Báo Cáo
I.Tính cấp thiết của đề tài
-Vấn đề chuyển từ đất lúa giá trị cao cũng như đất nông nghiệp
sang các mục đích phi nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang là
vấn đề đáng quan tâm của các địa phương trong phạm vi cả
nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, diện tích đất trồng lúa
đang giảm dần do quá trình đo thị hóa và phát triển cơ sở hạ
tầng cũng như do các chính sách của nhà nước. Vì vậy, nhóm
quyết định chọn đề tài này nhằm đưa ra một số thực trạng gần
đây của vấn đề chuyển đổi cơ cấu đất đến hoạt động sản xuất.
- Mục tiêu nghiên cứu
+Tóm tắt những vấn đề chung về đất trồng lúa và đất phi nông
nghiệp
+ Đánh giá mức đọ tác động của sự chuyển dịch đất trồng lúa
sang đất phi nông nghiệp đã làm ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
nói chung và hoạt động sản xuất Lúa nói riêng, và đưa ra các
giải pháp phù hợp với thực tiễn hiện nay.
II. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin.
III.Nội dung vấn đề
1.
Khái niệm đát trồng lúa, đất phi nông nghiệp
1.1. Đất trồng lúa
Đất trồng lúa là Những vùng đất có điều kiện thổ nhưỡng và
tưới tiêu phù hợp với việc canh tác cây lúa, ở Việt nam khu
vực đồng bằng sông Cửu long, đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng ven biển Miền Trung là vùng đất trồng 2 vụ lúa
(thường gọi là đất 2 lúa), nhưng hiện tại ở ĐBSCL hiện nay
người nông dân đã canh tác tới 3 vụ lúa trong 1 năm, các
vùng đồng bằng khác thực hiện canh tác xen canh 1lúa 1
màu. Đối với một số tỉnh vùng núi phía bắc của Việt nam,
diện tích đất trồng lúa chủ yếu là diện tích đất ở triền đồi (gọi
là ruộng bậc thang), vùng miền Đông Nam Bộ đất trồng lúa
là diện tích đất lung, bàu, một năm chỉ canh tác được 1 vụ
lúa
1.2.
Đất Phi nông nghiệp
Theo Thông tư 08/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007, đất phi nông
nghiệp
là đất đang được sử dụng không thuộc nhóm đất nông nghiệp; bao
gồm đất ở, đất
chuyên dùng, đất tôn giáo, tín ngưỡng, đất nghĩa trang, nghĩa địa;
đất sông, ngòi,
kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng, đất phi nông nghiệp
khác.
1.3. Hiệu quả sử dụng đất
Ngày nay, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và có hiệu quả đã trở
thành chiến lược quan trọng có tính toàn cầu. Nó đặc biệt quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại bởi nhiều lẽ:
Một là, tài nguyên đất vô cùng quý giá.
Hai là, tài nguyên đất có hạn, đất có khả năng canh tác càng ít
ỏi.
Ba là, diện tích tự nhiên và đất canh tác trên đầu người ngày
càng giảm do áp lực tăng dân số, sự phát triển đô thị hóa, công
nghiệp hóa và các hạ tầng kỹ thuật.
Bốn là, do điều kiện tự nhiên, hoạt động tiêu cực của con người,
hậu quả của chiến tranh nên diện tích đáng kể của lục địa đã,
đang và sẽ còn bị thoái hóa, hoặc ô nhiễm dẫn tới tìn trạng
giảm, mất khả năng sản xuất và nhiều hậu quả nghiêm trọng
khác.
Năm là, lịch sử đã chứng minh sản xuất lúa nước phải được tiến
hành trên đất tốt mới có hiệu quả. Tuy nhiên, để hình thành đất
với độ phì nhiêu cần thiết cho canh tác lúa nước phải trải qua
hàng nghìn năm, thậm chí hàng vạn năm. Vì vậy, mỗi khi sử
dụng đất đang sản xuất lúa nước cho các mục đích khác cần cân
nhắc kỹ để không rơi vào tình trạng chạy theo lợi ích trước mắt.
