CHÍNH SÁCH BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH
HỌC CỦA CHÍNH PHỦ ÚC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO TỒN ĐA
DẠNG SINH HỌC
1.1 Tổng quan về đa dạng sinh học
1.1.1 Quan điểm toàn cầu về đa dạng sinh học
Sự đa dạng tự nhiên hay sinh học, hay đa dạng sinh học là tất cả mọi sự sống trên trái
đất, gồm có thực vật, động vật, nấm và vi sinh vật cũng như tính đa dạng của vật liệu gien
mà chúng chứa đựng và sự đa dạng của hệ sinh thái mà chúng xuất hiện. Nó bao gồm sự
phong phú tương đối và tính đa dạng về gen của sinh vật trong tất cả môi trường sống bao
gồm trên cạn, dưới biển và các hệ thống thuỷ sinh khác.
Đa dạng sinh học do đó thường được chia thành 3 cấp độ: đa dạng nguồn gen, đa
dạng loài và đa dạng hệ sinh thái.
-
-
Đa dạng nguồn gen chỉ sự đa dạng của thông tin di truyền chứa đựng trong những
thực thể sống. Đa dạng nguồn gen hiện hữu trong và giữa các quần thể của một loài
cũng như giữa các loài với nhau.
Đa dạng loài chỉ sự đa dạng của các loài đang sống.
Đa dạng hệ sinh thái liên quan tới sự đa dạng của các môi trường sống, các quần xã
sinh vật, và các qúa trình sinh thái, cũng như tính đa dạng bên trong hệ sinh thái thể
hiện qua sự khác biệt giữa các môi trường sống và sự đa dạng của các quá trình sinh
thái.
Biến đổi mang tính tiến hóa đã dẫn tới quá trình đa dạng hoá đang diễn ra trong
những thực thể sống. Đa dạng sinh học tăng khi có biến dị gen mới ra đời, một loài mới
được tạo ra hoặc một hệ sinh thái mới hình thành.; đa dạng sinh học giảm khi biến dị gen
trong loài giảm, một loài bị tuyệt chủng hoặc một hệ sinh thái bị mất hoặc xuống cấp.
Khái niệm này nhấn mạnh bản chất tương quan với nhau của thế giới sống và những quá
trình của nó (Chương trình vùng sinh thái Tây Nam Úc, 2006).
Có khoảng 10 đến 30 triệu loài động vật, thực vật và vi sinh vật khác nhau sinh sống
trên hành tinh của chúng ta, chúng sống trên cạn, trong lòng đất, vùng nước ngọt và biển
khơi. Khoảng 2 triệu loài thực vật và động vật được biết tới và được mô tả. Hàng năm các
nhà khoa học phát hiện được khoảng 15.000 loài mới. Một số loài phổ biến trên toàn Thế
giới, còn số loài khác rất hiếm. Thậm chí có một số loài chỉ tìm thấy ở một nơi duy nhất.
Chẳng hạn như Úc là đất nước có nhiều loài chuột túi khác nhau, những loài mà chúng ta
không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên hành tinh. Nhiều loài thực vật có nguy cơ
tuyệt chủng được ghi nhận chỉ sinh sống ở một khu vực duy nhất.
Đa dạng sinh học đề cập đến tất cả các dạng tồn tại của loài, hệ sinh thái của loài và
mối quan hệ giữa chúng. Ví dụ như trong đại dương sự đa dạng sinh học bắt đầu từ
những loài sinh vât rất nhỏ (còn gọi là phù du) mà chúng có thể sử dụng năng lượng mặt
trời. Loài phù du là thức ăn của những loài động vật nhỏ, sau đó loài động vật nhỏ lại là
thức ă n c ủa những loài động vật lớn hơn như cá, bò sát hay động vật có vú. Rong biển,
cá và tôm, cua, sò, hến là thức ăn của hàng tỷ con người trên trái đất và nhiều người ở các
nước phát triển và đang phát triển sống phụ thuộc nhiều vào thủy sản. Vì thế, đa dạng
sinh học phục vụ như là cơ sở cho sinh kế của người dân.
Những khu vực có số lượng đặc biệt cao về loài được gọi là điểm nóng đa dạng sinh
học. Tuy nhiên, lưu ý rằng không chỉ các loài hoang dã mới có sự đa dạng cao về loài.
Trong thời gian dài, con người tác động, bảo vệ làng mạc như đất canh tác, rừng, đồng
cỏ. Nhiều nơi trên thế giới, các thành phố phát triển và nền công nghiệp đang phát triển
cũng như sự biến động dân số nhanh chóng đe dọa/làm ảnh hưởng tới cảnh quan cũng
như hiểu biết và phong tục của người dân.
Hình 1. 1 Bản đồ về đa dạng sinh học chỉ ra một số khu vực trên Thế giới có sự đa dạng
sinh học cao hơn những khu vực khác. Màu sắc thể hiện số lượng loài trên 10.000km2
(Nguồn: Barthlott và cộng sự. 1999)
1.1.2 Lợi ích/giá trị của đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học có giá trị riêng của nó. Hầu hết các nền văn hóa trên thế giới đều
tôn thời giá trị tự nhiên, đất đai và cuộc sống trong truyền thống, tín ngưỡng và tâm linh,
trong giáo dục, sức khỏe và các hoạt động mang tính giải trí của chúng. Nhưng nhân loại
cũng phụ thuộc vào đa dạng sinh học, những hàng hóa và dịch vụ mà nó cung cấp.
Hàng hóa
Các loài động vật, thực vật khác nhau hình thành nên chức năng của hệ sinh thái như
rừng, nước ngọt, đất hay đại dương. Hệ sinh thái có đa dạng sinh học cao không chỉ cung
cấp hàng hóa như thực phẩm, gỗ và nhiên liệu sinh học mà còn trong y tế và nước sạch
cho con người. Sự đa dạng sinh học cũng là nguồn cho giống trồng mới và giống nuôi
mới vì hầu hết các giống cây trồng và động vật nuôi có nguồn gốc từ môi trường hoang
dã. Tổng hợp/ Chiết xuất từ các loại động thực vật và vi sinh vật thiên nhiên là cơ sở sản
xuất ra thuốc/dược liệu chữa bệnh cho con người.
Dịch vụ
Dịch vụ cung cấp sự đa dạng sinh học (có thể gọi là dịch vụ hệ sinh thái) được cho là
miễn phí và không thể thiếu được. Chẳng hạn như: vi sinh vật cung cấp dinh dưỡng cho
sự phát triển tươi tốt của cây cối tạo ra oxy; mưa và gió hình thành đất từ tảng đá; thực
vật và các loài sinh vật khác giúp thực thể phong phú hơn theo thời gian. Đại dương
chiếm ¾ diện tích của hành tinh. Nó không chỉ chứa lượng nước lớn mà gồm hệ động
thực vật hình thành nên trái đất. Đại dương vận chuyển mọi sinh vật sống ở đó qua
khoảng không gian rộng lớn, chúng kiểm soát khí hậu toàn cầu và cung cấp thực phẩm.
Loài tảo biển nhỏ ngoài biển tạo ra lượng lớn oxy cần thiết cho các loài động vật trên cạn.
Đồng thời, carbon từ nhiên liệu bị đốt cháy trong không khí bị giữ lại.
Hàng nghìn năm nay, bờ biển là địa điểm thu hút con người. Động vật và thực vật
xung quanh sinh ra chất dinh dưỡng có sẵn, là nơi lọc bụi bẩn từ các dòng sông và suối;
giúp bảo vệ bờ biển khỏi bão. Cá, tôm, cua, sò, hến và rong ở biển là nguồn thức ăn cho
con người và động vật. Chúng cung cấp phân bón, thuốc, mỹ phẩm, sản phẩm gia dụng
và vật liệu xây dựng. Những rạn san hô là ‘khu rừng nhiệt đới của đại dương”, nơi đó
cung cấp nguồn cá, bảo vệ các mối nguy ngại từ tự nhiên và điều hòa khí hậu. Khoảng
nửa tỷ người phụ thuộc vào các rạn san hô. Nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển
và những quốc đảo sống dựa rất nhiều vào những rạn san hô vì đó là nguồn thực phẩm và
cũng là sinh kế chính của họ.
1.1.3 Áp lực của đa dạng sinh học
Báo cáo của Liên hợp Quốc năm 2012 nhấn mạnh đến tỷ lệ mất rừng; mối đe dọa tới
nguồn cung cấp nước và ô nhiễm các vùng ven biển. Xu hướng chung/tổng thể cho sự
suy giảm toàn cầu về đa dạng sinh học là 1/3 lần trong 30 năm qua và xu hướng này còn
tiếp tục giảm. Có đến 2/3 các loài có thể bị biến mất. Theo như Báo cáo Hành tinh Sống
2010 có tới 5 mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học là do hoạt động của con người.
-
-
-
-
Những thiệt hại và suy giảm hệ sinh thái: Những thay đổi hệ sinh thái rừng, đất ngập
nước hay vùng núi sẽ làm môi trường sống không phù hợp của các loài động vật
hoang dã và thực vật.
Khai thác quá mức các loài hoang dã: Nếu như con người sử dụng quá nhiều động
vật và thực vật làm thực phẩm/thức ăn hay các mục đích khác, thì các nguồn tự nhiên
sẽ dần dần mất đi. Các hoạt động như đánh bắt cá, săn bắn và khai thác gỗ dẫn đến
việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên.
Ô nhiễm nguồn nước: Các chất dinh dưỡng dư thừa từ bón phân hóa học quá nhiều sẽ
làm ô nhiễm nguồn nước sạch và hệ sinh thái biển. Các nguồn gây ô nhiễm khác như
là rác thải của các thành phố lớn, ngành công nghiệp và khai khoáng.
