HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
HỘI NÔNG DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BCH HUYỆN THANH BÌNH
***
Số 270- BC/HNDH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Thanh Bình, ngày 04 tháng 11 năm 2016
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi
giai đoạn 2012 - 2016
----Thực hiện Kế hoạch số 114-KH/HNDT ngày 14/12/2015 của Ban Thương vụ
Hội Nông dân Việt Nam tỉnh về việc xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá chuẩn bị
cho tổng kết phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.. Ban Thường vụ
Hội Nông dân Huyện báo cáo kết quả thực hiện như sau:
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Vai trò của phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.
Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau
xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng là một trong 3 phong trào lớn do Hội
Nông dân phát động; đến nay đã phát triển trở thành phong trào quần chúng sâu
rộng trong huyện, thu hút đông đảo cán bộ, hội viên và nông dân tham gia, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, tăng thêm hộ
nông dân khá, giàu, tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho hàng ngàn
hộ nông dân.
Phát huy những thành tích đã đạt được, 5 năm qua, bên cạnh những thuận lợi
do hiệu quả phát triển kinh tế- xã hội đem lại, huyện cũng gặp nhiều khó khăn, thách
thức do tính chất đặc thù cơ cấu kinh tế của huyện; khủng hoảng kinh tế; sự cạnh
tranh khốc liệt của thị trường; ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu… Trong bối
cảnh đó, cán bộ, hội viên, nông dân huyện nhà đã nỗ lực thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ VII Hội Nông dân Huyện Thanh Bình, vượt qua khó khăn, thách thức,
đạt được nhiều thành tích, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào tiếp tục phát triển.
Từ phong trào đã xuất hiện nhiều nông dân dám nghĩ, dám làm, nhân rộng các
loại cây, con mới như trồng cây ăn trái, trồng màu, trồng cây cảnh, nuôi trăn…, phá
vỡ thế độc canh sản xuất lúa truyền thống góp phần đa dạng hoá sản xuất, phát triển
các ngành nghề, dịch vụ mới trong kinh tế nông thôn như: sơ chế và lưu trữ nông
sản, mỹ nghệ, chế biến thực phẩm… Qua đó, đã giúp cho hàng trăm lao động với
nguồn thu nhập ổn định, góp phần xóa đói giảm nghèo được 486 hộ hội viên.
2. Tác động của phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.
Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi đã góp phần hình thành
các điểm sản xuất chuyên canh, liên kết... để thực hiện đồng bộ từ sản xuất, chế biến
đến tiêu thụ; một số hộ nông dân SXKD giỏi đã đại diện cho người sản xuất, bàn
bạc và ký kết hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp để tạo điểm sản xuất tập trung;
2
phát huy thế mạnh của mỗi địa phương, từng bước xây dựng thương hiệu và một số
mặt hàng nông sản chủ lực như: ớt, bắp, cá tra. Trong điển hình liên kết sản xuất có
Tổ sản xuất và tiêu thụ bắp ngọt, Tổ Nuôi bò chia lãi… Qua đó tạo điều kiện cho
việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến một cách đồng bộ, hiệu quả, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về năng suất giữa các hộ nông dân, các thửa ruộng, nâng
cao năng suất, gia tăng chất lượng sản phẩm và làm nền tảng cho việc sản xuất theo
tiêu chuẩn VietGAP (như mô hình trồng ớt VietGAP 20ha ở Tân Bình). Phong trào
cũng đã góp phần thúc đẩy việc thành lập các loại hình trang trại, gia trại hiệu quả
kinh tế cao. Đến nay huyện có 08 trang trại; trong đó, có 01 trang trại trồng cây lâu
năm ở Tân Hòa, 01 trang trại chăn nuôi heo ở Tân Mỹ và 06 trang trại nuôi thủy sản
ở Tân Hòa, Tân Thạnh, An Phong, Tân Mỹ1. Diện tích đất sử dụng bình quân
10,91ha/1 trang trại.
Nhiều hộ nông dân SXKD giỏi đã thành lập các doanh nghiệp loại vừa và
nhỏ trong nông thôn hoặc làm sáng lập viên thành lập các tổ liên kết, mở rộng quy
mô, tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tham gia tích cực củng cố và phát triển các
hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn.
