Tải bản đầy đủ (.ppt) (73 trang)

Phương Pháp Bàn Tay Nặn Bột Trong Dạy Học Các Môn Khoa Học Cấp Tiểu Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.03 MB, 73 trang )



I. LỜI NÓI ĐẦU

Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan
khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là
một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại
khi mà nền kinh tế tri thức đang dần dần chiếm
ưu thế tại các quốc gia trên thế giới. Bàn tay
nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực,
thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa
học tự nhiên đặc biệt là đối với bậc học tiểu học
và trung học cơ sở.


"Bàn tay nặn bột" là mô hình giáo dục tương
đối mới mẻ trên thế giới, có tên tiếng Anh là
"Handson", còn tiếng Pháp là "La main à la
pâte", đều có nghĩa là "bắt tay vào hành
động". Chương trình tập trung phát triển khả
năng nhận thức của trẻ em một cách khoa
học nhất, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho
những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt
mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá
ra bản chất vấn đề. Trí óc trẻ thơ luôn cảm
thấy tò mò trước những hiện tượng mới mẻ
của cuộc sống xung quanh, bởi vậy các em
luôn sẵn sàng bật ra những câu hỏi "tại sao”.


II. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT


1. Phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp dạy
học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi nghiên
cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự
nhiên. Thực hiện phương pháp bàn tay nặn bột: dưới
sự giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu
trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống
thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu
tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho
mình.


II. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT

Đứng trước một sự vật, hiện tượng học sinh
có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ
những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực
nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra
những kết luận phù hợp, thông qua thảo luận,
so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.


III. Mục tiêu của phương pháp BTNB là
tạo nên tính tò mò ham muốn khám phá
và say mê khoa học của học sinh. Ngoài
việc chú trọng đến kiến thức khoa học.
Phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến
việc rèn kỹ năng diễn đạt thông qua
ngôn ngữ nói và viết của học sinh.



IV. Một số PP tiến hành thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu
PP quan sát: * quan sát là
- Tìm câu trả lời cho câu hỏi đặt ra;
- Nhận thức bằng tất cả các giác quan
- Tổ chức sự nghiên cứu một cách chặt chẽ và có PP
- Xác lập các mối quan hệ bằng cách so sánh với các mô
hình, những hiểu biết và các đối tượng khác.
* Quan sát giúp HS phát triển các khả năng:
- Chặt chẽ trong nhìn nhận;
- Tò mò trước một sự vật hiện tượng trong thế giới
xung quanh; - Khách quan; - Tinh thần phê bình; - nhận
1.

biết; - So sánh; - Chọn lọc những điểm chủ yếu, quan
trọng và đặc trưng của sự vật hiện tượng.


IV. Một số PP tiến hành thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu
2. PP thí nghiệm trực tiếp: (PP TNTT)
- Đây là PP được khuyến khích thực hiện trong bước tiến
hành thí nghiệm tìm tòi, nghiên cứu theo PP “BTNB”.
- PP TNTT được thực hiện đối với các kiến thức cần làm thí
nghiệm để chứng minh. Các thí nghiệm do chính HS thực
hiện. GV tuyệt đối không được thực hiện thí nghiệm biểu
diễn như đối với các PP dạy học khác.
- Thí nghiệm trong PP “BTNB” được thực hiện để kiểm chứng
một giả thuyết đặt ra chứ không phải là để khẳng định lại
một kiến thức. VD: để kiểm tra giả thuyết: “Có phải không
khí cần cho sự cháy không?” HS làm thí nghiệm úp cốc
thuỷ tinh lên ngọn nến đang cháy để kiểm chứng.



IV. Một số PP tiến hành thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu
3. PP làm mô hình:
- PP làm mô hình thường được tiến hành theo nhóm
vì HS cần thảo luận với nhau để làm mô hình hợp lí.
- Mô hình đối với HS tiểu học chỉ nên thực hiện đơn
giản nhằm làm rõ một kiến thức nhất định.
- Để tiết kiệm thời gian GV có thể chuẩn bị trước một
mô hình đúng để trình bày cho HS so sánh trong
trường hợp không có nhóm nào làm đúng. Trong
trường hợp này GV cần giấu mô hình không cho HS
nhìn thấy trước khi đưa ra trưng bày.


IV. Một số PP tiến hành thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu
4. PP nghiên cứu tài liệu: Khi cho HS tiến hành
PP này, GV giúp HS xác định được:


Động cơ đọc tài liệu: tìm hiểu tổng quát, tìm
hiểu chuyên sâu, tìm một định nghĩa, …



Vấn đề nào cần quan tâm.



Những thắc mắc đang cần tìm câu trả lời.




