Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.85 KB, 81 trang )

ĐỀ CƯƠNG
MÔN KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
Trang
CHƯƠNG

I

(8

câu)

.....................................................................................................................................
3
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Câu 1. Phân biệt khái niệm lãnh đạo và hoạt động lãnh đạo, từ đó chỉ ra các yếu
tố



bản

của

hoạt

động

lãnh

đạo?



.....................................................................................................................................
3
Câu 2. Phân tích đối tượng nghiên cứu và tính chất của khoa học lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
6
Câu 3. Phân tích sơ lược lịch sử phát triển của khoa học lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
16
Câu 4. Có người cho rằng: “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mỡ, thì trên
người giám đốc cũng phải có bấy nhiêu dầu mỡ”? Anh/ Chị hãy phân tích luận điểm
trên và chỉ ra sự khác nhau giữa người lãnh đạo và người quản lý?
.....................................................................................................................................
20
Câu 5. Có người cho rằng: “Người lãnh đạo là người biết con đường, đi trên con
đường và chỉ cho con người”. Anh/ Chị hãy phân tích luận điểm trên và chỉ ra sự
khác

nhau

giữa

người

lãnh

đạo




người

quản

lý?

.....................................................................................................................................
24

1


Câu 6. Có người cho rằng: “Khoa học lãnh đạo là một bộ phận cấu thành của
khoa học quản lý”? Bằng sự hiểu biết của mình Anh/chị hãy phân biệt sự khác
nhau

giữa

khoa

học

lãnh

đạo



khoa


học

quản

lý?

.....................................................................................................................................
28
Câu 7. Ý nghĩa và phương pháp học tập môn Khoa học và nghệ thuật lãnh đạo?
CHƯƠNG

2

(7

câu)

.....................................................................................................................................
31
Câu 1. Phân tích khái niệm thể chế lãnh đạo và bản chất của thể chế lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
31
Câu 2. Phân tích quá trình phát triển của các loại thể chế lãnh đạo trong lịch sử?
.....................................................................................................................................
34
Câu 3. Phân tích các đặt trưng cơ bản của thể chế lãnh đạo khoa học?
.....................................................................................................................................
41
Câu 4. Phân tích các nguyên tắc cơ bản về dân chủ hóa hoạt động lãnh đạo?
.....................................................................................................................................

46
Câu 5. Phân tích vai trò của thể chế lãnh đạo khoa học đối với xã hội hiện đại?
.....................................................................................................................................
48
Câu 6. Phân tích các tiêu chuẩn đánh giá tính khoa học của thể chế lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
51
Câu 7. Phân tích các yêu cầu của việc xây dựng thể chế lãnh đạo khoa học trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện

nay?
2


.....................................................................................................................................
53
CHƯƠNG 7 (7 Câu)
.....................................................................................................................................
56
Câu 1. Phân tích bản chất và vai trò của nghệ thuật lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
56
Câu

2.

Phân

tích


các

đặc

trưng

của

nghệ

thuật

lãnh

đạo?

.....................................................................................................................................
60
Câu 3. Phân tích sự khác nhau giữa thủ đoạn và nghệ thuật lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
62
Câu 4. Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về nghệ thuật lãnh đạo?
.....................................................................................................................................
65
Câu

5.

Phân


tích

con

đường

nâng

cao

nghệ

thuật

lãnh

đạo?

.....................................................................................................................................
70
Câu 6. Phân tích vai trò của thương thuyết trong đời sống và trong hoạt động
lãnh

đạo?

.....................................................................................................................................
72
Câu 7. Phân tích một số quan điểm cơ bản và biện pháp chính trong thương thuyết?
.....................................................................................................................................

75

3


BÀI LÀM
CHƯƠNG I (8 câu)
Câu 1. Phân biệt khái niệm lãnh đạo và hoạt động lãnh đạo, từ đó chỉ ra các
yếu tố cơ bản của hoạt động lãnh đạo?
Hoạt động lãnh đạo là một khoa học nghệ thuật, đó là một nghề, một lĩnh vực đòi
hỏi học vấn và kỹ năng chuyên môn thành thạo, sâu rộng. Học tập, nghiên cứu, vận dụng ý
thuyết về khoa học lãnh đạo là một nhu cầu của thời đại, là yêu cầu cấp thiết trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển đất
nước bền vững, đúng quy luật khách quan.
Tuy nhiên, trong thực tế nhiều người thường hiểu giống nhau giữa khái niệm lãnh
đạo và hoạt động lãnh đạo. Trước tiên cần hiểu, khái niệm “lãnh đạo”, từ xa xưa, ông cha
ta đã dung các khái niệm khác đồng nghĩa với “lãnh đạo” như: chỉ huy, soái lĩnh, trị nước,
cầm quân, cai quản, thống trị,… Và trong đời sống hàng ngày, để dễ hiểu, người ta còn
dùng những từ ngữ dễ hiểu như hướng dẫn, dẫn dắt, điều khiển. Sau này “lãnh đạo” có lúc
chỉ người lãnh đạo, có lúc chỉ hoạt động lãnh đạo hoặc hành vi lãnh đạo.
Như vậy, khái niệm “lãnh đạo” là phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu về lãnh
đạo. Lãnh đạo cũng là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong khoa học về tổ
chức - nhân sự. Đó là một quá trình ảnh hưởng mang tính xã hội trong đó lãnh đạo tìm
kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
Còn nhắc tới khái niệm “hoạt động lãnh đạo” là nhắc tới một quá trình hành vi giữa
người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thông qua một phương thức nhất định, kết hợp lại
cùng thực hiện một mục tiêu của tổ chức, cũng chính là quá trình vận động làm cho các
yếu tố của hoạt động lãnh đạo liên hệ với nhau và tác động lẫn nhau.
Khi nghiên cứu khoa học lãnh đạo, trước hết cần phải tìm hiểu đặc trưng bản chất
của lãnh đạo, những yếu tố cấu thành và quan hệ cơ bản nội tại của nó.

Hoạt động lãnh đạo có bốn yếu tố cơ bản cấu thành như sau:
Một là, chủ thể lãnh đạo: là người lãnh đạo, đó là người tổ chức, người chỉ huy trong
hoạt động lãnh đạo, có tác dụng và chiếm vị trí chi phối chủ đạo trong hoạt động lãnh đạo.
Hai là, khách thể lãnh đạo: là người bị lãnh đạo, là đối tượng lãnh đạo của chủ thể
lãnh đạo, trong một số điều kiện nhất định nó lại có vị trí chủ thể hoặc vừa là khách thể
vừa là chủ thể.
4


Ba là, đối tượng khách quan: Mục tiêu tổ chức chỉ là nhận thức, cải tạo thế giới, cái
gọi là đối tượng khác quan chính là đối tượng chủ thể và khách thể lãnh đạo cùng tác
dụng. Đối tượng với nghĩa rộng chính là hoàn cảnh khách quan.
Bốn là, công cụ hoặc thủ pháp: Là khâu trung gian lien kết giữa chủ thể, khách thể
của lãnh đạo như cơ cấu tổ chức, quy định, điều lệ, phương pháp, phương thức lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo do nhiều yếu tố tạo thành, chính vì vậy nó hình thành rất nhiều
mâu thuẫn và mối quan hệ phức tạp, có thể coi hoạt động lãnh đạo là sự vận động các mâu
thuẫn phức tạp.
Hoạt động lãnh đạo chính là sự vận động từ những mâu thuẫn của bốn yếu tố cơ bản trên
đây cấu thành quy luật vận động của nó chính là đối tượng nghiên cứu của khoa học lãnh đạo.
Chủ thể lãnh đạo và khách thể lãnh đạo tức là người lãnh đạo và người bị lãnh đạo là
yếu tố cơ bản của hoạt động lãnh đạo, và chính mâu thuẫn của hai đối tượng này cũng chính
là mâu thuẫn cơ bản trong tất cả các mâu thuẫn của hoạt động lãnh đạo. Do người bị lãnh đạo,
tức là khách thể lãnh đạo trong những điều kiện nhất định lại có vị trí chủ thể, làm cho mâu
thuẫn này càng quan trọng và càng phức tạp hơn nhiều so với các mâu thuẫn khác.
Mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể của lãnh đạo là mâu thuẫn cơ bản của hoạt
động lãnh đạo, chủ yếu là do nó xuyên suốt quá trình lãnh đạo, nó quyết định diện mạo cơ
bản của hoạt động lãnh đạo như loại hình, tính chất và phương thức hành vi; nó quyết định
mục tiêu của hoạt động lãnh đạo có đạt được hay không, thực hiện như thế nào và khả
năng mức độ thực hiện.
Hoạt động lãnh đạo là một thực tiễn xã hội, là hình thức đặc thù quan trọng của thực

