I.2. Một số loài động vật có chất độc
1. Các loài rắn độc
Nọc của rắn gây độc theo nhiều cách:
- Gây loạn thần kinh, đặc biệt là cơ quan kiểm soát việc hô hấp và tuần hoàn, dẫn đến
co rút cơ bắp, nôn ói, co giật và tê liệt.
- Tác động lên máu hay mạch máu, phá hủy tế bào máu, gây xuất huyết nội; làm đông
máu khiến nạn nhân chết do tắc mạch.
- Tấn công và hủy hoại mô cơ, gây hoại tử, làm mô chết và gây ung thối.
+ Pit Viper. Các loại rắn độc ở Mỹ thuộc ba nhóm: pit viper, elapid và rắn nước. Chức
năng cơ bản của nọc độc rắn là làm gây mê nạn nhân và tiền tiêu hóa các mô của nạn
nhân. Triệu chứng lâm sàng do rắn cắn là bị phù nặng (sưng tấy) và ban đỏ (tấy đỏ) tại
chỗ cắn. Chứng phù và ban đỏ sẽ phát triển ra cả đầu, chi, hoặc thậm chí toàn bộ cơ
thể. Việc đau cục bộ sẽ xảy ra ngay lập tức, sự vận động trở nên đau đớn và khó khăn,
và gây ra sự đau cơ nghiêm trọng. Nạn nhân sẽ cảm giác rất khát nước. Một số nạn
nhân sẽ bị buồn nôn, nôn, tiêu chảy. Bị sốc là biến chứng quan trọng của các nạn nhân
trẻ. Phản vệ cũng được ghi nhận là một hội chứng lâm sàng hiếm thấy. Nếu nạn nhân
bị cắn ở mặt hoặc cổ, sự phù nặng mô mềm và triệu chứng viêm sẽ gây ra sự ngẽn các
đường hô hấp trên dẫn đến khó thở
+ Rắn Elapid (Rắn san hô Coral). Vết cắn do rắn san hô coral thường nguy hiểm hơn
vết cắn của rắn chuông do khả năng gây ra liệt hô hấp và do đó cần phải đảm bảo hỗ
trợ y tế ngay lập tức. Các loại rắn san hô coral thường không tấn công trừ khi bị truy
đuổi. Nọc độc của loại rắn này chủ yếu là chất độc thần kinh; tuy nhiên, cơ chế hoạt
động của nó đang được hiểu một các sơ sài. Các dấu hiệu của hệ thống thần kinh trung
ương thường xảy ra là tê liệt các chi, mất phương hướng, liệt cơ xương và cơ hô hấp.
+ Rắn biển. Một số loài rắn elapid biển giống rắn hổ mang cobra đã được biết đến. Vết
cắn của rắn biển gây ra các dấu hiệu tương tự với vết cắn của rắn hổ mang cobra.
Trong khoảng 20 phút đến vài tiếng, nạn nhân sẽ có cảm giác lưỡi dầy lên. Các cảm
giác cứng cơ, chứng liệt và cứng quay hàm tăng lên là các triệu chứng điển hình. Các
cơn co thắt có thể xảy ra và tỷ lệ tử vong vào khoảng 25%.
+ Rắn chuông long lanh. Có tên khoa học là Crotalus adamanteus, có chiều dài từ
90cm – 2,4m, chúng sống tập trung ở miền Đông nước Mỹ. Bằng nọc độc tấn công tế
bào máu của con vật hiến sinh, con rắn này là một trong số những con rắn nguy hiểm
nhất Bắc Mỹ. Nó dùng đuôi phát ra tiếng động, mỗi lần lột xác thì phần phụ mới ở
đuôi lại xuất hiện.
2. Thằn lằn.
Chỉ có hai loại thằn lằn độc được biết đến là Gila monster (Heloderma suspectum) và
thằn lằn Mexican beaded (H.horridum). Các loài thằn lằn này có răng dạng rãnh với
bốn tuyến nọc độc ở mỗi bên của hàm dưới sẽ cung cấp nọc độc đến bề mặt sau của
răng. Nọc độc heloderma chưa được xác định rõ nhưng có một loại chất độc thần kinh,
hyaluronidase, các peptide kích hoạt mạch, và hai arginine esterases đã được đã được
chiết xuất. Chất độc còn chứa nhân tố kích thích cơ trơn ổn định nhiệt. Đau đớn và phù
nề tại vết cắn đã được ghi nhận. Các triệu chứng này sẽ lan nhanh lên toàn bộ cơ thể
gây ra sốc, nôn mửa, suy giảm hệ thống thần kinh trung ương cho nạn nhân.