3. Vai trò của phong trào trong xây dựng nông thôn mới và giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn.
Phong trào đã khuyến khích, động viên nông dân, phát huy tinh thần đoàn kết,
tương thân, tương ái, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, thi đua làm giàu; xây dựng nếp
sống văn hóa ở nông thôn; tích cực tham gia thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới của Đảng, Nhà nước. Thông qua phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, Hội
đã tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân đóng góp trên 4,2 tỷ đồng và trên
2.697 ngày công cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, trong đó đã làm mới và sửa
chữa 336,23 km đường giao thông nông thôn; xây mới và cải tạo 11 km kênh
mương, 141 cầu, cống các loại. Nhiều hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi đã hiến
đất và tích cực góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi như trường học,
đường giao thông nông thôn, nghĩa địa tập trung 2. Hội viên, nông dân trong huyện
đã đóng góp trên 851 tấn lương thực giúp đỡ 4.256 lượt hộ nông dân nghèo; ủng hộ
Quỹ vì người nghèo gần 549 triệu đồng và trên 185 triệu đồng hỗ trợ đồng bào vùng
bão lụt và ảnh hưởng của xâm nhập mặn, cá biển chết. Trong 05 năm đã nhận giúp
đỡ 620 hộ thoát nghèo3, xoá 61 nhà tạm và xây dựng được 270 căn nhà kiên cố- bán
kiên cố thông qua các tổ cất nhà do Hội Nông dân thành lập4.
Qua Phong trào, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các hộ nông dân
giỏi với các hộ nông dân nghèo đã trở thành nề nếp trong sản xuất và đời sống văn
hoá của cộng đồng nông thôn. Các hộ nông dân SXKD giỏi đã và đang tạo việc làm
thường xuyên cho hơn 5.000 lao động; giúp đỡ vốn; giống cây, con và kinh nghiệm
sản xuất cho hơn 110.000 lượt hộ nông dân. Nhiều nông dân SXKD giỏi đã trở
1
Số liệu Phòng NN&PTNT huyện đến 31/12/2014
Ông Võ Văn Đức ở Tân Quới hiến 1.200m 2 làm nghĩa địa tập trung; ông Võ Văn Rặp ở Phú Lợi hiến 2.000m 2 đất
Làm đê bao, lộ làng nông thôn…
3
Báo cáo số 219-BC/HNDH ngày 11/11/2015 của Hội Nông dân Huyện.
4
Tổng vốn 26,16 tỷ đồng, hiện huyện có 39 tổ với 305 thành viên.
2
3
thành hạt nhân đoàn kết và uy tín trong cộng đồng cư dân nông thôn, điển hình như,
ông Huỳnh Văn Bé ở Thị trấn Thanh Bình, với 01 cơ sở chế biến muối sấy, hàng
năm đã tạo việc làm ổn định cho 22 lao động, giúp đỡ lương thực hàng tháng cho 47
hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn; hộ gia đình ông Lê Văn
Triết ở Tân Hòa với Làng nghề Sản xuất dây đai nhựa- Đan giỏ xách nhựa đã tạo
việc làm thường xuyên cho 1.000 lao động địa phương và các huyện lân cận, góp
phần nâng cao thu nhập cho người dân…
4. Vai trò của phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi
trong xây dựng tổ chức hội vững mạnh.
Phong trào đã có sức thu hút và tạo sự gắn bó ngày càng chặt chẽ hơn giữa tổ
chức Hội với hội viên, nông dân, góp phần thúc đẩy xây dựng, củng cố tổ chức Hội
ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao.
Hiện nay 55/55 ấp có nông dân đã có tổ chức Hội, với 13/13 chi Hội, trong
đó có 531 tổ Hội theo địa bàn dân cư; 223 tổ Hội nghề nghiệp, dịch vụ. Trong 5
năm, đã kết nạp thêm 4.438 hội viên; nâng tổng số hội viên đến nay lên 25.600
người, chiếm 72% số hộ nông dân.
Từ kết quả Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết
giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng; cấp ủy, Chính quyền đã
đánh giá cao vai trò nòng cốt của Hội Nông dân và giai cấp nông dân huyện nhà đối
với việc phát triển kinh tế- xã hội, thể hiện qua việc ban hành các kế hoạch tạo điều
kiện để Hội Nông dân phát huy tốt vai trò tập hợp và vận động nông dân, đặc biệt đã
ban hành Kế hoạch số 89-KH/HU thực hiện Kết luận số 61-KL/TW và Quyết định
số 673/QĐ-TTg.
Trong những năm qua, nhiều ban, ngành, đoàn thể đã tích cực phối hợp với
Hội Nông dân để triển khai tổ chức, thực hiện một số nội dung công việc trong các
chương trình, đề án về hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, xây dựng đời sống văn
hoá, bảo vệ trật tự an toàn xã hội ở nông thôn thông qua ký kết các Chương trình phối
hợp, các kế hoạch liên tịch... coi việc phối hợp với Hội Nông dân là một kênh quan
trọng để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nông dân.
5. Mô hình tiêu biểu trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh
doanh giỏi.
