Grimm
stories
The three brothers
There was once a man who had three sons, and nothing else in the world but the
house in which he lived. Now each of the sons wished to have the house after his father's
death; but the father loved them all alike, and did not know what to do; he did not wish to
sell the house, because it had belonged to his forefathers, else he might have divided the
money amongst them. At last a plan came into his head, and he said to his sons, "Go into
the world, and try each of you to learn a trade, and, when you all come back, he who
makes the best masterpiece shall have the house."
The sons were well content with this, and the eldest determined to be a blacksmith, the
second a barber, and tche third a fencing-master. They fixed a time when they should all
come home again, and then each went his way.
It chanced that they all found skilful masters, who taught them their trades well. The
blacksmith had to shoe the King's horses, and he thought to himself, "The house is mine,
without doubt." The barber only shaved great people, and he too already looked upon the
house as his own. The fencing-master got many a blow, but he only bit his lip, and let
nothing vex him; "for," said he to himself, "If you are afraid of a blow, you'll never win
the house."
When the appointed time had gone by, the three brothers came back home to their father;
but they did not know how to find the best opportunity for showing their skill, so they sat
down and consulted together. As they were sitting thus, all at once a hare came running
across the field. "Ah, ha, just in time!" said the barber. So he took his basin and soap, and
lathered away until the hare came up; then he soaped and shaved off the hare's whiskers
whilst he was running at the top of his speed, and did not even cut his skin or injure a hair
on his body. "Well done!" said the old man. "your brothers will have to exert themselves
wonderfully, or the house will be yours."
Soon after, up came a nobleman in his coach, dashing along at full speed. "Now you shall
see what I can do, father," said the blacksmith; so away he ran after the coach, took all
four shoes off the feet of one of the horses whilst he was galloping, and put him on four
new shoes without stopping him. "You are a fine fellow, and as clever as your brother,"
said his father; "I do not know to which I ought to give the house."
Then the third son said, "Father, let me have my turn, if you please;" and, as it was
beginning to rain, he drew his sword, and flourished it backwards and forwards above his
head so fast that not a drop fell upon him. It rained still harder and harder, till at last it
came down in torrents; but he only flourished his sword faster and faster, and remained as
dry as if he were sitting in a house. When his father saw this he was amazed, and said,
"This is the master-piece, the house is yours!"
His brothers were satisfied with this, as was agreed beforehand; and, as they loved one
another very much, they all three stayed together in the house, followed their trades, and,
as they had learnt them so well and were so clever, they earned a great deal of money.
Thus they lived together happily until they grew old; and at last, when one of them fell
sick and died, the two others grieved so sorely about it that they also fell ill, and soon after
died. And because they had been so clever, and had loved one another so much, they were
all laid in the same grave.
Ba anh em
Ngày xưa, có một người cha có ba người con trai, gia tài của ông vỏn vẹn chỉ là căn nhà
ông đang ở. Kể ra, sau khi ông chết mỗi người con đều cần một căn nhà. Nhưng ông yêu
quí ba con như nhau, không muốn thiên vị một con nào cả, nên ông rất phân vân chưa biết
quyết định như thế nào. Bán căn nhà lấy tiền chia đều cho ba con thì ông không muốn, vì
căn nhà do ông bà nội để lại. Nghĩ mãi chợt ông nảy ra một ý và nói với các con:
- Các con hãy đi xa để kiếm sống, mỗi con học lấy một nghề, đến khi các con trở về, con
nào giỏi nhất thì sẽ được thừa hưởng căn nhà. Các con đều vui lòng như vậy. Người con cả
muốn trở thành thợ đóng móng ngựa, người thứ hai muốn trở thành thợ cắt tóc, người thứ
ba lại muốn trở thành người dạy đấu kiếm. Họ hẹn nhau ngày trở về nhà rồi cùng lên
đường.
Công thành danh toại, cả ba đều tìm được thầy giỏi truyền nghề cho. Người thợ đóng
móng ngựa được cử chuyên đóng móng cho ngựa nhà vua, anh nghĩ:
- Giờ thì tài năng mình còn kém ai nữa, mình sẽ được nhận căn nhà.
Người thợ cắt tóc cũng chuyên cắt tóc cho các quan trong triều nên anh nghĩ căn nhà thế
nào chả là của mình. Người đấu kiếm tuy bị những cú đâm chém nhưng vẫn nghiến răng
chịu đựng và không hề tỏ ra nản lòng, vì anh luôn luôn tự nhủ mình:
- Nếu mình nhát thì căn nhà kia chẳng bao giờ thuộc về mình.
Rồi ngày hẹn tới, cả ba đều trở về ngồi quanh bên cha. Họ chưa biết lúc nào có dịp tốt để
khoe tài. Họ ngồi bên nhau phán đoán. Họ đang ngồi thì có một con thỏ từ phía cánh đồng
chạy tới, người thợ cắt tóc nói:
- Chà, nó đến đúng lúc quá! Anh lấy chổi, xà bông và đánh bọt. Khi thỏ chạy qua, anh quệt
chổi xà bông ngang mũi thỏ và cạo một nhát hết luôn bộ râu mà thỏ không hề bị xước mặt
hay bị đau. Người cha nói:
- Cha rất hài lòng, nếu những đứa kia không tài bằng thì căn nhà là của con.
Chưa được bao lâu lại có người đánh xe ngựa chạy vụt qua.
- Hãy nhìn con trổ tài, cha của con! Người thợ đóng móng ngựa nói và nhảy theo chiếc xe,
tháo bốn chiếc móng sắt ở gót chân ngựa và đóng luôn bốn cái mới trong lúc ngựa đang
chạy.Người cha nói:
- Con đúng là một đấng nam nhi, con chẳng kém gì em con, giờ thì cha không biết trao
ngôi nhà cho con nào. Lúc đó người con thứ ba nói với cha:
- Cha ạ, hãy cho con trổ tài một lần. Trời bắt đầu mưa, anh ta rút kiếm ra, đẩy cây kiếm
quay quanh ngón tay trỏ. Kiếm quay trên đầu nhanh đến nỗi không có giọt nước mưa nào
chảy qua nổi. Trời mỗi lúc một mưa to, rồi mưa như đổ nước xuống, anh đẩy kiếm càng
nhanh hơn, kiếm quay nhanh đến nỗi người anh không hề bị ướt.
Người cha nhìn thấy vậy hết sức kinh ngạc, ông nói:
- Con quả là người tài nhất, căn nhà là của con. Hai người anh rất hài lòng về lời khen và
quyết định của cha. Nhưng ba anh em vốn thương yêu nhau nên họ sống chung với nhau
trong căn nhà thừa hưởng của cha mẹ. Tuy mỗi người một nghề nhưng họ khéo tay, giỏi
nghề nên sống rất sung túc. Cả ba anh em sống hòa thuận tới lúc tóc bạc, răng long.
Snow-white
It was the middle of winter, and the snow-flakes were falling like feathers from the sky,
and a queen sat at her window working, and her embroidery-frame was of ebony. And as
she worked, gazing at times out on the snow, she pricked her finger, and there fell from it
three drops of blood on the snow. And when she saw how bright and red it looked, she
said to herself, "Oh that I had a child as white as snow, as red as blood, and as black as the
wood of the embroidery frame!" Not very long after she had a daughter, with a skin as
white as snow, lips as red as blood, and hair as black as ebony, and she was named Snowwhite. And when she was born the queen died. After a year had gone by the king took
another wife, a beautiful woman, but proud and overbearing, and she could not bear to be
surpassed in beauty by any one. She had a magic looking-glass, and she used to stand
before it, and look in it, and say,
"Looking-glass upon the wall,
Who is fairest of us all?"
And the looking-glass would answer,
"You are fairest of them all."
And she was contented, for she knew that the looking-glass spoke the truth. Now, Snowwhite was growing prettier and prettier, and when she was seven years old she was as
beautiful as day, far more so than the queen herself. So one day when the queen went to
her mirror and said,
"Looking-glass upon the wall,
Who is fairest of us all?"
It answered,
"Queen, you are full fair, 'tis true,
But Snow-white fairer is than you."
This gave the queen a great shock, and she became yellow and green with envy, and from
that hour her heart turned against Snow-white, and she hated her. And envy and pride like
ill weeds grew in her heart higher every day, until she had no peace day or night. At last
she sent for a huntsman, and said, "Take the child out into the woods, so that I may set
eyes on her no more. You must put her to death, and bring me her heart for a token." The
huntsman consented, and led her away; but when he drew his cutlass to pierce Snowwhite's innocent heart, she began to weep, and to say, "Oh, dear huntsman, do not take my
life; I will go away into the wild wood, and never come home again." And as she was so
lovely the huntsman had pity on her, and said, "Away with you then, poor child;" for he
thought the wild animals would be sure to devour her, and it was as if a stone had been
rolled away from his heart when he spared to put her to death. Just at that moment a young
wild boar came running by, so he caught and killed it, and taking out its heart, he brought
it to the queen for a token. And it was salted and cooked, and the wicked woman ate it up,
thinking that there was an end of Snow-white.
Now, when the poor child found herself quite alone in the wild woods, she felt full
of terror, even of the very leaves on the trees, and she did not know what to do for fright.
Then she began to run over the sharp stones and through the thorn bushes, and the wild
beasts after her, but they did her no harm. She ran as long as her feet would carry her; and
when the evening drew near she came to a little house, and she went inside to rest.
Everything there was very small, but as pretty and clean as possible. There stood the little
table ready laid, and covered with a white cloth, and seven little plates, and seven knives
and forks, and drinking-cups. By the wall stood seven little beds, side by side, covered
with clean white quilts. Snow-white, being very hungry and thirsty, ate from each plate a
little porridge and bread, and drank out of each little cup a drop of wine, so as not to finish
up one portion alone. After that she felt so tired that she lay down on one of the beds, but it
did not seem to suit her; one was too long, another too short, but at last the seventh was
quite right; and so she lay down upon it, committed herself to heaven, and fell asleep.