3. Các loài lưỡng cư
Rất nhiều loài lưỡng cư tạo ra dịch tiết ở các tuyến của da nhằm chống lại việc khô da
làm cho các động vật ăn thịt nhụt chí, và kiểm soát sự sinh trưởng của các tổ chức tế vi
trên bề mặt. Các dịch tiết gây nhiễm độc tế bào và hồng cầu. Các tuyến độc (các tuyến
da phía sau mắt) tiết ra chất độc phức tạp gây ra các triệu chứng tương tự với các chất
dẫn xuất từ các glycoside kích thích tim. Các triệu chứng lâm sàng là tiết nước bọt
nhiều, kiệt sức, loạn nhịp tim, chứng co giật, và chết chỉ trong vòng 15 phút
4. Các động vật biển
a. Động vật ruột khoang.
Các động vật ruột khoang gồm các loài thủy tức (Portuguese man-o-war), sứa, san hô,
và hải quỳ có độc. Các động vật ruột khoang có các tế bào ngòi độc được biết với tên
nematocyte được sử dụng để phòng thủ hoặc tìm thức ăn. Dấu hiệu lâm sàng của các
vết chích là chứng đau dây thần kinh, cảm giác nhức nhối, đau nhói, đau mạnh, kiệt
sức, chứng đỏ da, ngứa, nổi mày đay, sốc, chứng chuột rút, buồn nôn, nôn, đau lưng,
cấm khẩu, chứng tiết nước bọt (tiết nhiều nước bọt), bị liệt, mê sảng, chứng co giật, và
chết (theo tác giả Russell, năm 1984).
b. Động vật thân mềm.
Các động vật thân mềm là động vật không xương sống không phân đoạn thường bao
gồm bởi sò đá vôi và có chân bằng cơ bụng được sử dụng để di chuyển. Trong khoảng
80.000 loài, khoảng 85 loài được biết đến là gây độc cho con người. Ốc sên thuộc lớp
Conus (thể nón) là nguy hiểm nhất. Chất độc được sử dụng để làm tê liệt con mồi và
hiếm khi được sử dụng để phòng thủ. Hệ thống truyền chất độc tinh vi bao gồm ống
chất độc và các răng rỗng được sử dụng. Vết cắn của động vật chân bụng gây ra đau
nhói và nhức nhối. Các triệu chứng bao gồm chứng thiếu máu cục bộ, chứng xanh
tím, chứng tê cóng, chứng liệt và hôn mê.
c. Động vật chân đầu.
Nhiều loài thuộc lớp động vật chân đầu bao gồm bạch tuộc, mực ống, mực, ốc anh vũ
là có độc. Tuyến độc là một phần của hệ thống tiêu hóa của các động vật này. Hiện
vẫn chưa rõ bộ phận nào của động vật chân đầu có chứa chất độc. Vết cắn gồm hai
chấm nhỏ dẫn đến cảm giác bỏng hoặc đau nhói thần kinh, xuất huyết từ vết thương,
sưng phù, và chứng viêm. Các vết thương này rất đau nhưng ít khi gây chết người.
d. Động vật da gai.
Một lớp khác của động vật không xương sống gồm các loài gây độc cho con người là
động vật da gai, thường được biết là các loài sao biển, nhím biển, và hải sâm. Các gai
nhỏ (chân kìm nhỏ) bằng canxi cacbonát bao quanh thân của chúng. Các gai này có
chức năng tìm kiếm thức ăn, làm đẹp, và phòng thủ. Các gai nhả chất độc trực tiếp lên
da. Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm cảm giác bỏng nặng và chứng viêm lập tức tại vết
thương, tiếp theo là tình trạng tê cóng và liệt cơ. Các vết thương này thường không
nghiêm trọng (theo tác giả Russell, năm 1984).
e. Cá.