tiễn xã hội. Nó là quan trọng vì các thực tiễn của xã hội của loài người, đấu tranh sản xuất,
đấu tranh xã hội, thực nghiệm khoa học đều không tách rời hoạt động lãnh đạo, tính chất tác
dụng, trình độ của chúng cũng quyết định hoạt động lãnh đạo. Nó đặc thù vì hoạt động lãnh
đạo có hai đặc trưng lớn khác với các hình thức thực tiễn xã hội khác.
Đối tương lãnh đạo của chủ thể lãnh đạo, tức là khách thể lãnh đạo chỉ có thể là người
mà không thể là vật. Đó là một đặc trưng mà mọi hiện tượng trong xã hội khác đều không có.
Nó quyết định quan hệ cơ bản trong hoạt động lãnh đạo chỉ có thể là quan hệ giữa người với
người, mâu thuẫn có bản cũng chỉ là mâu thuẫn giữa người với người.
Tính gián tiếp trong mối quan hệ giữa hành vi của chủ thể lãnh đạo với mục tiêu lãnh
đạo. Trước hết, chỉ xem xét trong thực tiễn lao động sản xuất, mục đích, mục tiêu của người
5


lao động, thông qua hoạt động tự nhiên của người lao động để trực tiếp đạt được. Công nhân
làm việc, nông dân cày cấy, giáo viên lên lớp, nhà khoa học nghiên cứu thông qua hoạt động
thực tiễn của chủ thể để trực tiếp thực hiện mục tiêu của mình và đạt được mục đích của
mình. Mối quan hệ giữa mục tiêu và hoạt động thực tiễn của chủ thể là mối quan hệ trực tiếp.
Còn hoạt động thì hoàn toàn khác, chủ thể lãnh đạo muốn thực hiện mục tiêu của mình,
bắt buộc phải thông qua lao động của người khác, ít thì mấy người, nhiều thì hang ngàn, hàng
vạn người… Hoặc có thể nói, bắt buột phải thông qua khâu trung gian là hoạt động của người
bị lãnh đạo thì mới có thể thực hiện được mục tiêu của mình. Đây chính là tính gián tiếp trong
mối liên hệ giữa hành vi chủ thể và mục tiêu của hoạt động lãnh đạo.
Hai đặc trưng lớn nêu trên thực chất là mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể của lãnh
đạo – đặc trưng mâu thuẫn cơ bản của hoạt động lãnh đạo. Nhận thức rõ hai đặc trưng lớn này
có ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn bản chất của hoạt động lãnh đạo,
nghiên cứu những quy luật của hoạt động lãnh đạo và tính đặc thù của nó.

6



Câu 2. Phân tích đối tượng nghiên cứu và tính chất của khoa học lãnh đạo?
Lãnh đạo là hoạt động theo suốt chiều dài lịch sử xã hội loài người. Các triết gia
thời Hy Lạp, La Mã, Trung Hoa cổ đại đồng nhất nhà lãnh đạo với các bậc đế vương, với
việc trị nước, quản dân. Trong thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XVI), hoạt động lãnh đạo luôn
gắn với vị thế cá nhân của người đứng đầu thành bang, quốc gia hay dân tộc. Lãnh đạo
cũng đồng nhất với hoạt động chính trị với trọng tâm là giành quyền lực, giữ quyền lực và
sử dụng quyền lực trong quan hệ với thần dân. Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp và
cách mạng tư sản, lãnh đạo mới dần tách khỏi hoạt động chính trị, nó trở thành một ngành
khoa học, từ đó mở rộng phạm vi hoạt động và gắn liền với tiến trình phân công và chuyên
môn hóa lao động xã hội của loài người.
Cũng như các ngành khoa học khác, khoa học lãnh đạo cũng cần có đối tượng nghiên
cứu và tính chất riêng của mình. Để khoa học lãnh đạo là nó chứ không pha lẫn với một
ngành khoa học nào khác.
Về đối tượng của khoa học lãnh đạo:
Khoa học lãnh đạo là một ngành khoa học nghiên cứu những vận động của mâu thuẫn
nội tại trong hoạt động lãnh đạo và quy luật của nó. Đây là một môn khoa học độc lập, có đối
tượng nghiên cứu củaa mình, bởi vì khi nghiên cứu một mâu thuẫn đặc trưng trong lĩnh vực
của một hiện lượng nào dó, thì mâu thuẫn trở thành đối tượng của một ngành khoa học. Mâu
thuẫn đặc trưng trong lĩnh vực của hiện tượng hoạt động lãnh đạo chính là đối tượng nghiên
cứu của hoạt động lãnh đạo. Mâu thuẫn này chính là rất nhiều mâu thuẫn do bốn yếu tố lãnh
đạo cấu thành, đặc biệt là mâu thuẫn đặc trưng giữa chủ thể và khách thể lãnh đạo.
Mâu thuẫn nội tại của hoạt động lãnh đạo là những mâu thuẫn được tạo thành do các
yếu tố hoạt động lãnh đạo, trong đó mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa chủ thể và khách
thể lãnh đạo. Nhiệm vụ của khoa học lãnh đạo là phải làm rõ tính quy luật nội tại của nó,
để dáp ứng cho nhu cầu của thực tiễn công tác lãnh đạo. Nhiệm vụ này chủ yếu là thông
qua các tri thức về quy luật của hoạt dộng lãnh đạo, đóng góp những ý kiến, những chỉ dẫn
khách quan cho các cấp lãnh đạo và làm một người tham mưu quan trọng. Từ đó hình
thành hệ thống cơ cấu và các phạm trù khái niệm đặc trưng của mình. Đó cũng là nội dung
cần nghiên cứu của khoa học lãnh đạo.
Vấn đề mà khoa học lãnh đạo nghiên cứu là mâu thuẫn bên trong của hoạt động lãnh

đạo, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể lãnh đạo.
7


Chủ thể lãnh đạo có thể là cá thể, cũng có thể là một nhóm, tập đoàn, điều này giống như
chủ thể quản lý. Khách thế lãnh đạo người bị lãnh đạo. Chúng ta có thể nói, người lãnh đạo
người mà không thể nói người lãnh đạo sự vật, chẳng hạn như tiền tệ, vật tư, giá thành, chất
lượng cho đến thông tin, thời gian có thể trở thành đối tượng của quản lý. Có thể nói, một
vật thuần túy có thể là khách thể của quản lý mà không là khách thể của lãnh đạo.
Vì vậy, mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể của lãnh đạo và mâu thuẫn giữa chủ thể
của quản lý là hai mâu thuẫn có tính chất khác nhau, không thể lẫn lộn. Quy luật vận động
của mâu thuẫn bên trong của hoạt động lãnh đạo là đối tượng nghiên cứu riêng, đặc thù
riêng của khoa học lãnh đạo, điều này nói lên rằng giữa hai ngành khoa học này cũng có
những điểm đan xen nhau. Nhưng không thể nói hai ngành khoa học này có đối tượng
nghiên cứu giống nhau.
Khoa học lãnh đạo mang tính lịch sử, kế thừa và biện chứng, ở mỗi thời đại khác
nhau, mỗi xã hội khác nhau, thậm chí ớ mỗi giai đoạn phát triển khác nhau đều tồn lại hoạt
động lãnh đạo với hình thức và tính chất khác nhau, cách xem xét, khảo sát, đánh giá về
nó cũng khác nhau. Nói cách khác, với xã hội loài người thì lãnh đạo là phổ biến, còn đối
với hình thái lịch sử cụ thể thì lãnh đạo là đặc thù.
Về tính chất đặc thù của khoa học lãnh đạo:
Nếu xét từ góc độ nghiên cứu của khoa học lãnh đạo, thì khoa học lãnh đạo chủ yếu
nghiên cứu mối quan hệ chủ thể và khách thể, quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ
sản xuất. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi nghiên cứu quan hệ sản xuất
không thể tách rời với sức lao động, tức là quan hệ giữa con người với tự nhiên. Điều đó
quyết định khoa học lãnh đạo có hai đặc trưng cơ bản: tính tổng hợp và tính ứng dụng.
Thứ nhất, tính tổng hợp, liên ngành khoa học lãnh đạo. Tính tổng hợp của khoa học
lãnh đạo chính là tính đan xen của nhiều khoa học, tức là liên quan đến khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội khoa học tư duy. Đặc biệt, với nhiều ngành khoa học mới hiện đại, cơ sở
của sự đan xen đó chính là khoa học về con người “với ý nghĩa là tổng hoà các mối quan

hệ xã hội. Đề cập đến nghiên cứu quy luật vận động của mâu thuẫn giữa chủ thể lãnh đạo
và khách thể lãnh đạo, tức là mâu thuẫn cơ bản của hoạt động lãnh đạo, chủ yếu là nghiên
cứu thuộc quan hệ xã hội, thượng tầng kiến trúc, đó là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học
xã hội. Hiển nhiên khoa học lãnh đạo không thể không liên quan đến một số nội dung của
chính trị học, kinh tế học, xã hội học, luật học, lý luận học... càng không thể tách rời lý
8


luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và kế thừa những tri thức của
tinh hoa nhân loại về lĩnh vực khoa học - công nghệ, trước hết là khoa học xã hội, khoa học
quản lý. Hoạt động lãnh đạo còn liên quan đến việc phân công, tổ chức, điều tiết, điều khiển
sức lao động, đó lại chính là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học tự nhiên. Khoa học lãnh đạo
còn đan xen, liên quan đến nhiều ngành khoa học mới ra đời như khoa học môi trường, vận
trù học, quản lý học, hệ thống học, thông tín học, điều khiển học... Đó là đặc trưng thứ nhất
của khoa học lãnh đạo - tính tổng hợp.
Thứ hai, tính ứng dụng thực tiễn của khoa học lãnh đạo, thể hiện trước hết, khoa học
lãnh đạo là khoa học có tính lý luận cao, nhưng lý luận khoa học của nó, những nguyên tắc,
nguyên lý cơ bản cua nó không phải là do chủ quan sinh ra mà là sự tổng kết, khái quát từ
kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động lãnh đạo của con người. Lý luận của khoa học lãnh đạo
được ra đời từ thực tiễn và nó trở lại chỉ đạo và phục vụ thực tiễn. Nói cách khác, phục vụ
cho thực tiễn chính là phục vụ cho việc khoa học hoá công tác lãnh đạo.
Tính ứng dụng của khoa học lãnh đạo được quyết dịnh bởi tính chất của khoa học
này, đồng thời nó cũng là nhu cầu của thời đại, là nhu cầu của công cuộc xây dựng đất
nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó chính là
đặc trưng thứ hai của khoa học lãnh đạo - tính ứng dụng.
Tính ứng dụng của khoa học lãnh đạo không loại trừ tính lý luận. Tính lý luận của
một môn khoa học là tiền đề của tính ứng dụng của nó. Không có tính lý luận thì không
thế nói đến tính ứng dụng. Lý luận của khoa học lãnh đạo tuy xuất phát từ kinh nghiệm,
nhưng so với kinh nghiệm thì nó khác nhau về bản chất, nó là kinh nghiệm đã được thăng
hoa chắt lọc, là kinh nghiệm đã được quy phạm hoá.

Tính tổng hợp và tính ứng dụng là hai đặc trưng lớn, cơ bản của khoa học lãnh đạo.
Ngoài ra, khoa học lãnh đạo còn có tính quốc tế và tính dân tộc.
Trong khoa học lãnh đạo, nói chung là những thành quả, những trí thức có liên quan đến
lực lượng sản xuất, mọi quốc gia đều có thể vận dụng phổ biến. Trước những thành quả liên
quan đến quan hệ sản xuất, các quốc gia trên thế giới cũng có thể học hỏi lẫn nhau. Bởi vì,
đơn giản là nhà khoa học có tổ quốc, còn chính khoa học thì không có biên giới.
Các nhà khoa học của bất kỳ quốc gia nào khi nghiên cứu khoa học lãnh đạo đều không
thể không tính đến đặc điểm của dân tộc mình và tình hình cụ thể của nước mình. Tính dân
tộc là đơn tính, tính quốc tế là cộng tính, không có tính dân tộc thì không có tính quốc tế.
9


Xây dựng khoa học lãnh đạo mang phong cách Việt Nam, cũng tức là vừa mang tính
tiên tiến, hiện đại, quốc tế lại vừa đậm đà bản sắc dân lộc. Thời phong kiến, việc tổng kết
kinh nghiệm về khoa học lãnh đạo của ông cha ta không nhiều, sách vở, tài liệu bị chiến
tranh, khí hậu, thời gian huỷ hoại, thế nhưng chỉ riêng các tư liệu về chiếu chỉ, biểu của
vua chúa các đời (kể cả Bộ Luật Hồng Đức đời Lê; Bộ luật Gia Long đời Nguyễn), các bộ
sử, cuốn Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, cuốn Hổ trướng khu cơ của Đào Duy
Từ...cũng để lại cả một kho tàng to lớn về kinh nghiệm lãnh đạo, dùng người, cai quản đất
nước của ông cha ta đến Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc ta, danh nhân văn hoá
thế giới xuất hiện thì những kinh nghiệm, truyền thống xưa được Người đúc kết, vận dụng
nhuần nhuyễn với khoa học lãnh đạo hiện đại, đóng góp vào kho tàng lý luận về lãnh đạo
trở nên sâu sắc, độc đáo, hoàn thiện về nhiều mặt.
Trong xã hội loài người, hiện tượng lãnh đạo là phổ biến, nhưng công tác lãnh đạo trở
thành chuyên nghiệp, nên nghiên cứu về công tác lãnh đạo cũng trở thành một ngành
chuyên môn. Mặc dù là một hiện tượng lịch sử, một sản phẩm của lịch sử, nó còn là sản
phẩm của xã hội ngày nay.
Sự ra đời của lý luận khoa học, trước hết là do nhu cầu của nhân loại. Lý luận mà con
người không cần thì không thể là khoa học. Nền sản xuất xã hội hiện đại ngày càng xã hội
hoá cao, khoa học càng hoàn thiện, sản xuất xã hội phát triển càng mạnh, khoa học kỹ

thuật ngày càng đổi mới, các nhà lãnh đạo đứng trước đối tượng khách quan có khối lượng
thông tin khổng lồ, luôn thay đổi, mối liên hệ rộng lớn, cơ cấu phức tạp và công năng đa
dạng. Đây là một thách thức của hiện thực, do đó không thể chỉ đơn thuần dựa vào kinh
nghiệm, trí tuệ của một cá nhân mà công tác lãnh đạo được hiệu quả tốt. Khoa học hóa
công tác lãnh đạo đã trở thành một chủ đề của xã hội ngày nay.
Tóm lại, xét về khía cạnh đầy đủ của môn học, một ngành nghề chuyên môn hóa thì
khoa học lãnh đạo là một môn khoa học mới xuất hiện trong xã hội hiện đại, và nó cũng là
ngành khoa học mới chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, tuy nhiên nó có cơ sở gốc rễ, gắn
kết với các lý thuyết, kinh nghiệm trong quá khứ lịch sử.

10


Câu 3. Phân tích sơ lược lịch sử phát triển của khoa học lãnh đạo?
Nếu xét về khía cạnh đầy đủ của môn học, một ngành nghề chuyên môn hóa thì khoa
học lãnh đạo là một môn khoa học mới xuất hiện trong xã hội hiện đại, và nó cũng là
ngành khoa học mới chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, tuy nhiên nó có cơ sở gốc rễ, gắn
kết với các lý thuyết, kinh nghiệm trong quá khứ lịch sử. Cũng như các ngành khoa học
khác, khoa học lãnh đạo cũng trải qua quá trình vận động, phát triển của mình.
Thứ nhất, hoạt động lãnh đạo trước khi có sự phân chia ngành nghề chuyên sâu.
Lãnh đạo và quản lý gắn với nhau thành một chỉnh thể. Trong lịch sử xã hội loài người,
phân công xã hội phát triển theo hai hướng: phân công ngang và phân công dọc. Phân
công theo các ngành nghề lao động và phân công xã hội theo chiều ngang, từ đó sinh ra
nghề nông, nghề chăn nuôi, công nghiệp, thương nghiệp và các khoa học tương ứng. Phân
công theo chức năng các giai tầng khác nhau của quá trình lao động là phân công xã hội
theo chiều dọc, như phân công theo quy trình sản xuất: cung ứng, sản xuất, tiêu thụ trong
một nhà máy chính là phân công dọc.
Hình thức thực tế của phân công xã hội trong đấu tranh xã hội và trong sản xuất của
xã hội loài người là sự phân công ngang. Nhưng thực tiễn mọi hình thức hoạt động trong
xã hội loài người đều có một quá trình. Trước hết, phải xác định làm gì, tiếp đó phải làm

như thế nào và cuối cùng là đánh giá, kiểm tra ra sao, phải tiến hành giám sát, điều chỉnh
thế nào. Đó chính là ba chức năng dọc của quá trình thực tiễn: quyết sách, chấp hành và
phản ánh. Tiến hành phân công theo chức năng vì theo quá trình thực tiễn là phân công
dọc. Ý nghía lịch sử của loại phân công xã hội theo chiều dọc không vì thế mà thua kém so
với phân công xã hội theo chiều ngang.
Lao động quần thể trong xã hội nguyên thuỷ chưa tồn tại loại phân công dọc, cho dù
lúc đó đã có quyết sách và chấp hành. Lao động cá thể càng không thể có loại phân công
dọc, họ tự hạ quyết sách, tự thực hiện và tự giám sát. Trong thời kỳ sản xuất nhỏ kéo dài của
xã hội nô lệ và xã hội phong kiến, chỉ áp dụng chế độ gia trưởng và tập quyền cao độ, kẻ
chiếm hữu tư liệu sản xuất đồng thời lũng đoạn quyền quyết sách, tự thực hiện, tự giám sát.
Chủ nghĩa chuyên chính là chế độ gia trưởng trên lĩnh vực chính trị.
Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản cũng theo chế độ gia trưởng lũng đoạn: quyết sách,
chấp hành và đánh giá giám sát, tất thảy đều do một mình ông chủ quyết định, về nguyên
lý, nếu không có sự phân công giữa quyết sách và chấp hành thì không có sự phân biệt
11