When it was quite dark, the masters of the house came home. They were seven dwarfs,
whose occupation was to dig underground among the mountains. When they had lighted
their seven candles, and it was quite light in the little house, they saw that some one must
have been in, as everything was not in the same order in which they left it. The first said,
"Who has been sitting in my little chair?" The second said, "Who has been eating from my
little plate?" The third said, "Who has been taking my little loaf?" The fourth said, "Who
has been tasting my porridge?" The fifth said, "Who has been using my little fork?" The
sixth said, "Who has been cutting with my little knife?" The seventh said, "Who has been
drinking from my little cup?" Then the first one, looking round, saw a hollow in his bed,
and cried, "Who has been lying on my bed?" And the others came running, and cried,
"Some one has been on our beds too!" But when the seventh looked at his bed, he saw
little Snow-white lying there asleep. Then he told the others, who came running up, crying
out in their astonishment, and holding up their seven little candles to throw a light upon
Snow-white. "O goodness! O gracious!" cried they, "what beautiful child is this?" and
were so full of joy to see her that they did not wake her, but let her sleep on. And the
seventh dwarf slept with his comrades, an hour at a time with each, until the night had
passed. When it was morning, and Snow-white awoke and saw the seven dwarfs, she was
very frightened; but they seemed quite friendly, and asked her what her name was, and she
told them; and then they asked how she came to be in their house. And she related to them
how her step-mother had wished her to be put to death, and how the huntsman had spared
her life, and how she had run the whole day long, until at last she had found their little
house. Then the dwarfs said, "If you will keep our house for us, and cook, and wash, and
make the beds, and sew and knit, and keep everything tidy and clean, you may stay with
us, and you shall lack nothing." - "With all my heart," said Snow-white; and so she stayed,
and kept the house in good order. In the morning the dwarfs went to the mountain to dig
for gold; in the evening they came home, and their supper had to be ready for them. All the
day long the maiden was left alone, and the good little dwarfs warned her, saying,
"Beware of your step-mother, she will soon know you are here. Let no one into the house."
Now the queen, having eaten Snow-white's heart, as she supposed, felt quite sure that now
she was the first and fairest, and so she came to her mirror, and said,
"Looking-glass upon the wall,
Who is fairest of us all?"
And the glass answered,
"Queen, thou art of beauty rare,
But Snow-white living in the glen
With the seven little men
Is a thousand times more fair."
Then she was very angry, for the glass always spoke the truth, and she knew that the
huntsman must have deceived her, and that Snow-white must still be living. And she
thought and thought how she could manage to make an end of her, for as long as she was
not the fairest in the land, envy left her no rest. At last she thought of a plan; she painted
her face and dressed herself like an old pedlar woman, so that no one would have known
her. In this disguise she went across the seven mountains, until she came to the house of
the seven little dwarfs, and she knocked at the door and cried, "Fine wares to sell! fine
wares to sell!" Snow-white peeped out of the window and cried, "Good-day, good woman,
what have you to sell?" - "Good wares, fine wares," answered she, "laces of all
colours;"and she held up a piece that was woven of variegated silk. "I need not be afraid of
letting in this good woman," thought Snow-white, and she unbarred the door and bought
the pretty lace. "What a figure you are, child!" said the old woman, "come and let me lace
you properly for once." Snow-white, suspecting nothing, stood up before her, and let her
lace her with the new lace; but the old woman laced so quick and tight that it took Snowwhite's breath away, and she fell down as dead. "Now you have done with being the
fairest," said the old woman as she hastened away. Not long after that, towards evening,
the seven dwarfs came home, and were terrified to see their dear Snow-white lying on the
ground, without life or motion; they raised her up, and when they saw how tightly she was
laced they cut the lace in two; then she began to draw breath, and little by little she
returned to life. When the dwarfs heard what had happened they said, "The old pedlar
woman was no other than the wicked queen; you must beware of letting any one in when
we are not here!" And when the wicked woman got home she went to her glass and said,
"Looking-glass against the wall,
Who is fairest of us all?"
And it answered as before,
"Queen, thou art of beauty rare,
But Snow-white living in the glen
With the seven little men
Is a thousand times more fair."
When she heard that she was so struck with surprise that all the blood left her heart, for
she knew that Snow-white must still be living. "But now," said she, "I will think of
something that will be her ruin." And by witchcraft she made a poisoned comb. Then she
dressed herself up to look like another different sort of old woman. So she went across the
seven mountains and came to the house of the seven dwarfs, and knocked at the door and
cried, "Good wares to sell! good wares to sell!" Snow-white looked out and said, "Go
away, I must not let anybody in." - "But you are not forbidden to look," said the old
woman, taking out the poisoned comb and holding it up. It pleased the poor child so much
that she was tempted to open the door; and when the bargain was made the old woman
said, "Now, for once your hair shall be properly combed." Poor Snow-white, thinking no
harm, let the old woman do as she would, but no sooner was the comb put in her hair than
the poison began to work, and the poor girl fell down senseless. "Now, you paragon of
beauty," said the wicked woman, "this is the end of you," and went off. By good luck it
was now near evening, and the seven little dwarfs came home. When they saw Snowwhite lying on the ground as dead, they thought directly that it was the step-mother's
doing, and looked about, found the poisoned comb, and no sooner had they drawn it out of
her hair than Snow-white came to herself, and related all that had passed. Then they
warned her once more to be on her guard, and never again to let any one in at the door.
And the queen went home and stood before the looking-glass and said,
"Looking-glass against the wall,
Who is fairest of us all?"
And the looking-glass answered as before,
"Queen, thou art of beauty rare,
But Snow-white living in the glen
With the seven little men
Is a thousand times more fair."
When she heard the looking-glass speak thus she trembled and shook with anger. "Snowwhite shall die," cried she, "though it should cost me my own life!" And then she went to a
secret lonely chamber, where no one was likely to come, and there she made a poisonous
apple. It was beautiful to look upon, being white with red cheeks, so that any one who
should see it must long for it, but whoever ate even a little bit of it must die. When the
apple was ready she painted her face and clothed herself like a peasant woman, and went
across the seven mountains to where the seven dwarfs lived. And when she knocked at the
door Snow-white put her head out of the window and said, "I dare not let anybody in; the
seven dwarfs told me not." - "All right," answered the woman; "I can easily get rid of my
apples elsewhere. There, I will give you one." - "No," answered Snow-white, "I dare not
take anything." - "Are you afraid of poison?" said the woman, "look here, I will cut the
apple in two pieces; you shall have the red side, I will have the white one." For the apple
was so cunningly made, that all the poison was in the rosy half of it. Snow-white longed
for the beautiful apple, and as she saw the peasant woman eating a piece of it she could no
longer refrain, but stretched out her hand and took the poisoned half. But no sooner had
she taken a morsel of it into her mouth than she fell to the earth as dead. And the queen,
casting on her a terrible glance, laughed aloud and cried, "As white as snow, as red as
blood, as black as ebony! this time the dwarfs will not be able to bring you to life again."
And when she went home and asked the looking-glass,
"Looking-glass against the wall,
Who is fairest of us all?"
at last it answered,
"You are the fairest now of all."
Then her envious heart had peace, as much as an envious heart can have. The dwarfs,
when they came home in the evening, found Snow-white lying on the ground, and there
came no breath out of her mouth, and she was dead. They lifted her up, sought if anything
poisonous was to be found, cut her laces, combed her hair, washed her with water and
wine, but all was of no avail, the poor child was dead, and remained dead. Then they laid
her on a bier, and sat all seven of them round it, and wept and lamented three whole days.
And then they would have buried her, but that she looked still as if she were living, with
her beautiful blooming cheeks. So they said, "We cannot hide her away in the black
ground." And they had made a coffin of clear glass, so as to be looked into from all sides,
and they laid her in it, and wrote in golden letters upon it her name, and that she was a
king's daughter. Then they set the coffin out upon the mountain, and one of them always
remained by it to watch. And the birds came too, and mourned for Snow-white, first an
owl, then a raven, and lastly, a dove. Now, for a long while Snow-white lay in the coffin
and never changed, but looked as if she were asleep, for she was still as' white as snow, as
red as blood, and her hair was as black as ebony. It happened, however, that one day a
king's son rode through the wood and up to the dwarfs' house, which was near it. He saw
on the mountain the coffin, and beautiful Snow-white within it, and he read what was
written in golden letters upon it. Then he said to the dwarfs, "Let me have the coffin, and I
will give you whatever you like to ask for it." But the dwarfs told him that they could not
part with it for all the gold in the world. But he said, "I beseech you to give it me, for I
cannot live without looking upon Snow-white; if you consent I will bring you to great
honour, and care for you as if you were my brethren." When he so spoke the good little
dwarfs had pity upon him and gave him the coffin, and the king's son called his servants
and bid them carry it away on their shoulders. Now it happened that as they were going
along they stumbled over a bush, and with the shaking the bit of poisoned apple flew out
of her throat. It was not long before she opened her eyes, threw up the cover of the coffin,
and sat up, alive and well. "Oh dear! where am I?" cried she. The king's son answered, full
of joy, "You are near me," and, relating all that had happened, he said, "I would rather
have you than anything in the world; come with me to my father's castle and you shall be
my bride." And Snow-white was kind, and went with him, and their wedding was held
with pomp and great splendour. But Snow-white's wicked step-mother was also bidden to
the feast, and when she had dressed herself in beautiful clothes she went to her lookingglass and said,
"Looking-glass upon the wall,
Who is fairest of us all?"
The looking-glass answered,
''O Queen, although you are of beauty rare,
The young bride is a thousand times more fair."
Then she railed and cursed, and was beside herself with disappointment and anger. First
she thought she would not go to the wedding; but then she felt she should have no peace
until she went and saw the bride. And when she saw her she knew her for Snow-white, and
could not stir from the place for anger and terror. For they had ready red-hot iron shoes, in
which she had to dance until she fell down dead.
Bạch Tuyết và bảy chú lùn
Hồi ấy đang giữa mùa đông, hoa tuyết như những lông chim bay khắp bầu trời, có một bà
hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ. Khung cửa làm bằng gỗ mun đen nhánh. Hoàng hậu ngồi
khâu nhưng lại mải ngắm tuyết rơi nên bị kim đâm vào ngón tay, và ba giọt máu đỏ rơi
xuống tuyết trắng phau. Nhìn màu đỏ tươi nổi bật trên tuyết, hoàng hậu tự nhủ:
- Giá mình có một đứa con da trắng như tuyết, môi đỏ hồng hào như màu máu đỏ tươi, tóc
đen nhánh như gỗ mun khung cửa sổ này thì hay quá nhỉ.
Ít lâu sau bà sinh được một cô con gái da trắng như tuyết, môi đỏ như son và tóc đen
nhánh như gỗ mun, vì thế bà đặt tên con gái là Bạch Tuyết. Nhưng ngay sau khi đứa trẻ
sinh ra thì hoàng hậu qua đời.
Sau một năm để tang, nhà vua lấy vợ khác. Hoàng hậu mới xinh đẹp, nhưng tính tình kiêu
ngạo, ngông cuồng. Mụ sẽ tức điên người khi nghe thấy nói rằng còn có người đẹp hơn
mình. Mụ này có một chiếc gương thần, mỗi khi đứng ngắm mình trước gương, thường
hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Gương trả lời:
- Muôn tâu hoàng hậu, hoàng hậu chính là người đẹp nhất ở nước này.
Hoàng hậu hài lòng lắm, vì mụ biết rằng gương nói thật.
