độc hại tăng lên nhanh chóng.
Chất lượng không khí xung quanh trên
địa bàn tỉnh Bạc Liêu hiện chưa có dấu
hiệu ô nhiễm các chất độc hại như SO2,
NO2, CO. Tuy nhiên, chất lượng không
khí tại các cơ sở sản xuất cũng như các
làng nghề thủ công nằm bên ngoài khu

công nghiệp một vài nơi đã có dấu hiệu ô
nhiễm từ nhiều năm nay và đến nay vẫn
chưa được cải thiện.
a. Các nguồn gây ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là một vấn đề bức xúc
đối với đô thị, khu công nghiệp và một số
làng nghề trong tỉnh. Hiện tại ở Bạc Liêu
có hai nguồn gây ô nhiễm không khí là
nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo:
++ Nguồn tự nhiên do các hiện tượng
thiên nhiên như cháy rừng, bão lụt.
++ Nguồn nhân tạo chủ yếu là do các
hoạt động sản xuất công nghiệp, các
phương tiện giao thông vận tải và sinh
hoạt của con người.

31


*Ô nhiễm không khí do các hoạt động sản
xuất công nghiệp

Các khu, cụm công nghiệp: Khu công
nghiệp Trà Kha đang trong quá trình
xây dựng với đặc trưng ngành nghề
sản xuất như: chế biến thuỷ hải sản,
thức ăn thuỷ sản, chế biến nông sản,
sản xuất bia, sản xuất vật liêu ngành
viễn thông. Nên một số chất ô nhiễm
không khí từ một số loại hình sản xuất

trong khu công nghiệp là: Bụi, CO, SO2,
NOx, H2S, NH3, mùi hôi thối.
Tuy một số nhà máy lớn của tỉnh đã được
quy hoạch vào các khu công nghiệp và
có đầu tư hệ thống xử lí khí thải nhưng
hiện nay vẫn chưa xử lí triệt để các khí
thải độc hại nên vẫn gây ra ô nhiễm môi
trường không khí xung quanh.
Theo quy hoạch, Bạc Liêu có khoảng 13
cụm công nghiệp - tiểu thu công nghiệp
và một số làng nghề như: đan đát, đan
mê bồ, cần xé, rổ, đan lưới, làm nước
mắm, nước tương, dệt vải, đóng ghe
xuồng,… Các cụm công nghiệp và làng
nghề thủ công cũng là các nguồn gây ô
nhiễm môi trường không khí cục bộ.
• Các bãi rác
Tỉnh Bạc Liêu có hai bãi rác lớn là bãi rác
thành phố Bạc Liêu, bãi rác huyện Vĩnh
Lợi, và một số bãi rác nhỏ khác. Một số bãi
rác này đang xây dựng chưa hoàn chỉnh
mà phải tiếp nhận lượng rác thải quá tải từ
khu công nghiệp, cụm công nghiệp và thị
trấn hoặc đã xây dựng hoàn chỉnh nhưng
chưa thực hiện đúng quy trình và kĩ thuật
chôn lấp rác nên phát sinh ra mùi hôi thối
do rác phân hủy tạo ra các khí như H2S,
CH4, NH3…gây ô nhiễm môi trường. Nếu
không có biện pháp bảo vệ môi trường
hợp lí thì đây cũng là nguồn ô nhiễm không

khí đáng kể.

*Ô nhiễm không khí do các hoạt động
giao thông vận tải

Trong thời gian qua, số lượng và mật độ
các loại phương tiện giao thông vận tải
tăng nhanh. Khí thải, bụi từ phương tiện
giao thông vận tải là một nguồn ô nhiễm
không khí, đặc biệt đối với môi trường
không khí khu đô thị, nhất là ở các điểm
nút giao thông lớn trong tỉnh.

32

Theo đánh giá của các chuyên gia môi
trường, ô nhiễm không khí ở khu đô thị do
các phương tiện giao thông vận tải gây ra
chiếm tỉ lệ khoảng 70%. Hoạt động giao
thông vận tải là nguồn thải chủ yếu gây
ra ô nhiễm môi trường từ các chất độc
hại: bụi, SO2, NOx, hơi xăng,...
*Ô nhiễm không khí do các hoạt động
xây dựng

Quá trình đô thị hoá đang diễn ra với tốc
độ rất nhanh ở hầu hết các huyện, thị xã,
thành phố trong tỉnh với các hoạt động xây
dựng nhà cửa, đường xá, cầu cống. Các
hoạt động xây dựng đô thị gây ô nhiễm

bụi trầm trọng đối với môi trường không
khí xung quanh: công tác đào đất, san lấp
mặt bằng, vận chuyển nguyên vật liệu xây
dựng sẽ làm phát sinh bụi do vật liệu xây
dựng rơi vãi.
Việc xây dựng đô thị, cơ sở hạ tầng còn
phát sinh khí thải do hoạt động của các máy
móc thiết bị hoạt động trên công trường:
SO2, NOx, CO, …làm ảnh hưởng đến chất
lượng không khí khu vực xung quanh.

*Ô nhiễm không khí do hoạt động sinh
hoạt và sản xuất nông nghiệp

Hoạt động của các hộ gia đình như đun
nấu bằng than, dầu, củi cũng góp phần
gây ô nhiễm không khí mặc dù không lớn
so với các nguồn khác. Các chất ô nhiễm
chính là bụi và khói muội than, CO.
Hiện nay, đời sống của người dân ngày
càng cải thiện, mức thu nhập tăng, nhiều
gia đình đã sử dụng điện hoặc bếp gas
cho việc nấu ăn hằng ngày. Tuy nhiên,
nếu không có biện pháp tốt thì lượng khí
thải gây ô nhiễm môi trường không khí
do hoạt động đun nấu từ các khu vực
dân cư đông đúc cũng đáng kể, đặc biệt
là khu dân cư nghèo có mức độ phát
thải khí ô nhiễm cao hơn hẳn những khu
khác, ước tính lớn gấp 10 lần so với các

khu dân cư có mức sống cao.
Bạc Liêu là vùng đất nông nghiệp, người
dân chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng
nên các hoạt động phun xịt thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc trừ sâu, lượng phân bón
dư thừa cũng làm phát sinh các khí gây
ô nhiễm: các chất hữu cơ bay hơi. Việc

đốt rơm rạ sau khi thu hoạch cũng làm
một lượng lớn các khí CO, CO2, NOx, bụi,
muội than vào không khí xung quanh,
gây ô nhiễm cục bộ trong khu vực.
b. Diễn biến ô nhiễm môi trường
không khí
Ô nhiễm không khí trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu mang tính cục bộ, xảy ra tại một số
khu vực đặc trưng bị ảnh hưởng bởi các
chất và khí thải từ các hoạt động giao
thông vận tải, công nghiệp, xây dựng,
sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản và sinh hoạt của dân cư.
*Chất lượng không khí đô thị

Nhìn chung chất lượng môi trường không
khí trong các đô thị tại tỉnh Bạc Liêu khá
tốt, chỉ có một số nơi chỉ số chất lượng
không khí vượt ngưỡng 01 trong năm
2007, còn ở các năm khác thì chất lượng
không khí khá tốt.
Mặc dù chỉ số vượt ngưỡng 01 nhưng

vượt rất thấp, cùng với môi trường bị
ô nhiễm bụi và tiếng ồn nhẹ ở các trục
đường giao thông nên môi trường không
khí trong những năm 2006 - 2010 tác
động không đáng kể đến đời sống, sinh
hoạt của người dân trong tỉnh.
*Chất lượng không khí tại các huyện

Chất lượng không khí ở các khu vực
xung quanh các thị trấn ở các huyện đều
có chất lượng khá tốt, tất cả các vị trị
quan trắc đều cho thấy kết quả là chỉ số
chất lượng không khí nhỏ hơn 01.
*Chất lượng không khí tại cơ sở sản xuất

Tại hầu hết các cơ sở sản xuất, chất
lượng không khí tương đối tốt. Bên cạnh
đó, theo thống kê vào năm 2006 tại một
số nơi còn ô nhiễm H2S nhưng với nồng
độ không quá lớn, nguyên nhân của hiện
tượng này là do năm 2006 lượng vỏ đầu
tôm bán đi không nhiều gây một lượng
lớn vỏ đầu tôm của các cơ sở chế biến
để tồn đọng và phân huỷ gây ra nồng
độ H2S tăng lên vượt mức tiêu chuẩn và
đến các năm về sau thì lượng chất thải
này đã được thu mua toàn bộ, nên hiện
tượng này không còn xảy ra nữa.