giữa lãnh đạo và quản lý. Hoặc có thể nói, trong thời kỳ sản xuất nhỏ kéo dài cho đến thời
kỳ đầu chủ nghĩa tư bản, lãnh đạo và quản lý là hai nhưng gắn làm một.
Trong nền sản xuất lớn có sự phân công lao động chuyên môn ngày càng rạch ròi (vào
khoảng cuối thế kỷ XVIII), khi khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ, nhiều nước tiến hành công
nghiệp hoá, nhưng có tình trạng là nhiều “kẻ ngoài nghề” - nhà tư bản chiếm hữu tư liệu sản
xuất lại lãnh đạo sản xuất đã làm tăng thêm trạng thái vô chính phủ trong sản xuất. Đến thế kỷ
XIX, các xí nghiệp của Mỹ bị sức ép cạnh tranh của thị trường, nên muốn nâng cao chất
lượng hàng hoá buộc phải thực hiện chế độ thuê giám đốc chuyên nghiệp, còn gọi là chế độ
chuyên gia giám đốc. Đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo một số công ty xe hơi dân dụng
Mỹ đã đề ra nguyên tắc “quyết sách tập trung, quản lý phân tán” và xây dựng bộ quy chế
phân quyền trong xí nghiệp. Đặc điểm của cơ chế lãnh đạo này khác với cơ chế gia trưởng và
tách quyền tài sản (quyền chiếm hữu) và quyền quản lý kinh doanh, thực chất là phân công
riêng rẽ quyết sách và chấp hành. Quyền lực quản lý hàng ngày và trách nhiệm được phân

định rõ ràng. Do tính ưu việt của thể chế phân quyền và phân công giữa quyết sách và chấp
hành, về sau nó được các nước trên thế giới áp dụng khá phổ biến.
Sự phân định giữa lãnh đạo và quản lý, tức là lãnh đạo lo quyết sách, quản lý lo chấp
hành đều là hiện tượng lịch sử, nhưng không phải từ trước tới nay đều đã có. Nó là kết quả
phát triển lâu dài của xã hội, là kết quả phát triển của sự phân công xã hội. Phân công xã
hội là cơ sở khách quan, là nguồn gốc xã hội của sự phân chia giữa lãnh đạo và quản lý,
nếu tách rời cơ sở đó sẽ không thu được kết quả rõ ràng.
Lúc này, giữa khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý có sự khác nhau, và quan hệ
giữa chúng cũng rất sâu sắc, mật thiết. Lãnh đạo và quản lý đều có một quá trình ra đời và
phát triển. Lãnh đạo lại được tách ra từ quản lý, đó là tính mật thiết trong quan hệ giữa hai
ngành, khiến cho nhiều người không thấy được ranh giới giữa chúng.
Thứ hai, chuyên môn hoá công tác lãnh đạo, lý luận về khoa học lãnh đạo ở phương
Đông. Lãnh đạo và quản lý từ chỗ “hai trong một” đã phân chia thành hai loại độc lập tương
đối, cuối cùng lại phát triển thành chuyên môn hoá công tác lãnh đạo, đó là sự tiến bộ của
lịch sử, sự phát triển của nền văn minh. Chuyên môn hoá công tác lãnh đạo là kết quả tất yếu
của sự phát triển trong phân công xã hội, cũng là kết quả tất yếu của sự phát triển nhận thức.
Chuyên môn hoá công tác lãnh đạo là sản phẩm tất yếu của sự phát triển trong việc
phân chia giữa quyết sách và chấp hành, giữa tham mưu và quyết định.
12


Sự phân chia giữa quyết sách và chấp hành là sự phân chia chức năng “chỉ huy
chung” trong lao động cộng đồng thành sự phân chia ra hai chức năng khác nhau giữa
quyết sách và chấp hành. Trong một doanh nghiệp thì hội đồng quản trị, Tổng giám đốc,
ban lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết sách, các bộ phận sự nghiệp, các chi nhánh công ty
hoặc các bộ phận chức năng khác phụ trách việc quán triệt, chấp hành, quản lý hàng ngày.
Tên gọi của nó có thể rất đa dạng, nhưng hai loại chức năng quyết sách và chấp hành đều
tương đồng. Sự phân chia giữa khâu quyết sách và chấp hành chính là sự bắt đầu của quá
trình chuyên môn hoá công tác lãnh đạo.
Sự tách biệt giữa tham mưu và quyết định là sản phẩm của xã hội hiện đại, là kết quả

tất yếu của sản xuất xã hội hoá cao độ và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật.
Trong xã hội hiện đại luôn phức tạp, có nhiều biến đổi, thông tin bùng nổ, sự thay đổi diễn
ra nhanh chóng, kiểu cách “quan phụ mẫu” xưa kia trong thời đại sản xuất nhỏ ôm đồm
hết thảy, dựa vào kinh nghiệm cá nhân để lãnh đạo không thể thích ứng với giai đoạn kinh
tế tri thức phát triển được nữa, cho dù chỉ ở khâu chế định quyết sách họ cũng không thể
bao hết toàn bộ quá trình. Phải dựa vào “bộ óc bên ngoài” là xu thế tất yếu. Chính vì vậy,
đã nảy sinh sự phân chia giữa tham mưu và quyết định cuối cùng với việc tách tham mưu
ra khỏi quyết sách, quyết định trở thành công tác chuyên môn của người ra quyết sách.
Như vậy, từ khi có sự phân công giữa quyết sách và chấp hành, tiếp đó có sự phân
công trong nội bộ quyết sách, sự phân công giữa tham mưu và quyết định, thì quyết định
trở thành công việc chuyên môn của người lãnh đạo. Đó chính là chuyên môn hoá, chuyên
nghiệp hoá công tác lãnh đạo.
Trong lịch sử loài người, phân công xã hội đã xuất hiện trong thời kỳ cuối xã hội
nguyên thuỷ, người ta đã nhận thức được sự tồn lại, tác dụng, ý nghĩa của sự phân công
này, nhận thức được các ngành nghề khác nhau được xuất hiện do sự phân công xã hội
Song, về sau này người ta mới nghiên cứu nó với tư cách là một môn khoa học, do đó, sự
ra đời các bộ môn khoa học tương ứng càng muộn hơn.
Sự phân công xã hội là quá trình phát triển lâu dài, phân công xã hội cố định hoá,
chuyên môn hoá được bắt đầu chính bằng sự phân công ngẫu nhiên. Quyết sách và chấp
hành, tham mưu và quyết định trong phân công xã hội là sản phẩm của xã hội hiện đại,
nhưng từ xưa tới nay đã tồn tại các hiện tượng, quá trình quyết định và chấp hành, tham
mưu và quyết định, giống như trước khi có sự phân công lao động chân tay và lao động trí
13


óc cũng đã có lao động chân tay và lao động trí óc. Như vậy, khi nghiên cứu về nhận thức
phân công xã hội chúng ta cần ngược dòng lịch sử, xem xét từ thời cổ đại.
Thứ ba, lý luận quản lý hành chính và quản lý kinh tế của phương Tây cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Lý luận quản lý của phương Tây bắt đầu ra đời và phát triển nhanh
chóng, quan điểm của nó đa dạng, các trường phái cũng rất phong phú. P.Druker, nhà quản

