TRƯỜNG THCS ………………………………………
Lớp 7………
Ca dao tục ngữ
tỉnh Thừa Thiên
Huế
Huế, ngày 31 tháng 3 năm 2014
Nhóm
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
A
-
Ai về nhắn với bạn nguồn:
Mít non gởi xuống,cá chuồn gởi lên.
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui.
-
-
Ai ơi chớ phụ đèn chai
Thắp trong Cần Chánh rạ ngoài Ngọ Môn.
- Ai ơi sớm tối chuyên cần
Cày sâu cuốc bẫm có phần về sau.
- Ai từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát,
Nhớ Ngự Bình trăng thanh.
-
Anh khôn anh hỏi rễ đa
Em đần em hỏi cỏ gà cũng thông.
B
-
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.
-
Bao giờ cho mạ lên non
Một trăm mẫu đất có con trâu cày.
- Biển cả sông giang muôn ngàn lắt léo.
- Biển rộng mặc biển, thuyền chèo có ngăn.
Ba đồng một quả đậu xanh,
Một cân đường cát(1), đưa anh ra vời.
Ba đồng một khứa cá buôi(2)
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
-
-
Bò đẻ tháng năm, nó bằm thì hui
Biển tình chìm nổi, bối rối tư lương,
Thiếp với chàng như lửa với hương;
Một mai tê(3) dù hương tàn lửa tắt, đạo nghĩa cương thường chớ quên.
Bến chợ Đông Ba tiếng gà eo óc
Bến đò Thọ Lộc tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương dợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngả nghiêng .
Biển Tây Hồ thường ngày thường cạn,
Núi lâm sơn thường tháng thường cao;
Thuyền quyên ướm hỏi anh hào,
Sự tình thâm nhiễm, chàng tính làm sao cho thiếp nhờ?
C
-
Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi -moong .
-
-
-
-
Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau.
Cơm quanh rá, mạ quanh bờ.
Chiêm to tẻ, mùa nhỏ con.
Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc,
Con cá ngư ông móng nước biển khơi;
Gặp nhau đây nhắn gởi một đôi lời,
Kẻo một mai tê con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời non xanh.
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.
Chồng em đi kéo ngao ngoài biển,
Đêm khuya, trời phất phưởng ngọn gió đông;
Da thời lạnh ngắt như đồng,
Tay bồng con dại, cám cảnh cho chồng lắm thay!
Cá nục nấu với dưa hồng (4),
Đánh nhau một trận, xem chồng về ai.
Chớp cửa Eo, nước trèo khu đĩ.
Con dại cái mang,chồng hoang vợ chịu.
Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào.
Chị ngã em nâng, đến khi em ngã chị bồng trên tay .
Cày cạn béo trâu, cày sâu tốt lúa.
Chấm trán, lọ đuôi không nuôi cũng nậy( lớn).
Của mình thì để lên tra, của người ta thì tha cho mòn.
Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghành đá, tủi thân thêm buồn.
Chồng em đi kéo ngao ngoài biển,
Đêm khuya, trời phất phưởng ngọn gió đông;
Da thời lạnh ngắt như đồng,
Tay bồng con dại, cám cảnh cho chồng lắm thay!
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
Của bụt mất một đền mười
Bụt vẫn còn cười bụt chửa lấy cho
-
-
Chiều chiều, trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.
Chuồn chuồn bay thấp
Nước ngập ruộng đồng
Nghe lời em nói càng thương
Anh về mua đất lập vườn cưới em.
D
-
-
-
Dưới nước cá cờ, trên ờ mỡ lợn.
Đêm năm canh dĩa đèn khô cạn,
Trúc gầy mòn nhớ dạng cành mai;
Em thương ai thì nhớ nghĩa ai,
Chớ thấy non cao mà sấp mặt, thấy biển rộng sông dài mà xoay lưng!
Đi bộ thì khiếp Hải Vân,
Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi(5).
Đi thủy sợ phá Tam Giang, đi bộ sợ truông nhà Hồ(6).
-
-
-
Động trời biển mới dậy theo,
Biển đâu dám động, dám leo trước trời.
