Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

SO SÁNH SỰ KẾT CẢM HỨNG TRỮ TÌNH VỚI CHẤT SUY TƯỞNG, TRIẾT LÝ TRONG THƠ TÔ HỮU VÀ CHẾ LAN VIÊN NHỮNG NĂM CHỐNG MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.72 KB, 14 trang )

SO SÁNH SỰ KẾT CẢM HỨNG TRỮ TÌNH VỚI CHẤT SUY
TƯỞNG, TRIẾT LÝ TRONG THƠ TÔ HỮU VÀ CHẾ LAN VIÊN
NHỮNG NĂM CHỐNG MỸ

DẪN NHẬP
Những năm 1965 – 1975 Mĩ đưa quân sang xâm lược Việt Nam, đem đến
bao nhiêu đau thương mất mát cho cả dân tộc, chúng liên tục chạm đến tình cảm
thiêng liêng trong trái tim của mỗi người con Việt Nam. “Kẻ thù buộc ta ôm cây
súng”1- phải nói, chưa lúc nào như lúc này kẻ thù đã làm bừng dậy sức mạnh lớn
lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí độc lập, tự do, những tình cảm lớn
lao ấy vốn đã tuôn chảy như một mạch nguồn xuyên suốt trong nền văn học nghệ
thuật Việt Nam nói chung, thơ ca nói riêng, thì giờ đây lại càng nồng nàn, mãnh
liệt hơn bao giờ hết. Ngay cả lực lượng sáng tác cũng chưa bao giờ tập hợp được
nhiều thế hệ và phong cách vừa thống nhất vừa bổ sung nhau như thời kì này.
Trong đó không thể không nhắc đến những sáng tác của hai nhà thơ lớn: Tố Hữu
và Chế Lan Viên trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ với đặc trưng của cảm
hứng trữ tình kết hợp với chất triết lý, suy tưởng một cách tinh tế và nhuần
nhụy.
I.

II.

NỘI DUNG
II.1. Sáng tác của Chế Lan Viên và Tố Hữu trong giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ
Thơ chống Mỹ ra đời trong bối cảnh cả dân tộc quyết tâm chiến đấu theo
lời kêu gọi thiêng liêng “Vì độc lập tự do, toàn dân ta quyết thắng!”2, người
nghệ sĩ ai cũng đều tự nguyện cầm bút cũng như cầm súng để chiến đấu và
xem “văn hóa – nghệ thuật cũng là mặt trận”. Song, khi cầm bút chiến đấu, họ
không quên ngoài giải bày những rung động mãnh liệt từ trái tim mà còn phải
góp phần lí giải được những vấn đề lớn lao của dân tộc, vì thế, thơ ca ngày


càng mang đậm chất trí tuệ theo hướng mở rộng yếu tố triết lý, suy tưởng.
Nhưng để có sức lắng đọng sâu sắc đối với người đọc, thơ không thể thiếu yếu
tố tình cảm. Bởi lẽ, nói đến thơ, trước hết là phải nói đến cảm xúc, không có

1 Trích bài hát “Hát mãi khúc hành quân”
2 Bài thơ Chào xuân 67

1


cảm xúc không thể có thơ hay “thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách
nhuần nhuyễn và có nghệ thuật”3, nhờ sự gắn bó mật thiết và bổ sung cho nhau
giữa tình cảm và trí tuệ đã góp phần làm nên sức sống lâu bền cho thơ. Trong
đại lộ chung của sự nghiệp thơ ca, mỗi tiếng thơ riêng đều tìm được vị trí của
mình trong dàn giao hưởng lớn ấy. Trong đó Chế Lan Viên và Tố Hữu, tuy
mỗi người đều có tiếng thơ riêng của mình, nhưng nhìn chung những sáng tác
của họ đã góp phần tô điểm cho dòng chảy chung của nền thơ ca kháng chiến
thêm màu sắc mới, thêm đa dạng và phong phú hơn. Đến với những sáng tác
của Tố Hữu trong giai đoạn hào hùng này - giai đoạn cả nước cùng ra trận,
những vần thơ của ôg như hừng hực lửa, đã góp thêm khí thế “xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước / mà lòng phới phới dậy tương lai”, bằng sức mạnh “bốn
mươi thế kỉ cùng ra trận” với hai tập thơ: “Ra trận”, “Máu và hoa”. Cùng
nhập cuộc với Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng có: “Hoa ngày thường”, “Chim
báo bão”, “Những bài thơ đánh giặc”, “Đối thoại mới”, “Ngày vĩ đại”.
Cảm hứng trữ tình, suy tưởng, triết lý trong:
Niềm tự hào về Tổ quốc, truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam.
II.2.
II.2.1.