Bạch Tuyết càng lớn, càng đẹp. Khi Bạch Tuyết lên bảy nàng đẹp như nắng sớm mai và
đẹp hơn chính cả hoàng hậu nữa. Có lần hoàng hậu ngồi trước gương và hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Gương trả lời:
- Thưa hoàng hậu,
Ở đây bà đẹp tuyệt trần
Nhưng còn Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Hoàng hậu nghe nói giật mình, mặt tái xanh lại vì ghen tức. Từ đó trở đi, mỗi khi thoáng
nhìn thấy Bạch Tuyết là mụ đã khó chịu, bực tức, rồi đâm ra căm ghét cô bé. Những cơn
ghen ghét và lòng đố kỵ của mụ ngày càng mãnh liệt làm cho mụ ngày đêm bực bội, bứt
rứt. Mụ cho gọi một người thợ săn đến và bảo:
- Ngươi hãy mang con bé này vào trong rừng sâu, ta không muốn nhìn mặt nó nữa. Ngươi
hãy giết nó đi, mang gan, phổi nó về cho ta để chứng tỏ ngươi đã giết nó.
Người thợ săn vâng lệnh và dẫn cô bé vào rừng sâu. Nhưng khi bác rút dao ra định đâm thì
cô bé khóc và nói:
- Trời ơi, bác thợ săn yêu quý, bác hãy để cháu sống, cháu sẽ chạy trốn trong rừng hoang
vu này, cháu xin thề là sẽ không bao giờ trở lại cung nữa.
Thấy cô bé xinh đẹp, bác thợ săn động lòng thương và bảo:
- Con trốn vào rừng đi, tội nghiệp con quá.
Bác nghĩ: "Rồi có khi thú dữ lại ăn thịt cô bé mất thôi!." Nhưng dù sao bác cảm thấy trút
được gánh nặng trong lòng vì chẳng phải giết người. Đúng lúc đó có một con lợn rừng con
nhảy tới, bác đâm chết lấy gan phổi mang về nộp hoàng hậu làm bằng chứng. Mụ dì ghẻ
độc ác sai nhà bếp xào gan phổi cho mụ ăn. Mụ đinh ninh là gan phổi Bạch Tuyết nên mụ
cố ăn cho kỳ hết.
Còn lại cô bé bất hạnh lủi thủi một mình trong rừng rộng mênh mông, cô sợ hãi, ngơ ngác
nhìn lá cây ngọn cỏ chẳng biết làm gì. Đột nhiên cô cắm đầu chạy, chạy giẫm cả lên gai và
đá nhọn. Thú dữ lượn quanh cô, nhưng chẳng có con nào đụng đến người cô. Cô bé cứ thế
chạy mãi, chạy mãi, tới lúc trời sẩm tối cô mới nhìn thấy một căn nhà nhỏ, liền vào đó
nghỉ chân.
Trong nhà tất cả mọi đồ vật đều nhỏ xíu, xinh xắn và sạch sẽ đến nỗi không thể chê vào
đâu được. Giữa nhà có một cái bàn trải khăn trắng tinh, trên bàn bày bảy cái đĩa nhỏ xinh
xinh, mỗi đĩa có một thìa con, một dao con, một nĩa on và cạnh đó là một ly cũng nho nhỏ
xinh xinh như thế. Sát hai bên tường kê bảy chiếc giường nhỏ nối tiếp nhau, giường nào
cũng phủ khăn trắng như tuyết.
Đang đói và khát, Bạch Tuyết ăn ở mỗi đĩa một ít rau, ít bánh và uống ở mỗi ly một hớp
rượu vang, vì cô không muốn để một ai phải mất phần. Suốt ngày chạy trốn trong rừng,
giờ cô đã thấm mệt muốn đặt mình xuống giường nằm ngủ nhưng giường lại không vừa,
cái thì dài quá, cái khác lại ngắn quá. Thứ đến cái thứ bảy mới thấy vừa, Bạch Tuyết nằm
và ngủ thiếp đi.
Khi trời tối mịt, những chủ nhân của căn nhà nhỏ mới về: đó là bảy chú lùn thường ngày
đào bới quặng sắt ở trong núi. Họ thắp bảy ngọn đèn xinh xinh, và khi đèn tỏa sáng khắp
căn nhà, họ cảm thấy hình như có ai đã vào nhà, vì mọi vật không còn giữ nguyên như khi
họ rời căn nhà đi làm nữa.
Chú thứ nhất nói:
- Ai đã ngồi lên ghế xinh đẹp của tôi?
Chú thứ hai nói:
- Ai đã ăn ở đĩa nho nhỏ của tôi?
Chú thứ ba nói:
- Ai đã ăn bánh của tôi?
Chú thứ tư nói:
- Ai đã nếm rau ở đĩa của tôi?
Chú thứ năm nói:
- Ai đã lấy nĩa bé xíu của tôi đem cắt gì rồi?
Chú thứ sáu nói:
- Ai đã lấy dao xinh xắn của tôi đem cắt gì rồi?
Chú thứ bảy nói:
- Đã có ai uống nước ở ly xinh đẹp của tôi?
Những chú khác cũng chạy lại giường mình và kêu:
- Hình như đã có ai nằm lên giường tôi?
Khi chú thứ bảy nhìn vào giường mình thì thấy Bạch Tuyết đang ngủ. Thế là chú gọi
những chú kia chạy tới. Ai nấy đều ngạc nhiên, họ cầm bảy ngọn đèn soi Bạch Tuyết và
reo lên:
- Cha, cô bé sao mà xinh đẹp thế!
Cả bảy chú đều vui mừng lắm, không đánh thức cô dậy, để yên cho cô bé ngủ.
Chú lùn thứ bảy đành ngủ nhờ giường bạn, mỗi người một giờ, thế rồi cũng hết một đêm.
Khi trời hửng sáng, Bạch Tuyết tỉnh dậy thấy bảy chú lùn đứng nhìn quanh thì rất sợ.
Nhưng bảy người đều vui vẻ thân mật, hỏi cô:
- Cô tên là gì?
Cô trả lời:
- Em tên là Bạch Tuyết.
Mấy chú lùn lại hỏi tiếp:
- Làm sao mà cô tới được nhà của chúng tôi?
Thế là cô kể cho họ nghe chuyện dì ghẻ định ám hại cô, nhưng người thợ săn đã để cho cô
sống và cô đã chạy trốn suốt cả ngày trong rừng tới khi sẩm tối thì thấy căn nhà của họ.
Các chú lùn bảo cô:
- Nếu cô đồng ý trông nom nhà cửa, nấu ăn, rũ giường, giặt quần áo, khâu vá, thêu thùa,
quét tước, dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ ngăn nắp thì cô có thể ở lại với chúng tôi, cô sẽ chả
thiếu thứ gì cả.
Bạch Tuyết nói:
- Vâng, thực lòng mà nói, em cũng muốn vậy.
Và từ đó, Bạch Tuyết ở với bảy chú lùn. Cô đảm đương mọi việc trong nhà, sáng sáng các
chú lùn vào mỏ tìm sắt và vàng cho mãi tới chiều tối mới về, thì thức ăn của họ đã bày sẵn
trên bàn. Suốt cả ngày, Bạch Tuyết ở nhà một mình. Các chú lùn tốt bụng nhắc nhở, căn
dặn cô:
- Hãy canh chừng mụ dì ghẻ nhé! Chẳng bao lâu mụ sẽ biết là cô ở đây. Đừng có cho ai
vào nhà đấy!
Hoàng hậu đinh ninh tưởng mình đã ăn gan phổi Bạch Tuyết nên chắc rằng chỉ còn có
mình là người đẹp nhất trần gian.
Mụ đứng ngắm mình trước gương và hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Gương trả lời:
- Thưa hoàng hậu,
Ở đây bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng còn Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn,
Nàng ta ở khuất núi non,
Nơi nhà của bảy chú lùn sống chung.
Mụ giật mình, vì mụ biết rằng gương không bao giờ nói dối. Mụ nghĩ ngay là người thợ
săn đã đánh lừa mụ và Bạch Tuyết hãy còn sống. Mụ ngồi nghĩ mưu giết Bạch Tuyết cho
bằng được, chừng nào mụ chưa được gương gọi là người đẹp nhất thì ghen tức còn làm
cho mụ mất ăn mất ngủ.
Sau mụ nghĩ ra một kế, mụ bôi mặt, mặc quần áo trá hình thành một bà lão bán hàng, ai có
gặp cũng khó lòng nhận ra được. Với hình dạng như vậy, mụ vượt bảy ngọn núi tới nhà
bảy chú lùn. Mụ gõ cửa và rao:
- Hàng tốt, hàng đẹp đây, có ai mua không, mua đi!
Bạch Tuyết thò đầu qua cửa sổ hỏi:
- Chào bà, bà có gì bán đấy?
Bà lão trả lời:
- Hàng tốt hàng đẹp đây, dây lưng đủ màu đây!
Vừa nói bà vừa rút ra một chiếc dây lưng ngũ sắc dệt bằng tơ.
Bạch Tuyết nghĩ:
- Bà cụ này thật thà mình có thể cho vào nhà được.
Bạch Tuyết mở cửa và mua một chiếc dây lưng thật đẹp.
Bà lão nói:
- Con ơi, trông con buộc vụng về lắm, lại đây bà buộc thật đẹp, cẩn thận cho con.
Bạch Tuyết không chút e ngại, lại đứng trước bà cụ để bà buộc chiếc dây lưng mới cho.
Thế là mụ già buộc thoăn thoắt, mụ thắt chặt cứng làm cho Bạch Tuyết nghẹt thở, ngã lăn
ra bất tỉnh.
Mụ nói:
- Giờ thì con chỉ là người đẹp của quá khứ mà thôi.
Rồi mụ vội vã ra về.
Một lát thì trời tối, bảy chú lùn về nhà, thấy Bạch Tuyết yêu quý của họ nằm sóng soài
trên mặt đất như chết, người không hề nhúc nhích cử động, họ rất lo lắng. Họ nhấc cô lên
thì thấy chiếc dây lưng thắt chặt cứng, lấy dao cắt đứt dây, Bạch Tuyết lại khe khẽ thở và
dần dần tỉnh dậy.
Sau khi nghe Bạch Tuyết kể chuyện vừa xảy ra, bảy chú lùn bảo cô:
- Mụ già bán hàng ấy chắc chẳng ai khác ngoài mụ hoàng hậu độc ác, cô phải giữ mình
cẩn thận nhé, khi chúng tôi đi vắng thì đừng cho ai vào nhà cả.
Về tới nhà, mụ hoàng hậu độc ác đến trước gương soi và hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Cũng như mọi lần, gương trả lời:
- Thưa hoàng hậu,
Ở đây bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng còn Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn,
Nàng ta ở khuất núi non,
Nơi nhà của bảy chú lùn sống chung.
Khi nghe vậy, hoàng hậu máu trào sôi lên vì tức giận, mụ biết chắc là Bạch Tuyết đã sống
lại.
Mụ nói:
- Được rồi, tao sẽ nghĩ ra kế khác để cho mày về âm phủ.
Với những phép quỷ thuật, mụ làm một chiếc lược tẩm thuốc độc. Mụ ăn mặc trá hình
thành một bà già khác lần trước, rồi vượt bảy ngọn núi tới nhà bảy chú lùn. Mụ gõ cửa và
rao to:
- Hàng tốt, hàng đẹp, ai mua ra mua!