Biển Tây Hồ thường ngày thường cạn,
Núi lâm sơn thường tháng thường cao;
Thuyền quyên ướm hỏi anh hào,
Sự tình thâm nhiễm, chàng tính làm sao cho thiếp nhờ?
Đông Ba Gia Hội hai cầu
Ngó về Diệu Đế bốn lầu hai chuông.
Đò từ Đông Ba, đò qua Vỹ Dạ
Đò từ Vỹ Dạ thắng ngã ba Sình
Lờ đờ bong ngã trăng chênh
Tiếng hò xa vắng nặng tình nước non.
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
-
-
Đưa em cho tới nhà Hồ,
Em mua trái mít, em bồ trái thơm,
Trái thơm đụng trái thơm non,
Bỏ vô làm mắm ăn chon như dừa .
Đất quen trồng mạ, đất lạ trồng khoai.
Đất sỏi trồng sắn, đất nạc trồng khoai, đất hoai trồng lúa.
Được mùa chớ phụ ngô khoai
Đến khi Thân, Dậu lấy ai bạn cùng.
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Ngự Bình vẫn đứng bên bờ sông Hương.
Đong đầy hơn nậy đọi.
-
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Chớ đánh trong cạn phải chông mà chìm.
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.
E
-
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
G
-
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương.
Gặp nhau ở ngã ba Sình
Em xuôi anh ngược đem tình nhớ thương
Giêng trồng trúc, lục trồng tiêu.
Giàu ba họ cũng gần, bần ông nội cũng xa.
H
-
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không lành.
-
Hồ Tịnh Tâm nhiều sen Bách Diệp,
Đất Hương Cần ngọt quit thơm cam .
K
-
-
Kim Long có gái mỹ miều,
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi.
Khơi: thu, ngừ, nục; lộng: ve, đục, xòe (7).
Khó mà xứ biển em theo,
Giàu mà xứ ruộng, vằng (8) treo nợ đòi!
Khó mà xứ ruộng em theo,
Giàu mà xứ biển, hết chèo hết ăn!
Khi xưa em ở ngoài biển, anh ở chốn lâm trung,
Đến nay đôi ta hội ngộ tương phùng,
Trời kia đã định, mối tơ hồng phải xe.
Khi anh ra đi thì biển hồ lai láng,
Chừ anh viếng lại, mần răng biển lại thành gò?
Sự tình thâm nhiễm, để anh so tháng ngày.
Kiến đen tha trứng lên nhà
Chẳng mai thì mốt ắt là trời mưa.
L
-
Lụt bão rồi, ngành ngọn xơ rơ,
Con chim không nơi đậu, biết dật dờ phương nao.
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy Mẹ công phu chưa đền .
Làm anh, làm ả ngả mặt lên.
Lời nói gói tội, lời nói đọi máu.
Leng lao, lẹp nhảy, chuồn bay,
Ta mau nhanh lái, nhanh tay bắt về!
M
-
Mười hai bến nước là duyên
-
Em cũng muốn bến hiền thuyền đậu
Nhưng em trách cho hai bên phụ mẫu
Làm cho hai đứa không nên thất nên gia
Xa cách này bởi tại mẹ cha
Làm cho nên nỗi bướm hoa lìa cành.
Mây kéo lên nguồn, nước tuôn ta biển.
Một con tép chết không thối biển(9).
-
Một người làm quan cả họ được cậy
Một người làm bậy cả họ mất nhờ.
Mặt đất non song tươi đẹp, biển cả song nước mênh mông.
Mưa chi, mưa oán, mưa thù
Mưa quanh, mưa quất bàu Thần Phù không mưa.
N
-
Non xanh nước biếc điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, Thánh miếu, chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa.
Ngọ môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba cấp, Phu văn lâu hai tầng
- Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng tám lầu xanh
Ba cửa thẳng hai cửa quanh
Sinh ra em phận gái không hỏi chốn kinh thành làm chi
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng.
- Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Dẫu ai ăn ở hai lòng
Em đây vẫn một dạ thủy chung với chàng.