1.4. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Có nhiều tiêu chí tiếp cận khác nhau về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất (CĐMĐSDĐ):
Về mặt nội dung công việc thì CĐMĐSDĐ bao gồm các bước
cụ thể sau: thu hồi đất đai để phục vụ cho các dự án đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt theo quy hoạch; bồi thường, hỗ trợ
cho các đối tượng có đất bị thu hồi; giải toả các công
trình, tài sản có trên mặt đất; thực hiện các chính sách tái định
cư (TĐC) như: chỗ ở, việc làm, thu nhập, ổn định cuộc sống;
giao đất, cho thuê đất cho các chủ dự án để họ sử dụng theo các
mục đích đã được phê duyệt.Về mặt mục đích thì CĐMĐSDĐ
tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển. Ở nước ta hiện nay đó
là sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả hơn. Xây dựng hệ thống
đô thị là xây dựng những trung tâm kinh tế của một địa phương,
một vùng lãnh thổ hay trên phạm vi cả nước; chuyển từ sản xuất
nông nghiệp với năng suất và hiệu quả thấp sang những ngành
nghề mới có năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
Nếu tiếp cận theo tiêu chí “tính chất”, thì CĐMĐSDĐ không chỉ
đơn thuần là quá trình mang tính chất kỹ thuật: tạo mặt bằng cho
quá trình triển khai xây dựng công trình…mà đó là một quá
trình mang tính kinh tế, chính trị, xã hội rộng lớn.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát thì CĐMĐSDĐ là quá
trình từ việc Nhà nước ra các quyết định hành chính để thu lại
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao, đến việc giao đất,
cho thuê đất cho các chủ đầu tư để sử dụng theo các mục đích
mới và giải quyết hậu quả các vấn đề phát sinh trong quá trình
đó bằng các hình thức và phương pháp thích hợp (bao gồm bồi
thường đất, bồi thường và giải toả các công trình trên mặt đất;
TĐC, hỗ trợ, đào tạo giải quyết việc làm mới; hỗ trợ, ổn định
đời sống của người bị thu hồi đất) nhằm mục tiêu thực
hiện tốt kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ổn định
và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện tốt mục tiêu
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.5. Vai trò của đất đai đối với sản xuất phi nông nghiệp
Theo luật đất đai 1993, đất đai là một tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư,
xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng.
Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống.
Không có đất thì không có một ngành sản xuất nào, không có
một quá trình lao động nào d iễn ra, không thể có sự tồn tại của
xã hội loài người.Trong công nghiệp, đất đai là yếu tố đầu vào
quan trọng, làm địa điểm, làm cơ sở của các nhà máy, cơ sở sản
xuất, các khu công nghiệp, công trình công nghiệp, giao thông,
thủy lợi.... Ngành công nghiệp không thể hình thành, hoạt động
và phát triển khi không có đất đai, không có địa điểm hoạt động.
Không những thế, đất đai còn cung cấp một số yếu tố đầu vào
trực tiếp cho các ngành công nghiệp như: các tài nguyên trong
lòng đất, trên bề mặt trái đất. Đất đai còn cung cấp một số
nguyên liệu đầu vào gián tiếp cho công nghiệp thông qua
các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đất đai còn là nơi xây
dựng các công trình, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của
ngành công nghiệp: hệ thống điện, nước, giao thông, thông tin
liên lạc... Sự phát triển nhah chóng của các ngành công nghiệp
đòi hỏi mở rộng quy mô, diện tích cho các nhu cầu này.
1.6. Thực trạng chuyển dịch đất trồng lúa sang đất phi nông
nghiệp ở Việt Nam.
- Sản lượng lúa cả năm 2015 ước tính đạt 45,2 triệu tấn, tăng
240,9 nghìn tấn so với năm 2014 do diện tích gieo trồng ước
tính đạt 7,8 triệu ha, tăng 18,7 nghìn ha; năng suất đạt 57,7 tạ/ha,
tăng 0,2 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,3 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng
lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 50,5 triệu tấn, tăng
319,8 nghìn tấn so với năm 2014.
Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 134 Luật đất đai năm
2013 có quy định: “Nhà nước có chính sách bảo vệ đất trồng
lúa, hạn chế chuyển đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích phi
nông nghiệp…”
Do vậy, việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất phi
nông nghiệp sẽ được cho vào diện hạn chế. Việc hạn chế này
được Nhà nước kiểm soát để xem xét thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất theo quy định tại đoạn 2 Khoản 2 Điều
44 Luật đất đai năm 2013: “Trong trường hợp cần thiết, Hội
đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tổ chức kiểm
tra, khảo sát thực địa các khu vực dự kiến chuyển mục đích sử
dụng đất, đặc biệt là việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng
lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng”
Vì thế, việc chuyển mục đích đất trồng lúa sang đất phi nông
nghiệp phải cần có quy hoạch sử dụng đất mà đã có kế hoạch sử
dụng đất buộc chuyển đổi thì mới được chuyển đổi theo quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
- Diện tích đất phi nông nghiệp ở nước ta vào năm 2015 là 3705 nghìn
ha
ẢNH HƯỞNG KHI CHUYỂN ĐẤT NÔNG NGHIỆP
SANG PHI NÔNG NGHIỆP
4 Tháng 5 2012 lúc 4:50
Vấn đề sinh kế của người dân sau thu hồi đất nông nghiệp đang là vấn đề quan tâm của
các địa phương trong phạm vi cả nước. Đặc biệt là trong giai đoạn gần đây ở nước ta,
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi hàng năm khá lớn do quá trình đô thị hoá và phát
triển cơ sở hạ tầng và số người có sinh kế khó khăn sau thu hồi đất ngày càng gia tăng.