*Chất lượng không khí tại các cơ sở y tế


Chất lượng không khí tại các cơ sở y tế
trên địa bàn tỉnh đều khá tốt, tất cả các
chỉ tiêu quan trắc theo các năm đều đạt
quy chuẩn cho phép..
c. Dự báo phát triển liên quan đến môi
trường không khí
Hiện tại, hoạt động của các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp của tỉnh Bạc
Liêu chưa gây ảnh hưởng ô nhiễm nhiều
đến chất lượng môi trường toàn vùng.
Sự ô nhiễm chỉ xảy ra cục bộ tại một số
khu vực về các chỉ tiêu bụi và tiếng ồn.
Các khu vực ô nhiễm chủ yếu là tại các
tuyến giao thông chính của tỉnh và tại khu
vực xung quanh các cơ sở vật liệu xây
dựng, pha trộn nhựa đường.
*Dự báo diễn biến ô nhiễm không khí do
khí thải giao thông vận tải

Tỉnh Bạc Liêu có 04 tuyến lộ đi qua
đã và đang được xây dựng với chiều
dài trên 133 km và cùng với các tuyến
tỉnh lộ, huyện lộ đang ngày càng được
hoàn thiện, điều này sẽ giúp cho giao
thông đường độ ở trong tỉnh sẽ ngày
càng thuận lợi hơn mà đặc biệt là giao
thông nông thôn sẽ ngày càng dễ dàng
và thuận tiện hơn như các tuyến đường
Hồng Dân, Phước Long, Gành Hào.

Doanh thu dịch vụ vận tải trung bình trong
các năm qua (từ năm 2000 - 2008) vào
khoảng 37% và dự kiến đến năm 2020 là
38%/năm. Do đó, tổng áp lực khí thải giao
thông vận tải trong các vùng nông thôn
của tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 dự báo
sẽ tăng khoảng 05 lần so với năm 2005.
Do vậy, tương tự như vùng đô thị thì các
vùng nông thôn của tỉnh cũng sẽ chịu
ảnh hưởng phổ biến ô nhiễm trên diện
rộng do khí thải giao thông vận tải của cả
vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
Vì vậy, tỉnh Bạc Liêu sẽ định hướng thực
hiện chương trình bảo vệ môi trường
trọng điểm đến năm 2020 cho khu vực
nông thôn của tỉnh.

33


năm vào khoảng 0,9%).
Dựa trên các hệ số ô nhiễm, có thể ước
tính tổng tải lượng ô nhiễm do khí thải
sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu vào
những năm 2010 và 2020 như sau:

thuỷ hải sản cũng bị ảnh hưởng đáng kể
bởi lượng muối tăng lên quá cao. Xâm
nhập mặn là tích luỹ lượng muối trong

đất và gây ảnh hưởng trong thời gian dài
cho các sinh vật sống trong đất.

Bảng 11. Dự báo tổng tải lượng ô nhiễm do khí thải sinh hoạt tỉnh Bạc Liêu vào năm 2010 và
2020. (Đơn vị: tấn/năm)

Chất ô nhiễm xâm nhập vào đất bằng
nhiều con đường khác nhau như lắng
đọng từ khí quyển, theo nước ngấm vào
đất, hoặc do con người thải bỏ vào môi
trường đất,…

*Dự báo diễn biến ô nhiễm do khí thải
sinh hoạt

Tổng dân số tại tỉnh Bạc Liêu vào năm
2009 là 856.250 người và năm 2020 là
941.019 người (tỉ lệ tăng trung bình hằng

Năm

Bụi

SO2

NOx

CO2

THC


2010

10,0

27,4

16,3

38,5

19,1

2020

10,9

29,8

17,8

41,9

20,8

Khác với môi trường không khí và môi
trường nước, hầu hết các chất gây ô
nhiễm khi thấm vào môi trường đất sẽ bị
lưu giữ lại. Do đó, nếu thành phần chất
gây ô nhiễm quá nhiều, con người muốn

khử ô nhiễm cho đất cũng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn và tốn nhiều công sức.
b. Hiện tượng suy thoái và ô nhiễm
môi trường đất

(Nguồn: Sở Tài nguyện và Môi trường Bạc Liêu, 2010).

Kết quả dự báo tổng tải lượng ô nhiễm
do khí thải sinh hoạt của tỉnh Bạc Liêu
năm 2010 như sau:khoảng 10,0 tấn bụi;
27,4 tấn SO2; 16,3 tấn NOx; 38,5 tấn CO;
19,1 tấn THC, nếu như không xảy ra thay
đổi lớn về cơ cấu sử dụng năng lượng
trong dân cư nông thôn thì đến năm 2020
sẽ là: khoảng 10,9 tấn bụi; 29,8 tấn SO2;
17,8 tấn NOx; 41,9 tấn CO; 20,8 tấn THC.
3. Môi trường đất
a. Các nguồn gây ô nhiễm và suy thoái đất
Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm
theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo
các tác nhân gây ô nhiễm. Nếu dựa theo
nguồn gốc phát sinh, có thể phân thành
các loại sau:
• Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt.
• Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp.
• Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp.
Tuy nhiên, môi trường đất có những đặc
thù và một số tác nhân gây ô nhiễm có
thể cùng một nguồn gốc nhưng lại gây
tác động bất lợi rất khác biệt.

Do đó, chúng ta có thể phân loại ô nhiễm
đất trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu theo các
tác nhân gây ô nhiễm như sau:
• Ô nhiễm đất do tác nhân hoá học:
Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân
bón trong đất), thuốc trừ sâu (clo hữu cơ,
DDT, lindan, aldrin, photpho hữu cơ v.v.),

34

chất thải công nghiệp và sinh hoạt (kim
loại nặng, độ kiềm, độ axit v.v...).
• Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Trực
khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh
trùng (giun, sán v.v...). Tại Bạc Liêu có
nhiều bãi rác đổ lộ thiên không hợp vệ
sinh, không được quản lý, đây cũng là
một nguồn gây ô nhiễm không những
cho môi trường đất mà còn cả không
khí, nước mặt, thậm chí cả nước ngầm
• Ô nhiễm đất do tác nhân vật lí: Nhiệt
độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân huỷ
chất thải của sinh vật), chất phóng xạ
(U ran, Thori, 90Sr, 131I, 137Cs).
• Nhiễm phèn: Những trận mưa đầu mùa
thường thường sự chảy tràn lớn xuống
các dòng sông rạch và kênh mương
cuốn theo rác rến, các độc chất trong
đất gây ô nhiễm. Ở các vùng đất có
sự hiện diện của phèn tiềm tàng (lớp

pyrite), do mùa khô kéo dài, đất nứt nẻ,
mực nước ngầm hạ thấp tạo điều kiện
thuận lợi cho phèn tiềm tàng trở thành
phèn hoạt động (dạng jarosite). Nước
mưa đầu mưa hòa tan phèn làm độ pH
của nước hạ thấp.
• Xâm nhập mặn: Do điều kiện thời tiết
bất thường và thiếu nguồn nước ngọt
làm tăng xâm nhập mặn vào hệ thống
kênh rạch vào mùa khô.
Xâm nhập mặn làm ảnh hưởng đến trồng
trọt (đặc biệt là trồng lúa nước), nuôi trồng

Hình 11. Xâm nhập mặn đất trồng lúa do hạn hán (Ảnh Lâm Văn Khanh, 2007).

Nguồn tài nguyên đất của tỉnh thì phèn và
mặn là hai yếu tố tồn tại gây ảnh hưởng
chủ yếu đến việc sử dụng đất. Đồng thời
do quá trình phát triển kinh tế - xã hội
đã thúc đẩy nhu cầu cuộc sống của con
người ngày càng tăng cao, trong đó có
nhu cầu về lương thực thực phẩm.
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, người
dân đã không ngừng đẩy mạnh thâm
canh, tăng vụ nhằm khai thác triệt để
nguồn tài nguyên đất. Bên cạnh đó, với
việc độc canh cây lúa đã tạo khe hở sinh
thái làm cho dịch bệnh bùng phát gây

ảnh đến quá trình canh tác của người

dân. Vì muốn loại trừ nhanh dịch bệnh
và mang lại hiệu quả ngay, người dân có
thói quen sử dụng hoá chất bảo vệ thực
vật, phân bón hóa học trong hoạt động
sản xuất, canh tác của mình. Đồng thời
làm phát tán một phần dư lượng hoá chất
bảo vệ thực vật tồn lưu vào môi trường
đất, nước và tích lũy trong sinh vật gây
ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến
sức khoẻ người dân.