lý học nổi tiếng người Mỹ cho rằng, trong lịch sử nhân loại hiếm có một hệ thống mới
giống như hệ thống quản lý rất nhanh chóng được sự thật minh chứng là không thể thiếu
được. Mỗi một hệ thống mới ra đời, sự phản đối mà nó gặp phải ít như thế, sự náo loạn và
phản đối mà nó gây ra ít như thế, điều đó quả là hy hữu và lại rất hiếm thấy. Lý thuyết của
P.Druker đươc gọi là lý thuyết lãnh đạo bằng muc tiêu, nghĩa là coi trong kết quả, hiệu quả
công việc hoàn thành. Điều đó phản ánh tính tất yếu lịch sử của sự chuyên môn hoá khoa
học công tác lãnh đạo và công tác quản lý.
Lý luận của quản lý của phương Tây gồm: quản lý hành chính học nghiên cứu quản
lý xí nghiệp trên lĩnh vực kinh tế. Đó là hai phương hướng phát triển cơ bản của lý luận
quản lý phương Tây. Các nhà chính trị học và quản lý hành chính học, chứ không phải các
nhà quản lý kinh tế học đầu tiên xem xét đến sự phân công xã hội giữa quyết sách và chấp
hành, và coi hai vấn đề đó lần lượt là đối tượng của các môn khoa học khác nhau.
Trong khoa học quản lý hiện đại, các chuyên gia thường tiếp cận theo hai góc độ là quá
trình quản lý và hoạt động cùa tổ chức để phân chia chức năng quản lý theo quá trình, chúng
ta có 4 chức năng quản lý chính: Lập kế hoạch, Tổ chức, Lãnh đạo và Kiểm tra.
Các chức năng quản lý nói trên mang ý nghĩa phổ quát cho mọi chủ thể quản lý, mọi nhà
quản lý, quản trị, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi
trường xã hội ở các quốc gia. Tuy nhiên, ở những tổ chức khác nhau, những cấp bậc khác nhau
sẽ có sự khác nhau về mức độ, sự quan tâm và cách thức thực hiện các chức năng quản lý.
Tóm lại, những nhà sáng lập khoa học quản lý, nhất là khoa học quản lý hành chính,
khoa học quản lý kinh tế của phương Tây là những nhà chuyên môn, những nhà khoa học
đầu tiên chuyên nghiên cứu về quyết sách và chấp hành.
Thư tư, khoa học lãnh đạo hiện đại trên thế giới và ở Việt Nam. Trong các tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng, xã hội một khi có nhu cầu về mặt
kỹ thuật, thì nhu cầu đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên hơn cả mười trường đại học. Luận
đoán này thích hợp với mọi thời đại với sự ra đời và phát triển của bất kỳ môn khoa học
14


nào. Sự ra đời của khoa học lãnh đạo, trước hết là do nhu cầu của con người quyết định,

“khoa học” mà con người không cần thì chẳng có ý nghĩa gì. Về tổng thể xã hội loài
người, bản chất của xã hội hiện đại khác với thời đại sản xuất nhỏ, đó là sự chuyển biến từ
sản xuất sang sản xuất lớn xã hội hóa cao độ.
Thời đại sản xuất nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ hẹp, liên hệ giản đơn, lượng thông tin ít
ỏi và biến đổi chậm. Người lãnh đạo có thể dựa vào kinh nghiệm và tri thức cá nhân để
lãnh đạo, dù rằng lúc đó cũng cảm thấy tri thức kinh nghiệm của mình không đủ, cần
mượn bộ óc của mưu sĩ để bổ sung.
Cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội loài người bước vào thời đại cách mạng
khoa học kỹ thuật, đặc điểm chung của thời đại này là nền sản xuất xã hội hoá cao độ,
khoa học kỹ thuật đồng bộ hoá. Do sự phát triển của phân công xã hội, một mặt phân công
càng tỉ mỉ, ngành nghề sản xuất, chủng loại hàng hoá, kỹ thuật của các loại nhà máy càng
chia ra càng nhiều, bộ môn khoa học càng chia ra nhiều, phân chia các môn học cũng ngày
càng nhiều; mặt khác, đồng thời với phân hoá cao độ lại diễn ra quá trình tổng hợp cao độ,
sự xuất hiện của ngành khoa học lớn có tính giao thoa, tính tổng hợp mới nổi lên trong xã
hội hiện đại với những công trình nghiên cứu liên ngành rộng rãi, liên quốc gia... chính là
kết quả tổng hợp cao độ, thẩm thấu và đan xen lẫn nhau vào sự phân công phân hoá cao độ
của khoa học kỹ thuật và sản xuất của xã hội hiện đại.
Đặc điểm này của xã hội hiện đại, so sánh với sản xuất nhỏ trước đây không những khác
biệt về quy mô, trình độ, số lượng mà còn khác nhau về bản chất. Một là, toàn bộ thực tiễn xã
hội của sản xuất, nghiên cứu khoa học và phân loại liên hệ rộng rãi, cơ cấu phức tạp. Tính
phức tạp của công tác lãnh đạo do nó đưa đến không nói cũng rõ, sai lầm của những quyết
sách trọng đại sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền, gây ra ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc. Hai
là, sản xuất, khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển nhanh như vũ bão, do đó, tin tức mà người
lãnh đạo phái đối mặt không chỉ cực đại về số lượng mà còn thiên biến vạn hoá phong phú, đa
dạng, phức tạp. Cho nên khoa học lãnh đạo là một môn khoa học để nghiên cứu công tác lãnh
đạo, là yêu cầu và nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội được đặt ra trong xã hội hiện đại.
Nhu cầu của con người chỉ mới là tiền đề sản sinh một môn khoa học, nhu cầu còn
phải có khả năng, từ khả năng đến hiện thực còn cần phải thỏa mãn một số điều kiện. Thực
tiễn xã hội hiện đại không chỉ đưa ra nhiệm vụ và yêu cầu mà còn cung cấp khả năng, điều
kiện đầy đủ để biến khả năng trở thành hiện thực.

15


Một là, sản sinh các ngành nghề, các môn học khoa học suy đến cùng là do sự phát triển
của phân công xã hội quyết định. Hai là, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, lý luận bắt nguồn
từ thực tiễn, là sự khái quát và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Từ kinh nghiệm lãnh đạo tiến
lên khoa học lãnh đạo, thời đại đưa ra yêu cầu cung cấp khả năng. Việt Nam có truyền thống
lịch sử dựng nước, giữ nước phong phú mấy nghìn năm, đó là vốn quan trọng để chúng ta xây
dựng khoa học lãnh đạo.
Lý luận quản lý, lý luận quyết sách của phương Tây cũng đã cung cấp yếu tố lý luận,
nguồn gốc tư tương quan trọng cho chúng ta. Chuyên môn hoá công tác lãnh đạo là sản
phẩm của phân công xã hội, là sản phẩm của sản xuất lớn xã hội hóa. Kinh nghiệm và lý
luận của sự phản ánh nền san xuất lớn trên nhiều phương diện đều có thể so sánh, đối
chiếu. Kinh nghiệm từ thời cổ đại, của nước ngoài đều là di sản quan trọng, đều có thể trở
thành nguồn gốc tư tưởng tạo nên khoa học lãnh đạo, đều cung cấp điều kiện cho sự ra đời
của khoa học lãnh đạo.

16


Câu 4. Có người cho rằng: “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mỡ, thì
trên người giám đốc cũng phải có bấy nhiêu dầu mỡ”? Anh/Chị hãy phân tích luận
điểm trên và chỉ ra sự khác nhau giữa người lãnh đạo và người quản lý?
Có người cho rằng: “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mỡ, thì trên người giám
đốc cũng phải có bấy nhiêu dầu mỡ”, khi mới đọc lên luận điểm này, chúng ta cảm thấy
được sự đồng cảm, cùng san sẻ khó khăn giữa “giám đốc” và “công nhân”. Sự hoàn thành
công việc của công nhân là sự đóng góp trực tiếp công sức “cùng làm” của người giám
đốc. Vậy thực chất người “giám đốc” trong trường hợp này là người lãnh đạo hay là người
quản lý hay họ cũng là công nhân?
Nhiều lúc chúng ta thường hay nhầm lẫn giữa lãnh đạo và quản lý, và trên thực tế

giữa chúng rất khó để phân biệt vì lãnh đạo và quản lý gắn với nhau thành một chỉnh thể.
Tuy nhiên, để phân biệt đâu người lãnh đạo và đâu là người quản lý phải bắt đầu tìm hiểu
từ khi phân công xã hội tách rời hai khâu: ra quyết sách và việc thực hiện.
Trong nền sản xuất lớn có sự phân công lao động chuyên môn ngày càng rạch ròi (vào
khoảng cuối thế kỷ XVIII), khi khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ, nhiều nước tiến hành
công nghiệp hoá, nhưng có tình trạng là nhiều “kẻ ngoài nghề” - nhà tư bản chiếm hữu tư
liệu sản xuất lại lãnh đạo sản xuất đã làm tăng thêm trạng thái vô chính phủ trong sản xuất.
Đến thế kỷ XIX, các xí nghiệp của Mỹ bị sức ép cạnh tranh của thị trường, nên muốn nâng
cao chất lượng hàng hoá buộc phải thực hiện chế độ thuê giám đốc chuyên nghiệp, còn gọi
là chế độ chuyên gia giám đốc. Đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo một số công ty xe hơi
dân dụng Mỹ đã đề ra nguyên tắc “quyết sách tập trung, quản lý phân tán” và xây dựng bộ
quy chế phân quyền trong xí nghiệp. Đặc điểm của cơ chế lãnh đạo này khác với cơ chế gia
trưởng và tách quyền tài sản (quyền chiếm hữu) và quyền quản lý kinh doanh, thực chất là
phân công riêng rẽ quyết sách và chấp hành. Quyền lực quản lý hàng ngày và trách nhiệm
được phân định rõ ràng. Do tính ưu việt của thể chế phân quyền và phân công giữa quyết
sách và chấp hành, về sau nó được các nước trên thế giới áp dụng khá phổ biến.
Trên thực tế, sự phân công xã hội giữa quyết sách và chấp hành trên lĩnh vực chính trị
xuất hiện còn sớm hơn. Tiêu biểu là sự phân chia cơ cấu lập pháp và cơ cấu chấp hành
theo quy luật: khi nhà nước pháp quyền dần lớn mạnh, nền dân chủ phát triển... tất yếu sẽ
xuất hiện sự phân công xã hội mới. Sự phân công đó trên lĩnh vực quân sự diễn ra từ thế
kỷ XIX, đó là việc bắt đầu tách riêng bộ tư lệnh và bộ tham mưu. Nhưng ở phương Đông,
17