Bạch Tuyết ngó ra và nói:
- Bà đi đi, tôi không được phép cho một ai vào nhà.
Mụ già nói:
- Nhưng chắc không ai cấm con cầm cái lược này xem chơi một chút chứ?
Rồi mụ lấy chiếc lược tẩm thuốc độc giơ lên.
Bạch Tuyết thích chiếc lược quá nên quên cả lời dặn dò, chạy vội ra mở cửa.
Khi đôi bên thỏa thuận giá cả xong, mụ già nói:
- Giờ để bà chải cho con nhé, bà chải cho thật đẹp nhé!
Cô bé đáng thương ấy không nghi ngờ gì cả, cô để mụ chải đầu cho. Nhưng lược vừa mới
cắm vào tóc, Bạch Tuyết đã bị ngấm thuốc độc, ngã lăn ra bất tỉnh.
Mụ già độc ác nói:
- Thế là người đẹp nhất nước đã đi đời nhà ma!
Nói xong mụ bỏ đi.
Nhưng may thay trời sắp tối, một lát au thì bảy chú lùn về tới nhà. Thấy Bạch Tuyết nằm
như chết ở dưới đất, họ nghi ngay mụ dì ghẻ, họ lùng sục và tìm thấy chiếc lược tẩm thuốc
độc cài trên đầu, vừa mới lấy lược ra thì Bạch Tuyết tỉnh dậy kể lại sự việc đã xảy ra. Một
lần nữa bảy chú lùn lại căn dặn cô phải cẩn thận, bất cứ ai đến cũng không mở cửa.
Bước chân về tới nhà, hoàng hậu lại soi gương và hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Cũng như mọi lần, gương trả lời:
- Thưa hoàng hậu,
Ở đây bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng còn Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn,
Nàng ta ở khuất núi non,
Nơi nhà của bảy chú lùn sống chung.
Nghe gương như vậy toàn thân mụ run lên vì tức giận, mụ thét lên:
- Bạch Tuyết, mày phải chết, dù tao có mất mạng cũng cam lòng.
Sau đó mụ vào một căn phòng hẻo lánh trong lâu đài nơi không hề có ai bước chân tới, và
mụ tẩm thuốc độc vào táo, quả táo chín đỏ trông rất ngon, ngon đến nỗi ai nhìn thấy cũng
muốn ăn. Nhưng ai ăn một miếng sẽ chết ngay tức khắc.
Khi tẩm thuốc xong, mụ bôi mặt, mặc quần áo trá hình thành một bà nông dân. Rồi mụ lại
vượt bảy quả núi đến nhà bảy chú lùn. Mụ gõ cửa, Bạch Tuyết thò đầu qua cửa sổ nói:
- Cháu không được phép cho ai vào nhà, vì bảy chú lùn đã cấm rồi.
Bà già nói:
- Thế cũng chẳng sao. Chỗ táo ngày bà muốn bán rẻ nốt để còn về. Đây, để bà cho con một
quả.
Bạch Tuyết nói:
- Không, cháu không được phép nhận một thứ gì cả.
Bà già nói:
- Con sợ ăn phải thuốc độc chứ gì? Trông đây này, bà bổ táo làm hai, con ăn nửa táo chín
đỏ, bà ăn phần táo trắng còn lại.
Quả táo được tẩm thuốc rất khéo léo: chỉ nửa táo chín đỏ ngấm thuốc độc, Bạch Tuyết mắt
hau háu nhìn quả táo chín ngon, thấy bà nông dân ăn mà không sao cả nên không dằn lòng
được nữa, thò tay ra đón lấy nửa táo ngấm thuốc độc. Cô vừa cắn được một miếng thì ngã
lăn ra chết liền.
Hoàng hậu nhìn cô với con mắt gườm gườm, rồi cười khanh khách và nói:
- Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như gỗ mun. Lần này thì những thằng lùn đừng hòng
đánh thức con sống lại nữa, con ạ!
Vừa về đến cung, mụ hỏi ngay gương:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Lần này gương đáp:
- Muôn tâu hoàng hậu, hoàng hậu chính là người đẹp nhất ở nước này.
Lúc đó, tính ghen ghét đố kỵ của mụ mới nguôi, mụ mới cảm thấy mãn nguyện.
Theo thường lệ, đến tối bảy chú lùn mới về nhà, vừa bước vào cửa thì thấy ngay Bạch
Tuyết nằm dưới đất, tim đã ngừng đập, không thấy hơi thở ra nữa, Bạch Tuyết đã chết.
Bảy chú lùn nâng cô dậy, tìm xem có dấu vết chất độc nào không, rồi lấy nước và rượu lau
mặt cho cô nhưng chẳng ăn thua gì; cô bé tội nghiệp ấy đã chết, chết thật rồi. Họ cho cô
vào quan tài, cả bảy người ngồi quanh quan tài, khóc cô ba ngày liền. Sau đó họ muốn
đem đi chôn nhưng thấy sắc người cô vẫn tươi tỉnh như người sống, đôi má xinh đẹp vẫn
ửng hồng. Họ nói với nhau:
- Thi hài như vậy, ai nỡ lòng nào đem vùi xuống đất đen ấy.
Họ đặt làm một chiếc quan tài trong suốt bằng thủy tinh, bốn phía đều nhìn thấy được. Họ
đặt cô vào trong đó, khắc tên Bạch Tuyết bằng chữ vàng và đề thêm rằng cô là một nàng
công chúa. Rồi họ khiêng đặt quan tài nàng trên núi, cắt phiên nhau gác. Các loài vật cũng
đến viếng khóc Bạch Tuyết.
Bạch Tuyết nằm trong quan tài đã lâu lắm mà thi thể vẫn nguyên, nom như nàng đang nằm
ngủ, vì nàng vẫn trắng như tuyết, đỏ hồng như máu, tóc vẫn đen như gỗ mun.
Hồi đó, có một hoàng tử nước láng giềng đi lạc vào rừng và tới căn nhà của bảy chú lùn
xin ngủ nhờ qua đêm. Hoàng tử nhìn thấy chiếc quan tài thủy tinh trên núi, Bạch Tuyết
nằm trong chiếc quan tài có khắc dòng chữ vàng, đọc xong dòng chữ hoàng tử nói:
- Để cho tôi chiếc quan tài này, các anh muốn lấy bao nhiêu tôi cũng trả.
Bảy chú lùn đáp:
- Đem tất cả vàng trên thế giới này để đổi, chúng tôi cũng chẳng bằng lòng.
Hoàng tử nói:
- Thế thì tặng tôi vậy, vì tôi không thể sống nếu không được trông thấy Bạch Tuyết, tôi
thương yêu và kính trọng nàng như người yêu nhất trần đời của tôi.
Nghe hoàng tử nói tha thiết vậy, những chú lùn tốt bụng động lòng thương và bằng lòng.
Hoàng tử sai thị vệ khiêng quan tài trên vai mang về. Thị vệ đi vấp phải rễ cây rừng làm
nảy thi hài Bạch Tuyết lên, miếng táo tẩm thuốc độc nàng ăn phải bắn ra khỏi cổ họng.
Ngay sau đó, nàng từ từ mở mắt ra, nâng nắp quan tài lên, ngồi nhỏm dậy và nói:
- Trời ơi, tôi đang ở đâu đây?
Mừng rỡ, hoàng tử nói:
- Ta quý nàng hơn tất cả mọi thứ trên đời này, nàng hãy cùng ta về cung điện của vua cha,
nàng sẽ là vợ của ta.
Bạch Tuyết bằng lòng theo hoàng tử về hoàng cung. Lễ cưới Bạch Tuyết và hoàng tử được
tổ chức rất linh đình và trọng thể. Mụ dì ghẻ độc ác của Bạch Tuyết cũng được mời tới dự.
Sau khi ăn mặc thật lộng lẫy, mụ lại đứng trước gương soi và hỏi:
- Gương kia ngự ở trên tường,
Nước này ai đẹp được dường như ta.
Gương trả lời:
- Thưa hoàng hậu,
Ở đây bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng hoàng hậu trẻ muôn phần đẹp hơn.
Mụ dì ghẻ độc ác chửi đổng một câu, mụ trở nên sợ hãi không biết tính thế nào. Mới đầu
mụ toan không đi dự đám cưới, nhưng mụ đứng ngồi không yên, mụ sốt ruột và muốn xem
mặt hoàng hậu trẻ.
Khi bước vào phòng, mụ nhận ngay ra Bạch Tuyết. Sợ hãi và hoảng loạn mụ đứng đó như
trời trồng, không dám nhúc nhích. Nhưng giày sắt đã đặt trên lửa rồi, nhà vua trừng phạt
buộc mụ phải xỏ chân vào đôi giày sắt nung đỏ và nhảy cho tới khi ngã lăn ra đất mà chết.
Hansel and Gretel
Near a great forest there lived a poor woodcutter and his wife, and his two children; the
boy's name was Hansel and the girl's Grethel. They had very little to bite or to sup, and
once, when there was great dearth in the land, the man could not even gain the daily bread.
As he lay in bed one night thinking of this, and turning and tossing, he sighed heavily, and
said to his wife, "What will become of us? we cannot even feed our children; there is
nothing left for ourselves."
"I will tell you what, husband," answered the wife; "we will take the children early in the
morning into the forest, where it is thickest; we will make them a fire, and we will give
each of them a piece of bread, then we will go to our work and leave them alone; they will
never find the way home again, and we shall be quit of them."
"No, wife," said the man, "I cannot do that; I cannot find in my heart to take my children
into the forest and to leave them there alone; the wild animals would soon come and
devour them." - "O you fool," said she, "then we will all four starve; you had better get the
coffins ready," and she left him no peace until he consented. "But I really pity the poor
children," said the man.
The two children had not been able to sleep for hunger, and had heard what their stepmother had said to their father. Grethel wept bitterly, and said to Hansel, "It is all over
with us."
"Do be quiet, Grethel," said Hansel, "and do not fret; 1 will manage something." And
when the parents had gone to sleep he got up, put on his little coat, opened the back door,
and slipped out. The moon was shining brightly, and the white flints that lay in front of the
house glistened like pieces of silver. Hansel stooped and filled the little pocket of his coat
as full as it would hold. Then he went back again, and said to Grethel, "Be easy, dear little
sister, and go to sleep quietly; God will not forsake us," and laid himself down again in his
bed. When the day was breaking, and before the sun had risen, the wife came and
awakened the two children, saying, "Get up, you lazy bones; we are going into the forest
to cut wood." Then she gave each of them a piece of bread, and said, "That is for dinner,
and you must not eat it before then, for you will get no more." Grethel carried the bread
under her apron, for Hansel had his pockets full of the flints. Then they set off all together
on their way to the forest. When they had gone a little way Hansel stood still and looked
back towards the house, and this he did again and again, till his father said to him,
"Hansel, what are you looking at? take care not to forget your legs."