Biến đổi khí hậu: Hoạt động trong sản xuất nông nghiêp, công nghiệp, đốt than và
dầu, chặt phá rừng thải khí ra môi trường gây hiệu ứng nhà kính, là nguyên nhân dẫn
đến tăng nhiệt độ toàn cầu trên đất liền và trên biển. Những suy thoái của các rạn san
hô hay tảng băng ở Bắc Băng Dương và các loài thực động vật là những ví dụ không
thể đối phó với những điều kiện thay đổi nhanh chóng như hiện nay.
-
Các loài xâm lấn: Loài là một phần của giới và đôi khi lan truyền nhanh chóng sang
các loài bản địa.
1.1.4 Công ước về đa dạng sinh học
Thỏa thuận quốc tế giải quyết các vấn đề về đa dạng sinh học được gọi là Công ước
về đa dạng sinh học. Thỏa thuận này được thông qua và ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh
Liên Hợp Quốc năm 1992 ở Rio de Janeiro, khi mà các vấn đề về môi trường trên thế
giới xuất hiện ngày một rõ. Công ước được 192 nước thành viên tham gia ký kết cùng với
Ủy ban Châu Âu nhằm mục đích bảo tồn đa dạng sinh học, sử dụng bền vững các tài
nguyên của nói và chia sẻ công bằng và bình đẳng lợi ích của việc sử dụng nguồn gen.
Đến nay, Hoa Kỳ vẫn chưa ký vào bản Hiệp ước này.
Tháng 10 năm 2012, đại diện các nước thành viên của Công ước Đa dạng sinh học đã
tham dự Hội nghị Các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học lần thứ 11 (COP11) tại
Ấn Độ nhằm thảo luận làm thế nào để ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học. Hai mươi
mục tiêu trong Mục tiêu Đa dạng sinh học Aichi đã được thông qua trong Hội nghị Các
bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học lần thứ 10 (COP10) ở Nagoya (Nhật Bản) năm
2010. Theo như những thỏa thuận đã thông qua tại COP10, các mục tiêu này được thực
hiện tới năm 2020 và các nước thành viên sẽ thảo luận để đưa ra giải pháp. Các chiến
lược chính trị khác nhau đưa ra thảo luận để ngăn chặn/ hạn chế sự suy giảm đa dạng sinh
học bao gồm: pháp luật, thuế, luật cấm, phạt tiền, trợ cấp, ưu đãi hay bồi thường.
1.1.5 Vai trò và quan điểm của người dân về đa dạng sinh học
Suy giảm đa dạng sinh học ảnh hưởng nghiêm trọng ở nhiều cấp độ như ảnh hưởng
tới một cá nhân, một gia đình, một làng/vùng quê, một đất nước hay một khu vực. Các
ảnh hưởng có thể bao gồm tăng giá lương thực thực phẩm, sản lượng trồng trọt thấp, quy
mô đánh bắt cá nhỏ hơn, nước uống ít hơn, xảy ra lũ lụt và các thảm họa thiên nhiên khác
thường xuyên hơn, đất không thể giữ nước và chất dinh dưỡng hay phong cảnh không
còn thu hút/hấp dẫn khách du lịch nữa. Những ảnh hưởng như vậy là lâu dài và ảnh
hưởng tới mọi lĩnh vực của cuộc sống chúng ta. Tuy nhiên, các biện pháp quyết liệt để
bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học trong một số trường hợp có thể dẫn đến mất việc
làm, thay đổi trong môi trường làm việc, lối sống hay chế độ ăn uống. Một số người thậm
chí có thể bị mất đi kế sinh nhai chẳng hạn như ngư dân không được phép đánh bắt cá.
Nếu như càng áp dụng thuế cao nhằm bảo vệ đa dạng sinh học thì những hoạt động quan
trọng như an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm, dịch vụ y tế, giáo dục hay nghiên cứu và
phát triển sẽ ít đi. Đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái kinh tế, chi tiêu cho mục đích bảo vệ
đa dạng sinh học sẽ không được thuận lợi.
Điều ước quốc tế là cần thiết vì sự suy giảm đa dạng sinh học là vấn đề đòi hỏi phải
có giải pháp mang tính quốc tế. Nhiều hệ sinh thái kéo dài xuyên biên giới, đánh bắt cá
ngoài biển phần lớn không kiểm soát được và thương mại có tính quốc tế. Ô nhiễm của
vùng này sẽ ảnh hưởng vùng khác. Đồng thời, lợi ích quốc gia và lợi ích lợi ích của từng
hệ sinh thái có giá trị riêng của nó, quan điểm của các bên liên quan làm cho nó khó đạt
được thỏa thuận mang tính toàn cầu, minh bạch và dân chủ. Chuyên gia, nhà hoạch định
chính sách và nhóm gây sức ép sẽ đưa ra quan điểm của họ về bảo tồn đa dạng sinh học
trong buổi thảo luận tại COP 11 ở Ấn Độ và mùa thu năm 2012. Một số câu hỏi mở được
thảo luận là: Ai là người có trách nhiệm về sự suy giảm đa dạng sinh học? Làm thế nào
để đạt được mục tiêu về đa dạng sinh học? Việc gì đã được thực hiện? Làm thế nào để
cân đối lợi ích của nhân loại và lợi ích của thế giới tự nhiên? Chúng ta có cần quy định
không? Chúng ta có thể làm cho mọi người có thái độ thân thiện với đa dạng sinh học
hay chúng ta nên có những điều luật mới và quy định phạt kinh tế?
Không trước thì sau, những quyết định quốc tế sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của công
dân bình thường. Những công dân tham gia vào quá trình thảo luận sẽ đưa ra ý kiến và
giúp cho nhà nước đưa ra chính sách những thông tin có giá trị về phương pháp có sự ủng
hộ của quần cộng đồng và hơn nữa có nhiều cơ hội thành công hơn.
1.2 Bảo tồn đa dạng sinh học
Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa con người
với các nguồn gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ
hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các
thế hệ tương lai. Để có thể tiến hành các hoạt động quản lý nhằm bảo tồn đa dạng sinh
học, điều cần thiết là phải tìm hiểu những tác động tiêu cực, các nguy cơ mà loài hiện
đang đối mặt và từ đó xây dựng các phương pháp quản lý phù hợp nhằm giảm đi các tác
động tiêu cực của các nguy cơ đó và đảm bảo sự phát triển của loài và hệ sinh thái đó
trong tương lai.
Hiện nay có các phương thức bảo tồn chủ yếu là bảo tồn tại chỗ (In-situ) và bảo tồn
chuyển vị (Ex-situ).Trong khi phương thức bảo tồn tại chỗ là nhằm bảo tồn các hệ sinh
thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trường
tự nhiên của chúng, phương thức bảo tồn chuyển vị bao gồm các hoạt động nhằm bảo tồn
các loài mục tiêu bên ngoài nơi phân bố hay môi trường tự nhiên của chúng.
Hai phương thức bảo tồn này có tính chất bổ sung cho nhau. Những cá thể từ các
quần thể được bảo tồn Ex-situ có thể được đưa vào thiên nhiên nơi có phân bố tự nhiên
của chúng để tăng cường cho các quần thể đang được bảo tồn In-situ và việc nghiên cứu
các quần thể được bảo tồn Ex-situ có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các
đặc tính sinh học của loài và từ đó hỗ trợ cho việc hình thành các chiến lược bảo tồn hiệu
quả hơn cho các quần thể được bảo tồn In-situ.
Tuy nhiên, dưới áp lực ngày càng tăng của sự thay đổi khá nhanh các điều kiện môi
trường, đặc biệt do sự nóng lên toàn cầu, mục tiêu của chiến lược bảo tồn nguồn gen thực
vật là không chỉ bảo tồn các khác biệt di truyền hiện có mà còn tạo ra các điều kiện phù
hợp cho việc tăng sự thích nghi và sự tiến hóa tương lai của loài. Vì vậy, các nhà khoa
học bảo tồn đã đề xuất khái niệm bảo tồn nguồn gen cho động thực vật. Điều cốt lỏi của
khái niệm này là khuyến khích tính thích nghi của loài bằng cách đặt các quần thể bảo tồn
trong quá trình chọn lọc tự nhiên và rồi trong quá trình tiến hóa theo các hướng khác biệt
để đa dạng hóa nguồn gien của loài, chuẩn bị cho việc thích nghi rộng hơn của loài đối
với các điều kiện môi trường khác nhau. Theo cách thức bảo tồn này, nguồn gen của các
loài thực vật sẽ được bảo tồn trong một quá trình động thay vì chỉ được duy trì như đúng
tình trạng di truyền mà chúng vốn có.
1.3 Đa dạng sinh học ở Úc
1.3.1 Tổng quan về đa dạng sinh học ở Úc
Úc là nơi sinh sống của 600 000 đến 700 000 loài, nhiều loài trong số đó được không
thể tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Khoảng 84% các loài thực vật, 83% các loài
động vật có vú, và 45% các loài chim chỉ được tìm thấy ở Úc (DEWHA 2008). Sự cách
ly của lục địa Úc trên 50 triệu năm đã tạo nên một hệ động thực vật độc đáo tại đây.
Trong số 800 loài chim ở Úc có 400 loài không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Úc còn có 300 loài thằn lằn, 140 loài rắn, 230 loài động vật có vú bản xứ, và 2 loài cá
sấu. Số lượng thực vật ở Úc có tới trên 20.000 loài.