từ hơn 2.000 năm trước, tại Trung Hoa vào đời Tây Hán, trong cuộc đối thoại nổi tiếng
“Luận tướng” giữa Hàn Tín và Lưu Bang đã từng biểu đạt tư tưởng phân định giữa soái và
tướng: “Tướng tướng” và “Tướng binh”.
Do đó có thể thấy, sự phân định giữa lãnh đạo và quản lý, tức là lãnh đạo lo quyết
sách, quản lý lo chấp hành đều là hiện tượng lịch sử, nhưng không phải từ trước tới nay
đều đã có. Nó là kết quả phát triển lâu dài của xã hội, là kết quả phát triển của sự phân

công xã hội. Phân công xã hội là cơ sở khách quan, là nguồn gốc xã hội của sự phân chia
giữa lãnh đạo và quản lý, nếu tách rời cơ sở đó sẽ không thu được kết quả rõ ràng.
Nếu xét về chức năng của quản lý và lãnh đạo. Chức năng lãnh đạo và chức năng quản
lý là hoàn toàn khác nhau. Đối với chức năng lãnh đạo, nhiều chuyên gia có rằng trách nhiệm
của người lãnh đạo, chung quy lại chủ yếu có hai việc là sử dụng cán bộ và đưa ra chủ ý có
tính chất quyết định. Mọi kế hoạch, nghị quyết, mệnh lệnh, chỉ thị... đều là đưa ra chủ ý những ý tưởng nhằm giải quyết các công việc của tổ chức. Để cho mọi chủ ý được thực hiện,
cần phải đoàn kết cán bộ, cổ vũ họ thực hiện, cái đó thuộc về “sử dụng cán bộ”.
Viêc thứ nhất nói ở đây, tức là định kế hoạch, ra quyết định chỉ đạo, ra mệnh lệnh, ra
chỉ thị, nói tóm lại là đề ra quyết sách.
Việc thứ hai là “sử dụng cán bộ”, tức là cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện để họ phát
huy sở trường, thực hiện quyết sách. Xin đặc biệt chú ý hai chữ “cổ vũ”. Sau khi đưa ra
chính sách, cổ vũ họ thực hiện chú không phải bản thân người lãnh đạo tự thân thực hiện.
Như vậy, chức năng của lãnh đạo là đề ra chính sách và cổ vũ việc chấp hành chính sách.
Còn chức năng quản lý thì lại khác, là chấp hành chính sách, là việc quán triệt chấp hành
chính sách dưới sự cổ vũ của người lãnh đạo. Hai chức năng này khác nhau, có thể diễn
giải một cách đơn giản: lãnh đạo chủ yếu là quyết sách, quản lý chủ yếu là chấp hành.
Có người nêu ra lãnh đạo có quyết sách, lẽ nào quản lý lại không có quyết sách?
Đúng vậy, lãnh đạo có quyết sách, quản lý cũng có quyết sách, mọi người đều có thể có
quyết sách, nhưng quyết sách lãnh đạo, quyết sách quản lý, quyết sách thao tác là những
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Quyết sách của lãnh đạo chỉ là những quyết sách chiến
lược mang lính vĩ mô, toàn cục. Đó là những quyết sách đặc trưng mà bất kỳ một nhà quản
lý hay nhà thao tác nào cũng không thể có được.
Dương nhiên, không nên quan niệm chỉ có cấp trung ương, chính phủ, quốc hội mới
có quyết sách chiến lược, mà chính quyền cơ sở, phòng ban cấp dưới, công ty, xí nghiệp...
18


không có những quyết sách chiến lược. Kỳ thực, các bộ ngành, mọi tổ chức các cấp đều có
chiến lược của mình, nhưng tập thể hay cá nhân đề ra quyết sách chiến lược đó thường là
lãnh đạo của các tổ chức này.

Nếu xét về nguyên tắc, nguyên lý khác nhau. Do chức năng không giống nhau, nên
nguyên lý, nguyên tắc cho đến phương thức, phương pháp của lãnh đạo cũng khác với quản
lý. Chức năng của lãnh đạo là định ra những quyết sách chiến lược, nó quyết định vấn đề
quan trọng về vận mệnh, tiền đồ của các tổ chức. Vì vậy, người lãnh đạo phải tập trung trí tuệ,
sức lực để nắm những việc lớn hoặc nói cách khác, người lãnh đạo phải làm việc lãnh đạo.
Người lãnh đạo tài giỏi đến đâu cũng rất khó có thế tập trung để suy nghĩ những chi tiết cụ thể
tồn tại và phát sinh trong quá trình chấp hành những quyết sách, càng không thể nói họ nên đi
trực tiếp thực hiện. “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mỡ, thì trên người giám đốc
cũng phải có bấy nhiêu dầu mỡ", câu nói này rõ ràng không hợp lý. Cho dù có sức lực, thời
gian để nắm hết mọi việc lớn nhỏ, để tự mình làm hết thì cũng là không đúng, vì làm như vậy
sẽ gây khó dễ, sẽ ức chế tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, không thể rèn luyện được cán
bộ, làm cho cán bộ không phát triển được và do đó không bồi dưỡng được lớp người kế cận.
Nguyên tắc cơ bản và phương pháp cơ bản của công tác lãnh đạo do chức năng của lãnh
đạo quyết định là nắm việc lớn và không đi sâu vào việc vụn vặt, lãnh đạo phải làm việc của
lãnh đạo. Nhưng quản lý thì lại khác, do chức năng của quản lý và quán triệt thực hiện một
cách cụ thể quyết sách của lãnh đạo, nên cần phải tính toán kỹ đến các tình tiết nhỏ nhất có
thể xảy ra trong quá trình chấp hành cho đến các biện pháp có thể giải quyết chúng. Những
chi tiết nhỏ, những biện pháp này đối với người lãnh đạo nó là “việc nhỏ” nhưng đối với
người quản lý thì nó lại là “việc lớn”, sai một ly đi một dặm, trong lịch sử đã có nhiều minh
chứng do sai lầm của một tình tiết dẫn đến sự thất bại của công tác quán lý. Vì vậy, không thể
coi nhẹ các tình tiết, đó là phương pháp và nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý.
Xét về tiêu chuẩn của thành bại khác nhau hoặc mục tiêu khác nhau. Cho dù là
người lãnh đạo hay người quản lý đều có sự phân biệt giữa thành công và thất bại. Mọi
người đều theo đuổi thành công và tránh thất bại. Nhưng tiêu chuẩn về thành bại của lãnh
đạo và quản lý khác nhau. Ví dụ, giám đốc nhà máy đưa ra quyết sách là sản xuất một loại
sản phẩm, còn các cấp quản lý thì đưa ra kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết sách của
lãnh đạo. Mục tiêu mà người quản lý theo đuổi đó là hiệu suất. Người quản lý tốt là người
quản lý có hiệu quả. Cái mà người quản lý theo đuổi không phải là hiệu suất mà hiệu năng.
19