Cá độc gây ra vết thương bằng ngạnh của chúng dưới dạng cơ học hoặc kết hợp với bộ
phận tạo ra chất độc. Ngạnh cá thường nằm trên vây lưng hoặc vây ngực. Hơn 200 loài
cá được ghi nhận là nguy hiểm. Trúng độc từ cá ratfish, cá quái bạc, và cá trê (có nhiều
ở phương Đông) gây ra đau đớn tức thời và nhói và có thể mất khả năng làm việc.
Chứng viêm cục bộ có thể ở mức độ rất trầm trọng dẫn đến hoại tử và sốc
Một số loài cá có độc nếu ăn phải. Cá ăn phải tảo đơn bào hai roi cũng có độc nếu ăn
vào. Cá ăn thịt ăn cá ăn cỏ đã ăn phải thuốc bảo vệ thực vật độc hại cũng gây độc hại
nếu ăn vào. Một số loài cá độc do chính chất độc của chúng. Gan cá mập cũng có thể
độc hại, và cũng không nên ăn lươn moray vùng nhiệt đới. Cá scromboid chẳng hạn cá
ngừ Califoni, cá thu, cá ngừ cũng có thể có độc nếu bị ươn. Cá nóc, đặc sản rất đắt đỏ
ở Nhật Bản, nên được chế biến một các đặc biệt. Dấu hiệu của sự nhiễm độc là sự đau
nhói dây thần kinh ở môi và lưỡi, mất điều hòa trong vòng 10 đến 45 phút, tiếp theo đó
là nuốt vào (ingestion), buồn nôn, nôn, tiêu chảy, triệu chứng liệt, co giật dẫn đến tỷ lệ
tử vong là 60%.
h. Động vật có vỏ.
Động vật có vỏ trên nhiều đại dương cũng gây ra nhiễm độc nghiêm trọng. Tảo đơn
bào dinoflagellate có chứa chất độc được lọc qua các bộ phận tiêu hóa và hô hấp của
động vật có vỏ. Mặc dù động vật có vỏ không bị ảnh hưởng gì, con người và các động
vật khác ăn động vật có vỏ có thể bị nhiễm độc. Việc nhiễm độc được ghi nhận là theo
mùa (thường là vào mùa hè) và được quy cho “tảo nở hoa”, và thường được gọi là
hiện tượng “thủy triều đỏ”. . Nạn nhân bị nhiễm độc thường bị buồn nôn, nôn mửa,
tiêu chảy, cứng bụng khoảng 12 tiếng sau khi ăn vào. (Các triệu chứng này cũng có thể
do sự nhiểm khuẩn và vi sinh vật của động vật có vỏ). Dị ứng cũng được ghi nhận với
những nạn nhân trước đó đã tiếp xúc với chất độc.
Rùa.
Các loại rùa biển đã được biết đến là có độc, cụ thể là các loài ở vùng Ấn Độ DươngThái Bình Dương. Chỉ nên ăn gan của các loại rùa này với sự chú ý đặc biệt. Các dấu
hiệu nhiễm độc gồm đau phía trước đầu, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng,
chóng mặt, buồn ngủ, khó chịu, sợ ánh sáng, các cơn co thắt.
5. Động vật chân đốt (Động vật thuộc lớp nhện)
Chỉ có một số lượng nhỏ động vật chân đốt đủ gây độc nguy hiểm cho con người.
Khoảng gần 30.000 loài nhện được cho là có độc, chỉ một số nhỏ có răng nọc đủ
xuyên qua da nạn nhân. khu vực vết cắn thường bị hoại tử và gây lở loét gây ra sự kết
vảy hàng loạt của các mô mềm tạo ra vết sẹo méo mó. Các triệu chứng trên cơ thể có
thể xảy ra bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, khó di chuyển, nôn mửa, thiếu máu tan huyết,
chứng giảm tiểu cầu (theo các tác giả Peterson và Meerdink, năm 1989).
a. Nhện góa phụ đen
Họ Theridiidae, nó kích thước gần 1,2cm, số lượng loài 2500 con. Con nhện cái
tung các dây tơ lên trên con mồi mà nó bẫy được trong mạng nhện. Vết cắn của
nó độc còn hơn độc của con rắn chuông. Nhện đực không cắn, nên loài nhện
này có tên là góa phụ đen.