Khi thu hồi đất.
Nhà nước có chính sách bồi thường thiệt hại về đất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và
ổn định đời sống và thực tế là có những hộ có thu nhập cao hơn so với trước khi thu hồi
đất, nhưng vẫn có một số hộ dân vẫn khó khăn trong việc tạo lập sinh kế của mình. Họ
vẫn bám víu vào diện tích đất ít ỏi còn lại do việc tìm kiếm việc làm mới và trình độ tay
nghề để chuyển đổi công việc không dễ dàng.
Thực tế cho thấy rằng đa số chủ hộ có đất nông nghiệp bị thu hồi đều lớn tuổi, trình độ
văn hóa thấp. Lao động lớn tuổi chiếm đa số và ít người được học hành nhưng đối tượng
này lại là những người phải gánh vác trách nhiệm quan trọng trong việc đảm bảo sinh
kế của hộ, là những lao động chính tạo thu nhập cho hộ.
Bình quân diện tích đất nông nghiệp sau thu hồi đất của các nhóm hộ giảm dẫn đến
bình quân diện tích đất nông nghiệp trên lao động nông nghiệp giảm đáng kể.
Thay đổi về nguồn vốn tự nhiên
Hiện tại hầu như còn rất ít quỹ đất dự trữ để bồi thường, nên khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện các dự án thì phương thức bồi thường được thực hiện nhiều nhất là bồi
thường bằng tiền. Cùng với bồi thường thiệt hại, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp
cũng được thực hiện bằng tiền. Mặt khác, đa số người dân đều muốn được bồi thường,
hỗ trợ theo hình thức này vì với người nông dân có một khoản tiền mặt lớn là ước mơ
của họ. Do vậy đại đa số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp đều bồi thường và hỗ trợ bằng
tiền.
Như vậy, nguồn vốn tự nhiên (đất đai) được chuyển thành nguồn vốn tài chính. Trước
đây đất đai là phương tiện tạo sinh kế quan trọng của hộ nông dân, bây giờ chuyển
thành một khoản tiền. Để đảm bảo sinh kế lâu dài, nguồn vốn này phải được hộ dân sử
dụng vào mục đích đầu tư sản xuất tạo nguồn thu nhập hoặc học nghề để chuyển đổi
nghề nghiệp (vốn con người). Còn nếu sử dụng số tiền này vào mục đích xây dựng nhà
cửa, mua sắm tài sản (vốn vật chất) và các mục đích khác thì sinh kế của người dân về
lâu dài sẽ khó khăn. Khi sinh kế khó khăn họ sẽ bị hạn chế trong việc học hành, khám
chữa bệnh, tiếp cận thông tin…Tức là khi đất nông nghiệp của người nông dân bị thu hồi
họ có thể còn bị mất đi cơ hội để phát triển bản thân, gia đình cũng như tiếp cận xã hội.
Thay đổi về nguồn vốn xã hội
Cơ hội tiếp cận nguồn vốn xã hội sau khi thu hồi đất được mở ra nhưng ít người dân tận
dụng cơ hội này để cải thiện và thay đổi sinh kế của mình. Khi bị thu hồi đất, 100% hộ
gia đình đều nhận hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp (nếu có) bằng tiền mặt nhưng có rất ít
người sử dụng nguồn vốn này cho việc học nghề.
Rất ít số hộ nhận tiền bồi thường, hỗ trợ đầu tư cho việc học nghề và cho con em đi học.
Phần lớn số hộ đều sử dụng nguồn vốn này để đầu tư xây dựng nhà cửa, mua sắm tài
sản, sự đầu tư này là nhu cầu thiết yếu nhưng về mặt xã hội sẽ dẫn đến không bền vững
cho sinh kế người dân. Đây là điều mà các cơ quan chức năng khi thực hiện phương án
bồi thường, hỗ trợ phải quan tâm và có những giải pháp hợp lý và sát với điều kiện từng
địa phương cụ thể.