35


*Quá trình phèn hoá

Nhóm đất phèn ở Bạc Liêu có 03 nhóm
phụ đó là nhóm đất phèn tiềm tàng, nhóm
đất phèn hoạt động và nhóm đất phèn
hoạt động bị thủy phân. Tính chất của
đất phèn sẽ thay đổi và có ảnh hưởng
nhất định đến môi trường, hệ sinh thái
tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên và các
tác động của con người.
*Quá trình mặn hoá

Quá trình mặn hoá nguồn tài nguyên đất
chủ yếu do các nguyên nhân sau:
++ Do tác động của thủy triều: Khi triều
cường, nước biển xâm nhập sâu vào nội

địa gây mặn hoá, nhất là các vùng ven biển.
++ Hoạt động canh tác không hợp lí như
dẫn nước mặn vào đất nông nghiệp để
nuôi tôm làm phá vở cấu trúc của đất
và gây suy thoái nguồn tài nguyên đất.
++ Các hoạt động khai thác nước ngầm
không theo qui hoạch, quá mức giới
hạn cho phép làm cho mực nước
ngầm hạ xuồng thấp hơn mức cân
bằng tạo điều kiện cho nước mặn xâm
nhập vào.
++ Mùa khô kéo dài làm cho quá trình bốc
mặn, bốc phèn xảy ra mạnh.
Nhìn chung nguồn tài nguyên đất của
tỉnh đã và đang chịu tác động của quá
trình phèn hóa, mặn hóa. Tuy nhiên, quá
trình này đã được hạn chế bởi hệ thống
cống dọc theo Quốc lộ 1A cũng như các
biện pháp canh tác, thủy lợi hợp lí để
hạn chế và cải tạo nguồn tài nguyên đất
nhằm phục vụ tốt cho các hoạt động sản
xuất, canh tác của người dân. Song cũng
cần phải có biện pháp xử lí và khắc phục
kịp thời nhằm bảo vệ sự cân bằng môi
trường sinh thái.
4. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi
môi trường
Môi trường tỉnh Bạc Liêu bị biến khi các
thành phần của môi trường bị ô nhiễm và
suy thoái, nguyên nhân chủ yếu là do tác

động của con người thông qua các hoạt
động kinh tế và sinh hoạt đời sống xã hội
hằng ngày. Mặt khác, sự gia tăng dân số

36

và quá trình đô thị hóa, hậu quả của thiên
tai và các cuộc chiến tranh để lại cũng là
những nguyên nhân làm cho môi trường
tỉnh Bạc Liêu bị biến đổi. Cụ thể như sau:

khu vực nuôi trồng thủy sản không có xử
lí nước thải mà đổ trực tiếp xuống các
kênh rạch, sông ngòi gây ô nhiễm môi
trường nước.

a. Ô nhiễm môi trường nước
Các hoạt động sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp xả nước thải vào
các nguồn tiếp nhận (nước thải từ sinh
hoạt của công nhân, nước thải từ các
khâu sản xuất của nhà máy xí nghiệp,
nước thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh tôm giống…). Trong đó, đáng quan
tâm nhất là nước thải sinh hoạt và nước
thải từ các nhà máy chế biến thủy hải sản
đông lạnh xuất khẩu với lưu lượng nước
thải rất lớn, không qua xử lí hoặc xử lí
không đạt yêu cầu, được thải trực tiếp ra
kênh rạch gây ô nhiễm môi trường, trực
tiếp ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng

nuôi trồng thủy sản ở vùng nông thôn và
sức khỏe của người dân sống xung quanh khu vực này.
Nước thải sinh hoạt tại các đô thị và các
khu vực dân cư sống tập trung như: chợ,
bệnh viện, các tuyến dân cư gần sông,
gần đường giao thông, đã và đang thải
trực tiếp ra kênh mương và sông ngòi
tỉnh Bạc Liêu với một khối lượng nước
thải chưa qua xử lí khá lớn. Đặc biệt vào
mùa khô, lưu lượng nước tại các con
sông và các kênh rạch giảm xuống, tốc
độ dòng chảy yếu, khả năng tự làm sạch
của sông kém. Do đó, hàm lượng các
chất ô nhiễm sẽ rất cao, đặc biệt là các
kênh rạch chảy qua các vùng tập trung
dân đông, các khu chợ, mà điển hình là
thành phố Bạc Liêu.

Ô nhiễm môi trường nước còn do thiếu
nguồn nước ngọt, sạch trong giai đoạn
mùa khô (mà nguồn nước này lấy từ
sông Hậu là chủ yếu) phục vụ nuôi tôm,
sản xuất nông nghiệp trong vùng. Mùa
khô kéo dài nên quá trình xâm nhập mặn
ngày càng diễn biến phức tạp, tác động
vào đời sống sinh hoạt, canh tác nông
nghiệp, cấp nước uống và công nghiệp.
Ô nhiễm do chất thải nông nghiệp trong
vùng sản xuất lúa phía Bắc quốc lộ 1A
cũng như những diện tích phía thượng

nguồn của tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang và
Cần Thơ đổ về (nước chua từ các diện
tích đất phèn được cải tạo và canh tác
thải xuống, các loại phân bón, các chất
hữu cơ, ...). Đặc biệt là vào mùa khô do
thiếu nguồn nước ngọt từ sông Hậu đổ
về, nước mặn từ biển Tây và biển Đông
xâm nhập sâu vào các kênh nội đồng, sự
xâm nhập mặn diễn ra phức tạp do hệ
thống sông ngòi chằng chịch ảnh hưởng
đến canh tác nông nghiệp, đặc biệt trong
sản xuất lúa trên đất nuôi tôm.
Hiện nay quá trình chuyển dịch cơ cấu
đất nông nghiệp không theo quy hoạch
như chuyển diện tích đất trồng lúa sang
nuôi trồng thuỷ sản mang tính tự phát,
theo kiểu “mạnh ai nấy làm”.
Để kinh tế phát triển, môi trường bền
vững thì trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn cần
có quy hoạch cụ thể, bố trí ngành nghề
sản xuất phù hợp với điều kiện thực tiễn
của từng khu vực, phát triển kinh tế phải
gắn liền với bảo vệ môi trường.

Ô nhiễm môi trường nước do việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nhiều diện
tích trồng lúa kém hiệu quả được chuyển
sang nuôi tôm thu lợi nhuận cao, đặc biệt
là nuôi tôm công nghiệp và một số loại

hình nuôi trồng thủy sản khác mang tính
chất quảng canh.
Việc chuyển đổi này diễn ra với tốc độ
khá nhanh trong những năm gần đây
đã gây ra những khó khăn về vốn và kĩ
thuật nên việc xử lí ô nhiễm chưa được
quan tâm đúng mức. Do đó, hầu hết các

b. Ô nhiễm và suy thoái đất
Tình hình suy thoái và ô nhiễm đất tại Bạc
Liêu chủ yếu do các quá trình phèn hóa,
mặn hóa và sử dụng hóa chất nông nghiệp.
• Quá trình phèn hóa: Toàn tỉnh Bạc Liêu
có diện tích đất phèn khoảng 133.626
ha. Trong quá trình phát triển, các hoạt

động như xây dựng mở rộng các hệ
thống thủy lợi (đào kênh mương thiếu
quy hoạch làm tầng sinh phèn bị tác
động gây nên sự phèn hóa làm cho đất
từ chỗ không có tầng phèn nay đã xuất
hiện tầng phèn). Do đào ao, mương
nuôi tôm trên các tầng phèn của người
dân địa phương một cách tự phát
không theo quy hoạch.
• Quá trình mặn hoá: Quá trình mặn hoá
nguồn tài nguyên đất chủ yếu xuất phát
từ các nguyên nhân sau: do hoạt động
của thủy triều (chế độ triều của biển
Tây và chế độ bán nhất triều của biển

Đông), khi triều cường làm cho nước
mặn xâm nhập sâu vào nội đồng gây
mặn hoá nhất là các vùng ven biển;
Hoạt động canh tác không hợp lí như
dẫn nước mặn vào đất nông nghiệp để
nuôi tôm làm phá vỡ cấu trúc của đất
và gây suy thoái nguồn tài nguyên đất;
Các hoạt động khai thác nước ngầm
không theo quy hoạch, quá mức giới
hạn cho phép làm cho mực nước ngầm
hạ xuống thấp hơn mức cân bằng tạo
điều kiện cho nước mặn xâm nhập vào
gây mặn hoá nguồn nước ngầm và suy
thoái nguồn tài nguyên đất.
• Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật: Từ
khi vùng ngọt hoá được hình thành và
đưa vào quy hoạch khai thác sử dụng
cho đến nay, hoạt động thâm canh
tăng vụ ngày càng nhân rộng từ 01
vụ lên 02 đến 03 vụ trong năm. Đồng
thời với việc lạm dụng hoá chất bảo
vệ thực vật, phân bón trong canh tác
làm phát tán một lượng hoá chất bảo
vê thực vật tồn lưu trong môi trường
đất gây ô nhiễm môi trường làm ảnh
hưởng đến đời sống sinh vật và môi
trường sinh thái.
Theo số liệu thống kê của ngành chức
năng đến ngày 16/12/2005 toàn tỉnh đã
sử dụng khoảng 14.638,85 tấn phân bón

các loại (giảm 1,49 lần so với năm 2004)
và 14,62 tấn thuốc bảo vệ thực vật (giảm
2,96 lần so với năm 2004). Tuy nhiên,
thực tế tình hình sử dụng phân bón và
hóa chất bảo vệ thực vật trong sản xuất
nông nghiệp của tỉnh còn nhiều hơn so
với con số trên.