b. Bọ cạp
Trong nọc độc bọ cạp có chất katsutoxin (còn gọi là butothoxin). Độc tính của
nọc bọ cạp đối với thần kinh giống như nọc rắn. Nọc bọ cạp khiến nạn nhân đau
đớn dữ dội kèm theo nôn mửa, tăng huyết áp, co giật và hôn mê. Có loại ngăn
cản xung động thần kinh từ não xuống cơ bắp và cơ quan khác, gây tê liệt; có
loại gây co cứng cơ, dẫn đến tử vong.
-
Gồm:
+ Bọ cạp (Centroides spp.)
+ Bọ cạp lông
c.Con rết:
Rết: Một trong số rất nhiều cặp chân của rết có những mấu thịt cực khoẻ và vuốt sắc
mà tuyến độc tố tiết chất độc vào đó. Cặp chân này có tác dụng bắt và giết con mồi.
Vết đứt mà chân một số loài rết gây ra rất nguy hiểm cho con người. Có tên khoa học
Lithobius forficatus, kích thước 3cm, phân bố châu Âu. Nó di chuyển khá nhanh trên
15 đôi chân. Nó là động vật ăn nhện và các con vật nhỏ bé khác. Nó bắt con mồi trong
các vuốt sắc rồi tiêm thuốc độc làm tê liệt con mồi.
6. Cóc tía phương Đông:
Tên khoa học Bombina orientalis, có kích thước 5cm, phân bố Xiberi, Đông Bắc
Trung Quốc, Triều Tiên. Da con cóc này tiết ra một chất kích thích đối với miệng và
mắt con mồi.
Ếch Mũi tên độc: Một trong những loài lưỡng cư có khả năng tiết độc tố từ các tuyến
trong da. Tại sao nó lại có cái tên như vậy? Đó là vì thổ dân các vùng Trung và Nam
Mỹ vẫn thường tẩm chất độc của da ếch vào đầu mũi tên để làm vũ khí chiến đấu.
7. Côn trùng
Kiến California harvester (Pogonomyrmex californicus) và kiến lửa (Solenopsis
xyloni) gây ra các vết đốt đau cục bộ do axit formic trong nước bọt của chúng. Các vết
thương sẽ trở nên nguy hiểm nếu bị nhiều vết đốt cùng lúc. Vết đốt có thể gây ra sưng
tấy cục bộ và gây ra phản vệ ở nạn nhân nhạy cảm. Nhiều vết đốt có thể gây ra sưng
phù và dị ứng chỉ mất đi sau vài phút đến vài giờ. Vết cắn của bướm cũng có thể gây
ra bỏng cục bộ.
8.Bướm độc arctiide:
Họ Arctiidae, có kích thước sải cánh 2 – 7cm, số lượng loài 2500. Con bướm trưởng
thành và con sâu loài bướm này có đường nét lòe loẹt. Con sâu ăn cây thường độc đối
với động vật có xương sống và nó tích đọng chất độc của cây trong cơ thể nó, khi
trường thành con bướm cũng có độc nhằm chống lại con vật ăn mồi.
9. Động vật có vú
Chỉ một số loài động vật có vú là có độc. Thú mỏ vịt đực (Ornithorphynchos
anathmus) có cựa bằng sừng có thể cử động được ở phía trong của chi sau và gần với
gót chân. Cựa này được nối với đùi hoặc tuyến độc. Rất hiếm trường hợp tấn công
người, cũng như không để lại hậu quả nghiêm trọng. Có thể có hiện tượng sưng tấy và
đau tại chỗ bị thương và nạn nhân có thể bị sốc nhẹ.
10. Chim Petohui:
Loài chim duy nhất có độc tố. Nơi cư trú của chúng là Papua New Guinea. Năm 1992,
các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng lông và da của loài chim này chứa một lượng
chất độc có tên là homobatrachotoxin. Chất này có thể gây tê và mẩn ngứa trên da bất
kỳ người hay động vật nào chạm phải nó.
I.3. Tác động của một số chất độc đối với con người.