Người lãnh đạo có hiệu suất chưa chắc là người lãnh đạo thành công, chỉ khi người lãnh
đạo có hiệu năng thì mới là người lãnh đạo thành công.
Nói đến hiệu năng, tức là muốn chỉ hiệu năng lãnh đạo hoặc hiệu năng tổ chức, hiệu
năng là tích hợp của cả mục tiêu và hiệu suất. Nghĩa là hiệu năng được quyết định bởi mục
tiêu của quyết sách có đúng hay không và việc chấp hành quyết sách có hiệu suất hay
không, đó cũng là hai nhân tố quan trọng nhất của hiệu năng. Chỉ có mục tiêu của quyết
sách đúng dắn, việc chấp hành quyết sách lại có hiệu quả thì đó mới là người lãnh đạo
thành công. Một sản phẩm sản xuất ra vừa nhiều -vừa tốt, nhưng nó không phải là nhu cầu
của thị trường, bán không được mà sản xuất càng nhiều thì càng lãng phí. Đó thuộc về
quyết sách và là trách nhiệm của lãnh đạo.
Tóm lại, mục tiêu của lãnh đạo và quản lý khác nhau, tiêu chuẩn của thành bại cũng
khác nhau: của lãnh đạo đó là hiệu năng, của quản lý đó là hiệu suất.
Ba vấn đề trên đây là khác biệt cơ bản giữa lãnh đạo và quản lý. Từ đó có thể đưa ra
rất nhiều đặc trưng khác nhau giữa chúng. Chẳng hạn, công tác quản lý tuy cũng cần các
ngành khoa học mềm, những kiến thức thông thái, nhưng những kiến thức chuyên ngành
của khoa học quản lý chủ yếu là thuộc khoa học cứng, kỹ thuật cứng như các ngành thuộc
tài vụ, kế toán, giá thành... Còn công tác lãnh đạo thì khác, nó chỉ cần những ngành khoa
học mềm, kỹ thuật mềm. Đương nhiên, cũng cần biết những khoa học cứng và kỹ thuật
cứng, nhưng người lãnh đạo cũng không cần hiểu sâu, hiểu kỹ như những chuyên gia quản
lý. Vì thế, yêu cầu tố chất đối với người quản lý trong các ngành khoa học cứng thì phải
“tinh và sâu” còn đối với khoa học mềm thì chí cần “rộng và nhiều”. Đối với người lãnh
đạo thì ngược lại, khoa học mềm cần “tinh và sâu”, khoa học cứng thì “rộng và nhiều”.
Sự khác nhau giữa người lãnh đạo và người quản lý là rất rõ ràng, tuy nhiên mối
quan hệ giữa chúng cũng rất sâu sắc, mật thiết. Người lãnh đạo và người quản lý đều là
con người cũng có những nhu cầu, lợi ích, tình cảm,… chi phối, làm cho bản thân họ
không biết mình đang vai lãnh đạo hay vai quản lý, nên không thấy được ranh giới giữa
chúng là điều dễ chấp nhận.

20



Câu 5. Có người cho rằng: “Người lãnh đạo là người biết con đường, đi trên
con đường và chỉ cho con người biết con đường đó”. Anh/Chị hãy phân tích luận
điểm trên và chỉ ra sự khác nhau giữa người lãnh đạo và người quản lý?
Có người cho rằng: “Trên người công nhân có bao nhiêu dầu mỡ, thì trên người giám
đốc cũng phải có bấy nhiêu dầu mỡ", câu nói này rõ ràng chưa hợp lý. Bởi vì, cho dù chúng ta
có sức lực, thời gian để nắm hết mọi việc lớn nhỏ, để tự mình làm hết thì cũng là không đúng,
vì làm như vậy sẽ gây khó dễ, sẽ ức chế tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, không thể rèn
luyện được cấp dưới, làm cho cấp dưới không phát triển được và do đó không bồi dưỡng
được lớp người kế cận. Mà chúng ta cần hiểu đầy đủ hơn là “Người lãnh đạo là người biết
con đường, đi trên con đường và chỉ cho con người biết con đường đó”. Vậy giữa người lãnh
đạo và người quản lý có những điểm khác nhau như thế nào?
Nhiều lúc chúng ta thường hay nhầm lẫn giữa lãnh đạo và quản lý, và trên thực tế
giữa chúng rất khó để phân biệt vì lãnh đạo và quản lý gắn với nhau thành một chỉnh thể.
Tuy nhiên, để phân biệt đâu người lãnh đạo và đâu là người quản lý phải bắt đầu tìm hiểu
từ khi phân công xã hội tách rời hai khâu: ra quyết sách và việc thực hiện.
Trong nền sản xuất lớn có sự phân công lao động chuyên môn ngày càng rạch ròi (vào
khoảng cuối thế kỷ XVIII), khi khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ, nhiều nước tiến hành
công nghiệp hoá, nhưng có tình trạng là nhiều “kẻ ngoài nghề” - nhà tư bản chiếm hữu tư
liệu sản xuất lại lãnh đạo sản xuất đã làm tăng thêm trạng thái vô chính phủ trong sản xuất.
Đến thế kỷ XIX, các xí nghiệp của Mỹ bị sức ép cạnh tranh của thị trường, nên muốn nâng
cao chất lượng hàng hoá buộc phải thực hiện chế độ thuê giám đốc chuyên nghiệp, còn gọi
là chế độ chuyên gia giám đốc. Đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo một số công ty xe hơi
dân dụng Mỹ đã đề ra nguyên tắc “quyết sách tập trung, quản lý phân tán” và xây dựng bộ
quy chế phân quyền trong xí nghiệp. Đặc điểm của cơ chế lãnh đạo này khác với cơ chế gia
trưởng và tách quyền tài sản (quyền chiếm hữu) và quyền quản lý kinh doanh, thực chất là
phân công riêng rẽ quyết sách và chấp hành. Quyền lực quản lý hàng ngày và trách nhiệm
được phân định rõ ràng. Do tính ưu việt của thể chế phân quyền và phân công giữa quyết
sách và chấp hành, về sau nó được các nước trên thế giới áp dụng khá phổ biến.

Trên thực tế, sự phân công xã hội giữa quyết sách và chấp hành trên lĩnh vực chính trị
xuất hiện còn sớm hơn. Tiêu biểu là sự phân chia cơ cấu lập pháp và cơ cấu chấp hành
theo quy luật: khi nhà nước pháp quyền dần lớn mạnh, nền dân chủ phát triển... tất yếu sẽ
21


xuất hiện sự phân công xã hội mới. Sự phân công đó trên lĩnh vực quân sự diễn ra từ thế
kỷ XIX, đó là việc bắt đầu tách riêng bộ tư lệnh và bộ tham mưu. Nhưng ở phương Đông,
từ hơn 2.000 năm trước, tại Trung Hoa vào đời Tây Hán, trong cuộc đối thoại nổi tiếng
“Luận tướng” giữa Hàn Tín và Lưu Bang đã từng biểu đạt tư tưởng phân định giữa soái và
tướng: “Tướng tướng” và “Tướng binh”.
Do đó có thể thấy, sự phân định giữa lãnh đạo và quản lý, tức là lãnh đạo lo quyết
sách, quản lý lo chấp hành đều là hiện tượng lịch sử, nhưng không phải từ trước tới nay
đều đã có. Nó là kết quả phát triển lâu dài của xã hội, là kết quả phát triển của sự phân
công xã hội. Phân công xã hội là cơ sở khách quan, là nguồn gốc xã hội của sự phân chia
giữa lãnh đạo và quản lý, nếu tách rời cơ sở đó sẽ không thu được kết quả rõ ràng.
Nếu xét về chức năng của quản lý và lãnh đạo. Chức năng lãnh đạo và chức năng quản
lý là hoàn toàn khác nhau. Đối với chức năng lãnh đạo, nhiều chuyên gia có rằng trách nhiệm
của người lãnh đạo, chung quy lại chủ yếu có hai việc là sử dụng cán bộ và đưa ra chủ ý có
tính chất quyết định. Mọi kế hoạch, nghị quyết, mệnh lệnh, chỉ thị... đều là đưa ra chủ ý những ý tưởng nhằm giải quyết các công việc của tổ chức. Để cho mọi chủ ý được thực hiện,
cần phải đoàn kết cán bộ, cổ vũ họ thực hiện, cái đó thuộc về “sử dụng cán bộ”.
Viêc thứ nhất nói ở đây, tức là định kế hoạch, ra quyết định chỉ đạo, ra mệnh lệnh, ra
chỉ thị, nói tóm lại là đề ra quyết sách.
Việc thứ hai là “sử dụng cán bộ”, tức là cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện để họ phát
huy sở trường, thực hiện quyết sách. Xin đặc biệt chú ý hai chữ “cổ vũ”. Sau khi đưa ra chính
sách, cổ vũ họ thực hiện chú không phải bản thân người lãnh đạo tự thân thực hiện. Như vậy,
chức năng của lãnh đạo là đề ra chính sách và cổ vũ việc chấp hành chính sách. Còn chức
năng quản lý thì lại khác, là chấp hành chính sách, là việc quán triệt chấp hành chính sách
dưới sự cổ vũ của người lãnh đạo. Hai chức năng này khác nhau, có thể diễn giải một cách
đơn giản: lãnh đạo chủ yếu là quyết sách, quản lý chủ yếu là chấp hành.