37


c. Ô nhiễm môi trường không khí
Tại địa bàn tỉnh Bạc Liêu vấn đề ô nhiễm
không khí chưa phải là một vấn đề cấp
bách bởi vì chất lượng không khí ở địa
bàn còn khá tốt, song cũng cần quan tâm
đến một số nguồn gây ô nhiễm không khí
như: giao thông, san lắp mặt bằng xây
dựng, cụ thể như sau:
Nguồn gây ô nhiễm chủ yếu và có lưu
lượng lớn là khí thải từ hoạt động giao
thông đường bộ, đặc biệt là thành phố
Bạc Liêu và các trục đường giao thông
lớn đang được thi công. Yếu tố ô nhiễm
chủ yếu hiện nay là bụi bốc lên do chất
lượng đường chưa tốt, một số xe vận
chuyển vật liệu xây dựng như san lấp
chưa thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ
môi trường trên đường vận chuyển dẫn
đến hàm lượng bụi một số nơi cao hơn

tiêu chuẩn quy định.
Khi mật độ phương tiện giao thông qua
lại trên các trục đường chính cao thì dẫn
đến hệ quả là tiếng ồn vượt tiêu chuẩn cho
phép, tuy nhiên so với một số đô thị khác
xung quanh thì ô nhiễm giao thông cũng
như tiếng ồn tại các lộ chính trong địa bàn
tỉnh vẫn chưa đến mức nghiêm trọng.
d. Ô nhiễm do chất thải rắn
Công tác thu gom và xử lí chất thải rắn
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu,
hiện tại mới chỉ thu gom được khoảng
trên 75% lượng chất thải rắn trên địa bàn
thành phố Bạc liêu và các thị trấn, vẫn
còn một lượng chất thải rắn còn tồn đọng
và vứt bừa bãi ra môi trường xung quanh
gây ô nhiễm môi trường, trong đó nhất là
đối với các vùng nông thôn.
Các loại rác sau khi được thu gom,
được vận chuyển đến các bãi rác tập
trung của các địa phương để được chôn
lấp, không tiến hành xử lý đối với chất
thải nguy hại, không phân loại chôn lấp
riêng hoặc tái sử dụng và hầu hết các
bãi chôn lấp đều không đạt tiêu chuẩn
bãi chôn lấp hợp vệ sinh.
Hầu hết rác thải sinh hoạt trên địa bàn
sau khi được thu gom đều được mang
đến các bãi rác, nhưng 5/7 bãi rác của
tỉnh chưa thiết kế chôn lấp hợp vệ sinh,


38

cho nên phần lớn rác được đổ lộ thiên
gây tác động đến môi trường xung quanh bãi rác.
Các bãi chôn lấp rác tại Bạc Liêu hiện nay
đều nằm xa khu vực dân cư nhưng biện
pháp chôn lấp không hợp vệ sinh như: đổ
lộ thiên, không có lớp chống thấm ở dưới
đáy, không có hệ thống thu gom và xử lí
nước rỉ rác; không có hệ thống thu gom
khí, không có lượng đất phủ hàng ngày,
không có hàng rào và cây xanh vành đai.
Mặt khác, hiện nay trên địa bàn thành phố
Bạc Liêu và các thị trấn vẫn chưa có hệ
thống thu gom, vận chuyển và xử lí chất
thải rắn một cách có hệ thống xuyên suốt
trong toàn tỉnh, việc xử lí chất thải rắn
chưa đúng kĩ thuật và chưa hợp vệ sinh
gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường.
Trong tương lai, tổng lượng rác thải toàn
tỉnh sẽ tăng lên rất nhiều làm cho các bãi
rác sẽ bị quá tải. Do đó, ngoài việc quy
hoạch xây dựng các bãi rác mới, đồng
thời phải quy hoạch hệ thống các trạm
trung chuyển rác và đầu tư trang thiết bị
phục vụ công tác thu gom, vận chuyển và
xử lí rác hợp lí.
e. Sự suy giảm độ đa dạng sinh học,
đặc biệt là hệ sinh thái ven biển

Các nguyên nhân chính tác động và tiềm
ẩn nguy cơ gây suy thoái đa dạng sinh
học của tỉnh là:
• Áp lực của sự gia tăng dân số, quá trình
đô thị hóa ngày càng tăng nhanh đã và
đang tác động làm thu hẹp diện tích các
khu hệ sinh thái và đó cũng là nơi lưu trữ
tính đa dạng sinh học rất cao.
• Các hoạt động chặt, phá rừng bừa bãi,
chiếm đất rừng làm ao, đầm nuôi tôm,
chuyển đổi phương thức sử dụng đất
không theo quy hoạch và các hoạt động
khai thác có tính chất hủy diệt của con
người đối với nguồn lợi động vật và các
yếu tố khác như: ngập lụt, dịch bệnh,
săn bắt trái phép … đã và đang tác động
làm ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh
học, trong đó quan trọng nhất là nguồn
tài nguyên rừng vì đây là nơi chứa đựng
tính đa dạng sinh học rất cao.
• Tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi
trường, sự xâm nhập của các loài sinh

vật ngoại lai gây hại cũng là những tác
nhân gây suy giảm tính đa dạng sinh
học. Sự tác động liên đới hệ sinh thái
trên cạn, hệ thủy sinh và trong lòng đất
bởi chất thải công nghiệp, chất thải
khai khoáng, phân bón, hóa chất bảo
vệ thực vật cũng ảnh hưởng xấu đến

độ đa dạng sinh học.
• Việc khai thác quá mức nguồn lợi hải
sản do kĩ thuật khai thác lạc hậu, trình
độ và phương tiện đánh bắt xa bờ còn
yếu và thiếu.
Rừng ngập mặn vừa là sinh sản vừa là
nơi cung cấp thức ăn cho các loài động
vật thủy sinh như tôm, cua, cá và các loại
động vật hoang dã trong rừng ngập mặn.
Việc khai phá rừng bừa bãi làm giảm diện
tích rừng ngập mặn sẽ gây tác động, ảnh
hưởng xấu đến sự sinh trưởng của các
loài trong quần thể sinh vật đó.
Việc phá rừng phòng hộ ở các dãi ven
biển làm vuông tôm. Hoạt động này gây
nguy cơ xói lở bờ biển, xâm nhập mặn
vào đất liền … cần có biện pháp khai
thác sử dụng nguồn tài nguyên một cách
hợp lí và có khoa học. Sự can thiệp cũng
như hỗ trợ các cơ quan quản lí Nhà nước
và các cơ quan ban ngành có liên quan
chưa được thường xuyên và thiếu chặt chẽ.
g. Tình trạng xói lở các cửa sông ven
biển và bờ biển
Các cửa sông ven biển và bờ biển Bạc
Liêu chịu ảnh hưởng của quá trình xói lở,
bồi tụ theo mùa: xói lở vào mùa khô, bồi
tụ vào mùa mưa.
Xói lở cửa sông ven biển tỉnh Bạc Liêu
diễn ra mạnh ở cửa Gành Hào, tốc độ

xói trung bình hàng năm khoảng 10 – 15
m, tại khu vực thị trấn Gành Hào tốc độ
xói 20 – 25 m/năm, cho đến nay đường
bờ biển đã lùi vào đất liền 300 – 400 m.
Quá trình xói lở diễn ra mạnh ở phía bờ
Bắc, làm cho cảnh quan rừng ngập mặn
ven biển của tỉnh biến đổi theo thời gian.
h. Nhận thức của người dân
Một bộ phận dân cư chưa ý thức cao
trong công tác bảo vệ môi trường, vẫn
còn tình trạng thải chất thải bừa bãi gây

ô nhiễm môi trường làm mất vẻ mỹ quan
đô thị; Một số cơ sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và các mô hình
sản xuất khác,… trong quá trình hoạt
động không tuân thủ Luật Bảo vệ môi
trường như: không lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường, không đầu tư xây
dựng hệ thống xử lí giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, chất thải không qua xử lí thải
trực tiếp vào môi trường xung quanh gây
ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sản
xuất và đời sống của người dân khu vực.
V. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHAI THÁC HỢP
LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ BảO
VỆ MÔI TRƯỜNG Ở BẠC LIÊU
1. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo
dục, nâng cao ý thức của người dân

• Tuyên truyền cho mọi người dân về ý
nghĩa của môi trường đối với cuộc sống.
Tác động của con người, đặc biệt trong
thời đại khoa học kỹ thuật phát triển đã
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
sống trên Trái Đất: tài nguyên thiên nhiên
ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường
ngày càng trở nên trầm trọng đang đe
dọa sức khỏe của con người; khí hậu
toàn cầu đang thay đổi, hạn hán, lũ lụt,
lỗ thủng tầng ôzôn,… đang là những vấn
đề có tính chất toàn cầu.
• Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
cộng đồng và trong nhà trường. Giáo
dục cho mọi người về trách nhiệm và
ý thức bảo vệ môi trường vì cuộc sống
của hành tinh không chỉ cho hôm nay
mà cho cả tương lai. Công tác giáo dục
bảo vệ môi trường không phụ thuộc
vào tôn giáo, dân tộc,… mà phải được
thợc hiện đối với mỗi công dân tương
lai ngay từ khi họ còn ngồi trên ghế
nhà trường và cả ở tuổi trước khi đến
trường, qua các phương tiện thông tin
đại chúng và các hình thức giáo dục
khác nhau.
• Mỗi cá nhân, tập thể cần thực hiện nghiêm chỉnh Luật bảo vệ môi trường của
Nhà nước đã ban hành. Bảo vệ môi
trường là sự nghiệp của toàn dân, mỗi


39


tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm
bảo vệ môi trường, có quyền lợi và
trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi
vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
2. Tăng cường công tác quản lí, tạo cơ
chế pháp lí và chính sách
• Đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lí
môi trường bằng pháp luật. Chú ý hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường, tăng cường thanh tra, kiểm tra,
giám sát công tác bảo vệ môi trường ở
các địa phương..
• Kiểm soát và xử lí nghiêm ngặt đối
với các cơ sở phát thải các chất gây ô
nhiễm môi trường.
• Thực hiện chương trình phục hồi và
phát triển rừng, phủ xanh đất trống đồi
trọc. Phát triển trồng cây xanh trong đô
thị và dọc các tuyến giao thông.
• Thực hiện chương trình quốc gia của
Việt Nam về “Biến đổi khí hậu toàn cầu”
và “Bảo vệ tầng ôzôn”; góp phần cùng
các quốc gia khác thực hiện Công ước
của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
và Công ước về Bảo vệ tầng ôzôn (đã
được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn
tháng 01 năm 1994).

3. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo
vệ môi trường
• Tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính
sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và
cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi
trường.
• Xây dựng và thực hiện các hương ước,
quy ước, cam kết bảo vệ môi trường
của cộng đồng dân cư.
• Tăng cường sự tham gia của nhân dân
và các ngành kinh tế vào việc trồng
rừng, bảo vệ và quản lý môi trường.
• Mỗi người phải ý thức được rằng bảo
vệ môi trường là vấn đề toàn cầu, vì
môi trường liên quan đến mọi người,
đến tất cả các quốc gia.
• Khuyến khích, động viên các sáng
kiến, phát minh trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.

40

4. Áp dụng các biện pháp kĩ thuật
trong việc khai thác tài nguyên và bảo
vệ môi trường
a. Phát triển công nghệ sạch, đổi mới
công nghệ, đầu tư thiết bị xử lí chất thải
• Đối với sản xuất công nghiệp phải chú
trọng tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu,
sử dụng các công nghệ sạch, tìm kiếm,

nghiên cứu công nghệ vật liệu mới và
năng lượng sạch, giảm bớt khí nhà
kính và những khí suy giảm tầng Ôzôn.
• Có biện pháp tổng thể quy hoạch mạng
lưới giao thông thành phố, cải tiến kỹ
thuật giao thông vận tải.
• Trong sản xuất nông nghiệp, phải đảm
bảo sản xuất thực phẩm sạch và bảo
vệ tài nguyên đất, nước, không khí.
• Trong sinh hoạt, phải có ý thức tiết
kiệm các nguồn tài nguyên thiên và
bảo vệ môi trường xanh-sạch- đẹp.
• Nâng cao hiệu quả sản xuất và sử
dụng năng lượng. Khuyến khích sử
dụng các nguồn năng lượng tái tạo.
• Sử dụng nguồn năng lượng của nước
để xây dựng những nhà máy thủy điện
cho các khu vực.
• Tăng cường sử dụng năng lượng
Mặt Trời: xây dựng hệ thống pin mặt
trời tại các địa phương để sử dụng
trong sinh hoạt gia đình (bếp đun,
tivi, thắp sáng…).
• Chuyển giao công nghệ hầm khí Biogaz
đến các hộ gia đình ở địa phương.
• Tận dụng rác thải sinh hoạt, sản phẩm
phụ của chăn nuôi, trồng trọt để làm
khí đốt cho đun nấu hoặc phát điện
phục vụ cho mỗi hộ gia đình.
• Sử dụng nguồn năng lượng của gió,

thủy triều, thăm dò và khai thác các
nguồn nước nóng.
• Lập các dự án về quản lý giao thông đô
thị, bảo vệ nguồn nước để bảo vệ môi
trường, các dự án xử lý chất thải công
nghiệp, chất thải rắn do các hoạt động
du lịch, chất thải sinh hoạt. Xử lý chất
thải bệnh viện, nhà máy theo hướng:
Giảm lượng rác thải và tăng cường tái
chế sử dụng.

b. Thay đổi cách tiêu dùng có lợi cho
môi trường
• Hạn chế dùng than tổ ong để đun nấu,
xây dựng hầm khí Biogaz
• Dùng xăng không pha chì để chạy xe
máy, ôtô,…
• Thực hiện tiết kiệm năng lượng, đặc
biệt là năng lượng điện.
c. Thực hiện chương trình phục hồi và
phát triển rừng
• Quản lý tài nguyên rừng hiện có và
trồng rừng mới. Nâng cao hiệu suất
sử dụng củi đốt. Thâm canh cây công
nghiệp và tạo thêm việc làm mới để
phát triển nông thôn, giảm sức ép của
sản xuất nông nghiệp đối với các đất
rừng còn lại.
• Việc bảo vệ rừng phải đi đôi giữa bảo
tồn, phục hồi với trồng rừng và quản lý

buôn bán gỗ nhằm phát triển bền vững
tài nguyên rừng.
• Thành lập các Vườn quốc gia và các
khu bảo tồn thiên nhiên để bảo vệ rừng
và các loài động, thực vật hoang dã.
5. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học,
ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn
nhân lực, mở rộng hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
• Đầu tư thực hiện các công trình khoa
học nghiên cứu cải tiến công nghệ,
thiết bị máy móc trong các cơ sở sản
xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến vào
sản xuất và xử lí các chất thải.
• Thay đổi nguồn năng lượng, sử dụng
nguồn năng lượng sạch cho các động
cơ ôtô, xe máy và trong sản xuất.
• Tăng cường công tác đào tạo các
chuyên gia nghiên cứu và các kỹ thuật
viên về lĩnh vực bảo vệ môi trường.
• Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.

VI. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TỈNH BẠC LIÊU
1. Tính cấp thiết của việc giáo dục bảo
vệ môi trường trong trường học
a. Sự cần thiết phải giáo dục bảo vệ
môi trường trong trường học
Những hiểm họa suy thoái môi trường

đang ngày càng đe dọa cuộc sống của
loài người. Nguyên nhân cơ bản gây ô
nhiễm và suy thoái môi trường là do sự
thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người.
Giáo dục BVMT là một trong những biện
pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có
tính bền vững trong các biện pháp để
thực hiện mục tiêu BVMT và phát triển
bền vững đất nước. Thông qua giáo dục,
từng người và cộng đồng được trang bị
kiến thức, ý thức BVMT, năng lực phát
hiện và xử lý các vấn đề môi trường.
Giáo dục bảo vệ môi trường còn góp
phần hình thành nhân cách người lao
động mới, người chủ tương lai của đất
nước - người lao động, người chủ có thái
độ thân thiện với môi trường, phát triển
kinh tế hài hòa với việc BVMT, bảo đảm
nhu cầu của hôm nay mà không phương
hại đến các thế hệ mai sau. Giáo dục
BVMT là vấn đề có tính chiến lược của
mỗi quốc gia và toàn cầu.
Nước ta có khoảng 23 triệu học sinh,
sinh viên các cấp và gần một triệu giáo
viên, cán bộ quản lý và cán bộ giảng dạy.
Đây là một lực lượng khá hùng hậu.
Việc trang bị các kiến thức về môi trường,
kĩ năng BVMT cho số đối tượng này
cũng có nghĩa là cách nhanh nhất làm
cho gần một phần ba dân số hiểu biết về

môi trường. Đây cũng chính là lực lượng
xung kích hùng hậu nhất trong công tác
tuyên truyền BVMT cho gia đình và cộng
đồng dân cư của khắp các địa phương
cả nước. Hơn nữa, 37.509 trường học
cùng các cơ sở Giáo dục và Đào tạo
cũng là những trung tâm văn hóa của địa
phương, là nơi có điều kiện để thực thi
các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững đất nước.

41


Là nền tảng của nền giáo dục quốc dân,
với gần 18 triệu học sinh, chiếm hơn 20%
dân số, và gần 80% tổng số học sinh,
sinh viên toàn quốc, giáo dục phổ thông
giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
hình thành nhân cách người lao động
mới. Tác động đến 18 triệu học sinh phổ
thông là tác động đến hơn 20% dân số
- chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu
đội ngũ này có sự chuyển biến về nhận
thức, tư tưởng và hành vi, tất yếu sẽ có
thay đổi lớn trong công tác BVMT.
Đích quan trọng của giáo dục BVMT không
chỉ làm cho mọi người hiểu rõ sự cần thiết
phải BVMT mà quan trọng là phải có thói

quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự
với môi trường. Điều này phải được hình
thành trong một quá trình lâu dài và phải
bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ.
Trong những năm học phổ thông, học
sinh không những được tiếp xúc với thầy,
cô giáo, bạn bè mà còn được tiếp xúc với
khung cảnh trường lớp, bãi cỏ, vườn cây,…
Việc hình thành cho học sinh tình yêu thiên
nhiên, sống hòa đồng với thiên nhiên,
quan tâm đến thế giới xung quanh, có thói
quen sống ngăn nắp, vệ sinh phụ thuộc rất
nhiều vào nội dung và cách thức giáo dục
của chúng ta. Giáo dục BVMT phải được
đưa vào chương trình giáo dục phổ thông
nhằm bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, bồi
dưỡng những xúc cảm, xây dựng cái thiện
trong mỗi con người, hình thành thói quen,
kĩ năng BVMT.
Các thầy, cô giáo cần nhận thức được
tầm quan trọng của công tác giáo dục
BVMT cho học sinh, có trách nhiệm triển
khai công tác giáo dục BVMT phù hợp với
điều kiện của nhà trường và địa phương.
b. Chủ trương của Đảng và Nhà nước,
của ngành Giáo dục và Đào tạo về công
tác giáo dục bảo vệ môi trường
Nhận thức được tầm quan trọng của việc
BVMT trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ

trương phát triển kinh tế đi đôi với BVMT
và phát triển xã hội, đảm bảo phát triển
bền vững quốc gia. Nhiều văn bản đã
được ban hành nhằm thể chế hóa công