Từ nọc độc của các loài rắn, ong, bọ cạp, cóc, nhện... có thể giết người trong chớp mắt
nhưng cũng giúp chữa các bệnh hiểm nghèo, chẳng hạn như ung thư.
-
Nọc rắn
+ Nọc rắn thường được dùng để chế tạo huyết thanh kháng nọc, chữa cho
những người bị rắn cắn. Khoảng 400 loài rắn có nọc độc, và huyết thanh chế
từ loài nào chỉ chữa được cho người bị loài rắn đó cắn
+ Nọc rắn còn được dùng chế các thuốc giảm đau, chống viêm trong thấp
khớp, đau cơ, đau dây thần kinh... dưới dạng tiêm hay thuốc mỡ.
+ Nọc rắn độc hổ mang ở Brazil có chất captopril gây hạ huyết áp rất nhanh
khiến con mồi bủn rủn, tê liệt. Các nhà khoa học đã mô phỏng và chế tạo
được chất này để chữa trị bệnh tăng huyết áp.
+ Loại nọc độc làm đông máu được ứng dụng chế tạo thuốc cầm máu,
chống chảy máu nội tạng.
+ Từ nọc độc của rắn hổ mang, các nhà khoa học đã trích ra một chất có tên
là contortrastin, có khả năng khống chế tế bào ung thư, làm chậm sự lan
truyền của các khối u.
-
Nọc độc của bọ cạp
Trong nọc độc bọ cạp có chất katsutoxin (còn gọi là butothoxin). Độc tính
của nọc bọ cạp đối với thần kinh giống như nọc rắn. Nọc bọ cạp được dùng
để điều trị những rối loạn của hệ thần kinh. Viện ung thư và chiếu xạ sinh
học Canada đã điều chế thành công loại thuốc có tên là Escozul từ nọc độc
của bọ c ạp xanh, dùng điều trị một số bệnh ung thư, parkinson, viêm khung
chậu. Thuốc được áp dụng cho hơn 70.000 bệnh nhân, kết quả khả quan.
- Nọc ong
Những người nuôi ong thường không bị thấp khớp vì trong quá trình tiếp
xúc với ong, họ không thể tránh khỏi một vài lần bị ong đốt. Từ thực tế này,
các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát hiện nọc ong có khả năng chứa
bệnh khớp. Họ chế tạo được dược phẩm chứa mellitine có tác dụng kháng
viêm giảm đau mạnh gấp nhiều lần hydrocortison, dùng trong bệnh thấp
khớp. Melltine còn được dùng trong phẫu thuật chỉnh hình và thẩm mỹ để
làm các tế bào mịn màng hơn khi trở thành sẹo.
-
Mủ cóc
Mủ cóc rất độc nhưng từ lâu đã được trong Đông y với tên gọi thiềm tô. Nó
có công dụng giải độc, tiêu sưng, chữa mụn nhọt, sưng đau họng, đau bụng
(do bị cảm), cảm sốt, kinh giật, mê sảng.
-
Nọc nhện
Từ nọc độc của loài nhện ở Chile, các nhà khoa học Mỹ bào chế ra một chất
có tên là Gs. Mtx-4, giúp điều hòa nhịp tim của những con vật thử nghiệm
nhằm chế tạo một loại thuốc chữa rung tim.
II. Độc chất thực vật
II.1. Độc tố gây ra viêm dạ dày.
M ột vài chất gây nhiễm độc là sản phẩm của cây có chứa anbumin độc, như là cây
cam thảo dây (abrus precacious) và cây thầu dầu (Ricinus communis).
Bảng 2.1. Những thực vật gây ảnh hưởng đến bộ máy tiêu hóa, Những tác nhân độc
chất có liên quan, và những biểu hiện lâm sàng.
II.2. Thực vật có chứa Digitalis.
Con người bị chết bởi ăn dễ, nhai lá hoặc hoa, hoặc là uống nước từ lọ mà trong đó có
thực vật chứa Digitalis như là cây Huệ chuông (Convallaria majalist), cây mao địa
đàng (Digitalis purpurea), hay cây trúc đào (Nerium oleander) được thể hiện dưới đây.