Kiểu thông tin nào đang cần có.



Vị trí cần đọc, nghiên cứu trong tài liệu.


V. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CỦA PHƯƠNG
PHÁP « BÀN TAY NẶN BỘT »


6 Nguyên tắc về tiến trình sư phạm

Học sinh quan sát
một vật hoặc hiện
tượng của thế
giới thực tại, gần
gũi, cụ thể cảm
nhận được và
tiến hành thực
nghiệm về chúng.


Trong quá trình học tập,
học sinh lập luận và đưa
ra các lý lẽ, thảo luận về
các ý kiến và các kết

quả đề xuất, xây dựng
các kiến thức cho mình,
một hoạt động chỉ dựa
trên sách vở là không
đủ.


Các hoạt động giáo
viên đề ra cho học sinh
được tổ chức theo các
giờ học nhằm cho các
em có sự tiến bộ dần
dần trong học tập. Các
hoạt động này gắn với
chương trình và dành
phần lớn quyền tự chủ
cho học sinh.


Tối thiểu 2 giờ một tuần
dành cho một đề tài và có
thể kéo dài hoạt động
trong nhiều tuần. Tính
liên tục của các hoạt
động và những phương
pháp sư phạm được đảm
bảo trong suốt quá trình
học tập tại trường.



Mỗi học sinh có một
quyển vở thí nghiệm
và học sinh trình bày
trong đó theo ngôn
ngữ của riêng mình


Mục đích hàng đầu đó
là giúp học sinh tiếp
cận một cách dần dần
với các khái niệm thuộc
lĩnh vực khoa học, kĩ
thuật...kèm theo một sự
vững vàng trong diễn
đạt nói và viết.


4 nguyên tắc về đối tượng tham gia
Gia đình và cộng đồng ủng hộ các hoạt động này.
Các nhà khoa học (ở các trường Đại học, Viện nghiên cứu)
tham gia các công việc ở lớp học theo khả năng của mình.

Viện Đào tạo giáo viên (IUFM) giúp các giáo viên về kinh
nghiệm sư phạm và giáo dục.
Giáo viên có thể tìm thấy trên Internet những bài học về
những đề tài, những gợi ý cho các hoạt động ở lớp, những
câu trả lời cho các câu hỏi. Giáo viên cũng có thể tham gia
thảo luận trao đổi với các đồng nghiệp, với các giảng viên và
các nhà khoa học.



VI. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY
NẶN BỘT

1. Cơ sở sư phạm của tiến trình dạy học:
Phương pháp BTNB đề xuất một tiến trình sư
phạm ưu tiên xây dựng những tri thức bằng
khai thác, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự
hình thành khoa học bằng hành động, hỏi đáp,
tìm tòi thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ
không phải phát biểu lại những kiến thức có sẵn
xuất phát từ sự ghi nhớ thuần túy. Học sinh tự
mình thực hiện các thí nghiệm, các suy nghĩ và
thảo luận để hiểu được và lĩnh hội các kiến thức
cho chính mình.


2. Các bước của tiến trình dạy học:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu
vấn đề:
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học
sinh
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết
kế phương án thực nghiệm
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm, tìm tòi nghiên
cứu
Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức


Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu

vấn đề:
Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề
là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra
như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình
huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu
với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng
ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát
càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu
vấn đề càng tốt. Tuy nhiên có những trường hợp
không nhất thiết phải có tình huống xuất phát
mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (Tùy vào
từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).


- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài
học, cần đảm bảo phù hợp với yêu cầu của
trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích
thích tính tò mò, thích tìm tòi nghiên cứu của
học sinh, nhằm chuẩn bị tâm thế cho học
sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức.
Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối
không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có
hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu
hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu
trên thì ý đồ dạy học sủa giáo viên càng dễ
thực hiện thành công.


- Ví dụ về tình huống xuất phát và câu hỏi
nêu vấn đề (Bài cấu tạo bên trong của hạt)

- Giáo viên đưa ra một vài hạt đậu (loại hạt
lớn cho học sinh dễ quan sát) và giáo viên
đặt câu hỏi: Theo các em trong hạt đậu có
gì?


Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
Làm bộc lộ quan điểm ban đầu hay biểu tượng
ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả
thuyết của học sinh là bước quan trọng, đặc
trưng của phương pháp BTNB. Trong bước này
giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy
nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật,
hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi được
học kiến thức đó. Khi yêu cầu học sinh trình bày
quan niệm ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu
bằng nhiều hình thức biểu hiện của học sinh
như có thể là bằng lời nói ( thông qua phát biểu
cá nhân, bằng cách viết hay vẽ) để biểu hiện suy
nghĩ:


×