"O father," said Hansel, "lam looking at my little white kitten, who is sitting up on the roof
to bid me good-bye." - "You young fool," said the woman, "that is not your kitten, but the
sunshine on the chimney-pot." Of course Hansel had not been looking at his kitten, but had
been taking every now and then a flint from his pocket and dropping it on the road. When
they reached the middle of the forest the father told the children to collect wood to make a
fire to keep them, warm; and Hansel and Grethel gathered brushwood enough for a little
mountain j and it was set on fire, and when the flame was burning quite high the wife said,
"Now lie down by the fire and rest yourselves, you children, and we will go and cut wood;
and when we are ready we will come and fetch you."
So Hansel and Grethel sat by the fire, and at noon they each ate their pieces of bread. They
thought their father was in the wood all the time, as they seemed to hear the strokes of the
axe: but really it was only a dry branch hanging to a withered tree that the wind moved to
and fro. So when they had stayed there a long time their eyelids closed with weariness, and
they fell fast asleep.
When at last they woke it was night, and Grethel began to cry, and said, "How shall we
ever get out of this wood? "But Hansel comforted her, saying, "Wait a little while longer,
until the moon rises, and then we can easily find the way home." And when the full moon
got up Hansel took his little sister by the hand, and followed the way where the flint stones
shone like silver, and showed them the road. They walked on the whole night through, and
at the break of day they came to their father's house. They knocked at the door, and when
the wife opened it and saw that it was Hansel and Grethel she said, "You naughty children,
why did you sleep so long in the wood? we thought you were never coming home again!"
But the father was glad, for it had gone to his heart to leave them both in the woods alone.
Not very long after that there was again great scarcity in those parts, and the children
heard their mother say at night in bed to their father, "Everything is finished up; we have
only half a loaf, and after that the tale comes to an end. The children must be off; we will
take them farther into the wood this time, so that they shall not be able to find the way
back again; there is no other way to manage." The man felt sad at heart, and he thought, "It
would better to share one's last morsel with one's children." But the wife would listen to
nothing that he said, but scolded and reproached him. He who says A must say B too, and
when a man has given in once he has to do it a second time.
But the children were not asleep, and had heard all the talk. When the parents had gone to
sleep Hansel got up to go out and get more flint stones, as he did before, but the wife had
locked the door, and Hansel could not get out; but he comforted his little sister, and said,
"Don't cry, Grethel, and go to sleep quietly, and God will help us." Early the next morning
the wife came and pulled the children out of bed. She gave them each a little piece of
"bread -less than before; and on the way to the wood Hansel crumbled the bread in his
pocket, and often stopped to throw a crumb on the ground. "Hansel, what are you stopping
behind and staring for?" said the father.
"I am looking at my little pigeon sitting on the roof, to say good-bye to me," answered
Hansel. "You fool," said the wife, "that is no pigeon, but the morning sun shining on the
chimney pots." Hansel went on as before, and strewed bread crumbs all along the road.
The woman led the children far into the wood, where they had never been before in all
their lives. And again there was a large fire made, and the mother said, "Sit still there, you
children, and when you are tired you can go to sleep; we are going into the forest to cut
wood, and in the evening, when we are ready to go home we will come and fetch you."
So when noon came Grethel shared her bread with Hansel, who had strewed his along the
road. Then they went to sleep, and the evening passed, and no one came for the poor
children. When they awoke it was dark night, and Hansel comforted his little sister, and
said, "Wait a little, Grethel, until the moon gets up, then we shall be able to see the way
home by the crumbs of bread that I have scattered along it."
So when the moon rose they got up, but they could find no crumbs of bread, for the birds
of the woods and of the fields had come and picked them up. Hansel thought they might
find the way all the same, but they could not. They went on all that night, and the next day
from the morning until the evening, but they could not find the way out of the wood, and
they were very hungry, for they had nothing to eat but the few berries they could pick up.
And when they were so tired that they could no longer drag themselves along, they lay
down under a tree and fell asleep.
It was now the third morning since they had left their father's house. They were always
trying to get back to it, but instead of that they only found themselves farther in the wood,
and if help had not soon come they would have been starved.
About noon they saw a pretty snow-white bird sitting on a bough, and singing so sweetly
that they stopped to listen. And when he had finished the bird spread his wings and flew
before them, and they followed after him until they came to a little house, and the bird
perched on the roof, and when they came nearer they saw that the house was built of
bread, and roofed with cakes; and the window was of transparent sugar. "We will have
some of this," said Hansel, "and make a fine meal. I will eat a piece of the roof, Grethel,
and you can have some of the window-that will taste sweet." So Hansel reached up and
broke off a bit of the roof, just to see how it tasted, and Grethel stood by the window and
gnawed at it. Then they heard a thin voice call out from inside,
"Nibble, nibble, like a mouse,
Who is nibbling at my house?"
And the children answered,
"Never mind, It is the wind."
And they went on eating, never disturbing themselves. Hansel, who found that the roof
tasted very nice, took down a great piece of it, and Grethel pulled out a large round
window-pane, and sat her down and began upon it.
Then the door opened, and an aged woman came out, leaning upon a crutch. Hansel and
Grethel felt very frightened, and let fall what they had in their hands. The old woman,
however, nodded her head, and said, "Ah, my dear children, how come you here? you
must come indoors and stay with me, you will be no trouble." So she took them each by
the hand, and led them into her little house. And there they found a good meal laid out, of
milk and pancakes, with sugar, apples, and nuts. After that she showed them two little
white beds, and Hansel and Grethel laid themselves down on them, and thought they were
in heaven.
The old woman, although her behaviour was so kind, was a wicked witch, who lay in wait
for children, and had built the little house on purpose to entice them. When they were once
inside she used to kill them, cook them, and eat them, and then it was a feast day with her.
The witch's eyes were red, and she could not see very far, but she had a keen scent, like
the beasts, and knew very well when human creatures were near. When she knew that
Hansel and Grethel were coming, she gave a spiteful laugh, and said triumphantly, "I have
them, and they shall not escape me!"
Early in the morning, before the children were awake, she got up to look at them, and as
they lay sleeping so peacefully with round rosy cheeks, she said to herself, "What a fine
feast I shall have!" Then she grasped Hansel with her withered hand, and led him into a
little stable, and shut him up behind a grating; and call and scream as he might, it was no
good. Then she went back to Grethel and shook her, crying, "Get up, lazy bones; fetch
water, and cook something nice for your brother; he is outside in the stable, and must be
fattened up. And when he is fat enough I will eat him." Grethel began to weep bitterly, but
it was of no use, she had to do what the wicked witch bade her. And so the best kind of
victuals was cooked for poor Hansel, while Grethel got nothing but crab-shells.
Each morning the old woman visited the little stable, and cried, "Hansel, stretch out your
finger, that I may tell if you will soon be fat enough." Hansel, however, used to hold out a
little bone, and the old woman, who had weak eyes, could not see what it was, and
supposing it to be Hansel's finger, wondered very much that it was not getting fatter.
When four weeks had passed and Hansel seemed to remain so thin, she lost patience and
could wait no longer. "Now then, Grethel," cried she to the little girl; "be quick and draw
water; be Hansel fat or be he lean, tomorrow I must kill and cook him." Oh what a grief
for the poor little sister to have to fetch water, and how the tears flowed down over her
cheeks! "Dear God, pray help us!" cried she; "if we had been devoured by wild beasts in
the wood at least we should have died together."
"Spare me your lamentations," said the old woman; "they are of no avail." Early next
morning Grethel had to get up, make the fire, and fill the kettle. "First we will do the
baking," said the old woman; "I nave heated the oven already, and kneaded the dough."
She pushed poor Grethel towards the oven, out of which the flames were already shining.
"Creep in," said the witch, "and see if it is properly hot, so that the bread may be baked."
And Grethel once in, she meant to shut the door upon her and let her be baked, and then
she would have eaten her. But Grethel perceived her intention, and said, "I don't know
how to do it: how shall I get in?"
"Stupid goose," said the old woman, "the opening is big enough, do you see? I could get in
myself!" and she stooped down and put her head in the oven's mouth. Then Grethel gave
her a push, so that she went in farther, and she shut the iron door upon her, and put up the
bar. Oh how frightfully she howled! but Grethel ran away, and left the wicked witch to
burn miserably.
Grethel went straight to Hansel, opened the stable-door, and cried, "Hansel, we are free!
the old witch is dead!" Then out flew Hansel like a bird from its cage as soon as the door
is opened. How rejoiced they both were! how they fell each on the other's neck! and
danced about, and kissed each other! And as they had nothing more to fear they went over
all the old witch's house, and in every corner there stood chests of pearls and precious
stones. "This is something better than flint stones," said Hansel, as he filled his pockets,
and Grethel, thinking she also would like to carry something home with her, filled her
apron full. i! Now, away we go," said Hansel, "if we only can get out of the witch's wood."
When they had journeyed a few hours they came to a great piece of water. "We can never
get across this," said Hansel, "I see no stepping-stones and no bridge."
"And there is no boat either," said Grethel; "but here comes a white duck; if I ask her she
will help us over." So she cried,
"Duck, duck, here we stand,
Hansel and Grethel, on the land,
Stepping-stones and bridge we lack,
Carry us over on your nice white back."
And the duck came accordingly, and Hansel got upon her and told his sister to come too.
"No," answered Grethel, "that would be too hard upon the duck; we can go separately, one
after the other." And that was how it was managed, and after that they went on happily,
until they came to the wood, and the way grew more and more familiar, till at last they saw
in the distance their father's house. Then they ran till they came up to it, rushed in at the
door, and fell on their father's neck. The man had not had a quiet hour since he left his
children in the wood; but the wife was dead. And when Grethel opened her apron the
pearls and precious stones were scattered all over the room, and Hansel took one handful
after another out of his pocket. Then was all care at an end, and they lived in great joy
together. My tale is done, there runs a mouse, whosoever catches it, may make himself a
big fur cap out of it.
Hãnsel và Gretel
Sống ở ven một khu rừng là hai vợ chồng bác tiều phu nghèo, gia đình có hai con, con trai
tên là Hãnsel , con gái tên là Gretel. Nhà thường sống bữa đói bữa no cho qua ngày. Một
năm kia, trời làm đói kém, miếng bánh mì ăn hàng ngày cũng không kiếm nổi, nằm trằn
trọc mãi trên giường với những lo cùng nghĩ, bác trai thở dài nói với vợ:
- Chả biết rồi sẽ sống sao cho qua cơn đói? Không biết lấy gì mà nuôi những đứa con đáng
thương của chúng ta, ngay đến bố mẹ chúng nó cũng chẳng có gì để cho vào mồm.