Đầu tiên có một sự tác động cục bộ tới cuống họng tiếp theo đó là nôn mửa. Ngược lại
với những tác dụng của chất Glycosides tim, ngộ độc do các cây như trên là có liên
quan tới tiêu chảy và đau bụng vì có sự hiện diện của chất saponins và các chất kích
thích khác. Nhiễm độc cấp tính là sự biểu hiện giảm độ co thắt tim, nhịp tim chậm, và
hyperkalemia (bảng 10.3)
Bảng 2.2.. Các thực vật có chứa Digitalis – cấu tạo đặc trưng, các biểu hiện lâm sàng
II.3. Thực vật có chứa Nicotine, Cystisine, và Coniine
T ất cả các chất Alkaloid này có ảnh hưởng như nhau. Một vài chất gây độc ở phía tây
nước Mỹ là do bởi ăn những cây này vào bụng, Bao gồm thực vật hoang dã trong món
trộn và lá cây thuốc lá. Nhiễm độc Cystisin xảy ra khi là mầm của cây đỗ, như vỏ của
cây hoa mai vàng (golden chain tree Laburnum anagyroides. Nhiễn độc Coniine xảy ra
ăn cây rau mùi tây như Lá hoặc mầm của cây độc cần (Conium maculatum). Socrates
được cho là khi uống phải một dung dịch chiết suất từ chất độc của cây độc cần. Hiện
tượng nôn mửa xảy ra trong vòng hàng giờ (phổ biến thường thường trong khoảng 15
phút), kèm theo hiện tượng sùi bọt mép. Hiện tượng đau bụng, tiêu chảy xảy ra rất ít
và hiếm. Đâu đầu, rối loạn, mệt mỏi cơ bắp, tim đập nhanh, sốt, co giãn đồng tử mắt.
Cái chết xảy ra khi ngừng hô hấp.
II.4. Thực vật có chứa Atropine
Một số loài thực vật ở Mỹ có chứa Atropine hoặc Atropine có liên quan tới Alkaloids.
Quan trọng nhất trong nhóm thực vật này là cây cà độc dược (Datura stranmonium).
Con người bị nhiễm độc khi ăn phải mầm giống hoặc là cánh hoa non của cây cà độc
dược thường gây ra những ảo giác. Sớm có triệu chứng co giãn đồng tử cùng với mắt
mờ do sự điều tiết của mắt kém và khan cuốn họng gây khó nuốt, và nói rất khó khăn.
Da trở nên khô, nóng và đỏ ứng. Chứng phát ban có thể xuất hiện trên cổ, mặt và tai.
Gây ra nhiễm độc nặng hơn như sốt, gây ảo giác, và gây mê sảng, co giật.Nhiễm độc
Atropine giống như một trong những trạng thái khác nhau của bệnh lý như Viêm não,
tăng hàm lượng Ure, chấn động não, và gây rối loạn tinh thần. Đặc biệt là trẻ em rất
nhạy cảm với chất độc Atropine. May mắn thay, sự rủi ro này cũng không phổ biến và
quá trình phục hồi xảy ra trong 24 giờ
II.5. Thực vật gây chứng co giật.