- Kinh doanh, sơ- chế biến ở nông thôn: Với sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước trong việc phát triển các ngành nghề ở nông thôn, cộng với sự chi phối lớn từ
nhu cầu thị trường và sự chuyển dịch cơ cấu ngành – nghề. Những năm qua nhiều
hộ nông dân do ít đất sản xuất, đã mạnh dạn tập trung - phát triển làng nghề, ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, chế biến và cung ứng các sản phẩm từ nông nghiệp với
mục đích liên kết vốn, công nghệ, tận dụng nguồn nhân lực để nâng cao hiệu quả
sản xuất, tăng thu nhập và đã tạo được chỗ đứng vững chắc. Gương sáng trong mô
hình này có:
+ Ông Huỳnh Văn Bé ở thị trấn Thanh Bình – từ một nông dân nghèo, với ý
chí vươn lên và tư duy sáng tạo, ham học hỏi đã làm giàu từ vị mặn của muối và vị
4
cay nồng của vị ớt quê hương, gây dựng nên cơ sở sản xuất muối sấy Ngọc Yến, thị
trường tiêu thụ có mặt ở khắp các tỉnh thành trong cả nước; nhận giúp đỡ thường
xuyên 47 hộ nghèo, cận nghèo hàng tháng số tiền 9.400.000 đồng.
+ Từ nhận định “lao động trong nông nghiệp thì có nhiều thời gian nhàn
rỗi”, ông Lê Văn Triết ở xã Tân Hòa với tư duy dám nghĩ dám làm đã mạnh dạn
chuyển đổi từ tư duy sản xuất thuần nông sang phát triển loại hình sản xuất liên kết
tiểu thủ công nghiệp, đầu tư máy móc, trang thiết bị phát triển mô hình Sản xuất
Dây đai, Giỏ xách Nhựa giải quyết cho trên 1.000 lao động trong và ngoài huyện,
tham gia tốt công tác khuyến học và dạy nghề tại địa phương.
+ Với sự khéo léo vốn có cùng sự yêu thích nghề thủ công và biết trân trọng
thời gian nhàn rỗi để kiếm thêm thu nhập, bà Nguyễn Thị Đẹp ở An Phong đã tạo ra
được những sản phẩm thủ công mang tính sáng tạo và thân thiện môi trường từ
những nguyên liệu như phế phẩm công nghiệp, phế phẩm nông nghiệp, xây dựng
nên thương hiệu Tranh – Hoa cỏ khô Thảo Minh nổi tiếng trong và ngoài nước.
- Liên kết sản xuất và tiêu thụ: Những năm qua, ngành nông nghiệp huyện
đã có nhiều chuyển đổi theo hướng sản xuất cơ giới hóa và từng bước hiện đại, sản
phẩm đa dạng và dần được nâng cao về chất lượng. Các hợp tác xã, tổ hợp tác với
quy mô vừa và lớn dần hình thành và phát triển. Đó là cơ hội tốt cho sản xuất liên
kết cung - cầu. Nắm bắt được xu thế đó, nhiều nông dân đã tập hợp thành những
nhóm có cùng ngành nghề sản xuất, có đủ quy mô để chi phối các khâu trong sản
xuất- tiêu thụ, và bước đầu đã mang lại hiệu quả. Tiêu biểu có:
+ Ông Dương Văn Luông ở xã Tân Huề với mô hình “Liên kết sản xuất- tiêu
thụ bắp ngọt”: Với vốn kinh nghiệp canh tác cây bắp ngọt, nắm bắt được nhu cầu
sản phẩm của thị trường, ông đã hỗ trợ về kỹ thuật, đối ứng vốn cho 28 hộ liền canh
trồng rải vụ 19,9ha bắp Sugar 75, với giá bao tiêu ngay đầu vụ là 4.000đ/kg bắp loại
01 nên người trồng an tâm và canh tác có hiệu quả. Đến nay đã qua 01 năm thực
hiện mô hình, bình quân lợi nhuận các hộ đạt từ 47 đến 55 triệu đồng/ha, so với
trồng lúa lãi cao hơn gấp 3 lần.
+ Ông Nguyễn Văn Yêm ở xã Tân Huề đã nắm bắt được nhu cầu về vốn nên
đã liên kết hợp đồng 28 hộ đầu tư 1,2 tỷ đồng chăn nuôi 78 con bò vỗ béo. Với
phương thức đầu tư 100% vốn tư nhân, lợi nhuận được chia theo tỷ lệ cố định sau
khi trừ chi phí, nên người nuôi phấn khởi. Hiện mô hình “Tổ nuôi bò chia lãi” của
ông Yêm đã mở rộng ra các xã lân cận.