Hết đường xoay xở, đói khổ thúc bách khiến người mẹ đâm ra nhẫn tâm, bà nói với chồng:
- Ba nó ạ, biết sao bây giờ, sáng sớm tinh mơ ngày mai ta dẫn hai đứa vào tận giữa rừng
sâu rậm rạp, rồi đốt lửa lên, cho mỗi đứa một mẩu bánh, rồi bỏ mặc chúng ở đó, còn ta cứ
việc đi làm việc của ta. Chúng chẳng tìm nổi đường về nhà, thế là ta thoát nợ.
Người chồng nói:
- Má nó à, làm thế không được đâu, ai lại nỡ lòng nào đem con bỏ giữa rừng sâu cho thú
dữ đến xé xác ăn thịt.
Vợ mắng:
- Trời, ba nó thật chẳng khác gì thằng điên, ba nó muốn chết cả nút phải không. Nếu vậy
thì đi bào gỗ đóng săng là vừa.
Bà vợ chanh chua nói sa sả, không để cho chồng yên thân, chồng đành chịu nhưng còn nói
với:
- Nhưng tôi vẫn thấy thương những đứa con tội nghiệp.
Đói bụng quá nên hai đứa trẻ cũng không tài nào chợp mắt được, chúng nghe hết đầu đuôi
câu chuyện và những điều bà mẹ nói với bố chúng. Gretel khóc sướt mướt, bảo Hãnsel.
- Anh em mình chắc chết đến nơi.
Hãnsel bảo em:
- Gretel, nín đi em, đừng có lo buồn, anh sẽ có cách.
Chờ lúc bố mẹ đã ngủ say, Hãnsel dậy, mặc áo, mở cửa sau lén ra ngoài. Ngoài trời trăng
chiếu sáng rõ mồn một, sỏi trắng trước nhà lóng lánh dưới ánh trăng như những đồng tiền
bằng bạc. Hãnsel cúi xuống nhặt sỏi bỏ đầy túi áo, rồi lại rón rén đi vào nhà và dỗ em.
- Em cưng, khỏi phải lo nữa, cứ ngủ cho ngon giấc.
Nói rồi Hãnsel cũng lên giường nằm ngủ.
Tang tảng sáng, khi mặt trời chưa mọc thì bà mẹ đã tới đánh thức hai đứa trẻ:
- Đồ lười thối thây, dậy mau, còn phải vào rừng kiếm củi chứ.
Rồi bà đưa cho mỗi đứa con một mẩu bánh nhỏ xíu và căn dặn:
- Bữa trưa chỉ có thế, ăn nghiến ngấu giờ thì trưa nhịn.
Gretel bỏ bánh vào túi áo ngoài, vì túi áo Hãnsel đầy sỏi trắng. Rồi cả nhà kéo nhau vào
rừng.
Cứ đi được một quãng Hãnsel lại đứng sững lại ngoảnh nhìn về phía ngôi nhà. Bố thấy vậy
nói:
- Hãnsel, mày nhìn gì vậy, sao lại tụt phía sau, liệu chừng đấy, đừng có dềnh dàng.
Hãnsel đáp:
- Trời, ba ơi, con mèo trắng của con ngồi trên nóc nhà, con nhìn nó, nó chào con ba ạ.
Mẹ nói:
- Đồ ngốc, đâu có phải mèo trắng của mày, ánh sáng mặt trời chiếu vào ống khói nom như
vậy đó.
Hãnsel đi tụt phía sau thực ra không phải để nhìn mèo, mà để móc sỏi ở túi rắc xuống
đường.
Khi cả nhà đã tới giữa cánh rừng, ông bố nói:
- Giờ các con phải đi kiếm củi đem về đây, ba sẽ nhóm lửa đốt để các con khỏi rét.
Hãnsel và Gretel đi nhặt cành khô, xếp cao thành một đống nhỏ. Người bố nhóm lửa, khi
lửa đang cháy bùng bùng, người mẹ nói:
- Giờ chúng mày nằm bên lửa mà sưởi. Tao và ba còn phải vào rừng đốn củi, khi nào xong
sẽ về đón chúng mày.
Hãnsêl và Gretel ngồi bên lửa sưởi. Đến trưa, đứa nào lấy phần của đứa đó ra ăn. Nghe
thấy tiếng động vang lại chúng tưởng là tiếng rìu đốn cây của bố chúng ở gần quanh đấy.
Nhưng thực ra không phải tiếng rìu đốn gỗ, đó chỉ là tiếng cành cây mà người bố buộc vào
một thân cây khô, gió thổi mạnh cành cây đập qua lại nghe như tiếng đốn gỗ.
Ngồi đợi lâu quá, mắt hai đứa trẻ đều díp lại vì mệt, chúng lăn ra ngủ say lúc nào không
biết. Khi chúng thức dậy thì trời đã tối. Gretel khóc và nói:
- Bây giờ thì làm sao mà ra khỏi rừng được!
Hãnsel dỗ em:
- Em cứ đợi một lát, tới khi vầng trăng lên chúng mình sẽ tìm được lối về nhà.
Trăng rằm đã mọc, Hãnsel cầm tay em đi lần theo vết sỏi cuội lóng lánh dưới ánh trăng
như những đồng tiền Batzen mới, cứ như vậy hai anh em đi suốt đêm đến tảng sáng mới
về đến nhà. Chúng gõ cửa. Mẹ ra mở cửa, tưởng là ai ngờ đâu lại chính là Henxêl và
Grétêl nên liền mắng:
- Chúng mày lũ con mất dạy, sao chúng mày không ngủ nữa ở trong rừng. Tao tưởng
chúng mày không thèm về nhà nữa.
Bố thì mừng ra mặt vì trong thâm tâm không muốn bỏ con lại trong rừng.
Sau đó ít lâu trời lại làm đói kém khắp hang cùng ngõ hẻm.
Một đêm, nằm trên giường hai anh em nghe thấy mẹ nói với bố:
- Đồ dự trữ cũng đã ăn hết. Cả nhà chỉ còn nửa cái bánh, ăn nốt chỗ ấy là treo mồm. Phải
tống khứ lũ trẻ con đi. Lần này ta đem bỏ chúng vào rừng sâu hơn trước để chúng không
tìm được lối mà về nhà. Chẳng còn cách nào cứu vãn được ngoài cách ấy.
Người chồng khổ tâm, nghĩ bụng, thà sống chung cùng với các con chia nhau mẩu bánh
cuối cùng vẫn còn vui hơn. Chồng phàn nàn, nhưng vợ không nghe gì hết, còn la chửi
chồng rằng đã trót thì phải trét, lần trước đã theo ý mụ thì lần này cũng phải theo.
Hai đứa trẻ nằm nhưng chưa ngủ, chúng nghe hết đầu đuôi câu chuyện bố mẹ bàn với
nhau. Khi bố mẹ đã ngủ say, Henxêl dậy định ra ngoài nhặt sỏi như lần trước, nhưng cửa
mẹ đã đóng mất rồi, Henxêl không thể ra được nữa. Nó đành dỗ em gái:
- Đừng khóc nữa Gretel, em cứ ngủ cho ngon, trời sẽ phù hộ chúng ta.
Sáng sớm tinh mơ mẹ đã kéo cổ cả hai đứa ra khỏi giường, cho chúng mỗi đứa một mẩu
bánh còn nhỏ hơn mẩu lần trước. Dọc đường đi vào rừng, Hãnsel cho tay vào túi, bẻ vụn
bánh mì ra, chốc chốc lại đứng lại rắc vụn bánh xuống đất.
Bố nói:
- Hãnsel, sao mày cứ hay dừng chân ngoảnh lại thế?
Hãnsel đáp:
- Con ngoảnh lại nhìn con chim bồ câu của con, nó đang đậu trên mái nhà và nói chào tạm
biệt con.
Mẹ mắng:
- Đồ ngốc, đó không phải là chim bồ câu của mày, đó chỉ là cái bóng ống khói khi có mặt
trời chiếu.
Dọc đường đi Hãnsel nín lặng, nhưng cũng rắc hết được vụn bánh.
Bà mẹ dẫn hai con vào tít mãi trong rừng sâu, nơi mà chúng từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa
bước chân tới bao giờ. Sau khi nhóm lửa xong, đợi cho lửa bùng cháy thì bà mẹ nói:
- Chúng mày ngồi đó, lúc nào mệt thì ngủ đi một tí. Tao với ba mày còn phải đi đốn gỗ
trong rừng sâu, tối xong việc sẽ quay lại đón chúng mày.
Đến trưa Gretel bẻ bánh của mình chia cho Hãnsel, vì bánh của Henxêl bẻ vụn rắc dọc
đường rồi. Ăn xong chúng ngủ liền. Trời tối nhưng chẳng thấy một ai đến đón hai đứa trẻ
đáng thương cả. Khi hai anh em tỉnh dậy thì bóng đêm đã bao trùm khắp mọi nơi. Hãnsel
dỗ em gái:
- Gretel, em cứ đợi một lát, tới khi trăng lên anh em mình sẽ nhìn thấy những vụn bánh
anh rắc dọc đường, cứ lần theo vết bánh ta sẽ thấy đường về nhà.
Trăng vừa mọc thì hai đứa đứng dậy đi, nhưng chúng không thấy một vụn bánh nào cả, vì
trong rừng chỗ nào mà chẳng có chim muông, hàng nghìn con đã sà xuống mổ ăn hết.
Hãnsel bảo Gretel:
- Thế nào chúng ta cũng tìm ra đường về.
Nhưng chúng tìm không ra đường. Chúng đi thông đêm đến sáng, rồi lại cả ngày hôm sau
từ sáng tới tối mà không ra được khỏi rừng. Giờ đây bụng đói như cào, hai anh em kiếm
quanh nhưng chẳng có gì ngoài dâu đất mọc hoang. Hai anh em mệt nhoài người, bước
không nổi nữa, nằm lăn ra đất dưới gốc cây và ngủ thiếp đi.
Thế là hai anh em xa nhà đã ba ngày. Chúng lại tiếp tục lên đường, nhưng càng đi càng lạc
sâu hơn trong rừng, chỉ chậm ít lâu nữa mà không có ai cứu giúp chắc chúng đói lả mà
chết.
Giữa trưa hai anh em nhìn thấy một con chim đẹp, lông trắng như tuyết đậu trên cành cây
hót véo von. Nghe tiếng chim hót chúng dừng chân đứng lại. Hót xong chim xoè cánh bay
tới trước mặt hai anh em, cả hai liền đi theo hướng chim bay thì đến một túp lều nhỏ, còn
chim thì bay đậu trên mái nhà. Lại gần thì thấy nhà xây bằng bánh mì, ngói lợp là bánh
ngọt, cửa sổ bằng đường kính trắng tinh. Hãnsel nói:
- Giờ thì anh em mình cứ việc tự nhiên mà đánh chén một bữa ngon lành trời cho. Anh lấy
một miếng mái nhà ăn, còn em thì lấy cửa sổ mà ăn, cái đó ăn ngọt đấy.
Hãnsel giơ tay bẻ một mảnh mái nhà để ăn thử xem có ngon không. Và Gretel đứng bên
kính cửa mà gặm cho đỡ đói.