Thực vật có nguồn gốc ở Mỹ chúng gây ra chứng co giật đó là biểu hiện của nhiễm
độc cấp tính của chúng khi ăn phải cây độc cần nước(Cicuta sp.). Nước cây độc cần
chỉ tìm thấy ở những nơi ẩm ướt, vùng đầm lầy và có thể nhầm với củ cải dại. Trong
khoảng từ 15 phút cho đến 1 tiếng sau khi ăn phải thì nạn nhân bị nôn mửa, chảy nước
dãi, những cơn chấn động nhẹ. Những biểu hiện này xảy ra nhanh chóng nặng hơn là
dẫn đến bệnh động kinh. Tử vong xảy ra sau quá trình thiếu oxy kéo dài trong suốt quá
trình tiêm nhiễm của các cơ hô hấp
II.6. Thực vật có chứa xyanua
Một số thực vật có chứa xyanua hay các dạng khác nhau của xyanua báo trước sự phát
thải xyanua trên quá trình tiêu thụ. Xyanua làm gián đoạn quá trình vận chuyển chuỗi
electron và làm ngừng tế bào hô hấp.Do đó xyanua là nguyên nhân của sự giảm oxy
trong máu và thiếu oxy. Dấu hiệu cấp tính cổ điển là sự hô hấp nhanh chóng, máu có
màu đỏ anh đào, cuối cùng là bị tai biến mạch máu. Sẽ bị chết trong khoảng 10 đến 30
phút nếu như bệnh nhân không được chữa trị kịp thời. Chứng nhiễm độc Xyanua
thường thường được quan sát thấy trong những động vật nuôi ăn cỏ như loài cây lúa
miến (loài cỏ Sudan, cỏ Johnson, milo) và Ngô
II.7. Thực vật có tích tụ Nitrat
Nitrat tích tụ trong chuỗi thực vật đặc biệt là trong vỏ thân cây thực vật. Chứng nhiễm
độc Nitrat từ việc ăn phải nguyên liệu thực vật mà phổ biết nhất thường thường trong
động vật nhai lại, và Nitrat được giảm bớt để tạo thành Nitrit bởi vi khuẩn rumin
II.8. Thực vật gây ra bệnh ngoài ra.
Trong thực tế, nhiễm độc ngoài ra do thực vật gây ra sưng tấy, phồng dộp, đau đớn, và
ngứa. Cơ thể phản ứng có thể cũng xảy ra nếu chất nhiễm độc ngoài ra như ăn, nhưng
mà trường hợp này cũng rất hiếm. điều trị bằng cách rửa da với xà phòng trong nước
trong khoảng 5 phút để loại bỏ chất độc và để ngăn ngừa sự lan rộng của độc chất trên
toàn bộ da.
II.9. Một số thực vật thường gặp có chứa độc tố
1. Hoa đậu tía
Đậu tía là loại cây thân rủ xuống. Hoa của nó có màu xanh da trời, màu hồng hoặc
màu trắng. Toàn bộ cây đậu tía từ cây đến quả đều chứa chất độc, nhưng cũng có một
số người cho răng hoa đậu tía không độc. Hầu hết các trường hợp ăn cây đậu tía đều
gây buồn bôn, bị chuột rút và bị tiêu chảy. Những người sau khi vô tình ăn loại cây
này phải được điều trị ngay bằng phương pháp Hydrat hóa tĩnh mạch và uống thuốc
chống nôn.
2. Hoa mao địa hoàng
Hoa mao địa hoàng là một loại thực vật đầy sức cuốn hút, có thể cao tới 1m.
Những bông hoa mao địa hoàng có thể có màu tím, màu hồng hoặc màu trắng,
thỉnh thoảng có những chấm chấm bên trong thân. Khi ăn bất kỳ phần nào của loại
thực vật này sẽ dễ dàng bị mắc các vấn đề với hệ thống tim mạch sau khi cảm thấy
buồn nôn, chuột rút và đau ở miệng. Khi bạn lỡ ăn loại thực phẩm này, bác sỹ sẽ
cho rửa dạ dày hoặc cho dùng loại thuốc làm nhịp tim bạn trở lại bình thường.
3. Hoa tú cầu (hoa đĩa)
Những bông hoa có hình khối màu xanh đậm hoặc xanh trắng này có thể cao đến
4,5m. Khi ăn loại hoa này bạn sẽ bị đau bụng nhiều giờ sau đó. Thông thường,
người bị nhiễm độc từ loại cây này có thể bị ngứa da, buồn nôn, sức lực giảm, mồ
hôi túa ra. Những người xấu số có khi còn bị hôn mê, co giật và máu ngừng lưu
thông. Còn những người may mắn hơn khi phát hiện kịp thời thì có thể nhờ sự trợ
giúp của bác sỹ. Bác sỹ sẽ cho bệnh nhân dùng thuốc làm giảm những triệu chứng
nguy cấp.
4. Hoa lan chuông
Những bông hoa lan chuông trông thật đáng yêu, nhưng lại chứa rất nhiều độc
tố. Chất độc có ở mọi nơi, từ đỉnh hoa. Nếu vô tình ăn một chút hoa lan chuông
thì có thể chưa có triệu chứng gì, nhưng nếu lỡ ăn nhiều thì có thể bị buồn nôn,
đau ở miệng, chuột rút và bị tiêu chảy.