42

tác BVMT, trong đó có công tác giáo dục
BVMTvới nội dung cụ thể như sau:
• Luật Bảo vệ môi trường năm 2005
được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kì họp
thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2005, thay thế Luật Bảo vệ môi trường
năm 1993. Luật quy định về giáo dục
BVMT và đào tạo nguồn nhân lực
BVMT:
++ Công dân Việt Nam được giáo dục
toàn diện về môi trường nhằm nâng
cao hiểu biết và ý thức BVMT.
++ Giáo dục về môi trường là một nội
dung của chương trình chính khóa
của các học phổ thông (trích Điều 107,
Luật Bảo vệ môi trường).
• Ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính
trị đã ra Nghị quyết 41/NQ/TƯ về “Bảo
vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Nghị quyết xác định quan điểm
“Bảo vệ môi trường là một trong những

vấn đề sống còn của nhân loại; là yếu
tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng
cuộc sống của nhân dân, góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc
gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc
tế của nước ta”.
Với phương châm “lấy phòng ngừa và
hạn chế tác động xấu đối với môi trường
là chính”, Nghị quyết coi công tác tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức là
giải pháp số một trong 7 giải pháp bảo vệ
môi trường của nước ta và chủ trương:
“Đưa nội dung giáo dục Bảo vệ môi
trường vào chương trình, sách giáo khoa
(SGK) của hệ thống giáo dục quốc dân,
tăng dần thời lượng và tiến tới hình thành
môn học chính khóa đối với các cấp học
phổ thông” (trích Nghị quyết 41/NQ/TƯ).
• Ngày 17 tháng 10 năm 2001, Thủ
tướng Chính phủ ký Quyết định 1363/
QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Đưa
các nội dung Bảo vệ môi trường vào hệ
thống giáo dục quốc dân” với mục tiêu:
“Giáo dục học sinh, sinh viên các cấp
học, bậc học, trình độ đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân có hiểu biết
về pháp luật và chủ trương chính sách

của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi

trường; có kiến thức về môi trường để
tự giác thực hiện bảo vệ môi trường”.
• Ngày 2 tháng 12 năm 2003, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
256/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm
2020, xác định BVMT là bộ phận cấu
thành không thể tách rời của chiến lược
kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng
đảm bảo phát triển bền vững đất nước.
Chiến lược đã đưa ra tám giải pháp,
trong đó giải pháp đầu tiên là “Tuyên
truyền giáo dục nâng cao ý thức và
trách nhiệm bảo vệ môi trường”.
• Cụ thể hóa và triển khai thực hiện
các chủ trương của Đảng và Nhà
nước ngày 31 tháng 01 năm 2005, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra
Chỉ thị “Về việc tăng cường công tác
giáo dục bảo vệ môi trường”. Chỉ thị
đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từ nay
đến năm 2010 cho giáo dục phổ thông
là trang bị cho HS kiến thức, kĩ năng
về môi trường và bảo vệ môi trường
bằng hình thức phù hợp trong các môn
học và thông qua các hoạt động ngoại
khóa, ngoài giờ lên lớp, xây dựng mô
hình nhà trường xanh - sạch - đẹp phù
hợp với các vùng, miền…


• Hiểu biết bản chất của các vấn đề cơ
bản về môi trường: tính phức tạp, quan
hệ nhiều mặt, nhiều chiều, tính hữu
hạn của tài nguyên thiên nhiên và khả
năng chịu tải của môi trường; quan hệ
chặt chẽ giữa môi trường và phát triển
của xã hội loài người, giữa môi trường
địa phương, vùng, quốc gia với môi
trường khu vực và toàn cầu.
• Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan
trọng của các vấn đề môi trường như
một nguồn lực để sinh sống, lao động
và phát triển của mỗi cá nhân, cộng
đồng, quốc gia và quốc tế. Từ đó có
thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước
các vấn đề môi trường, xây dựng quan
niệm đúng về ý thức trách nhiệm, về
giá trị nhân cách để dần hình thành các
kĩ năng thu thập số liệu và phát triển sự
đánh giá thẩm mỹ.
• Có tri thức, kĩ năng, phương pháp hành
động để nâng cao năng lực lựa chọn
phong cách sống, thích hợp với việc
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; có thể tham gia có hiệu
quả vào việc phòng ngừa và giải quyết
các vấn đề môi trường cụ thể nơi bản
thân đang sinh sống và làm việc.


Các văn bản nêu trên đã khẳng định
Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai
trò của công tác BVMT trong sự nghiệp
phát triển bền vững quốc gia, nâng cao
chất lượng cuộc sống của mọi tầng lớp
nhân dân. Đồng thời, qua đó cũng cho
thấy tầm quan trọng của việc giáo dục
BVMT nhằm nâng cao nhận thức, ý thức
về môi trường và BVMT cho công dân
nói chung và cho HS nói riêng.

*Về kiến thức: HS hiểu biết về:

2. Mục tiêu giáo dục BVMT tỉnh Bạc
Liêu trong các trường THPT

*Về thái độ - tình cảm:

a. Mục tiêu chung
Việc giáo dục BVMT nói chung nhằm
đem lại cho người học các vấn đề cơ bản
về môi trường như sau:

b. Mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường
tỉnh Bạc Liêu trong chương trình giáo
dục phổ thông

• Khái niệm môi trường, hệ sinh thái; các thành
phần của môi trường và quan hệ giữa chúng.
• Khai thác và sử dụng các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, tái tạo tài nguyên
và phát triển bền vững.
• Mối quan hệ tác động qua lại giữa dân
số và môi trường.
• Sự ô nhiễm và suy thoái môi trường
(hiện trạng, nguyên nhân, hậu quả).
• Các biện pháp BVMT ở địa phương.
• Có tình cảm yêu quý, tôn trọng thiên nhiên.
• Có tình yêu quê hương, đất nước, tôn
trọng di sản văn hóa.
• Có thái độ thân thiện với môi trường và
ý thức được hành động trước những
vấn đề nảy sinh, đang diễn ra ở môi
trường địa phương.

43


• Có ý thức:
++ Quan tâm thường xuyên đến môi
trường sống của cá nhân, của gia đình
và cộng đồng.
++ Bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ rừng,
nhất là hệ sinh thái rừng ngập mặn ven
biển của địa phương.
++ Bảo vệ đất đai, bảo vệ nguồn nước và
môi trường không khí.
++ Giữ gìn vệ sinh, an toàn thực phẩm, an
toàn lao động.
++ Ủng hộ, chủ động tham gia các hoạt động

BVMT, phê phán hành vi gây hại cho môi
trường nơi mình đang sinh sống.
*Về Kĩ năng - hành vi:

• Có kĩ năng phát hiện vấn đề môi trường
và ứng xử tích cực với các vấn đề nảy
sinh ở môi trường địa phương.
• Có hành động cụ thể BVMT ở địa phương.
• Tuyên truyền, vận động BVMT trong
gia đình, nhà trường, cộng đồng.
3. Nguyên tắc, phương thức, phương
pháp giáo dục bảo vệ môi trường
trong trường trung học phổ thông
a. Nguyên tắc chung
• Giáo dục BVMT là một lĩnh vực giáo
dục liên ngành, tích hợp vào các môn
học và các hoạt động. Giáo dục BVMT
không phải là ghép thêm vào chương
trình giáo dục như là một bộ môn riêng
biệt hay một chủ đề nghiên cứu mà nó
là một hướng hội nhập vào chương
trình. Thực chất của việc giáo dục
BVMT là cách thức tiếp cận xuyên bộ
môn.
• Mục tiêu, nội dung và phương pháp
giáo dục BVMT phải phù hợp với mục
tiêu đào tạo của cấp học, góp phần
thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp
học.
• Giáo dục BVMT phải trang bị cho học

sinh một hệ thống kiến thức tương
đối đầy đủ về môi trường và kĩ năng
BVMT, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học
sinh. Hệ thống kiến thức và kĩ năng
được triển khai qua các môn học và
các hoạt động theo hướng tích hợp
nội dung qua các môn học, thông qua
chương trình dạy học chính khóa và

44

các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt coi
trọng việc đưa vào chương trình Hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
• Nội dung giáo dục BVMT phải chú ý
khai thác tình hình thực tế môi trường
của từng địa phương.
• Nội dung và phương pháp giáo dục
BVMT phải chú trọng thực hành, hình
thành các kĩ năng, phương pháp hành
động cụ thể để HS có thể tham gia có
hiệu quả vào các hoạt động BVMT của
địa phương, của đất nước phù hợp với
độ tuổi.
• Cách tiếp cận cơ bản của giáo dục
BVMT là: Giáo dục về môi trường,
trong môi trường và vì môi trường, đặc
biệt là giáo dục vì môi trường. Coi đó
là thước đo cơ bản hiệu quả của giáo
dục BVMT.