Giữa lúc đó thì trong nhà có tiếng người nói nhẹ nhàng vọng ra:
Gặm gặm, nhấm nhấm, ngó nghiêng,
Đứa nào dám gặm nhà riêng của bà?
Hai đứa trẻ đồng thanh đáp:
Gió đấy, gió đấy,
Có con trời đấy.
Nói rồi hai đứa đứng ăn tiếp tục mà chẳng hề sợ hãi.
Thấy mái nhà ăn cũng ngon, Hãnsel bẻ luôn một miếng to tướng lôi xuống. Còn Grétêl gỡ
luôn cả một tấm kính tròn, ra ngồi một góc gặm lấy gặm để.
Bỗng cửa mở, một bà lão già cốc đế đại vương tay chống nạng rón rén bước ra. Hãnsel và
Gretel sợ rụng rời chân tay, những thứ đang cầm trong tay đều rơi xuống đất. Bà lão lắc lư
đầu và nói:
- Trời, các cháu yêu quý, ai đưa các cháu đến đây? Nào vào nhà đi, ở đây với bà, bà không
làm gì đâu.
Bà lão cầm tay dắt hai đứa vào trong nhà, toàn những thức ăn ngon: sữa, bánh tráng
đường, táo và hạnh đào. Hai chiếc giường nhỏ xinh trải khăn trắng tinh để cho Hãnsel và
Gretel trèo lên nằm ngủ. Hai anh em ngỡ là mình đang ở trên thiên đường.
Mụ già chỉ giả bộ tử tế thôi, thực ra mụ là một phù thủy gian ác chuyên rình bắt trẻ con,
mụ làm nhà bằng bánh chẳng qua là để nhử chúng lại. Đứa trẻ con nào đã vào lãnh địa của
mụ sẽ bị mụ bắt, giết thịt nấu ăn. Đối với mụ ngày đó là một ngày lễ lớn.
Mụ phù thủy này có đôi mắt đỏ và không nhìn được xa, nhưng mụ lại rất thính hơi, có khả
năng nhận biết đó là súc vật hay là người đang đi tới.
Khi hai đứa trẻ đứng gần mụ, mụ cười vang đầy nham hiểm và nói giọng ngạo nghễ:
- Đã vào tay bà rồi thì đừng hòng trốn thoát.
Sáng, khi hai đứa trẻ còn ngủ say thì mụ đã dậy. Nhìn hai đứa trẻ ngủ nom dễ thương, hai
má đỏ hồng phinh phính, mụ lẩm bẩm một mình:
- Chắc ta sẽ được ăn một miếng mồi ngon đây.
Mụ đưa bàn tay khô héo nắm lấy Hãnsel kéo lôi ra nhốt vào một cái cũi nhỏ, đóng cửa
chấn lại. Thằng bé kêu gào thảm thiết nhưng mụ cũng làm ngơ.
Rồi mụ đi đánh thức Gretel dậy và quát:
- Dậy mau, đồ con gái lười chảy thây, dậy đi lấy nước về nấu cho anh mày một bữa ngon.
Nó ngồi trong cũi ở ngoài kia kìa, nó phải ăn ngon cho chóng béo, khi nào nó thực béo, tao
sẽ ăn thịt.
Gretel òa lên khóc nức nở, nhưng khóc cũng vô ích, vẫn phải làm những điều mụ phù thủy
độc ác sai khiến.
Những thức ăn nấu nướng ngon lành đều chỉ để cho Hãnsel, đồ thừa còn lại mới đến lượt
Gretel.
Sáng nào mụ già phù thủy cũng nhẹ bước tới bên cũi và nói:
- Hãnsel, giơ ngón tay tao xem mày đã béo lên chút nào chưa.
Hãnsel chìa ra một cái xương nhỏ, mắt cập kèm mụ cứ tưởng đó là ngón tay Hãnsel. Mụ
lấy làm lạ tại sao không béo lên tí nào cả.
Bốn tuần đã trôi qua mà thấy Hãnsel vẫn gầy. Mụ đâm ra sốt ruột, không muốn phải chờ
lâu hơn nữa. Mụ gọi cô gái:
- Gretel, con Gretel đâu, nhanh tay nhanh chân lên nào, nhớ đi lấy nước nhé. Cho dù thằng
Hãnsel béo hay gầy thì mai tao cũng làm thịt đem nấu.
Tội nghiệp cô bé, vừa xách nước, vừa than vãn, hai hàng nước mắt chảy trên gò má trông
thật đáng thương. Cô la khóc:
- Lạy trời phù hộ chúng con, thà để thú dữ trong rừng ăn thịt còn hơn, như vậy hai anh em
còn được chết chung.
Mụ già bảo:
- Thôi đừng có la khóc nữa, những cái đó chẳng giúp được gì đâu.
Trời sớm tinh sương Gretel đã phải chui ra khỏi nhà đi lấy nước đổ nồi, rồi nhóm lửa chất
bếp. Mụ già bảo:
- Nướng bánh trước đã, lò tao nhóm đã nóng, bột tao cũng đã nhào.
Mồm nói tay mụ đẩy cô bé tới trước cửa lò, lửa cháy bốc cả ra phía ngoài cửa lò. Mụ phù
thủy nói:
- Chui vào, nhìn xem bên phải lò đã đủ nóng chưa để cho bánh vào.
Mụ định khi Gretel chui vào thì mụ đóng ngay cửa lò lại, để cho Grétêl bị nướng nóng ở
trong đó, sau đó mụ chỉ việc lấy ra mà ăn. Nhưng Gretel biết mụ đang nghĩ gì, cô nói:
- Cháu không biết làm thế nào mà vào được trong đó.
Mụ già mắng:
- Ngu như bò ấy, cửa lò rộng thế này, mày thấy không, tao chui vào cũng lọt nữa là mày.
Mụ từ từ đi lại cửa lò và chui đầu vào trong lò. Ngay lúc ấy Grétêl liền đẩy mụ một cái
thật mạnh làm mụ chúi tọt hẳn vào trong lò. Gretel đóng cửa lò bằng sắt lại và cài then thật
kỹ.
Bạn có nghe thấy không, con mụ già rú lên khủng khiếp. Grétêl chạy thẳng một mạch tới
chỗ Hãnsel, mở cửa cũi và reo.
- Hãnsel, anh em ta được giải thoát, mụ phù thủy già đã chết.
Cửa vừa mở Hãnsel nhảy từ trong ra như chim sổ lồng. Thật là vui mừng biết bao. Hai anh
em ôm choàng lấy nhau, nhảy tưng tưng, ôm hôm nhau. Bây giờ không còn gì để sợ nữa,
hai anh em đi vào nhà mụ phù thủy thấy xó nào cũng có những hòm đầy ngọc ngà châu
báu.
Thôi thì tha hồ mà lấy. Hãnsel vừa ních đầy túi vừa nói:
- Thứ này chắc chắn quý hơn sỏi.
- Em cũng phải lấy một ít mang về nhà mới được.
Gretel nói thế rồi nhét đầy tạp dề. Hãnsel nói tiếp:
- Giờ chúng ta phải đi ngay ra khỏi khu rừng của mụ phù thủy.
Đi được vài giờ hai anh em tới bên một con suối lớn. Hãnsel nói:
- Anh không thấy có cầu, làm sao anh em ta sang được bên kia.
Gretel đáp:
- Đò ngang cũng không có nốt, nhưng kia, có con vịt trắng đang bơi, để em nói khó với vịt
chắc vịt sẽ chở anh em mình sang bờ bên kia.
Rồi Gretel gọi:
Vịt ơi vịt nhỏ, vịt xinh
Làm ơn vịt cõng chúng mình sang ngang.
Hãnsel cùng với Gretel
Cám ơn vịt trắng không quên công này.
Vịt bơi vào sát bờ. Hãnsel cưỡi lên lưng vịt và bảo em mình lên ngồi sau. Gretel nói:
- Thôi anh ạ, hai người thì quá nặng, để vịt cõng từng người một sang.
Vịt tốt bụng cõng lần lượt hai anh em. Yên ổn sang tới bờ bên kia, hai anh em lại tiếp tục
lên đường, đi được một quãng khá dài, hai anh em thấy rừng ngày càng hiện ra quen thuộc
hơn. Cuối cùng, từ xa hai anh em đã nhìn thấy căn nhà của bố mẹ mình. Thế là chúng co
cẳng chạy, ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào nhà, ôm ghì cổ bố mà hôn. Bà mẹ thì qua đời
từ lâu.
Từ ngày bỏ con trong rừng ông bố không có lúc nào vui.
Gretel cởi nút tạp dề, ngọc ngà châu báu lăn tứ tung ra nền nhà. Còn Hãnsel thì hết nắm
này đến nắm khác móc từ trong túi ra.
Từ đó những lo lắng không còn nữa, cả nhà sống trong cảnh yên vui hạnh phúc.
Chuyện tôi kể đến đây là hết. Kìa ở góc kia có con chuột đang chạy, ai bắt được nó có thể
lấy da làm được một cái mũ lông to thật là to.
The Bremen town musicians
There was once an ass whose master had made him carry sacks to the mill for many a long
year, but whose strength began at last to fail, so that each day as it came found him less
capable of work. Then his master began to think of turning him out, but the ass, guessing
that something was in the wind that boded him no good, ran away, taking the road to
Bremen; for there he thought he might get an engagement as town musician. When he had
gone a little way he found a hound lying by the side of the road panting, as if he had run a
long way. "Now, Holdfast, what are you so out of breath about?" said the ass. "Oh dear!"
said the dog, "now I am old, I get weaker every day, and can do no good in the hunt, so, as
my master was going to have me killed, I have made my escape; but now, how am I to
gain a living?" - "I will tell you what," said the ass, "I am going to Bremen to become
town musician. You may as well go with me, and take up music too. I can play the lute,
and you can beat the drum." And the dog consented, and they walked on together. It was
not long before they came to a cat sitting in the road, looking as dismal as three wet days.
"Now then, what is the matter with you, old shaver?" said the ass. "I should like to know
who would be cheerful when his neck is in danger," answered the cat. "Now that I am old
my teeth are getting blunt, and I would rather sit by the oven and purr than run about after
mice, and my mistress wanted to drown me; so I took myself off; but good advice is
scarce, and I do not know what is to become of me." - "Go with us to Bremen," said the
ass, "and become town musician. You understand serenading." The cat thought well of the
idea, and went with them accordingly. After that the three travellers passed by a yard, and
a cock was perched on the gate crowing with all his might. "Your cries are enough to
pierce bone and marrow," said the ass; "what is the matter?" - "I have foretold good
weather for Lady-day, so that all the shirts may be washed and dried; and now on Sunday
morning company is coming, and the mistress has told the cook that I must be made into
soup, and this evening my neck is to be wrung, so that I am crowing with all my might
while I can." - "You had much better go with us, Chanticleer," said the ass. "We are going
to Bremen. At any rate that will be better than dying. You have a powerful voice, and
when we are all performing together it will have a very good effect." So the cock
consented, and they went on all four together.