5. Hoa hồng môn
Lá và những bông hoa hồng môn hình trái tim đầy nhựa sống lại mang độc tính
cao. Khi ăn phải loài thực vật này sẽ khiến bạn cảm giác đau nhức cả miệng,
tiếp đến là sưng và phỏng rộp. Giọng cũng bị khan và cổ họng đau khó nuốt.
Trong trường hợp này bệnh nhân phải uống ngay nước lạnh, thuốc giảm đau và
những loại thảo dược như cam thảo. Như vậy, tình trạng nguy hiểm cũng sẽ
được giảm nhẹ hơn.
6. Hoa cúc
Những bông hoa vàng này thường được mọi người ưu ái trồng trong các chậu
đặt ở các bậc thềm nhà trong những dịp lễ tết. Có 100 đến 200 loại hoa cúc. Nói
chung, hoa cúc thường mọc thấp dưới đất nhưng chúng cũng có thể mọc phát
triển thành những bụi cao. Tuy vậy, phần đầu của hoa cũng có chứa độc tố gây
độc cho cơ thể người. Khi bị nhiễm độc, có thể bị viêm sưng, ngứa và dị ứng.
7. Hoa trúc đào
Với trúc đào, mọi phần trên thân cây đều có độc. Thậm chí cũng bị nhiễm độc
khi chẳng may hít phải khói đốt thân cây, hay khi vô tình nuốt phải nước đọng
trên hoa, cũng bị nhiễm độc vì độc tố sinh ra từ loại thực vật này rất cao.
Thường người bị nhiễm độc từ loại cây này sẽ có nhịp tim thay đổi, có thể
chậm xuống hoặc có thể cao vọt lên. Khi bị nhiễm độc, nên nhanh chóng đến
bác sỹ
8. Cây thuộc loại Ficus
Những loại cây thuộc Ficus ví dụ như sung, bồ đề… Những cây này có đặc
điểm chung là trên lá có mủ. Có khoảng 800 loại cây thuộc loại ficus. Những
cây này có thể cao 23m. Những cây này có thể trồng làm cảnh. Tuy nhiên,
những trường hợp khi nhiễm độc từ cây này là có thể bị ngứa da và bị sưng
phồng da lên.
9. Hoa đỗ quyên
Hoa đỗ quyên có hình chiếc chuông trông lôi cuốn, nhất là thời gian mùa xuân.
Nhưng lá cây đỗ quyên và mật của nó lại rất độc. Nếu lỡ ăn phải loại này, môi
sẽ bị phỏng rộp, tiếp theo là chảy dãi, buồn nôn, bị tiêu chảy và ngứa nhức trên
da. Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể bị đau đầu, suy yếu cơ bắp, mờ mắt. Nhịp
tim giảm mạnh hay đập loạn nhịp. Tình trạng nguy hiểm hơn, có thể rơi vào
tình trạng hôn mê hoặc co giật dẫn đến chết người
10. Hoa thủy tiên
Thủy tiên là một nhóm cây dạng thân hành cứng, chủ yếu ra hoa vào mùa xuân.
Những bông hoa thủy tiên nhìn thật mỏng manh, xinh xắn nhưng lại chứa nhiều
độc tính. Một số trường hợp nhầm loại cây này là hành nên ăn với số lượng lớn.
Nếu ăn phải loại này sẽ gặp một số triệu chứng như: chóng mặt, buồn nôn, co
giật và tiêu chảy
11. Cà độc dược
Cà độc dược còn gọi là mạn đà la, tên khoa học là Datura metel, thuộc họ Cà
(Solanaceae). Trong cây (ở lá và hột có hàm lượng cao nhất) có chứa nhiều
ancaloit (hàm lượng toàn phần từ 0,2-0,5%), chủ yếu là scopolamin, còn có
hyoscyamin, atropin và các saponin, flavonoit, tanin... với số lượng không đáng
kể. Tác dụng dược lý chủ yếu là do các ancaloit: làm giãn phế quản, giãn đồng
tử, giảm nhu động ruột và bao tử nếu những cơ quan này co thắt, làm khô nước
bọt, dịch vị, mồ hôi.