• Phương pháp giáo dục BVMT nhằm
tạo cho người học chủ động tham gia
vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho
HS phát hiện các vấn đề môi trường và
tìm hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ
chức và hướng dẫn của giáo viên.
• Tận dụng các cơ hội để giáo dục BVMT
nhưng phải đảm bảo kiến thức cơ bản
của môn học, tính lôgic của nội dung,
không làm quá tải lượng kiến thức và
tăng thời gian của bài học.
b. Phương thức giáo dục bảo vệ môi trường
• Giáo dục BVMT là một lĩnh vực giáo dục
liên ngành, vì vậy, được triển khai theo
phương thức tích hợp. Nội dung giáo
dục BVMT được tích hợp trong các môn
học thông qua chương, bài cụ thể. Việc
tích hợp thể hiện ở ba mức độ: mức độ
toàn phần (toàn bài), mức độ bộ phận
(lồng ghép) và mức độ liên hệ.
Ở THPT có thể tích hợp giáo dục BVMT
ở tất cả các môn; tuy nhiên, một số môn
có cơ hội tích hợp nhiều hơn như: Sinh
học, Hóa học, Địa lý, Ngữ văn, Giáo dục
công dân, Vật lý, Công nghệ,…
• Các hoạt động giáo dục BVMT ngoài
lớp học:
++ Câu lạc bộ giáo dục bảo vệ môi trường:
sinh hoạt theo các chủ đề bảo vệ rừng,
bảo vệ động vật hoang dã, sử dụng

năng lượng sạch,…

++ Hoạt động tham quan theo chủ đề:
vườn quốc gia, khu bảo tồn, công viên,
vườn thú, danh lam thắng cảnh, nơi
xử lý rác, nhà máy, bảo tàng,…
++ Điều tra, khảo sát, nghiên cứu tình
hình môi trường địa phương, thảo luận
phương án xử lý.
++ Hoạt động trồng cây, xanh hóa nhà
trường: (tổ chức nhân dịp tết trồng
cây, ngày Môi trường thế giới 5/6,…).
++ Tổ chức thi tìm hiểu về môi trường: thi
điều tra, sáng tác (vẽ, viết), văn nghệ
về chủ đề môi trường.
++ Các hoạt động phong trào của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh về bảo vệ môi
trường: vệ sinh trường lớp, bản làng
xanh – sạch – đẹp; tham gia chiến dịch
truyền thông BVMT ở địa phương.
c. Các phương pháp giáo dục bảo vệ
môi trường
Giáo dục BVMT là lĩnh vực giáo dục liên
ngành, giáo dục BVMT sử dụng nhiều
phương pháp dạy học của các bộ môn,
chịu sự chi phối của các phương pháp
đặc trưng bộ môn, nhưng nó cũng có
những phương pháp có tính đặc thù.
Vì vậy, ngoài các phương pháp chung
như: thảo luận, trò chơi,…giáo dục

BVMT thường vận dụng nhiều phương
pháp khác như:
• Phương pháp tham quan, điều tra,
khảo sát, nghiên cứu thực địa
• Có thể triển khai theo hai cách:
++ Tổ chức cho học sinh đi tham quan
học tập ở khu bảo tồn thiên nhiên,
nhà máy xử lý rác, khu chế xuất, danh
lam thắng cảnh,…
++ Tổ chức thành lập nhóm học sinh tìm
hiểu, nghiên cứu theo chuyên đề về
tình hình môi trường ở trường học
hoặc môi trường địa phương nơi mình
đang sinh sống.
Các nhóm có nhiệm vụ:
++ Điều tra, tìm hiểu, nghiên cứu tình hình
môi trường ở khu vực các em khảo sát.
++ Báo cáo kết quả, nêu phương án cải
thiện môi trường.
• Phương pháp thí nghiệm
Ví dụ: Thí nghiệm ủ rác khi dạy về xử lý

rác để biết khả năng phân hủy của từng
loại rác. Hoạt động này giúp học sinh ý
thức được việc sử dụng các loại bao bì
đóng gói nào có lợi cho môi trường và
sự cần thiết phải phân loại rác ngay từ
khâu thu gom. Thí nghiệm về tiết kiệm
năng lượng,…
Ở nơi có điều kiện, người ta tiến hành

nhiều thí nghiệm ảo bằng cách mô hình
hóa qua chương trình phần mềm vi
tính. Ví dụ: Mô hình chu trình nước; Mô
hình sản xuất nước sạch; Mô hình về
khí nhà kính,…
• Phương pháp khai thác kinh nghiệm
thực tế để giáo dục
Môi trường có những vấn đề toàn cầu như
tầng ôzôn; Trái Đất nóng lên,... nhưng cũng
là những vấn đề rất gần gũi với học sinh như
cơm ăn, nước uống, không khí để thở, mảnh
sân, góc nhà, vườn cây,… Tất cả các sự vậthiện tượng đó, các em có thể nhìn thấy, sờ
thấy, nhận biết được qua trải nghiệm thực tế.
Vì vậy, giáo viên cần tận dụng đặc điểm này
để giáo dục các em.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về khối lượng rác thải,
giáo viên không nên cung cấp ngay các
số liệu mà tổ chức cho học sinh tham
gia hoạt động điều tra lượng rác thải ở
trường học, địa phương.
• Phương pháp hoạt động thực tiễn
Đích cuối cùng mà giáo dục BVMT cần
đạt tới là các hành động dù nhỏ nhưng
thiết thực nhằm góp phần cải thiện môi
trường ở nhà trường và địa phương.
Hoạt động thực tiễn giúp học sinh ý thức
được giá trị của lao động, rèn luyện kĩ
năng, thói quen bảo vệ môi trường. Giáo
viên có thể tổ chức các hoạt động như:
trồng cây, thu gom rác, dọn sạch kênh

mương,…
• Phương pháp giải quyết vấn đề cộng đồng
Ở mỗi cộng đồng địa phương có thể có
những vấn đề bức xúc về môi trường
riêng; ví dụ: môi trường làng nghề, môi
trường rừng, môi trường biển và ven bờ,
môi trường ở khu vực công nghiệp,...
giáo viên cần khai thác tình hình môi
trường địa phương để giáo dục học sinh

45


cho đảm bảo tính thiết thực và hiệu quả.
Phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải
thu thập số liệu, sự kiện và tìm hiểu tình
hình môi trường địa phương, tổ chức các
hoạt động phong trào phù hợp để học sinh
tham gia góp phần cải tạo môi trường.
• Phương pháp học tập theo dự án
Đối với học sinh THPT, có thể cho các
em nghiên cứu một vấn đề về môi trường
ở địa phương. Giáo viên là người hướng
dẫn. Việc lựa chọn các vấn đề nghiên
cứu nên vừa sức với học sinh và phù
hợp điều kiện có của trường và của
địa phương. Học tập theo dự án sẽ tạo
hứng thú, đồng thời rèn luyện tính tự lập,
phương pháp giải quyết vấn đề, hạn chế
việc học thụ động của học sinh.

• Phương pháp nêu gương
Hành vi của người lớn là tấm gương có ý
nghĩa giáo dục trực tiếp đối với học sinh.
Muốn giáo dục học sinh có nếp sống văn
minh, lịch sự và ứng xử tốt các vấn đề
về về môi trường; trước hết giáo viên và
các bậc phụ huynh cần phải thực hiện
đúng các quy định của Luật BVMT của
quốc gia.
• Phương pháp tiếp cận kĩ năng
sống BVMT
Kĩ năng sống BVMT là khả năng ứng xử
một cách tích cực và hiệu quả đối với
các vấn đề đang diễn ra ở môi trường
địa phương.
Một số kĩ năng quan trọng cần phát triển
là: Nhận biết và xử lí các vấn đề môi
trường; phát hiện và ngăn chặn kịp thời
các hành vi vi phạm pháp luật BVMT; xây
dựng và thực hiện kế hoạch hành động
vì môi trường.
Trong quá trình giáo dục BVMT, giáo viên
cần chú ý rèn luyện cho học sinh kĩ năng
sống BVMT thông qua việc luyện tập, xử
lý các tình huống cụ thể diễn ra ở môi
trường địa phương.
4. Một số yêu cầu cơ bản
Dựa vào cấu trúc nội dung cúa bài học và
nội dung tích hợp để thiết kế bài giảng.
Trong đó, giáo dục BVMT chỉ là một phần

được lồng ghép vào nội dung của bài học
sao cho:

46

++ Dung lượng kiến thức của bài học
không quá tải, phù hợp với khả năng
nhận thức của học sinh.
++ Mức độ liên hệ thực tiễn về giáo dục
BVMT nhằm khai thác kiến thức, kĩ
năng của bài học vận dụng vào việc
giải quyết các vấn đề đang diễn ra ở
môi trường địa phương.
Mục tiêu của bài học phải đạt được các
yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức, kĩ
năng và mức độ liên hệ thực tiễn về giáo
dục BVMT ở địa phương.
Tổ chức và hướng dẫn học sinh
thực hiện các hoạt động thực tiễn
giáo dục BVMT địa phương với các
hình thức đa dạng, có sức hấp dẫn,
phù hợp với đặc trưng bài học, với
khả năng của học sinh và điều kiện
cụ thể của địa phương.
Tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh
được tham gia một cách tích cực, phát
huy tối đa năng lực để khám phá và lĩnh
hội kiến thức về giáo dục BVMT.
Chú ý khai thác vốn kiến thức, kĩ năng và
kinh nghiệm thực tiễn của học sinh trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ tích hợp
để nâng cao hiệu quả của việc giáo dục
BVMT qua môn học.
Tạo cho học sinh có thói quen vận dụng
những kiến thức và kĩ năng đã học vào
giải quyết các vấn đề đang diễn ra ở môi
trường địa phương.
Sử dụng các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học tích hợp một cách hợp
lí, chú trọng khai thác các phương tiện
và và vận dụng các kĩ thuật dạy học để
nâng cao hiệu quả việc tích hợp giáo dục
BVMT qua từng tiết học.
Phải chuẩn bị chu đáo và tổ chức quản
lí thật chặt chẽ để đảm bảo sự an toàn
tuyệt đối cho học sinh khi tổ chức các
hoạt động ngoài nhà trường, du lịch hay
tham quan thực tế.