Trên mảnh đất rộng lớn này có rất nhiều môi trường sống khác nhau, từ rừng mưa
nhiệt đới cho đến vùng sa mạc. Trong những vùng này, chỉ trừ vùng rừng mưa, loài cây
phổ biến là cây bạch đàn. Đây là loài cây có nhiều nhất ở Úc, với trên 500 loài khác nhau.
Những loài này chiếm ưu thế trong các khu rừng có lượng mưa đầy đủ tại đây. Loài cây
này có nhiều độ cao khác nhau, từ những cây rất cao đến những cây còi, thân vặn vẹo
màu trắng tuyết có những sọc màu. Cây bạch đàn đã đi vào các truyện dân gian và văn
chương Úc. Cây keo là một giống phổ biến khác ở Úc, có tất cả hơn 600 loài. Nhiều loài
keo có lá màu lục đậm và hoa từ vàng nhạt đến màu nâu. Trong những khu rừng khô hơn
và những vùng nửa khô cằn cây keo cùng mọc chung với cây bạch đàn.
Với nhiều giống chim và côn trùng độc đáo giúp thụ phấn cho những loài cây có hoa,
nhiều loài thực vật đã phát triển những phương pháp khác nhau để thu hút từng loài động
vật cụ thể. Có những loài hoa có màu sắc mạnh mẽ cùng với hình dạng được cấu tạo đặc
biệt để chạm nhẹ vào người những con chim hay côn trùng khi chúng đi ăn. Những loài
như hoa Chân Kanguru, Grevillea và Kakea là những ví dụ về trường hợp này. Một số
loài cây của Úc (chẳng hạn như cây Banksia) có quả và hạt rất cứng, không những còn
sống sót qua những đám cháy mà thậm chí còn cần lửa để phát triển. Một số loài hạt đã
thích nghi để chỉ mọc lên thành cây với những chất dinh dưỡng sau một đám cháy.
Hình 1. 2 Gấu túi Koala và chuột túi Kangaroo - loài sinh vật đặc hữu của Úc
1.3.2 Hệ thực vật
Ước tính có khoảng 27.700 loài thực vâ ̣t ở Ú c bao gồ m các loài hóa tha ̣ch số ng như
cây co ̣ mè, cây thân cỏ và các loài hoa da ̣i rực rỡ như cây waratah, đâ ̣u sa ma ̣c Sturt, cây
thường xanh và kangaroo paws.
Nước Úc cũng có khoảng 2800 loài ba ̣ch đàn và 1000 loài cây keo mà chúng tôi go ̣i
là 'wattle'. Keo Vàng là biể u tươ ̣ng của thực vâ ̣t Ú c. Gần 80 phần trăm rừng ở đây là rừng
bạch đàn. Keo, melaleuca (cây chè), casuarinas (cây sồ i), callitris (cây thông), đước và
rừng nhiê ̣t đới chiế m 20 phần trăm còn lại.
Rừng
Những cây cao nhấ t ở Ú c mọc phiá tây nam của Tây Ú c trong thung lũng Valley of
the Giants. Khuynh diê ̣p khổ ng lồ , ba ̣ch đàn Ú c và ba ̣ch đàn đỏ tây Ú c có tuổ i tho ̣ lên tới
500 năm có thể đươ ̣c tìm thấ y ở đây. 1.000 km đường tắ t Bibbulmun Track xuyên qua vô
số rừng ba ̣ch đàn Tây Ú c, marri, wandoo, ba ̣ch đàn Ú c và tingle cũng như các vùng ngâ ̣p
nước có tầm quan trọng quốc tế.
Rừng ôn đới hoang dã Tasmanian đươ ̣c liê ̣t kê là Di Sản Thế Giới có mô ̣t số loài cây
lâu năm nhấ t trên hành tinh bao gồ m cả loài Thông Huon quý hiếm.
Thông Wollemi đồ sô ̣ còn sót la ̣i trên khu cảnh quan 200 triê ̣u năm tuổ i khi Ú c, New
Zealand và Nam Cực hơ ̣p thành siêu lu ̣c điạ Gondwana. Loài thông này đươ ̣c cho là tuyê ̣t
chủng hàng triê ̣u năm nay cho đế n khi đươ ̣c tái khám phá bởi mô ̣t khách lữ hành năm
1994. Dãy núi Greater Blue Mountains có khoảng dưới 100 loài cây tồ n ta ̣i trong tự
nhiên, mo ̣c trong các hẻm núi sâu của rừng nhiê ̣t đới tại đây.
Cây bạch đàn
Ba ̣ch đàn (eucalypts) là loài cây phổ biế n nhấ t ở Ú c. Chúng mọc từ khu vực miề n núi
cho đế n các khu rừng ngâ ̣p nước ven biể n, qua rừng ôn đới và khu nô ̣i điạ khô cằn. Núi
Greater Blue có nhiề u loài ba ̣ch đàn đa da ̣ng nhấ t trên trái đấ t. Thực tế , Núi Blue
Mountains (có nghĩa là núi xanh) được đặt tên từ ánh sáng xanh mờ trong không khí
đươ ̣c tỏa ra từ dầ u của các loa ̣i cây. Trong Dãy Alps của Úc, các cây ba ̣ch đàn màu đỏ và
trắ ng ba ̣c đứng nổ i bâ ̣t giữa phong cảnh đầ y tuyế t. Ở dãy Flinders Ranges ở Nam Úc,
ba ̣ch đàn đỏ lâu đời số ng trong các vùng la ̣ch khô. Gấ u koala chỉ ăn mô ̣t số loài ba ̣ch đàn
nhấ t đinh.
̣
Rừng mưa nhiê ̣t đới
Trước đây, rừng mưa nhiê ̣t đới đã từng bao phủ hầ u hế t vùng siêu lu ̣c điạ Gondwana
cổ xưa ở phía nam, và có những thực vâ ̣t nguyên thủy đươ ̣c tìm thấ y trong những khu
rừng này, có mối liên hệ với những người trồ ng chúng hơn 100 triê ̣u năm trước. Rừng
mưa của Úc trải rộng khắp đất nước và có đủ loại khí hậu. Rừng mưa nhiê ̣t đới Daintree
Rainforest ở phiá bắ c Queensland là rừng mưa nhiê ̣t đới lâu đời nhấ t trên trái đấ t, có niên
đa ̣i 135 triê ̣u năm. Có thể thấ y 13 loa ̣i rừng mưa nhiê ̣t đới tuyê ̣t đe ̣p ở đây. Rừng mưa
nhiê ̣t đới Gondwana ở phía Đông Nam Queensland và phía bắ c New South Wales có
những diện tích rừng mưa câ ̣n nhiê ̣t đới trên thế giới rộng lớn nhất trên thế giới, cùng với
rừng mưa ôn đới. Khu rừng mưa nhiê ̣t đới khô nằ m ở khu vực phía Tây Kimberley của
Ú c. Du khách sẽ thấy rừng mưa gió mùa ở Công viên Quốc gia Kakadu và những rañ h
dương xỉ tươi tố t ở dãy Otway Ranges bang Victoria.
Đất ngập nước
Vùng ngâ ̣p nước thu hút số lươ ̣ng lớn chim di cư ở Công Viên Quố c Gia Kakadu và
Công Viên Quố c Gia Croajingolong thuộc khu Dự trữ Sinh Quyể n Thế giới đươ ̣c
UNESCO công nhâ ̣n và khu Bảo Tồ n Thiên Nhiên Nadgee ở phiá đông nam của Ú c. Ú c
là mô ̣t trong các quố c gia đầ u tiên ký Công Ước Ramsar cho Vùng ngâ ̣p nước có tầ m
quan tro ̣ng quố c tế , và Bán Đảo Cobourg ở Vùng Tự Tri ̣ Phiá Bắ c đươ ̣c công bố là khu
Ramsar đầ u tiên trên thế giới vào năm 1974. Hiê ̣n nay, Ú c có 65 khu Ramsar trên khắ p
đấ t nước bao phủ 8 triê ̣u héc ta.
Hoa dại
Hoa dại, bao gồ m cúc va ̣n tho ̣, biến các vùng thảo nguyên và đồ ng cỏ khô cằn của Ú c
trở thành tấm thảm sặc sỡ theo mùa. Từ Tháng Sáu đế n Tháng Chin
́ , có hơn 12.000 loài
hoa da ̣i nở rô ̣ khắ p miề n Tây Ú c. Cuố i Tháng Tám đế n giữa Tháng Mười, có thể thấ y hơn
100 loài hoa da ̣i trên Đảo Kangaroo ở miề n Nam nước Ú c và nhiề u loài hoa đô ̣c đáo trên
đảo. Trong Dãy Alps của Úc, khi tuyế t tan, du khách sẽ thấ y các đồ ng cỏ trên núi cao nở
rô ̣ vô vàn hoa nắ p ấ m vàng, cây ti-líp hồ ng và cúc ba ̣c màu trắ ng tuyế t.
Các loài hoa đô ̣c đáo của Ú c còn có Proteaceae thuô ̣c ho ̣ Cây Thường Xanh (Liễu
Ú c), Grevillea và Telopea (cây waratah). Khoảng 80 phần trăm loài thực vâ ̣t và hầ u hế t
các loài Proteaceae mọc ở phía tây nam của Tây Ú c và không thể tìm thấ y ở bấ t cứ nơi
nào khác trên thế giới. Các vùng đấ t hoang do ̣c theo Đường Great Ocean ở bang Victoria
là nơi có nhiề u phong lan nhấ t nước Ú c.