- Trồng trọt:
+ Cách đây không lâu, giống lúa bà con nông dân gieo sạ chủ yếu là lúa từ vụ
trước để lại, vì vậy lúa thường bị thoái hóa, lẫn tạp nên năng suất không cao. Nhận
biết được hạn chế này, ông Nông Tấn Dí ở xã Tân Thạnh đã chuyển 0,5ha sang sản
xuất lúa giống để tự cung cấp cho các diện tích sản xuất còn lại của mình. Từ những
kết quả ban đầu, ông đã mạnh dạn đầu tư 04ha để trồng lúa giống cấp xác nhận –
giải quyết nhu cầu về giống cho trên 100 hộ nông dân tại địa phương, sau khi trừ chi
phí ông còn lợi nhuận trên 130 triệu đồng/năm. Hiện ông cùng với 13 hộ liền canh
5
thực hiện dự án “Trồng lúa giống nông hộ” do quỹ HTND tỉnh đầu tư với số vốn
600 triệu đồng, dự án đang thực hiện có hiệu quả.
+ Ông Ngô Khuê ở xã Tân Bình đạt lợi nhuận bình quân mỗi năm trên 500
triệu đồng từ mô hình trồng và cung ứng lúa giống chất lượng cao. Với 4ha canh tác
lúa giống và 02 cơ sở cung ứng giống lúa cho các địa phương trong và ngoài huyện,
ông đã cùng với nhiều nông dân khác nâng cao giá trị thương phẩm cho hạt gạo của
huyện nhà.
- Thủy sản: ngày nay, việc nuôi nhốt khép kín các loài thủy sản bản địa trở
nên phổ biến, nhiều giống thủy sản khó tính trong môi trường nuôi nhốt dần được
“thuần hóa” và mang lại lợi nhuận cho nhiều nông dân. Ưu thế của loại hình này là
dễ quản lý và chủ động trong việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi. Trong số
những đối tượng đó nổi lên nhất là con cá Thác lác cườm và con Lươn.
+ Anh Trần Phú Quý ở xã Bình Thành thu về lợi nhuận mỗi năm 180 triệu
đồng với mô hình ương cá giống và nuôi kết hợp cá sặc rằn- cá thác lác cườm trên
diện tích 2.500m2. Đây là 02 giống cá có chất lượng thịt được thị trường ưa chuộng.
Điểm mới nổi bật của mô hình này là: đối tượng nuôi khó tính và đáp ứng được yêu
cầu về nguồn con giống tại chỗ. Riêng lợi nhuận thu về từ cung ứng cá giống mỗi
năm anh Quý thu về trên 20 triệu đồng.
+ Mô hình “Nuôi lươn trong bể bạt” của anh Trần Văn Tài ở xã Tân Huề tiếp
tục được nhiều nông dân ham học hỏi đề cập đến. Với diện tích 200m 2 quanh nhà,
anh đã đầu tư 02 bể bạt, tận dụng các sản phẩm hiện có như cây bắp, bùn đáy với chi
phí chưa đến 2.000.000đ. Lươn giống được thả là loại lươn giống cấp 01, đạt theo
chuẩn của ngành khuyến nông, nên tỷ lệ lươn chết rất thấp, nguồn thức ăn cho lươn
được anh tận dụng từ xác cá chết và các phụ phẩm khác. Sau 6 tháng nuôi, trừ các
chi phí anh còn lãi trên 90 triệu đồng.
- Chăn nuôi gia súc: do biết tận dụng nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên
ông Lê Văn Cát ở xã Tân Hòa nuôi 54 con bò thịt nhốt chuồng, mỗi năm xuất
chuồng 01 đợt, sau khi trừ chi phí ông thu lợi trên 610 triệu đồng. Đặc biệt, ông Lê
Văn Ẩn ở xã Tân Bình với mô hình nuôi bò thịt, bò đẻ- nuôi trùng quế mang về lợi
nhuận mỗi năm gần 500 triệu đồng, hiện tổng đàn bò của ông Ẩn là 45 con bò thịt,
bò đẻ và bò giống chất lượng tốt.
- Kinh tế vườn: với lợi thế về thổ nhưỡng nhiều hộ dân vùng Cù Lao đã gầy
nên những mảnh vườn cây ăn trái trĩu quả, nhiều giống cây tưởng chừng như đặc thù
của một số địa phương khác giờ đã bám trụ vững vàng trên vùng đất của huyện.
Điển hình trong mô hình kinh tế vườn có ông Nguyễn Văn Đi ở xã Tân Hòa đã
chuyển 2ha đất trồng lúa sang trồng xoài cát Hòa Lộc. Do có kinh nghiệm trong việc
xử lý ra hoa và chăm sóc trái nên xoài của ông luôn đảm bảo chất lượng và liên tục,
giá cả ổn định và sinh lợi. Bình quân ông thu lãi gần 635,7 triệu đồng mỗi năm từ
loại cây trồng khó tính này.
II. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
1. Những mặt làm được.
6
Những kết quả trên đây đã khẳng định Phong trào nông dân thi đua sản xuất,
kinh doanh giỏi tiếp tục phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, có sức lan tỏa ở khắp
các địa phương, trong tất cả các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ, trở thành một tâm điểm trong đời sống kinh tế - xã hội nông
thôn; lôi cuốn, khích lệ hàng ngàn hộ nông dân phát huy tinh thần lao động cần cù,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Mặc dù trong những năm qua huyện bị ảnh hưởng không nhỏ bở
điều kiện khí hậu khắc nghiệt, dịch bệnh, nhưng phong trào đã động viên nông dân
phát huy truyền thống cần cù, chịu khó, sáng tạo góp phần quan trọng vào thành tựu
chung của huyện: thúc đẩy phát triển nông sản hàng hoá; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong nông thôn; đẩy mạnh xoá
đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị nông thôn, góp phần quan trọng vào
công cuộc xây dựng nông thôn mới...
Đạt được những kết quả trên là nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời
của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt của Chính phủ đối với nền kinh
tế của đất nước, trong đó, đã coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông
nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống
nông dân, tiếp tục tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; bên
cạnh đó, các cấp, các ngành, các địa phương tích cực phối hợp với Hội Nông dân
Việt Nam triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn cùng với sự tích cực đổi mới phương thức hoạt động của các cấp Hội
nông dân trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào từ hoạt động tuyên truyền, vận động
thuần túy, sang đẩy mạnh hoạt động dịch vụ, tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ nông dân
của Ban Chấp hành Hội Nông dân các cấp và sự nỗ lực, cố gắng của toàn thể cán bộ,
hội viên, nông dân cả nước, đã góp phần đưa phong trào tiếp tục phát triển sâu rộng,
hiệu quả cao.
Có thể nói 5 năm qua, Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi
đã có sự tiến bộ vượt bậc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội đất nước, nhất là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Qua phong trào đã xuất
hiện nhiều điển hình, tiên tiến - họ là những tấm gương sáng của tinh thần bền bỉ
vượt khó, không cam chịu đói nghèo, quyết chí làm giàu chính đáng cho chính mình
và giúp đỡ người khác cùng vươn lên làm giàu.
2. Thuận lợi.
Đạt được những kết quả trên là nhờ sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp ủy, hỗ
trợ của chính quyền và sự phối hợp của các ngành liên quan trong quá trình thực
hiện. Do có sự chủ động tham gia của Hội Nông dân từ huyện đến cơ sở nên phong
trào có nhiều kết quả tích cực. Cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư trong nhiều năm
và đã phát huy hiệu quả. Lực lượng lao động trẻ dồi dào, đầy nhiệt huyết, trình độ
nhận thức về mọi mặt của hội viên nông dân không ngừng nâng cao và đã tham gia
ngày càng tốt hơn các hoạt động, các phong trào ở địa phương. Việc chuyển dịch cơ
cấu cây trồng được quan tâm thực hiện; phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh
7
giỏi thường xuyên được phát động và nhận được sự ủng hộ tích cực của hội viên,
nông dân 5.
3. Khó khăn.
Tuy nhiên, kết quả Phong trào phát triển chưa đồng đều giữa các địa phương;
công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho nông dân nhìn chung chưa đi vào
chiều sâu, chưa làm chuyển biến nhận thức của một bộ phận nông dân trong việc
khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên, vẫn còn một bộ phận nông dân trông chờ, ỷ
lại, chưa tích cực thi đua sản xuất, khai thác tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp của
địa phương mình để phát triển sản xuất, xóa bỏ đói nghèo, vươn lên làm giàu.
Một số cấp Hội chưa thật sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt, chưa
có nhiều giải pháp, cách làm cụ thể nên kết quả chung của phong trào có mặt còn
hạn chế, số hộ giàu, hộ khá chưa nhiều.
Nhiều hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi quy mô còn nhỏ, phương thức
sản xuất cá thể, tự phát; trình độ khoa học - kỹ thuật và quản lý còn yếu; chưa coi
trọng các yếu tố liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường trong sản xuất,
kinh doanh dẫn đến hậu quả chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu, thiếu sức cạnh
tranh trên thị trường; chưa thể hiện rõ nét vai trò đoàn kết giúp nhau trong sản xuất
và đời sống.