-
Ngó lên trên trời, trời cao trăm trượng,
Ngó xuống dưới biển, sóng lượn ba đào;
Mấy lâu ni lòng những ước ao,
Viếng thăm không đặng, gởi thơ vào đã thấu chưa?(10)
- Ngó lên trên rừng, non cao rú rậm,
Ngó xuống dưới biển, sóng dội ba đào;
Thiếp với chàng tình nghĩa kim giao,
Dù một trăm năm náu nương cũng đợi, dù bóng xế trăng cao cũng chờ.
Ngó lên trên trời, sao băng tứ diện,
Ngó xuống dưới biển, chim liệng, cá đua;
Anh thề với em hết miếu, hết chùa,
Ai cho anh uống thuốc đeo bùa mà mê?
Ngó lên trên trời, cặp cu răng(11) đá,
Ngó xuống dưới biển, cặp cá răng đua;
Anh về lập miếu thờ vua,
Xây lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Ngó lên tam sơn, nguồn cơn cảm động,
Ngó về tứ hải, biển rộng sông dài;
Ơi người tảo tần nuôi mẹ hôm mai,
Trong tâm ảo não, nhớ nhau hoài không quên.
Ngó lên tam sơn, lòng sầu bát ngát,
Ngó xuống tứ hải, lệ ướt dầm khăn;
Anh xa em ra nghĩa lí làm răng(12),
Đêm năm canh nghe chuông rung phụng gáy, ngày sáu khắc luống những
buồn chăng hỡi buồn!
Ngó xuống biển Đông, con cá ngư ông thường ngày thường lội,
Ngó lên trên rừng, con hổ thường nằm;
Thiếp đó chàng đây đạo ngãi trăm năm,
Ví dù không có câu duyên nợ, cũng viếng thăm kẻo buồn.
Núi Truồi đội mũ, âm phủ mặt áo tơi.
Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể.
Núi sơn lâm nuôi nhân đào tản,
Biển tây hồ trợ kẻ lâm nguy;
Thương nhau dắt lấy nhau đi,
Công ơn thầy nghĩa mẹ lo chi trả đền!
Ngó hoài ra tận biển Đông,
Thấy mây thấy nước, sao không thấy chàng?
Nắng hui hui ui con nít.
O
-
Ông tha mà bà chẳng tha,
Trời cho cái lụt 23 tháng 10.
Ông tha mà bà chẳng tha,
Mồng 5 tháng 9, 23 tháng 10.
-
-
-
Nào ai đi lộng, ngoài khơi
Mùng 5 tháng 9, bạo(bão) rơi phải về.
Ong vò vẽ làm tổ bụi gai
Thấp thời lụt nhỏ cao thời lụt to.
Ông tha mà bà chẳng tha,
Mồng 5 tháng 9, 23 tháng 10.
Ơi đò ngang qua, đò ngang lại,
Có gặp chồng em qua lại biển này không?
Đêm khuya, trời phất ngọn gió đông,
Lạnh ơi hỡi lạnh, cám cảnh cho chồng nhiều đoạn khúc nôi!
Ơn sinh thành như biển,
Nghĩa dưỡng dục tựa sông;
Em nguyền ở vậy không chồng,
Lo nuôi thầy mẹ, hết lòng làm con.
P
-
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.
Phú quý đa nhân hội, bần cùng bà nội cũng xa.
Phất phơ ngọn cỏ trăng tà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Q
-
Quít giấy Hương Cần
Cam đường Mỹ Lợi
Vải trắng Cung Viên
Nhãn lồng phụng tiêu
Đào tiên Thế miếu
Thanh trà Nguyệt biếu
Dâu da làng Truồi
Hạt sen Hồ Trịnh...
R
-
-
-
Ru em em théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
Ru con con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước, rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
Ruốc đỏ, cá đen, nhìn quen mới thấy.
Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa.
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
Rủ nhau đi tắm hồ sen
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh
Thôn quê vẫn cứ hữu tình xưa nay.
S
-
Sơn bất cao, Thủy bất thâm,
Nam đa trá, nữ đa dâm !