1.3.3 Hệ động vật
Chim
Hơn 800 loài chim được liệt kê ở Úc, thì có khoảng 50% số loài là không có ở các
nơi khác. Chúng bao gồm các loài hút mật từ nhỏ đến lớn, đà điểu không biết bay, đứng
cao gần hai mét, đà điểu trong tự nhiên là trên các đồng cỏ, các khu rừng khô sclerophyll
và trên các thảo nguyên. Rất nhiều loài chim nước, chim biển và các loài chim cư ngụ
trong các khu rừng và các khu rừng sinh thái mở. Ví dụ như đà điểu đầu mèo, thiên nga
đen, chim cánh cụt, bói cá, thiên cầm (chim trời) và các loài chim tước currawong. Ngoài
ra còn chim cánh cụt trên Đảo Kangaroo ở miền Nam Australia và Đảo Philip ở bang
Victoria.
Có thể nhìn thấy thiên cầm Albert ở Công Viên Quốc Gia Mt Warning và rừng mưa
Gondwana quanh vùng nội địa Golden Coast. Quan sát loài thiên cầm phổ biến hơn ở
Dãy Dandenong, Công Viên Quốc Gia Kinglake quanh Melbourne, Công Viên Quốc Gia
Royal và vùng Illawarra ở phía nam Sydney, ngoài ra còn ở bang Victoria và một số các
công viên quốc gia dọc theo bờ biển phía đông nước Úc. Chim bói cá, được biết đến
nhiều nhất với tiếng kêu giống như tiếng cười ngặt nghẻo của con người, thường thấy
nhất vào lúc hoàng hôn và bình minh. Có 55 loài vẹt ở Úc, chúng có màu sắc sặc sỡ, bao
gồm một loạt các loài chim đẹp lộng lẫy thuộc cùng họ như vẹt có mào, vẹt có cựa, vẹt
lorikeet, vẹt xám, vẹt đuôi dài và yến phụng.
Bò sát
Lục địa Úc có nhiều loài rắn độc hơn bất kỳ châu lục nào, thực tế là có 21 loài trên
tổng số 25 loài cực độc trên thế giới. Nhưng không phải tất cả đều là rắn độc, lục địa này
cũng có một số loại trăn cảnh và rắn trên cây. Úc còn có các loài cá sấu, các loài nước
ngọt và nước mặn. Có năm loài rùa biển có nguy cơ tuyệt chủng làm tổ và đẻ trứng trên
bãi biển theo mùa nhất định và tám loài rùa nước ngọt.
Lục địa Úc cũng có rất nhiều loài thằn lằn, ‘rồng’ và con nhông (thằn lằn chúa), bao
gồm loài kỳ thú như Thằn Lằn Da Xếp và Rồng Có Râu. Công viên quốc gia Kimberley
có 178 loài bò sát với loài đáng chú ý hơn cả là Thằn Lằn Cổ Xếp và Thằn Lằn ‘ta ta’ ở
khắp mọi nơi, thằn lằn gai sống trong môi trường sống sa mạc. Nhiều các loài bò sát bao
gồm rồng có râu, thằn lằn lưỡi xanh ở Cao Nguyên Australia và Dải Flinders ở miền Nam
Úc.
Hệ sinh vật biển
Môi trường biển của nước Úc là nơi sinh sống của khoảng 4000 trong tổng số 22.000
loài cá, cũng như 30 trong số 58 loại tảo biển trên thế giới. Nơi đây cũng có hệ san hô
rộng lớn nhất trên thế giới, rạn san hô Great Barrier Reef nằm trong danh sách di sản thế
giới, ở đó có rất nhiều loài cá nhiều màu sắc, bao gồm cả loài cá hề và có khoảng 1700
loại san hô khác nhau:
-
-
Khoảng 300 loài san hô mềm, một nửa trong số đó là loài mới.
Hàng chục loài giáp xác nhỏ, có thể một hoặc nhiều họ trong số đó chưa hề được biết
đến.
Một loài giáp xác chân hai loại cực hiếm thuộc họ Maxillipiidae, có chân sau giống
như cái roi kì dị lớn gấp 3 lần kích cỡ cơ thể. Chỉ có một số loài thuộc họ này được
phát hiện trên thế giới.
Loài giáp xác tanaid mới, chúng là những sinh vật giống tôm. Một số có móng dài
hơn cả cơ thể.
Loài sứa Cassiopeia cực hiếm được chụp ảnh khi đang lộn ngược ở đáy biển, những
cái xúc tu của chúng uốn lượn theo cột nước. Đây là tư thế cho phép tảo cộng sinh
sống trong tua của nó thu ánh sáng để quang hợp.
Các loài sinh vật biển lớn hơn có thế kể đến là loài cá mập trắng, cá voi lưng gù, cá
voi orca, bò biển, rất nhiều loài cá heo và một số loài cá mập. Cá heo sống dọc các bãi
biển ở bờ đông và bờ tây từ Tháng Năm đến Tháng Mười Một. Rặng san hô Ningaloo ở
miền Tây Úc là một trong những nơi sống của cá voi. Đảo Kangaroo là nơi hải cẩu Úc
sống trong tự nhiên.
Hình 1. 3 Rạn san hô Great Barrier
Thú
Nước Úc không có những loài động vật ăn thịt to lớn, chó dingo, hay chó hoang, là
loài động vật ăn thịt lớn nhất ở đây, đặc biệt là Quỷ Tasmanian. Những loài động vật ăn
thịt khác gồm có thú ăn kiến có túi, chồn đốm, nhưng không có loài nào trong số này lớn
hơn kích thước trung bình của một con mèo nuôi. Người ta có thể thấy chó hoang dingo
khắp nước Úc, trừ vùng Tasmania. Nơi có thể thấy chúng nhiều nhất là Đảo Fraser ở
Queensland, Kimberly ở Tây Úc và trên các sa mạc của Vùng Tự Trị Miền Bắc và Nam
Úc.
Thú ăn kiến có túi có ở miền Tây Úc. Thú Tasmanian trong tự nhiên ở vùng
Tasmania. Rất khó để quan sát loài chồn đốm đang có nguy cơ tuyệt chủng trong tự
nhiên, nhưng chúng sinh sống trong những khu rừng ẩm ướt ở vùng đông nam nước Úc
và khu vực Tasmania, và một khu vực nhỏ ở miền bắc Queensland. Ngoài ra còn chuột
túi Bilby, một thành viên của gia đình chuột túi ở Tây Úc.
Nước Úc có hơn 140 loài thú có túi, như kangaroo, wallaby, koala, và wombat, với
hơn 55 loài kangaroo và wallaby bản địa khác nhau. Kangaroo và wallaby có kích thước
và trọng lượng rất khác nhau, dao động từ nửa kilôgram đến 90 kilôgram. Sự khác biệt
chính giữa chúng là kích thước — wallaby thường nhỏ hơn. Ước tính số kangaroo của Úc
nằm trong khoảng từ 30 đến 60 triệu con.
Có thể dễ dàng thấy kangaroo trong tự nhiên ở hầu hết các vùng nông thôn nước Úc.
Ở Victoria, Wallaby có mặt ở khắp nơi trên đất nước Úc, đặc biệt là ở những vùng hẻo
lánh, vùng núi đá và vùng có địa hình gồ ghề. Thú có túi koala không phải là một con
gấu, sống ở dọc theo bờ biển phía đông. Wombat là loài động vật đào hang to khỏe, có
cân nặng lên đến 36 kilôgram. Cũng rất khó thấy chúng trong tự nhiên.
Một nhóm động vật khác chỉ có ở Úc là động vật đơn huyệt được coi như những
động vật hóa thạch còn sống, bởi vì chúng được coi như đại biểu của giai đoạn tiến hóa
từ loài bò sát sang động vật có vú, hay còn gọi là các loài động vật có vú đẻ trứng. Loài
đặc biệt nhất là loài thú mỏ vịt, một loài động vật sống ở dưới sông với cái mỏ giống như
mỏ vịt, lông không thấm nước và bàn chân có màng. Thủ mỏ vịt thường sống trong
những hang đào ở bờ sông. Chúng rất nhút nhát và rất khó nhìn thấy chúng, chúng ở các
bờ biển phía đông trong các dòng suối nhỏ và các con sông tĩnh lặng. Thú lông nhím, hay
loài ăn kiến, là một loài đơn huyệt khác, có lưỡi dài và dính và bộ lông đầy gai giống như
con nhím.
1.3.4 Suy giảm đa dạng sinh học học ở Úc
Dưới tác động của vấn đề khai thác tài nguyên, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Úc bị
mất một lượng đáng kể đa dạng sinh học trong vòng 200 năm qua:
-
-
Hơn 50 loài động vật của Úc được cho là đã tuyệt chủng trong vòng 200 năm qua, và
nhiều loài không còn sống trong phạm vi rộng rãi như trước đây mà tồn tại quần thể
biệt lập trên các đảo và đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Tuyệt chủng một số thực vật có tế bào, loài động vật có vú
1/3 loài động vật có vú bị tuyệt chủng trên thế giới là ở Úc
Theo hiệp ước châu á, 83 loại cây trồng, hơn 50 loài đọng vật ở Úc liệt vào hàng bị
tuyệt chủng
Danh sách các loài bị đe dọa của Úc tiếp tục tăng lên, 426 động vật, 1339 thực vật
đang bị đe dọa liệt kê trong luật EPCA.
372 loài thực vật có mạch đang bị nguy hiểm,700 loài dễ bị tổn thương
Mặc dù được bảo tồn nhưng đa dạng sinh học ở Úc vẫn tiếp tục bị suy giảm, các nhà
khoa học cho rằng chúng ta đang ở ngưỡng tuyệt chủng toàn cầu do tác động của con
người. Bây giờ cộng đồng Úc đã nhận ra sự quan trọng của đa dạng sinh học và tác động
do hoạt động đã và đang diễn ra của con người.