4. Bài học kinh nghiệm.
- Nâng cao nhận thức về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước trong phát triển kinh tế- xã hội; về ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ giúp
nhau xóa đói, giảm nghèo, sản xuất, kinh doanh giỏi; phát huy truyền thống đoàn
kết, giúp nhau trong sản xuất và cuộc sống với sự hỗ trợ của Nhà nước, địa phương
và của tổ chức Hội.
- Tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động, khích lệ, động viên tinh thần
hăng hái, nhiệt tình hưởng ứng, dám nghĩ, dám làm cùng tham gia phong trào của
đông đảo cán bộ, hội viên, nông dân.
- Trong tổ chức, chỉ đạo phong trào của Ban Chấp hành Hội Nông dân các
cấp phải tập trung, kiên quyết, cụ thể; định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh
nghiệm, tổ chức nhân rộng những điển hình tiên tiến; kịp thời biểu dương, khen
thưởng các hộ nông dân đạt thành tích xuất sắc.
- Tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng; sự giúp đỡ, tạo điều kiện của
chính quyền; các bộ, ngành; các doanh nghiệp; tổ chức, cá nhân, các nhà khoa học
trong quá trình tổ chức và thực hiện chỉ đạo phong trào.
- Xây dựng cơ sở Hội vững mạnh là tiền đề tổ chức phong trào có hiệu quả.
Chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật
cho cán bộ Hội các cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
5
vùng Chuyên canh màu 500ha ở Cù Lao và đang tiếp tục nâng cấp hệ thống – công trình thiết yếu phục vụ sản xuất,
bước đầu hình thành một số sản phẩm chủ lực như: ớt hiểm, bắp lai…; huyện có cụm công nghiệp Bình Thành đã tham
gia giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động
8
1. Phương hướng.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng và hiệu quả phong trào thi đua sản
xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính
đáng, phấn đấu để phong trào có bước phát triển mới về chất, chuyển dịch mạnh cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị và khả năng cạnh
tranh cao hơn; góp phần hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn, tập trung,
gắn với thương hiệu sản phẩm và phát triển mạnh theo hướng kinh tế tập thể, đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình đổi mới.
Phong trào đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng nông thôn mới của
Đảng, Nhà nước; góp phần quan trọng củng cố, xây dựng tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam; đóng góp tích cực vào xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh.
2. Mục tiêu.
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, nông dân về các chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và những cơ hội, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Xây dựng ý chí,
lòng quyết tâm vượt qua đói nghèo vươn lên làm giàu, phấn đấu giảm nghèo nhanh
và bền vững, hạn chế tái nghèo.
- Đưa Phong trào phát triển theo chiều sâu, làm cơ sở cho việc đưa nhanh tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và kêu gọi đầu tư, chuyển đổi nền nông nghiệp
truyền thống, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn hướng nhanh tới hiện đại
hoá và liên kết sản xuất, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa mạnh,
có sức cạnh tranh cao trên thị trường nội địa và xuất khẩu, dựa trên cơ sở phát huy
các lợi thế về nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên kết hợp với ứng dụng khoa
học và công nghệ nông nghiệp tiên tiến.
- Hàng năm có trên 60% số hộ nông dân đăng ký phấn đấu và có trên 50% số
hộ đăng ký đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp.
3. Nhiệm vụ, giải pháp.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các mô
hình sản xuất, kinh doanh giỏi điển hình, làm chuyển biến nhận thức của đông đảo
cán bộ, hội viên, nông dân về phát triển kinh tế; khích lệ, động viên nông dân thay
đổi nếp nghĩ, quyết tâm vượt khó, tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh về vốn,
lao động, đất đai để đầu tư cho phát triển sản xuất.
- Đẩy mạnh và đổi mới công tác hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế nhằm thúc
đẩy phong trào phát triển; hướng dẫn nông dân phát triển các loại hình và đối tượng
sản xuất, kinh doanh phù hợp gắn với hỗ trợ về vốn, vật tư, chuyển giao khoa học kỹ
thuật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; có kế hoạch đào tạo
nghề cho nông dân để không ngừng nâng cao trình độ sản xuất thâm canh, kiến thức
9
quản lý kinh tế và thị trường, giúp nông dân tiếp cận và khai thác có hiệu quả các
chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn và huy động tối đa các
nguồn vốn, khoa học công nghệ mới, góp phần gia tăng giá trị sản phẩm và khả
năng cạnh tranh, phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
- Tập trung hướng dẫn phong trào phát triển mạnh theo hướng liên kết, hợp
tác, đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh. Thúc đẩy liên kết giữa các
mô hình sản xuất, kinh doanh, giữa các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi với
nhau để đoàn kết, giúp đỡ và chia sẻ kinh nghiệm, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng
hoá lớn… Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thông tin sản xuất và tìm kiếm thị
trường. Tăng cường phối hợp và làm cầu nối để các thành phần kinh tế ký hợp đồng
sản xuất, tiêu thụ nông sản cho các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi.