But Bremen was too far off to be reached in one day, and towards evening they came to a
wood, where they determined to pass the night. The ass and the dog lay down under a
large tree; the cat got up among the branches, and the cock flew up to the top, as that was
the safest place for him. Before he went to sleep he looked all round him to the four points
of the compass, and perceived in the distance a little light shining, and he called out to his
companions that there must be a house not far off, as he could see a light, so the ass said,
"We had better get up and go there, for these are uncomfortable quarters." The dog began
to fancy a few bones, not quite bare, would do him good. And they all set off in the
direction of the light, and it grew larger and brighter, until at last it led them to a robber's
house, all lighted up. The ass. being the biggest, went up to the window, and looked in.
"Well, what do you see?" asked the dog. "What do I see?" answered the ass; "here is a
table set out with splendid eatables and drinkables, and robbers sitting at it and making
themselves very comfortable." - "That would just suit us," said the cock. "Yes, indeed, I
wish we were there," said the ass. Then they consulted together how it should be managed
so as to get the robbers out of the house, and at last they hit on a plan. The ass was to place
his forefeet on the window-sill, the dog was to get on the ass's back, the cat on the top of
the dog, and lastly the cock was to fly up and perch on the cat's head. When that was done,
at a given signal they all began to perform their music. The ass brayed, the dog barked, the
cat mewed, and the cock crowed; then they burst through into the room, breaking all the
panes of glass. The robbers fled at the dreadful sound; they thought it was some goblin,
and fled to the wood in the utmost terror. Then the four companions sat down to table,
made free with the remains of the meal, and feasted as if they had been hungry for a
month.
And when they had finished they put out the lights, and each sought out a sleeping-place
to suit his nature and habits. The ass laid himself down outside on the dunghill, the dog
behind the door, the cat on the hearth by the warm ashes, and the cock settled himself in
the cockloft, and as they were all tired with their long journey they soon fell fast asleep.
When midnight drew near, and the robbers from afar saw that no light was burning, and
that everything appeared quiet, their captain said to them that he thought that they had run
away without reason, telling one of them to go and reconnoitre. So one of them went, and
found everything quite quiet; he went into the kitchen to strike a light, and taking the
glowing fiery eyes of the cat for burning coals, he held a match to them in order to kindle
it. But the cat, not seeing the joke, flew into his face, spitting and scratching. Then he cried
out in terror, and ran to get out at the back door, but the dog, who was lying there, ran at
him and bit his leg; and as he was rushing through the yard by the dunghill the ass struck
out and gave him a great kick with his hind foot; and the cock, who had been wakened
with the noise, and felt quite brisk, cried out, "Cock-a-doodle-doo!" Then the robber got
back as well as he could to his captain, and said, "Oh dear! in that house there is a
gruesome witch, and I felt her breath and her long nails in my face; and by the door there
stands a man who stabbed me in the leg with a knife; and in the yard there lies a black
spectre, who beat me with his wooden club; and above, upon the roof, there sits the justice,
who cried, 'Bring that rogue here!' And so I ran away from the place as fast as I could."
From that time forward the robbers never ventured to that house, and the four Bremen
town musicians found themselves so well off where they were, that there they stayed. And
the person who last related this tale is still living, as you see.
Những nhạc sĩ thành Bremen
Một người có một con lừa. Bao năm nay lừa kéo xe chở lúa đến nhà xay không hề biết
mệt. Nhưng giờ đây sức lừa đã kiệt, không thể dùng kéo xe được nữa. Chủ nghĩ cách kết
liễu đời lừa để lấy bộ da. Lừa cảm thấy nguy đến nơi liền trốn đi và lên đường đến thành
Bremen. Lừa ta nghĩ bụng: đến đó chắc mình có thể làm nhạc sĩ thành phố.
Lừa đi được một lúc thì gặp một con chó nằm bên đường vừa ngáp vừa thở ư ứ như vừa
chạy rất mệt. Lừa hỏi:
- Này anh bạn, làm sao mà anh cứ ngáp dài và thở hoài vậy?
Chó trả lời:
- Ấy, chẳng qua mình tuổi ngày một già, sức ngày một yếu không đi săn được nữa, nên
ông chủ tịch giết mình. Mình trốn đi, nhưng giờ thì kiếm đâu ra cơm mà ăn?…
Lừa bảo:
- Này cậu ạ, mình đến thành Bremen để làm nhạc sĩ thành phố. Cậu đi với mình đi, sung
vào ban nhạc. Mình chơi đàn, cậu đánh trống.
Chó nhận lời, cả hai cùng đi. Đi chưa được mấy chốc thì gặp một con mèo ngồi bên đường
mặt buồn thỉu buồn thiu. Lừa hỏi:
- Này bác già liếm râu, có chuyện gì bất trắc thế?
Mèo đáp:
- Lo mất đầu thì còn vui sao được! Mình nay tuổi thì cao, răng lại cùn, chỉ thích nằm bên
lò sưởi gừ gừ hơn là bắt chuột, nên bà chủ định dìm chết mình. Mình trốn đi, nhưng giờ
đang băn khoăn chẳng biết nên đi đâu.
- Thì cũng đi Bremen với bọn mình. Cậu sành nhạc đệm, chắc có thể làm nhạc sĩ thành
phố được.
Mèo cho là phải và đi cùng. Chẳng bao lâu, ba con đi qua sân nhà một bác nông dân, có
con gà đậu trên cửa đang ra sức gáy. Lừa hỏi:
- Cậu định tính chuyện gì mà gáy nghe đinh tai nhức óc lên thế?
Gà nói:
- Mình gáy báo tốt trời. Nhưng ngày mai là ngày lễ, bà chủ giặt giũ nhiều, nhà lại có
khách, bà chủ đâu có thương hại mình, bà bảo mụ đầu bếp mai bỏ mình vào nồi nấp súp.
Tối nay là mình bị cắt tiết đây. Ờ, chừng nào còn gáy được thì ráng sức mà gáy cho thỏa
chí.
Lừa bảo:
- Này anh chàng mào đỏ, thà đi với bọn mình còn hơn. Chúng mình đi Brêm. Đi đâu mà
chả được, còn hơn là chờ chết. Giọng cậu tốt, nếu chúng mình cùng hòa nhạc thì hẳn là
hay đứt đi rồi.
Gà thấy cũng có lý, thế là cả bốn cùng đi. Một ngày đường ròng rã nhưng vẫn chưa tới
Bremen. Buổi tối chúng tới một khu rừng, định ngủ lại. Lừa và chó nằm ngay ở gốc cây cổ
thụ, mèo và gà ngủ trên cành cây, gà đậu tít trên ngọn cây cho chắc chắn. Trước khi ngủ
gà đưa mắt nhìn chung quanh, thấy xa xa có ánh lửa bập bùng, gà liền gọi các bạn đồng
hành bảo, có lẽ gần đây có nhà, vì có ánh lửa. Lừa bảo:
- Nếu như vậy thì ta đến đó đi thôi, quán trọ này đâu có tốt.
Chó nghĩ bụng: giá như kiếm được vài cái xương dính tí thịt thì cũng hay rồi.
Thế là chúng cất bước đi về phía có ánh sáng. Ánh lửa bập bùng ngày càng rõ dần. Tới nơi
thì ra đó là căn nhà của bọn cướp, đèn thắp sáng trưng.
Lừa to con nhất, lại gần cửa sổ nhìn vào.
Gà hỏi:
- Chú xám ơi, có gì trong đó?
Lừa đáp:
- Ồ, cậu có biết không, bọn cướp đang khoái chí đánh chén bên một cái bàn bày la liệt đồ
ăn thức uống?
Gà nói:
- Giá cái đó là giành cho bọn mình nhỉ!
Lừa bảo:
- Phải, phải, chí phải, giá như bọn mình ngồi vào đấy thì hay biết bao!
Chúng xúm nhau lại bàn mưu tính kế làm sao tống khứ được bọn cướp. Cuối cùng chúng
nghĩ ra một kế: Lừa kê hai chân trước lên cửa sổ, chó nhảy lên lưng lừa, mèo trèo lên lưng
chó, gà bay đậu lên đầu mèo. Hiệu lệnh vừa ra, cả bốn đồng thanh cất tiếng: Lừa kêu, chó
sủa, mèo kêu meo meo, gà gáy. Rồi chúng nhảy ùa vào phòng, cừa kính vỡ loảng xoảng.
Nghe tiếng khủng khiếp ấy, tưởng là ma hiện vào, bọn cướp giật mình bỏ bàn ăn chạy thục
mạng về phía rừng. Bốn nhạc sĩ liền ngồi vào bàn, vui lòng ăn chỗ còn thừa, ăn ngốn ngấu
như đã bị bỏ đói hàng tháng nay.
Đánh chén no say, bốn nhạc sĩ tắt đèn, tìm chỗ nằm ngủ tùy theo sở thích và thói quen
riêng của mình. Lừa nằm trên đống phân, chó nằm sau cửa, mèo trèo tro ấm bên bếp lửa,
gà đậu trên xà nhà.
Vì đi một ngày đường ròng rã nên mới nằm xuống cả bốn đã ngủ say liền.
Đến nửa đêm, từ xa bọn cướp thấy trong nhà không còn ánh sáng, cảnh vật yên lặng, tên
đầu đảng cướp nói:
- Đáng lẽ chúng ta không được để người khác tống cổ đi mới phải!
Hắn sai một tên về nhà dò la. Tên này thấy căn nhà im lặng như tờ, liền vào bếp để thắp
đèn. Thấy mắt mèo hắn tưởng than hồng, cho diêm vào thắp. Mèo đâu có quen lối đùa cợt
ấy, liền nhảy lên mặt hắn vừa kêu vừa cào. Tên này sợ quá tháo chạy qua cửa sổ, chó nằm
đó chồm dậy cắn vào chân. Khi chạy qua sân gần đống phân, lừa đá cho một cái như trời
giáng. Nghe tiếng động gà thức giấc. Từ trên xà nhà gà gáy:
- Cúc cù cu… cu!
Tên cướp ba chân bốn cẳng chạy một mạch về báo chủ tướng:
- Ui chao! Trong nhà có một mụ phù thủy, nó phun bọt vào tôi, lấy móng tay dài cào mặt
tôi. Ở ngay cửa ra vào có một người đàn ông cầm dao chém vào chân tôi. Ngoài sân có
con quái vật đen tuyền cầm chùy giáng tôi một chùy nên thân. Trên mái nhà một ông quan
tòa hét: "Điệu thằng đểu cáng lại đây!." Thế là tôi bỏ chạy thục mạng về đây.
Từ đó bọn cướp không dám bén mảng tới căn nhà ấy nữa. Bốn nhạc sĩ thành Bremen thích
cái nhà ấy nên cũng không muốn dời đi nơi khác.
Little Red Riding Hood