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH
HỌC CỦA CHÍNH PHỦ ÚC
2.1 Cơ cấu tổ chức chính phủ và thể chế quản lý chung
Đa dạng sinh được hiểu đơn giản là sự đa dạng của các hình thức của cuộc sống. Bảo
tồn của là một nhiệm vụ phức tạp, liên quan đến việc xây dựng và hợp tác giữa các khu
vực, Các địa phương của Quốc gia. Chiến lược đa dạng sinh học của chính phủ được
phát triển dưới sự hỗ trợ chính quyền địa phương là một đối tác quan trọng trong việc bảo
tồn đa dạng sinh học. Sự thành công của chính sách này sẽ đòi hỏi sự phát triển của chính
sách đa dạng sinh học, và cam kết của các tập thể cá nhân.
Vai trò của Chính phủ Úc trong bảo tồn đa dạng sinh học là rất quan trọng. Vai trò
của các tiểu bang và vùng lãnh thổ cũng không kém phần quan trọng, vì họ có trách
nhiệm quản lý môi trường trong thẩm quyền của mình. Nhưng có một giới hạn cho những
gì chính phủ có thể làm. Tất cả các doanh nghiệp và cộng đồng có thể đóng góp, đặc biệt
khi đầy đủ thông tin và nơi mà lợi ích thường được nhận dạng. Đa dạng sinh học của
chúng tôi là cơ bản cho một tương lai bền vững và thịnh vượng
Vai trò và trách nhiệm của Chính phủ Úc trong việc đảm bảo bảo tồn đa dạng sinh
học có hiệu quả được dựa trên:
-
-
-
-
-
Gây ảnh hưởng với các hiệp ước quốc tế của để bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững
đa dạng sinh học và môi trường theo Công ước về Đa dạng sinh học và các văn kiện
quốc tế khác.
Cung cấp sự chỉ dẫn của quốc gia trong việc giải quyết các mối đe dọa lớn đối với đa
dạng sinh học, bao gồm cả những mối de dọa do biến đổi khí hậu, mất môi trường
sống và các loài tạo cơ hội cho sự hợp tác hiệu quả và quan hệ đối tác giữa các cấp
của chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng.
Đảm bảo rằng tầm quan trọng của các vấn đề luật định của môi trường quốc gia được
bảo vệ và bảo tồn.
Bảo vệ và thúc đẩy lợi ích kinh tế quốc gia Úc thông qua các chính sách và chương
trình phát triển bền vững, duy trì và khôi phục cơ sở hạ tầng sinh thái và cung cấp các
dịch vụ hệ sinh thái.
Công nhận những đóng góp của môi trường tự nhiên lành mạnh đối với sức khỏe của
con người, chất lượng của chúng cuộc sống và bản sắc dân tộc của chúng ta, và có
hành động phù hợp.
Bảo vệ và quản lý những phần của môi trường tự nhiên dưới sự kiểm soát trực tiếp
của Liên bang Úc, các vùng lãnh thổ trên cạn và dưới biển của Úc.
Làm việc trong quan hệ đối tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, thổ dân và dân đảo
trong eo biển Torres, cơ quan ngành công nghiệp, các cơ quan địa phương và khu
vực, các nhà nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng trong việc theo
đuổi mục tiêu và áp dụng khuôn khổ chính sách này.
Vai trò của các tiểu bang và vùng lãnh thổ cũng không kém phần quan trọng, vì họ có
trách nhiệm quản lý môi trường trong thẩm quyền của mình. Nhưng có một giới hạn cho
những gì chính phủ có thể làm. Tất cả các doanh nghiệp và cộng đồng có thể đóng góp,
đặc biệt khi đầy đủ thông tin về nơi mà lợi ích thường được nhận dạng. Đa dạng sinh học
là cơ bản cho một tương lai bền vững và thịnh vượng.
Để đảm bảo nguồn lực đầy đủ cho tất cả các Hội đồng quan tâm hoặc các tổ chức khu
vực, để đóng một vai trò lớn hơn trong bảo tồn ĐDSH. Điều này bao gồm việc giải quyết
các yêu cầu cụ thể của các cộng đồng bản địa.
-
Thiết lập một mạng lưới hỗ trợ đa dạng sinh học cho chính quyền địa phương.
Thúc đẩy quá trình thành công và thiết lập một hệ thống giải thưởng.
Cung cấp các hỗ trợ đặc biệt để Hội đồng nông thôn phát triển và thực hiện quy
hoạch địa phương để hỗ trợ bảo tồn ĐDSH.
Thực hiện kiểm toán các chương trình hiện có để đảm bảo chi phí hiệu quả.
Hỗ trợ cán bộ môi trường trong Hội đồng hoặc các nhóm khu vực để phát triển và
thực hiện các chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học chính quyền địa phương.
Cung cấp nguồn lực trực tiếp đến quy hoạch vùng và thực hiện hỗ trợ pháp lý cho
chính quyền địa phương để đóng một vai trò điều phối.
Tích hợp với các quy trình và các chương trình hiện có.
Hỗ trợ các đề án khuyến khích quản lý khu vực.
Xây dựng hệ thống thông tin và phối hợp theo dõi trên toàn quốc được tích hợp trên
cơ sở dữ liệu hiện có, để cung cấp cho Hội đồng các cơ bản thông tin về đa dạng sinh
học trong khu vực của họ. Đảm bảo chính quyền địa phương có quyền truy cập vào
hệ thống dữ liệu nhà nước và các quốc gia hiện có, trên các hệ thống thông tin địa lý
(GIS).Thiết lập các tiêu chuẩn giao thức dữ liệu, Cung cấp đào tạo, các công cụ và
chuyển giao công nghệ cho các nhà quản lý địa phương.
2.2 Nội dung và diễn biến của chính sách bảo tồn đa dạng sinh học ở Úc
2.2.1 Bối cảnh ra đời
Úc phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Đa dạng sinh học (CBD) vào năm 1993,
năm mà nó đã có hiệu lực. Để đối phó với các khu vực trung tâm, các chính phủ Úc đã
phát triển Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học của Úc (1996 Chiến lược,
DEST 1996). Đó là chiến lược đa dạng sinh học đầu tiên được phát triển tại Úc, cung cấp
một phương pháp tiếp cận để bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia 1996-2009.
Trong 15 năm qua, tất cả các chính phủ Úc đã đầu tư đáng kể trong việc phát triển và
thực hiện các chính sách và các chương trình bảo tồn ĐDSH. Nhiều chủ đất, các tổ chức
phi chính phủ, các doanh nghiệp, cá nhân cũng đã đầu tư thời gian và nỗ lực để bảo vệ đa
dạng sinh học đáng kể. Nhiều bài học quan trọng đã được học từ những nỗ lực bảo tồn,
và cũng đã có những tiến bộ đáng kể trong tư duy bảo tồn đa dạng sinh học và khoa học
từ các chiến lược đa dạng sinh học quốc gia đầu tiên được phát triển.
Năm 2001, việc xem xét năm năm đầu tiên của Chiến lược 1996 cho thấy những tiến
bộ đã đạt được trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Úc. Việc rà soát tìm thấy nó
khó khăn để khách quan đánh giá hiệu quả chống lại các mục tiêu chất lượng trong chiến
lược. Các mục tiêu quốc gia và các mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học cho 2001-2005
(Mục tiêu quốc gia và các mục tiêu, DEH 2001) được sản xuất trong một nỗ lực để thiết
lập có thời hạn mục tiêu và chỉ tiêu cho bảo tồn đa dạng sinh học trên toàn quốc. Họ
không được sự đồng ý của tất cả các điều luật khác.
Chiến lược năm 1996 đã giúp đẩy sự phát triển của chính sách mới, các chương trình
và pháp luật để điều chỉnh các mối đe dọa đến đa dạng sinh học. Chính phủ Úc, tiểu bang
và lãnh thổ, và địa phương, các tổ chức khu vực công và tư nhân sau đó đã phát triển một
loạt các chính sách đa dạng sinh học và phương pháp tiếp cận cho mục đích riêng của họ.
Song song đó, trong thập kỷ của Landcare khuyến khích nâng cao nhận thức, hiểu biết và
hành động của cán bộ quản lý đất đai để cải thiện quản lý môi trường trong chăn nuôi.
Năm 2006, Quốc Chiến lược đa dạng sinh học đánh giá Task Group được thành lập
bởi các NRMMC để xem lại cả hai Chiến lược năm 1996 và các mục tiêu quốc gia và các
mục tiêu. Việc xem xét nhìn liên kết giữa Chiến lược năm 1996 và nhà nước có liên
quan, lãnh thổ và chiến lược công nghiệp và xác định những bài học quan trọng từ việc
thực hiện Chiến lược năm 1996 và các mục tiêu quốc gia và các mục tiêu.
Đánh giá này năm 2006 cũng nhận thấy như sau:
-
-
-
Phần lớn các chiến lược năm 1996 là vẫn còn có liên quan đến sự phát triển của chính
sách bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia.
Có một mức độ cao của sự nhất quán giữa chính sách quốc gia đa dạng sinh học
(Chiến lược năm 1996 và các mục tiêu quốc gia và các mục tiêu) và các chiến lược
tiểu bang và lãnh đa dạng sinh học, ở cấp độ của mục tiêu bao trùm. Các mục tiêu
quốc gia và các mục tiêu là một kỷ lục hữu ích của đa dạng sinh học ưu tiên bảo tồn
quốc gia và định hướng chính sách trong năm 2001, nhưng họ không được thực hiện
trên toàn quốc vì sự thiếu thỏa thuận với các mục tiêu cụ thể.
Nhận thức của Chiến lược 1996 và các mục tiêu quốc gia thấp.