- Tập trung xây dựng, nhân rộng những mô hình điển hình tiên tiến, xuất sắc
phù hợp với mỗi vùng, miền. Nêu gương và tổ chức học tập, nhân rộng các điển
hình sản xuất, kinh doanh giỏi và giúp đỡ có hiệu quả đối với các hộ nghèo. Hằng
năm, tổ chức phân loại, làm rõ nguyên nhân các hộ nghèo, cận nghèo để có biện
pháp cụ thể giúp hội viên, nông dân nghèo có điều kiện tự vươn lên thoát nghèo
phấn đấu trở thành hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi.
- Phong trào phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, kinh tế gia trại, trang
trại, kinh tế hợp tác, phát triển ngành nghề gắn với ứng dụng khoa học công nghệ,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm và tăng tỷ lệ hộ khá, hộ giàu, giảm hộ
nghèo.
- Gắn phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi với việc đẩy mạnh công
tác củng cố, xây dựng tổ chức Hội Nông dân Việt Nam ngày càng vững mạnh; tiếp
tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội, tăng cường tư vấn, dịch vụ,
hỗ trợ và dạy nghề cho nông dân, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của hội viên, nông dân.
- Tăng cường các hoạt động hữu nghị hợp tác với các tổ chức nông dân quốc
tế để tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa học, công nghệ tiên tiến, công tác dạy
nghề, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ Hội chỉ đạo phong trào và nâng cao trình độ
sản xuất, kinh doanh, trình độ quản lý, điều hành các trang trại, gia trại của các hộ
nông dân có quy mô sản xuất lớn.
- Tiếp tục nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn làm cơ sở chỉ đạo phong
trào và kiến nghị với Đảng, Nhà nước có chính sách phù hợp, ổn định để nông dân
yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, nhất là về chính sách đất đai, chính sách hỗ trợ
vốn sản xuất, chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm… tạo điều kiện cho phong trào
phát triển.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Cấp ủy, chính quyền quan tâm, lãnh – chỉ đạo Hội Nông dân các cấp thực
hiện Đề án 61 (Kết luận số 61-KL/TW về “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội
Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây
dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”, Quyết định số 673/QĐ-
10
TTg về việc “Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một
số chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn giai đoạn 2011 –
2020”), tạo điều kiện cho hội viên nông dân tiếp cận nguồn vốn đầu tư phát triển sản
xuất; có kế hoạch, hướng dẫn thực hiện chủ trương tái cơ cấu nền nông nghiệp tại
địa phương…
Trên đây là báo cáo tổng kết phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi
Huyện Thanh Bình lần thứ 13, giai đoạn 2012 – 2016./.
Nơi nhận:
- HND tỉnh (Ban KT-XH);
- TT Huyện ủy;
- UBND Huyện;
- Ban Dân vận HU;
- Phòng NN&PTNT huyện;
- Hội CCB Huyện;
- Hội LHPN Huyện;
- Đoàn TN Huyện;
- HND các xã, tt;
- Lưu: VP.
T/M BAN THƯỜNG VỤ
P. CHỦ TỊCH
Châu Văn Nằm
11
PHỤ LỤC
SỐ LIỆU THỰC HIỆN PHONG TRÀO NÔNG DÂN
SẢN XUẤT, KINH DOANH GIỎI GIAI ĐOẠN 2012 – 2016
----TT
Nội dung
1
2
I KẾT QUẢ PHONG TRÀO
1 Tổng số Hộ Nông dân
Số hộ nông dân đăng ký danh
2 hiệu Hộ nông dân sản xuất,
kinh doanh (SXKD) giỏi
Số hộ nông dân đạt danh hiệu
nông dân SXKD giỏi các cấp
+ Số lượng
- Cấp Cơ sở
(xã, phường, thị + Bình quân
3
trấn)
thu nhập/ hộ
+ Số lượng
Cấp Huyện
(huyện, thị xã, + Bình quân
thành phố)
thu nhập/ hộ
Số hộ nông dân SXKD giỏi
4
được phân theo ngành nghề
+ Trồng trọt (lúa, màu, làm
vườn)
+ Chăn nuôi (gia súc, gia cầm)
+ Nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản
+ Tiểu thủ Công nghiệp
+Thương mại - dịch vụ (Dịch
vụ nông nghiệp, kinh doanh vật
tư nông nghiệp, tiêu thụ nông
sản,...)