(Núi không cao, nước không sâu,
Nam giới gian trá, nữ nhân dâm dật.)
-
Sấm ngã eo, bắt heo vô rọ.
T
-
Tình về Đại Lược ,duyên ngược Kim Long,
Đến đây là chỗ rẽ của lòng,
Gặp nhau còn biết bên sông bến nào ?
-
Tháp bảy tầng, Thánh Miếu, chùa Ông
Chuông ngân Diệu Đế, trống rung Tam Tòa.
Tháng 7 gió ngập cành đào
Bước sang tháng 8 đánh vào cành mai.
Tiếc thay cây quế giữa rừng ,
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo .
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm .
Trồng sắn buổi mai, trồng khoai buổi chiều.
Trâu đen ăn kĩ cày hay
Trâu bạc ăn dón lại day đường cày.
-
-
Thương em vì cá trích ve,
Vì rau muống luộc, vì mè trộn măng.
Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông.
Trời sương mù, nhiều cá thu, cá bẹ.
To thuyền thì to sóng(13).
Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.
Tình anh như nước dâng trào
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.
-
Ta về ta dựng mây lên
Trời xe mây lại một bên hòn lèn.
Trách ai tham phú tham bần
Tham xa mà bỏ nghĩa gần thưở xưa.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi.
-
U
-
-
Ướt áo xanh lụy tình Tư Mã,
Khách Thiên Nhai vẫn lạ mà quen ,
Nước non ai kẻ bạn hiền,
Biết ai tâm sự giữa miền sông Hương
Ước gì để lại mai sau
Một câu, một chữ, đượm màu dân gian.
V
-
Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u.
-
Vạn niên là Vạn Niên nào ?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
X
-
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Y
-
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội núi Mẫu Sơn anh cũng trèo.
(Phá Tam Giang anh cũng lội núi Mẫu Sơn anh cũng trèo.)
------------------
Chú thích:
(1)
Đường cát: đường kính.
Cá buôi: cá đối to, cho thịt ngon.
(3)
Một mai tê: một ngày kia.
(4)
Cá nục tươi hấp chín, tách đầu và xương ra, lấy thịt đem tao (um sơ) rồi
nấu với dưa hồng, ăn rất mát và ngon ngọt.
(5)
Hang Dơi: ở phía bắc chân đèo Hải Vân, có nhiều dơi.
(6)
Truông nhà Hồ: thuộc làng Hồ Xá, tỉnh Quảng Trị. Ngày trước, có thời là
nơi bọn bất lương dùng làm sào huyệt để cướp giật khách bộ hành.
(7)
Vằng: (cái) hái, dụng cụ để gặt lúa.
(8)
Khơi: vùng biển xa bờ; lộng: vùng biển gần bờ. Vùng xa bờ thì có các loài
cá thu, cá ngừ, cá nục; vùng gần bờ thì có các loài cá ve, cá đục, cá xòe.
(9)
Câu này cùng mô hình cấu trúc với các câu sau: “Một cây làm chẳng nên
non”; Một con én không làm nổi mùa xuân”; “Một chạch chẳng đầy đầm”.
Chúng cùng có chung nghĩa khái quát: một cá thể không làm nên cái mà nếu
tập hợp những thứ cùng loại với nó (theo một mức độ nhất định) sẽ làm
được.
(10)
Mấy lâu ni: bấy lâu nay; gởi thơ: gửi thư; thấu: tới, đến.
(11)
Răng: đang.
(12)
Nghĩa lí làm răng: lí do vì sao; nguyên cớ như thế nào.
(13)
Nghĩa được thể hiện là nghĩa đen. Câu tục ngữ này còn có hai nghĩa khác:
1) Nghĩa khái quát: mỗi sự vật (khi phát huy tác dụng) đều tương xứng với
những cái có quan hệ sở thuộc hay tất yếu với chúng; 2) Chức quyền, địa vị
càng cao, thì những trở lực, gian nguy càng lớn (cần phải dàn xếp, vỗ yên
mới dễ bề thăng tiến).
(2)