Sự quan tâm về việc quản lý đa dạng sinh học trong vùng cảnh quan hoặc bối cảnh
khu vực và quản lý trên toàn bộ hệ sinh thái, không được quan tâm bởi các chiến lược
1996 hoặc từ các mục tiêu quốc gia.
Các lỗ hổng của đa dạng sinh học dẫn đến biến đổi khí hậu nhanh chóng tạo ra nhu
cầu về phương pháp tiếp cận mới.
Một chiến lược sửa đổi nên có mục tiêu đo lường được.
Các NRMMC cũng khởi xướng điều tra những nguyên nhân gây suy giảm đa dạng
sinh học biển và đất liền ở Úc (Đa dạng sinh học Decline Nhóm công tác năm 2005;
Marine Đa dạng sinh học Decline Nhóm công tác năm 2008). Những điều tra xác định
các mối đe dọa đáng kể mà lái xe mất đa dạng sinh học và phân tích các vấn đề liên quan
đến việc thiết kế các chính sách và chương trình nhằm giải quyết các mối đe dọa. Những
phát hiện này, cùng với trạng thái gần đây nhất của Báo cáo môi trường (Beeton và công
sự, 2006), và các báo cáo gần đây về tính dễ tổn thương của đa dạng sinh học của Úc với
biến đổi khí hậu (Steffen và công sự, 2009) đã thông báo sự phát triển của Chiến lược
này.
Mục tiêu của Chiến lược 1996 để bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì các quá trình
sinh thái và các hệ thống là ngày nay như nó đã được thực hiện sau đó. Tuy nhiên, đã có
sự phát triển đáng kể về chính sách môi trường trong cuộc sống của Chiến lược 1996.
Chiến lược mới đã được xây dựng xung quanh ba ưu tiên cho hành động chính và
phản ánh những thay đổi trong cách tiếp cận. Kinh nghiệm và nghiên cứu từ năm 1996 đã
nêu bật tầm quan trọng của những khía cạnh quan trọng của khung bảo tồn ĐDSH. Để
đạt được những mục tiêu đề ra trong Chiến lược này, tuy nhiên, sự thay đổi trong hành vi
cần được đẩy mạnh. Chiến lược mới này cũng có chứa 10 mục tiêu quốc gia đo lường
cho năm 2015.
Các bài học thực tế của mười lăm năm hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học đã ảnh
hưởng đến chiến lược này. Kết quả là, nó tập trung vào việc cải thiện tính hiệu quả trong
hoạt động của chính phủ và cộng đồng mục tiêu đe dọa đối với đa dạng sinh học. Ví dụ,
Chiến lược này nhấn mạnh:
-
Hành động ở đúng quy mô
Nhằm quản lý bổ sung bên trong và bên ngoài các khu bảo tồn
Sử dụng một kết hợp của các cơ chế lập pháp và khuyến khích bổ sung để giải quyết
các hành vi cụ thể
Lập các phương pháp quản lý nhằm thúc đẩy việc sử dụng bền vững tài nguyên sinh
vật
Sự cần thiết cho mục đích đo lường quốc gia phải thỏa thuận từ tất cả các chính phủ
Úc, tiểu bang và lãnh thổ.
Chiến lược này cũng được xây dựng dựa trên sự quan tâm, tham gia của cộng đồng
trong bảo tồn đa dạng sinh học. Điều này đã xảy ra như suy nghĩ của chúng tôi liên quan
đến sự tham gia của cộng đồng, sự tham gia của các dân tộc bản địa, và quan hệ đối tác
nói chung đã phát triển.
Những nỗ lực của mỗi thẩm quyền, doanh nghiệp và cộng đồng cho đến nay đã bảo
tồn đa dạng sinh học vào các vấn đề quản lý môi trường rộng lớn hơn. Họ cũng đã phục
vụ để tập trung sự chú ý vào sự đánh đổi giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Chiến lược này được xây dựng dựa trên các bài học kinh nghiệm từ năm 1996, nhưng
cũng công nhận rằng có phạm vi để:
-
Cải thiện sự phối hợp của những nỗ lực để ngăn chặn thiệt hại trước khi suy thoái đa
dạng sinh học xảy ra
Tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về đa dạng sinh học, hệ sinh thái và các dịch vụ
hệ sinh thái
Tiếp tục để giải quyết lỗ hổng kiến thức một cách có chiến lược.
Trong ngắn hạn, chiến lược này nhằm mục đích để vị trí của chúng tôi tốt hơn để
khôi phục và bảo tồn đa dạng sinh học của sự giàu có của Úc.
Chính sách bảo tồn đa dạng sinh học của Úc được ban hành vào ngày 21/10/2011
nhằm bổ sung cho Chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học của Úc 2010-2030, đó là một
sáng kiến chung của chính phủ Úc, tiểu bang và lãnh thổ.
Bảng 2. 1 Khuôn khổ quốc gia, chính sách, pháp luật và báo cáo
Năm
Chính sách
1908
Quarantine Act 1908
1975
Great Barrier Reef Marine Park Act 1975
1980
Antarctic Treaty (Environment Protection) Act 1980
1981
Environment Protection (Sea Dumping) Act 1981
1981
Antarctic Marine Living Resources Conservation Act 1981
1984
National Conservation Strategy for Australia
1987
Sea Installations Act 1987
1991
Fisheries Management Act 1991
1992
National Forest Policy Statement
1992
National Strategy for Ecologically Sustainable Development
1992
Intergovernmental Agreement on the Environment
1993
Native Title Act 1993
1994
Wet Tropics of Queensland World Heritage Area Conservation Act 1994
1994
Council of Australian Governments Water Reform Framework
1995
Commonwealth Coastal Policy
Năm
Chính sách
1996
National Strategy for the Conservation of Australia’s Biological Diversity
1996
Australia: State of the Environment report
1996
(onwards)
Threat abatement plans (various)
1997
Nationally Agreed Criteria for the Establishment of a Comprehensive,
Adequate and Representative Reserve System for Forests in Australia (JANIS
criteria)
1997
Wetlands Policy of the Commonwealth Government of Australia
1997
Natural Heritage Trust of Australia Act 1997
1997
National Weeds Strategy
1998
Quarantine Proclamation 1998
1998
National Water Quality Management Strategy
1998
National Oceans Policy
1998
National Greenhouse Strategy
1998
Guidelines for Establishing the National Representative System of Marine
Protected Areas
1998
National Koala Conservation Strategy
1999
National Local Government Biodiversity Strategy
1999
National Framework for the Management and Monitoring of Australia’s Native
Vegetation
Năm
Chính sách
1999
National Principles and Guidelines for Rangeland Management
1999
Environment Protection and Biodiversity Conservation Act 1999
2001
National Objectives and Targets for Biodiversity Conservation 2001–2005
2001
Coastal Catchments Initiative
2001
National Approach to Firewood Collection and Use in Australia
2001
Australia State of the Environment report
2001
Biodiversity Conservation Research: Australia’s Priorities
2002
Regional Forest Agreements Act 2002
2002
National Framework for Environmental Management Systems in Australian
Agriculture
2002
National Framework for NRM Standards and Targets
2003
Framework for a National Cooperative Approach to Integrated Coastal Zone
Management
2003
Native Fish Strategy for the Murray-Darling Basin 2003–2013
2004
National Water Initiative
2004
National Biodiversity and Climate Change Action Plan 2004–2007
2004
Great Barrier Reef Marine Park Zoning Plan
2005
Farm Forestry National Action Statement
2005
Directions for the National Reserve System—a Partnership Approach
Năm
Chính sách
2006
Australia State of the Environment report
2007
Australian Weeds Strategy
2007
Australian Pest Animal Strategy
2007
Water Act 2007
2009
Australia’s Strategy for the National Reserve System 2009–2030
2010
Principles for Sustainable Resource Management in the Rangelands
2.2.2 Mục tiêu và nội dung chính
2.2.2.1 Mục tiêu của chính sách
Chính sách bảo tồn đa dạng sinh học của Úc là một cách tiếp cận mới để giải quyết
vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Chính
sách này là một lời kêu gọi hành động về tầm quan trọng của đa dạng sinh học và bảo tồn
đa dạng sinh học. Nó đưa ra định hướng quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học trong thập
kỷ tới và nó kêu gọi tất cả người dân Úc đóng góp.
10 mục tiêu được đặt ra trong 5 năm đầu thực hiện chính sách:
-
-
Đến năm 2015, đạt mức tăng 25% tổng số người dân Úc, các tổ chức công cộng và tư
nhân tham gia vào các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học.
Đến năm 2015, đạt mức tăng 25% trong việc làm và sự tham gia của các dân tộc bản
địa trong bảo tồn đa dạng sinh học.
Đến năm 2015, đạt được tăng gấp đôi giá trị của thị trường bổ sung cho các dịch vụ
hệ sinh thái.
Đến năm 2015, đạt được một sự gia tăng quốc gia của 600.000 km2 của môi trường
tự nhiên được quản lý chủ yếu để bảo tồn đa dạng sinh học trên cạn, dưới nước và
môi trường biển.
Đến năm 2015, 1.000 km2 của cảnh quan và hệ thống phân mảnh thủy sản đang được
khôi phục để cải thiện kết nối sinh thái.
Đến năm 2015, bốn mối liên kết hợp tác quy mô lục địa được thành lập và quản lý để
cải thiện kết nối sinh thái.
Đến năm 2015, giảm ít nhất 10% các tác động của các loài xâm lấn vào các loài bị đe
dọa và cộng đồng sinh thái trong môi trường trên cạn, thủy, hải sản.
-
-
Đến năm 2015, toàn quốc đồng ý ưu tiên khoa học và kiến thức về bảo tồn đa dạng
sinh học đang hướng dẫn các hoạt động nghiên cứu.