+ Sản xuất, kinh doanh tổng
hợp (Trồng trọt + chăn nuôi +
nuôi trồng thuỷ sản + tiểu thủ
công nghiệp + thương mại dịch vụ)
1 2
Phân loại hộ SXKD theo thu
nhập (thu nhập là phần lợi
5
nhuận sau khi đã trừ đi chi phí
sản xuất)
- Hộ từ 100 đến dưới 200 triệu
đồng/ năm
- Hộ từ 200 đến dưới 500 triệu
Đơn vị
tính
3
Năm
2012
4
Năm
2013
5
Năm
2014
6
Năm
2015
7
Năm
2016
8
hộ
30.120 30.120 32.962 32.964 33.383
hộ
15.287 16.487 20.574 20.102 19.928
10.218 12.684 10.973 11.999 11.676
hộ
Triệu
đồng
hộ
Triệu
đồng
10.218 12.684 10.973 11.999 11.676
41,2
54
66,1
66,1
73,9
554
508
487
487
191
95,4
110,5
120
120
132,6
hộ
5.042
7.300
4.622
4.439
1.430
hộ
hộ
hộ
137
115
11
137
115
11
148
123
22
148
141
22
1.127
145
22
hộ
113
113
113
137
137
hộ
4.800
5.008
5.945
7.112
8.815
3
4
5
6
7
8
hộ
158
158
196
196
324
hộ
09
10
16
27
27
12
II
III
1
2
đồng/ năm
- Hộ từ 500 triệu đến dưới 1tỷ
đồng/ năm
- Hộ từ 1tỷ đồng/ năm trở lên
CÁC LOẠI HÌNH THỨC TỔ
CHỨC SẢN XUẤT
Số trang trại
Số doanh nghiệp nông nghiệp
Số HTX nông nghiệp
Số THT
HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ CỦA
PHONG TRÀO
Số lao động được giải quyết
việc làm
Bình quân thu nhập của lao
động
Lao động có thu nhập cao nhất
Lao động có thu nhập thấp nhất
Số hộ nghèo được hộ nông
dân sản xuất, kinh doanh giỏi
giúp đỡ
Số vốn giúp đỡ
Ngày công lao động
hộ
09
09
12
12
15
hộ
03
03
03
04
04
Trang trại
DN
HTX
THT
Lao động
1
122.61 164.89 142.64 179.98
175.640
6
2
9
5
triệu đồng
3
3,1
3,1
3,5
3,5
triệu đồng
triệu đồng
3,2
3,5
4
4,3
6
hộ
226
270
203
165
74
triệu đồng
công
565
2.430 1.827 1.980 1.120
102.66 150.76 123.45 173.02
168.987
6
3
0
0
Cây, con giống
triệu đồng
Tiêu thụ sản phẩm
triệu đồng
Số hộ ND SXKD đã thành lập
3
hộ
14
14
14
14
14
HTX, THT, Doanh nghiệp
Số hộ nông dân SXKD giỏi
4 tham gia liên doanh, liên kết
hộ
với các doanh nghiệp
Đóng góp xây dựng nông thôn
mới
110.00 111.00
5
triệu đồng 10.332 52.600
21.989
2
9
1 2
3
Số hộ nông dân sản xuất, kinh
6 doanh giỏi đạt danh hiệu gia
hộ
đình văn hoá
Kết quả xây dựng, củng cố tổ
7 chức Hội thông qua phong
trào ND SXKD giỏi
Số hội viên mới kết nạp
hội viên
Số chi Hội mới được hình thành chi Hội
Số tổ Hội mới được hình thành
tổ Hội
IV ĐÁNH GIÁ PHONG TRÀO
4
5
6
7
8
10.218 12.684 10.973 11.999 11.676
893
0
0
1.150
0
18
1.021
0
21
998
0
2
1.109
0
0
13
Tổng số Cơ sở (xã, phường,
thị trấn)
- Số Cơ sở có phong trào Khá,
Cơ sở
13
13
13
13
13
mạnh
- Số Cơ sở có phong trào trung
Cơ sở
bình
- Số Cơ sở có phong trào yếu,
Cơ sở
kém
Tự đánh giá của cấp huyện
Ví dụ: nếu năm 2012 đạt khá, mạnh thì đánh chữ
2
theo từng năm
Khá, mạnh vào ô năm 2012
Khá,
Khá,
Khá,
Khá,
Khá,
- Khá, mạnh
mạnh mạnh mạnh mạnh mạnh
- Trung Bình
- Kém
Tổng số xã, phường đạt
3
1
2
2
chuẩn nông thôn mới
- Số xã có phong trào Khá,
8
8
12
12
12
mạnh
- Số xã có phong trào trung
bình
- Số xã có phong trào yếu, kém
1
LẬP BIỂU
T/M BAN THƯỜNG VỤ
P. CHỦ TỊCH
Trần Tấn Lập
Châu Văn Nằm