Có người nêu ra lãnh đạo có quyết sách, lẽ nào quản lý lại không có quyết sách?
Đúng vậy, lãnh đạo có quyết sách, quản lý cũng có quyết sách, mọi người đều có thể có
quyết sách, nhưng quyết sách lãnh đạo, quyết sách quản lý, quyết sách thao tác là những
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Quyết sách của lãnh đạo chỉ là những quyết sách chiến
lược mang lính vĩ mô, toàn cục. Đó là những quyết sách đặc trưng mà bất kỳ một nhà quản
lý hay nhà thao tác nào cũng không thể có được.
22


Dương nhiên, không nên quan niệm chỉ có cấp trung ương, chính phủ, quốc hội mới
có quyết sách chiến lược, mà chính quyền cơ sở, phòng ban cấp dưới, công ty, xí nghiệp...
không có những quyết sách chiến lược. Kỳ thực, các bộ ngành, mọi tổ chức các cấp đều có
chiến lược của mình, nhưng tập thể hay cá nhân đề ra quyết sách chiến lược đó thường là
lãnh đạo của các tổ chức này.
Nếu xét về nguyên tắc, nguyên lý khác nhau. Do chức năng không giống nhau, nên
nguyên lý, nguyên tắc cho đến phương thức, phương pháp của lãnh đạo cũng khác với quản
lý. Chức năng của lãnh đạo là định ra những quyết sách chiến lược, nó quyết định vấn đề
quan trọng về vận mệnh, tiền đồ của các tổ chức. Vì vậy, người lãnh đạo phải tập trung trí
tuệ, sức lực để nắm những việc lớn hoặc nói cách khác, người lãnh đạo phải làm việc lãnh
đạo. Người lãnh đạo tài giỏi đến đâu cũng rất khó có thế tập trung để suy nghĩ những chi tiết
cụ thể tồn tại và phát sinh trong quá trình chấp hành những quyết sách, càng không thể nói
họ nên đi trực tiếp thực hiện.
Nguyên tắc cơ bản và phương pháp cơ bản của công tác lãnh đạo do chức năng của lãnh
đạo quyết định là nắm việc lớn và không đi sâu vào việc vụn vặt, lãnh đạo phải làm việc của
lãnh đạo. Nhưng quản lý thì lại khác, do chức năng của quản lý và quán triệt thực hiện một
cách cụ thể quyết sách của lãnh đạo, nên cần phải tính toán kỹ đến các tình tiết nhỏ nhất có
thể xảy ra trong quá trình chấp hành cho đến các biện pháp có thể giải quyết chúng. Những
chi tiết nhỏ, những biện pháp này đối với người lãnh đạo nó là “việc nhỏ” nhưng đối với
người quản lý thì nó lại là “việc lớn”, sai một ly đi một dặm, trong lịch sử đã có nhiều minh
chứng do sai lầm của một tình tiết dẫn đến sự thất bại của công tác quán lý. Vì vậy, không thể

coi nhẹ các tình tiết, đó là phương pháp và nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý.
Xét về tiêu chuẩn của thành bại khác nhau hoặc mục tiêu khác nhau. Cho dù là
người lãnh đạo hay người quản lý đều có sự phân biệt giữa thành công và thất bại. Mọi
người đều theo đuổi thành công và tránh thất bại. Nhưng tiêu chuẩn về thành bại của lãnh
đạo và quản lý khác nhau. Ví dụ, giám đốc nhà máy đưa ra quyết sách là sản xuất một loại
sản phẩm, còn các cấp quản lý thì đưa ra kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết sách của
lãnh đạo. Mục tiêu mà người quản lý theo đuổi đó là hiệu suất. Người quản lý tốt là người
quản lý có hiệu quả. Cái mà người quản lý theo đuổi không phải là hiệu suất mà hiệu năng.
Người lãnh đạo có hiệu suất chưa chắc là người lãnh đạo thành công, chỉ khi người lãnh
đạo có hiệu năng thì mới là người lãnh đạo thành công.
23


Nói đến hiệu năng, tức là muốn chỉ hiệu năng lãnh đạo hoặc hiệu năng tổ chức, hiệu
năng là tích hợp của cả mục tiêu và hiệu suất. Nghĩa là hiệu năng được quyết định bởi mục
tiêu của quyết sách có đúng hay không và việc chấp hành quyết sách có hiệu suất hay
không, đó cũng là hai nhân tố quan trọng nhất của hiệu năng. Chỉ có mục tiêu của quyết
sách đúng dắn, việc chấp hành quyết sách lại có hiệu quả thì đó mới là người lãnh đạo
thành công. Một sản phẩm sản xuất ra vừa nhiều -vừa tốt, nhưng nó không phải là nhu cầu
của thị trường, bán không được mà sản xuất càng nhiều thì càng lãng phí. Đó thuộc về
quyết sách và là trách nhiệm của lãnh đạo.
Tóm lại, mục tiêu của lãnh đạo và quản lý khác nhau, tiêu chuẩn của thành bại cũng
khác nhau: của lãnh đạo đó là hiệu năng, của quản lý đó là hiệu suất.
Ba vấn đề trên đây là khác biệt cơ bản giữa lãnh đạo và quản lý. Từ đó có thể đưa ra rất
nhiều đặc trưng khác nhau giữa chúng. Chẳng hạn, công tác quản lý tuy cũng cần các ngành
khoa học mềm, những kiến thức thông thái, nhưng những kiến thức chuyên ngành của khoa
học quản lý chủ yếu là thuộc khoa học cứng, kỹ thuật cứng như các ngành thuộc tài vụ, kế
toán, giá thành... Còn công tác lãnh đạo thì khác, nó chỉ cần những ngành khoa học mềm, kỹ
thuật mềm. Đương nhiên, cũng cần biết những khoa học cứng và kỹ thuật cứng, nhưng người
lãnh đạo cũng không cần hiểu sâu, hiểu kỹ như những chuyên gia quản lý. Vì thế, yêu cầu tố

chất đối với người quản lý trong các ngành khoa học cứng thì phải “tinh và sâu” còn đối với
khoa học mềm thì chí cần “rộng và nhiều”. Đối với người lãnh đạo thì ngược lại, khoa học
mềm cần “tinh và sâu”, khoa học cứng thì “rộng và nhiều”.
Sự khác nhau giữa người lãnh đạo và người quản lý là rất rõ ràng, tuy nhiên mối
quan hệ giữa chúng cũng rất sâu sắc, mật thiết. Người lãnh đạo và người quản lý đều là
con người cũng có những nhu cầu, lợi ích, tình cảm,… chi phối, làm cho bản thân họ
không biết mình đang vai lãnh đạo hay vai quản lý, nên không thấy được ranh giới giữa
chúng là điều dễ chấp nhận.

24


Câu 6. Có người cho rằng: “Khoa học lãnh đạo là một bộ phận cấu thành của
khoa học quản lý”? Bằng sự hiểu biết của mình Anh/chị hãy phân biệt sự khác nhau
giữa khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý?
Khoa học lãnh đạo là một ngành khoa học đan xen, nó đan xen và có quan hệ với
nhiều ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ngành khoa học có quan hệ mật thiết
nhất và nhận thức dễ lân lộn nhất so với khoa học lãnh đạo đó là khoa học quản lý. Vì vậy,
cần phải phân biệt được khoa học lãnh đạo với khoa học quản lý, để có thể vận dụng vào
thực tiễn hoạt động của con người.
Có người cho rằng lãnh đạo là một bộ phận của quản lý, hoặc cho rằng quản lý bậc cao
chính là lãnh đạo, thì cũng chính là nói khoa học lãnh đạo là một bộ phận cấu thành của khoa
học quản lý. Một số học giá phương Tây, kể cả một số nhà khoa học quản lý nổi tiếng đều giữ
quan điểm này. Lại có người đưa ra lý giải ngược với điều này, họ cho rằng quản lý là một bộ
phận của lãnh đạo và khoa học quản lý mới là một ngành của khoa học lãnh đạo. Còn một
quan điểm khác thì cho rằng khoa học lãnh đạo chính là khoa học quản lý, hai ngành khoa
học này không có sự khác nhau về bản chất, có thể thay thế lẫn nhau. Thật ra, tất cả những
cách nhìn nhận này đều không chính xác. Hai ngành khoa học này không những không phải
là quan hệ giữa bộ phận và toàn thể để có thể bao hàm lẫn nhau, cũng không phải là một quan
hệ đồng nhất để có thể thay thế nhau. Khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý, mỗi ngành đều

có đối tượng nghiên cứu của mình, là hai ngành khoa học độc lập với nhau, nó cũng giống
như vật lý và hoá học là hai ngành khoa học riêng biệt. Khoa học lãnh đạo và khoa học quản
lý có ba điểm khác nhau về bản chất sau đây:
Một là, phân biệt sự khác nhau về chức năng của quản lý và lãnh đạo.
Chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý là hoàn toàn khác nhau. Đối với chức năng
lãnh đạo, nhiều chuyên gia có rằng trách nhiệm của người lãnh đạo, chung quy lại chủ yếu
có hai việc là sử dụng cán bộ và đưa ra chủ ý có tính chất quyết định. Mọi kế hoạch, nghị
quyết, mệnh lệnh, chỉ thị... đều là đưa ra chủ ý - những ý tưởng nhằm giải quyết các công
việc của tổ chức. Để cho mọi chủ ý được thực hiện, cần phải đoàn kết cán bộ, cổ vũ họ
thực hiện, cái đó thuộc về “sử dụng cán bộ”.
Viêc thứ nhất nói ở đây, tức là định kế hoạch, ra quyết định chỉ đạo, ra mệnh lệnh, ra
chỉ thị, nói tóm lại là đề ra quyết sách.

25


×