Đến năm 2015, tất cả các khu vực pháp lý sẽ xem xét lại pháp luật, chính sách và các
chương trình có liên quan để tối đa hóa sự liên kết với chính sách bảo tồn đa dạng
sinh học của Úc.
Đến năm 2015, thiết lập một chương trình giám sát đa dạng sinh học dài hạn quốc gia
và hệ thống báo cáo.
Chính sách này phản ánh nghĩa vụ quốc tế của Chính phủ Úc theo Công ước Đa dạng
sinh học, và củng cố vai trò của Chính phủ Úc trong việc hình thành Chiến lược bảo tồn
đa dạng sinh học của Úc giai đoạn 2010-2030 với sự phối hợp của chính quyền tiểu bang
và các vùng lãnh thổ.
2.2.2.2 Nội dung chính
a) Những nguyên tắc cơ bản của chính sách
Chính phủ Úc đã xây dựng nền móng cho một cách tiếp cận chiến lược và tích hợp để
giải quyết những thách thức của sự suy giảm đa dạng sinh học bằng cách áp dụng các
nguyên tắc sau đây:
1) Ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học trước khi nó xảy ra
Việc ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học trước khi nó xảy ra tốn kém chi phí ít hơn
để phục hồi các chức năng của hệ sinh thái sau khi thiệt hại đã xảy ra. Trong hầu hết các
trường hợp, các tài sản tự nhiên là không thể thay thế. Chúng ta không thể chờ đợi cho
đến khi các loài hoặc các hệ sinh thái đang bị đe dọa sau đó chúng ta mới hành động. Câu
trả lời nằm trong hành động phòng ngừa.
Áp dụng nguyên tắc này đòi hỏi một sự thay đổi có chủ ý ở việc tập trung đầu tư và
nỗ lực từ việc giải quyết “các dấu hiệu” mà những loài sinh vật và hệ sinh thái dễ bị suy
thoái nhất hoặc có nguy cơ để tập trung vào các nguyên nhân làm giảm sức khỏe của đa
dạng sinh học trên quy mô toàn cảnh quan. Đó là việc tiến hành một cách tiếp cận chiến
lược hơn để lập kế hoạch và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Nó có nghĩa là thích ứng với
các công cụ khác nhau có sẵn, chẳng hạn như quy định, đầu tư, quy hoạch và khuyến
khích tài chính để chủ động hơn trong việc ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học.
Việc áp dụng nguyên tắc này tích hợp bảo vệ các loài bị đe dọa và cộng đồng sinh vật
dựa vào các hệ thống sinh thái, cách tiếp cận cảnh quan quy mô hệ sinh thái sẽ tối đa hóa
hiệu quả sinh thái và đầu tư.
2) Đa dạng sinh học nên được đánh giá theo giá trị thực của nó
Chính sách và thị trường đã không làm chủ được các giá trị và lợi ích của đa dạng
sinh học và hệ sinh thái, thường dẫn đến sự lựa chọn nghèo nàn về cách sử dụng đa dạng
sinh học. Như một hệ quả, chi phí của sự suy giảm đa dạng sinh học nói chung không
phải phát sinh trực tiếp bởi người sử dụng, mà nó do toàn bộ cộng đồng Úc quyết định
như là chi phí công cộng. Làm cho giá trị của đa dạng sinh học có thể nhìn thấy là rất
quan trọng để đảm bảo rằng các chi phí trực tiếp tính vào việc ra quyết định, và sẽ giúp
đảm bảo phân phối công bằng hơn về chi phí và lợi ích của việc sử dụng đa dạng sinh
học.
Việc định giá sự phù hợp của đa dạng sinh học cho phép chúng ta tạo ra những đáp
ứng chính sách hiệu quả và có hiệu lực hơn, bao gồm: phương pháp tiếp cận dựa trên thị
trường để bảo vệ và quản lý đa dạng sinh học; cải cách những khuyến khích sai lầm; và
giảm thiểu tổn thất thông qua các quy định và giá cả (ví dụ, bằng cách tạo ra một thị
trường cho việc bù lỗ). Có thể giá trị đa dạng sinh học cũng khuyến khích các cấp thích
hợp đầu tư hạ tầng sinh thái như việc chúng tôi sẽ đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng
tốt khác.
Chính phủ Úc sẽ đóng vai trò lãnh đạo trong việc định giá đúng môi trường, và trong
việc tạo ra các công cụ chính sách phù hợp để đảm bảo các giá trị này một cách thích hợp
trong việc ra quyết định.
3) Cần phải có một phương pháp thích nghi để xây dựng khả năng phục hồi đa dạng
sinh học do biến đổi khí hậu.
Duy trì chức năng của hệ sinh thái, và tăng khả năng phục hồi hệ sinh thái với biến
đổi khí hậu và áp lực khác, sẽ đòi hỏi một sự kết hợp tinh vi và tích hợp các phương pháp
tiếp cận. Chúng ta cần phải theo dõi những nỗ lực và thích ứng với các cách tiếp cận linh
hoạt.
Một “danh mục” tiếp cận của biện pháp này sẽ phát huy tối đa những triển vọng
thành công bằng cách khuyến khích sự sáng tạo và phân tán các nguy cơ gây thất bại.
Danh mục các biện pháp nên bao gồm cả về quản lý các khu dự trữ mở và khu trữ đóng
của các hệ sinh thái trên cạn và dưới nước cho việc bảo tồn. Hành lang động vật hoang dã
sẽ cho phép động vật di chuyển, trong khi việc kết nối của thảm thực vật với các loại đất,
độ cao và khu vực sẽ xây dựng khả năng phục hồi cho các loài thực vật. Vùng đệm và sử
dụng đất bổ sung sẽ làm tăng sức chứa của các hệ sinh thái để thích ứng với thay đổi,
trong khi kiểm soát một cách chiến lược các mối đe dọa như cỏ dại và sâu bệnh sẽ góp
phần cho hệ sinh thái có khả năng mau phục hồi.
Nắm giữ một cách tiếp cận có khả năng thích nghi có nghĩa là đang được chuẩn bị để
thử nghiệm, nghiên cứu và điều chỉnh. Điều này đòi hỏi phải sử dụng một kế hoạch có
tính chu kỳ, thực hiện, giám sát, đánh giá và xem xét chương trình. Việc thích nghi cho
phép chúng ta đưa ra quyết định tốt hơn theo thời gian bằng cách xây dựng kiến thức của
chúng ta về các hệ thống phức tạp và thay đổi biện pháp can thiệp phù hợp. Các nguyên
tắc của quản lý thích nghi quan trọng hơn trong môi trường năng động và không thể đoán
trước, bởi vì họ cung cấp một cách có hệ thống để đối phó với những bất trắc và sự phức
tạp của suy giảm đa dạng sinh học, đặc biệt là trong một khí hậu thay đổi.
Trung tâm của nguyên tắc này là lập kế hoạch hiệu quả, tích hợp một loạt các kiến
thức và giá trị để tạo ra sự hiểu biết tốt nhất có thể của bất kỳ hệ sinh thái nào, và những
gì của dự án này đều có khả năng làm việc. Điều này quan trọng để sau đó giám sát sự
thay đổi của các hệ sinh thái và kết quả như vậy chúng ta có thể đánh giá hiệu quả của
can thiệp, trước khi xem xét lại các hành động tiếp theo của chúng ta dựa trên các thông
tin mới này.
Chính phủ Úc sẽ hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, các chuyên gia, ngành và
cộng đồng để quản lý tốt hơn việc lập kế hoạch và giám sát và thực hiện đánh giá rõ ràng
và xem xét chương trình. Chính phủ Úc cũng sẽ ưu tiên trong phương pháp tiếp cận đầu
tư và quy định để hành động xây dựng chức năng và khả năng phục hồi của hệ sinh thái.
4) Bảo tồn có hiệu quả đòi hỏi phải đầu tư có mục tiêu tốt
Thất bại trong việc nhận ra giá trị và chức năng của các dịch vụ sinh thái có thể dẫn
đến đầu tư có mục tiêu kém trong quản lý bảo tồn. Quyết định tài trợ cho bảo tồn đa dạng
sinh học có xu hướng tập trung vào "triệu chứng", và chưa được quan tâm đến phương
pháp tiếp cận chiến lược hoặc các nhu cầu quản lý liên tục. Áp dụng nguyên tắc này có
nghĩa là chính phủ Úc sẽ xác định các ưu tiên chiến lược đầu tư, dựa trên kiến thức đáng
tin cậy và những lợi ích có thể có của việc đầu tư trong dài hạn. Áp dụng nguyên tắc này
sẽ dẫn đến nhiều cơ hội hơn để cải thiện kéo dài qua hàng loạt các rủi ro đa dạng sinh
học. Chính phủ Úc sẽ tiếp tục đầu tư chiến lược trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học
và xây dựng các hệ sinh thái lành mạnh. Việc làm điều này bằng cách tận dụng các nguồn
tài trợ khác, sử dụng các khoản đầu tư của mình để tăng sự tham gia vào các hoạt động
bảo tồn, và bằng cách sử dụng và thúc đẩy cách tiếp cận dựa trên thị trường để bảo tồn.
Gán giá trị thích hợp với đa dạng sinh học và hỗ trợ điều này với những chỉnh sửa
hiệu quả sẽ làm tăng thị trường của đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái. Như
một hệ quả, cơ chế tài chính sẽ tiếp tục xuất hiện.
Chính phủ Úc sẽ làm việc với những người khác để phát triển các phương pháp sáng
tạo cho tài chính dài hạn đầy đủ và bền vững đa dạng sinh học. Việc khai thác các khoản
đầu tư được chia sẻ trên các khu vực tư nhân và chính phủ sẽ rất quan trọng.