Khi không còn đất nông nghiệp người dân ít có cơ hội để tiếp xúc, tương trợ nhau, do
vậy nhiều người dân băn khoăn là mất đất dẫn đến “tình làng nghĩa xóm” sẽ dần dần
mất đi. Một thực trạng xảy ra làm không ít người dân lo lắng là khi thiếu đất sản xuất
dẫn đến thời gian rãnh rỗi nhiều, lại có nhiều tiền mặt từ các khoản bồi thường, hỗ trợ
và thu nhập từ làm công của lao động tự do sẽ là tiền đề cho các tệ nạn xã hội như say
bia rượu, nạn cờ bạc gia tăng.
Thay đổi về nguồn vốn tài chính
Do có sự thay đổi về nguồn vốn đất đai, tư liệu sản xuất chủ yếu của các hộ nông dân
nên dẫn đến thay đổi về lao động và thu nhập của hộ. Nhóm có diện tích thu hồi dưới
30% có thu nhập sau thu hồi hầu như không đổi. Trong khi nhóm có diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi lớn thì thu nhập sau khi thu hồi tăng so với trước khi bị thu hồi đất,
nguồn thu nhập phần lớn từ hoạt động phi nông nghiệp. Điều này chứng tỏ sau thu hồi
đất có sự dịch chuyển lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Ngoài ra có
một số hộ dùng nguồn vốn bồi thường, hỗ trợ gửi ngân hàng đã thu được tiền lãi hàng
tháng ổn định.
Thực tế điều tra cho thấy rằng, nhiều người có thu nhập từ lao động tự do cao hơn so với
sản xuất nông nghiệp trước đây, tuy nhiên nguồn thu này rất bấp bênh, thường khó
khăn trong tìm kiếm việc làm vào mùa mưa. Hơn nữa thu nhập bằng tiền mặt hàng ngày
nên cũng dễ tiêu xài, khó tiết kiệm và một lý do mà họ đưa ra là chi tiêu tăng cao do
phải mua nhiều thứ hơn trước đây còn đất nông nghiệp bản thân gia đình tự sản xuất
được.
Thay đổi về nguồn vốn con người
Theo kết quả điều tra chỉ có 4,4% hộ gia đình sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ vào việc
học nghề, cho con học hành.Tỷ lệ đi học của các nhóm lao động giảm mạnh theo độ
tuổi, lao động trong độ tuổi 15-18 có tỷ lệ đi học khá cao 72,7%, tỷ lệ này giảm xuống
11,5% đối với lứa tuổi từ 18 đến 35 (nữ) và 40 (nam), lao động trên 35 đối với nữ, 40 đối
với nam không có ai theo học. Họ hiểu rằng trong tình hình đô thị hóa, công nghiệp
ngày càng phát triển như hiện nay muốn có việc làm thì phải có trình độ tay nghề và
bằng cấp, tuy nhiên hạn chế lớn nhất là do tuổi cao, khó khăn trong việc theo học. Do
đó họ đầu tư cho con em theo học, còn bản thân người lớn tuổi (trên 35-40 tuổi) khi mất
đất nông nghiệp cách đơn giản nhất mà họ lựa chọn là làm thuê tự do. Trước thu hồi đất
bình quân lao động nông nghiệp là 3,0/hộ, sau thu hồi đất bình quân chỉ còn 1,6 lao
động/hộ. Lao động nông nghiệp trước khi chuyển đổi đất đai đã giảm xuống đáng kể.
Lao động phi nông nghiệp tăng mạnh nhất là lao động tự do.
Thay đổi về nguồn vốn vật chất
Sau thu hồi đất tỷ lệ kiên cố hóa nhà cửa tăng lên đáng kể so với trước khi thu hồi đất,
trong khi nhà tạm và nhà cấp 4 xây dựng lâu năm giảm xuống.
Kết quả khảo sát cho thấy đồ dùng sinh hoạt cũng được các hộ dân đầu tư mua sắm.
Thực tế cho thấy sau thu hồi đất người dân đầu tư mua sắm những đồ dùng sinh hoạt
hiện đại như điện thoại (chủ yếu điện thoại di động), máy vi tính, tủ lạnh tăng cao. Như
vậy thực trạng cho thấy nguồn vốn tài sản cá nhân có sự tăng lên đáng kể sau khi thu
hồi đất, tuy nhiên cũng không thể khẳng định mức sống người dân được cải thiện tích
cực do tác động của việc thu hồi đất, nhưng người dân có khoản tiền lớn từ bồi thường
hỗ trợ để đầu tư mua sắm là điều không thể phủ nhận. Như vậy, có sự chuyển luân
chuyển từ nguồn vốn tài chính sang nguồn vốn vật chất, tuy nhiên nguồn vốn vật chất
này đa số là phương tiện sinh hoạt mà không phải là phương tiện sản xuất.