Phần thứ hai

GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG MÔN GDCD Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH BẠC LIÊU
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức: Học sinh cần biết
• Các thành phần tự nhiên là môi trường
sống và tồn tại của con người.
• Sự cần thiết phải khai thác, sử dụng

hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường để đảm bảo phát
triển bền vững của quốc gia nói chung
và ở Bạc Liêu nói riêng.
• Mối quan hệ giữa dân số và môi trường
(sự gia tăng dân số, quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa nông thôn, các
hoạt động của con người)
• Một số vấn đề cơ bản về môi trường và
tài nguyên thiên nhiên cần phải quan
tâm trên qui mô toàn cầu, quốc gia và
ở địa phương.
• Các vấn đề môi trường được đặt ra ở
Bạc Liêu:
++ Sự tác động của con người đến môi
trường.
++ Ảnh hưởng môi trường đối với sản
xuất và đời sống con người.
++ Hiện trạng khai thác, sử dụng và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường.
2. Kĩ năng, hành vi
• Thu thập và xử lí thông tin để thấy rõ
thực trạng tài nguyên thiên nhiên và sự
biến đổi môi trường ở địa phương.
• Phát hiện những biểu hiện ô nhiễm môi
trường nơi mình đang sinh sống.
• Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự suy
giảm tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm
môi trường ở địa phương.


3. Thái độ, tình cảm
• Phải có thái độ tôn trọng, yêu quí
thiên nhiên.
• Có ý thức giữ gìn, bảo vệ các thành
phần của môi trường tự nhiên.
• Ủng hộ các chính sách bảo vệ môi
trường và phê phán mọi hành vi khai
thác bừa bãi các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường ở địa phương.
II. CHƯƠNG TRÌNH TÍCH HỢP GIÁO DỤC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH BẠC LIÊU
TRONG MÔN GDCD
Giáo dục công dân (GDCD) là môn học
có vai trò chủ chốt trong việc giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật và lối
sống cho học sinh. Do đó có khả năng
tích hợp giáo dục nhiều vấn đề xã hội,
trong đó có giáo dục môi trường.
Đặc trưng của môn GDCD là không chỉ
cung cấp cho học sinh kiến thức của
môn học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
mà điều quan trọng hơn là hình thành và
phát triển những kĩ năng vận dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Vì
vậy, việc thực hiện nhiệm vụ tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường trong quá
trình dạy học bộ môn GDCD ở bậc THPT
là thuận lợi và rất dễ thực hiện.

Việc giáo dục bảo vệ môi trường qua
môn Sinh học ở bậc THPT là quá trình
hình thành và phát triển cho các em nhận
thức và có thói quen quan tâm đến môi
trường, nhất là môi trường nơi các em
đang sinh sống. Thông qua đó, hình

47


thành cho các em thái độ, ý thức đúng
đắn và các kĩ năng cần thiết để có những
hành động hài hòa với môi trường trong
đời sống hằng ngày. Đồng thời, cũng có
thể hoạt động một cách độc lập hoặc
phối hợp với các cá nhân khác hay tập
thể để cùng nhau tìm ra các biện pháp
giải quyết các vấn đề môi trường hiện
tại và ngăn chặn những vấn đề về môi
trường có thể xảy ra trong tương lai, tạo

điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên việc tích hợp giáo dục bảo vệ
môi trường tỉnh Bạc Liêu vào nội dung
chương trình môn GDCD ở bậc THPT,
giáo viên cần chú ý lựa chọn các địa chỉ,
nội dung và kiểu tích hợp sao cho hợp lí
và đem lại hiệu quả.

* LỚP 10

Tên bài

Bài 2
Thế giới vật
chất tồn tại
khách quan

Địa chỉ
tích hợp

Mục 2.c

Mục 1

Bài 8
Tồn tại
xã hội và
ý thức xã hội

Mục 3.b

Bài 15
Công dân
với một số
vấn đề cấp
thiết của
nhân loại

48


Mục 1

Nội dung giáo dục BVMT có thể tích hợp

Kiểu
tích
hợp

-- Con người có thể cải tạo môi trường tự nhiên nhưng phải tuân
theo qui luật khách quan của thế giới tự nhiên.
-- Hậu quả của việc cải tạo không hợp lí, tác động tiêu cực tới môi
trường tự nhiên không tuân theo qui luật khách quan và ảnh L ồ n g
hưởng xấu đến đời sống con người.
g h é p ,
-- Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi làm cạn kiệt tài nguyên liên hệ
thiên nhiên và môi trường tự nhiên ở địa phương bị suy thoái.
-- Tích cực tham gia các hoạt động phong trào bảo vệ môi trường
tự nhiên ở địa phương phù hợp với lứa tuổi.
-- Khái niệm môi trường tự nhiên.
-- Môi trường tự nhiên là 01 trong các yếu tố của tồn tại xã hội.
-- Vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
-- Tác động tiêu cực của con người đến môi trường tự nhiên và
hậu quả của nó.
-- Sự biến đổi và nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi môi trường ở
địa phương, ảnh hưởng của nó tới sản xuất và đời sống dân cư.
-- Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực, làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường ở địa phương.

* LỚP 11


Tên bài

Bài 1
Công dân
với phát triển
kinh tế

Bài 11
Chính sách
dân số và
giải quyết
việc làm

Địa chỉ
tích hợp

Nội dung giáo dục BVMT có thể tích hợp

Kiểu
tích
hợp

Mục 3.a

-- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường.
-- Biện pháp giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường, sao cho vừa giữ tăng trưởng kinh tế vừa
không ảnh hưởng xấu đến môi trường.


Liên
hệ

Mục 1.a

-- Tốc độ dân số tăng nhanh, chất lượng dân số thấp, mật độ
dân số cao và phân bố thiếu hợp lí là một trong các nguyên
nhân làm cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
- - Sự gia tăng dân số và phân bố dân cư và ảnh hưởng
của nó tới việc khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường
ở địa phương.
-- Ủng hộ và tích cực tham gia tuyên truyền chính sách dân số
của Nhà nước và địa phương phù hợp với lứa tuổi.

Liên
hệ

Toàn bài

-- Mối quan hệ giữa môi trường và đời sống con người.
-- Ý nghĩa của việc khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường.
-- Thực trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên và sự tác động
của nó tới các thành phần của môi trường ở địa phương.
- - Sự cần thiết phải khai thác, sử dụng hợp lí các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường để phát triển
Lồng
bền vững.
-- Một số chủ trường, chính sách cơ bản về khai thác, sử dụng ghép,
hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường của Nhà liên hệ

nước và địa phương.
-- Trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường.
-- Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi làm ảnh hưởng
xấu đến môi trường ở địa phương.
-- Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất và
sinh hoạt hằng ngày.

Liên hệ

-- Tác động của nhận thức về môi trường đến sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người.
-- Nhận thức được tác hại của ô nhiễm môi trường, thúc đẩy con
người có hành động cụ thể bảo vệ môi trường, có tác động tích
cực đến tồn tại xã hội, tạo điều kiện để phát triển bền vững.
Ngược lại thiếu hiểu biết sẽ có những việc làm gây tổn hại môi
trường và sự tồn tại của xã hội.
-- Tích cực tham gia các hoạt động phong trào bảo vệ, gìn giữ môi
trường ở địa phương, trường học xanh-sạch-đẹp.
-- Vai trò của môi trường đối với cuộc sống của con người.
-- Thực trạng môi trường hiện nay và những biến đổi môi trường
ở địa phương.
-- Hậu quả của ô nhiễm, suy thoái môi trường đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người.
Liên hệ
-- Những tác động tiêu cực của con người đối với môi trường ở địa
phương và hậu quả của nó.
-- Có thái độ đúng, thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước và
địa phương về bảo vệ môi trường.


Bài 12
Chính sách tài
nguyên và bảo
vệ môi trường

49


×