5) Đa dạng sinh học là một vấn đề phức tạp và là một trách nhiệm chung, đòi hỏi sự hợp
tác và kết hợp các phương pháp tiếp cận
Với danh sách các yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường có ảnh hưởng đến đa dạng
sinh học, một cách tiếp cận phối hợp để bảo tồn đa dạng sinh học là rất quan trọng. Điều
này đòi hỏi chính quyền các cấp, các doanh nghiệp, cộng đồng, các nhà nghiên cứu, các
chủ đất tư nhân và các tổ chức phi chính phủ phải góp phần tham gia.
Một cách tiếp cận hợp tác và toàn diện là cần thiết để xác định những vấn đề cốt lõi,
trình điều khiển cơ bản và áp dụng các kết hợp đúng đắn của phương pháp tiếp cận.
Chúng bao gồm đầu tư trực tiếp, quy định, khuyến khích tài chính, phát triển thị trường
và hỗ trợ cộng đồng với thông tin và kiến thức. Trong quá trình nâng cao tiêu chuẩn và
hiệu quả của các chương trình môi trường của chúng tôi, chính phủ sẽ cần phải khai thác
tốt hơn các sáng tạo của cộng đồng Úc bằng các giải pháp kết hợp, bồi dưỡng và sáng tạo
đối với suy giảm đa dạng sinh học. Chúng ta phải công nhận và hỗ trợ các nỗ lực của các
tình nguyện viên, các chủ đất, nông dân và các nhóm cộng đồng để cập nhật và xây dựng
dựa trên sự tham gia của họ để di chuyển theo hướng có lợi.
Chính phủ Úc sẽ đóng một vai trò phối hợp trong việc lập kế hoạch và chia sẻ thông
tin để thúc đẩy sự hợp tác và tạo ra sức mạnh tổng hợp, chứ không phải là cơ quan làm
việc độc lập và nằm ngoài bước đi. Nó cũng có nghĩa là Chính phủ sẽ thúc đẩy sự quan
tâm đối với đa dạng sinh học trong các vấn đề chính sách liên chính phủ và liên ngành có
ảnh hưởng đến đa dạng sinh học.
6) Các giải pháp cần phải có quy mô trên cạn và dưới biển, những khoảng thời gian đó
phải có ý nghĩa sinh thái
Trên toàn quốc, chúng ta phải làm việc ở các quy mô sinh thái có ý nghĩa, nhìn vào
toàn bộ hệ sinh thái trên cạn, dưới biển và các khu sinh thái để đối phó với xu hướng môi
trường dài hạn, những hạn chế và cơ hội. Trong khi vấn đề vùng cần các giải pháp vùng,
nhưng vẫn cần được phát triển trong bối cảnh của cảnh quan rộng lớn hơn, hệ sinh thái.
Chính phủ Úc sẽ tăng cường việc sử dụng các kế hoạch chiến lược ở mức độ vùng,
trên cạn và dưới biển, cung cấp cơ hội hiệu quả nhất để hiểu các tác động tích lũy của các
hoạt động và xác định ưu tiên đầu tư. Chính phủ Úc sẽ tìm kiếm sự tham gia tốt hơn với
các chuyên gia và các bên liên quan, và sẽ làm việc để phát triển các cơ chế tài chính bền
vững cho bảo tồn lâu dài.
7) Đa dạng sinh học là một nguồn tài nguyên tái tạo, nhưng chúng ta không được làm
suy yếu khả năng của chúng để làm mới chúng.
Sự bền vững trong việc sử dụng đa dạng sinh học và hệ sinh thái có nghĩa là khả
năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của con người ở hiện tại và tương lai
và nó được duy trì. Điều này đòi hỏi một sự hiểu biết được cải thiện “sử dụng bền vững
đa dạng sinh học là gì ?” và những quyết định tốt hơn làm phương pháp giải thích để
nâng cao hiểu biết này.
Chính phủ Úc sẽ hợp tác với các chính phủ khác, các ngành công nghiệp và quản lý
tài nguyên để thúc đẩy và phối hợp các nguyên tắc sử dụng bền vững đa dạng sinh học
vào các chính sách, kế hoạch và chiến lược.
8) Thông tin đáng tin cậy và sự hiểu biết là điều cần thiết cho những quyết định tốt
Thông tin đáng tin cậy là cần thiết cho việc ra quyết định tốt, bởi vì nó cho phép các
chính phủ và các nhà quản lý môi trường khác dự đoán những thay đổi trong môi trường,
và hành động sớm để ngăn chặn hoặc giảm thiểu tác động.
Chính phủ Úc đang ở trong một vị trí duy nhất để làm việc với chính quyền tiểu bang
và vùng lãnh thổ và các tổ chức khác để tạo điều kiện thu thập và quản lý thông tin đáng
tin cậy. Trong trường hợp đầu tiên, áp dụng nguyên tắc này có nghĩa là làm cho việc sử
dụng tiến bộ công nghệ một cách tốt nhất trong quản lý thông tin, hệ thống hỗ trợ ra
quyết định kết nối với thu thập dữ liệu, hình ảnh vệ tinh và hệ thống thông tin địa lý. Nó
cũng có nghĩa là tập trung vào việc cung cấp và sử dụng hiệu quả các thông tin trong việc
ra quyết định thông qua quản lý thông tin và những thỏa thuận phân bổ. Chúng ta cần
phải đảm bảo những kiến thức và thông tin đáng tin cậy nhất từ các chương trình nghiên
cứu và giám sát đưa vào hệ thống này.
Theo đó, các ưu tiên thiết lập để giám sát đa dạng sinh học và thu thập thông tin phải
là những chính sách hỗ trợ và ra quyết định trực tiếp. Đây sẽ bao gồm: mức độ và tình
trạng của các hệ sinh thái; sự phân bố của các loài; quỹ đạo của các mối đe dọa như động
vật hoang dã và cỏ dại; quản lý và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; dự báo các tác
động của biến đổi khí hậu; và dự đoán thay đổi sử dụng đất và phát triển đô thị và nông
thôn.
Nước Úc là một nước đầu thế giới được công nhận trong lĩnh vực khoa học môi
trường và các ngành liên quan trong kinh tế học, công nghệ và truyền thông. Chúng ta có
rất nhiều thông tin và kiến thức chúng ta cần để giải quyết các vấn đề cấp bách nhất.
Nguyên tắc này liên quan đến việc phát triển các quá trình hội nhập và kênh kiến thức là
cách hiệu quả nhất. Kế hoạch Quốc gia về thông tin môi trường, bởi Chính phủ Úc công
bố vào năm 2010, là một bước tiến trong vấn đề này.
9) Tình trạng bảo tồn là khung xương trong những nỗ lực của chúng ta
Mở rộng và quản lý tình trạng bảo tồn của Úc vẫn còn là một chiến lược chính để duy
trì đa dạng sinh học và các hệ sinh thái lành mạnh. Hệ thống dự trữ quốc gia trên mặt đất
và Hệ thống đại diện quốc gia của các khu bảo tồn biển tạo nên hệ thống dự trữ chính
thức của chúng ta, đại diện cho sự đa dạng của các hệ sinh thái và các loài liên quan đến
lục địa và vùng biển của chúng ta. Hệ thống dự trữ quốc gia cũng bao gồm những nơi
mang tính biểu trưng nhất của chúng ta, nhiều nơi trong số đó cũng là di sản thế giới đã
được công nhận.
Ở phía bên trên mặt đất, Hệ thống dự trữ quốc gia được tạo thành khu bảo vệ được
quản lý để bảo tồn bởi Chính phủ Úc , nhà nước và chính phủ vùng lãnh thổ, các tổ chức
phi chính phủ, các cộng đồng bản địa và các chủ đất tư nhân. Như chúng ta khảo sát cách
tiếp cận quy mô cảnh quan, phần lớn các khu vực có giá trị bảo tồn cao bổ sung cần thiết
để xây dựng Hệ thống dự trữ quốc gia sẽ được sở hữu và quản lý tư nhân.
Vì vậy, Chính phủ Úc sẽ tập trung nguồn lực và nỗ lực của mình vào việc bảo tồn
quy mô cảnh quan bằng việc tiếp tục xây dựng một hệ thống toàn diện, đầy đủ và đại diện
của các khu dự trữ chính thức, không những bổ sung mà còn cải thiện các hệ thống dự trữ
đóng được quản lý để bảo tồn. Nỗ lực này đòi hỏi phải có sự hợp tác hiệu quả với các
chính phủ khác, các ngành công nghiệp, kinh doanh, các tổ chức phi chính phủ, những
người thổ dân và dân đảo Torres Strait, và các chủ đất tư nhân.
Trong lĩnh vực hàng hải, áp dụng nguyên tắc này có nghĩa là chính phủ Úc cũng sẽ
tiếp tục làm việc với tất cả các bên liên quan và chính quyền tiểu bang và lãnh thổ để xây
dựng một hệ thống đại diện của các khu bảo tồn biển, và để đảm bảo việc quản lý bền
vững các hoạt động đánh bắt, khai thác khoáng sản và du lịch tại các khu vực này.
10) Quy định về môi trường Khối cộng đồng nên chiến lược hóa, tập trung vào những
vấn đề có ý nghĩa môi trường quốc gia, và bổ sung cho pháp luật nhà nước và lãnh
thổ.
Quy định chính phủ Úc về đa dạng sinh học sẽ tiếp tục tập trung vào các vấn đề có
tầm quan trọng quốc gia và môi trường trên lãnh thổ Khối cộng đồng. Để có hiệu lực cho