Về nguồn vốn vật chất dùng chung cả cộng đồng như hệ thống đường giao thông, cấp
nước, cấp điện, hệ thống trường học và cơ sở khám chữa bệnh có sự chuyển biến đáng
kể sau thu hồi đất, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thuận lợi và hiệu quả hơn trong
các hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa, cải thiện điều kiện giao lưu với môi trường
bên ngoài.
KẾT LUẬN
Chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá Nhà
nước đã và đang có nhiều chính sách nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân bị thu hồi
nhưng thực tế vẫn có nhiều vấn đề cần giải quyết để có được nguồn sinh kế ổn định.
Nhiều hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại vùng nghiên cứu có thu nhập cao hơn trước
khi thu hồi đất, nguồn vốn về vật chất được cải thiện đáng kể, tuy nhiên nhiều người lo
lắng về việc tạo nguồn sinh kế lâu dài vì các nguồn thu nhập còn bếp bênh do việc làm
không ổn định, cuộc sống xáo trộn, phai nhạt tình cảm nông thôn, ô nhiễm môi trường.
Khi thu hồi đất người dân nhận được bồi thường, hỗ trợ đều bằng tiền mặt, đa số người
dân sử nguồn vốn vào mục đích không phải là đầu tư sản xuất và học nghề chuyển đổi
nghề nghiệp từ đó dẫn đến khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Do đó cần có giải pháp từ
các cơ quan Nhà nước để việc sử dụng nguồn tiền bồi thường, hỗ trợ hiệu quả hơn nhằm
đảm bảo sinh kế bền vững lâu dài cho người dân.
Và nói thêm về Dự án của Ecopark (Công ty Đầu tư và Phát triển đô thị Việt Hưng
(Vihajico) làm chủ đầu tư) ở Văn Giang, Hưng Yên. Họ có cách giải quyết vấn đề việc làm
khá hay là bên cạnh giá đền bù bằng tiền mặt, mỗi sào của nông dân còn được đền bù
thêm 40m2 đất liền kề Ecopark, được quy hoạch sẽ là những ki- ốt bán hàng. Tất cả các
lao động chưa có việc làm hoặc bị thất nghiệp do mất đất, được tiếp nhận vào làm các
dịch vụ trong khu đô thị tương lai. Các hộ dân trong vùng Dự án còn được hỗ trợ gạo,
tiền. Đặc biệt, UBND tỉnh đã giao đất dịch vụ liền kề để giải quyết việc làm, từng bước
giúp người dân chuyển dần từ sản xuất nông nghiệp sang làm thương mại, dịch vụ.
Vihajico đã hỗ trợ lập dự án, thiết kế, san nền cho cả 3 xã, với chi phí tại thời điểm năm
2011 khoảng 180 tỷ đồng. Riêng xã Xuân Quan đã bốc thăm chia đất dịch vụ cho 622
hộ, với diện tích 7,8 ha. Ngoài ra, Vihajico đã áp dụng nhiều chính sách “vượt khung” để
hỗ trợ người dân vùng dự án, như áp dụng mức giá đất cao nhất trên địa bàn tỉnh là
135.000 đồng/m2 nếu giao đất đúng hẹn (trước năm 2008); hỗ trợ 6 triệu đồng/sào đối
với hộ dân ký bàn giao mặt bằng và hỗ trợ 1 triệu đồng/sào/năm trong 5 – 10 năm, tùy
diện tích đất, đối với các hộ dân bị mất đất nông nghiệp (năm 2011); hỗ trợ 30 tỷ đồng
lập Quỹ Hỗ trợ người dân đã hết tuổi lao động, thực hiện các biện pháp giải quyết việc
làm cho người dân bị thu hồi đất.
admin VL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Hoài, 2008, “Ổn định đất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia”, Tạp chí Cộng Sản số 790 tháng 8-2008
2. Bùi Ngọc Thanh, 2009, “Việc làm cho hộ nông dân thiếu đất sản xuất - vấn đề và giải
pháp”, Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở) số 26 tháng 2-2009
3. Báo Đầu tư- baodautu.vn
4. Điều tra xã hội học của Ths Ngô Hữu Hoạnh