Giữa những năm tháng cả nước cùng “Ra trận”, cảm hứng về Tổ Quốc

đã trở thành nguồn mạch dạt dào tuôn chảy như một dòng sông lớn. Khó mà
kể cho hết, cho đủ sự trở đi trở lại của hai chữ Tổ Quốc trong thơ ca và nhất
là trong những sáng tác của Tố Hữu – một nhà thơ có trái tim nhạy cảm, bởi
tấm lòng của Tố Hữu đối với đất nước trong thơ vốn giàu yêu thương, tha
thiết. Do đó hai tiếng Tổ Quốc trong Ta đi tới như được ngân lên bằng tất cả
cảm xúc trang nghiêm, thành kính, tự hào:
“Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt “
Tình cảm đó đã thấm đượm trong những vần thơ đậm chất trữ tình và
suy tưởng, triết lý. Song, những lời thơ ấy còn gắn liền với tình yêu thương và
niềm tự hào về Tổ quốc, về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam. Có lẽ
vì thế, khi đọc thơ Tố Hữu ta thấy ông thường nhắc đến Việt Nam như một
hình tượng lớn lao, trọn vẹn, thiêng liêng mà vẫn đẹp lạ lùng. Đôi khi có nét
3 Sóng Hồng viết khi bàn về thơ Sóng Hồng

2


của một tâm hồn chất chứa bao suy nghĩ, lại vừa có vẻ đẹp dịu hiền khổ đau
của một người mẹ giàu đức hy sinh:
Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
(Chào xuân 67)
Càng nặng lòng với Tổ Quốc, Tố Hữu càng tự hào về truyền thống yêu
nước của ông cha ta, trong thơ của mình ông luôn gợi nhắc đến truyền thống
quý báu ấy “….như lưỡi gươm trần sáng quắc”, “rạo rực lòng ta, trống trận
Quang Trung”, như để thúc giục, cổ võ cho dân tộc ta“….bất chấp gian
nguy / Khoác vai nhau, ta bước lên đi”, bước đi hào hùng, đầy sức sống, lạc
quan:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
(Theo chân Bác)
Tấm lòng của Tố Hữu đối với Tổ Quốc và dân tộc còn thể hiện ở những
vần thơ gợi cảm với những suy tưởng sáng tạo:
Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ.
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mình trời xanh mà xông xáo,
mà tung hoành, ngang dọc.
(Bài ca xuân 68)
Từ hình ảnh tượng trưng quen thuộc của chiếc mũ tai bèo, nhà thơ đã
dành cho anh giải phóng quân biết bao niềm mến thương, cảm phục. Viết về
anh ông đã phải ngã bút, nghiên mình “Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”.
Như vậy, những phát hiện về vẻ đẹp của Tổ Quốc luôn đi liền với
những khám phá về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Không riêng gì
anh giải phóng quân, tất cả những người con anh hùng cứu nước trong mưa
bom lửa đạn đều hiện lên trên trang thơ của Tố Hữu với tất cả tính chất cụ thể
sinh động được khai thác từ những con người cụ thể có thật trong đời sống
như: anh Nguyễn Văn Trỗi, dáng anh “hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu” – một
phẩm chất tiêu biểu chung cho cả thế hệ thanh niên của thời đại, mẹ Suốt “Kể
chi tuổi tác già nua” mẹ đã bảo: “cứu nước, mình chờ chi ai?” – là đại diện
3


cho hình ảnh mẹ Việt Nam anh hùng trong những năm chống Mỹ cứu nước, là
chị Trần Thị Lý – người con gái Việt Nam, trước đòn roi tra tấn của kẻ thù
vẫn giữ một “trái tim vĩ đại”, “một giọt máu tươi còn đập mãi, không phải
cho riêng chị mà còn “cho lẽ phải trên đời / cho quê hương em. Cho Tổ quốc,
loài người!”. Phải chăng, Tố Hữu đã đi từ cái riêng của những cuộc đời cụ thể
để khái quát lên thành cái chung của một lớp người, một thế hệ. Nhìn lại bức
chân dung của những anh hùng “không ai hớ mặt đặt tên”4 ấy, họ đều được Tố

Hữu miêu tả theo cách riêng, nhưng bao trùm lên những hình tượng đó là một
cảm hứng trữ tình mượt mà, ngọt ngào bằng thể thơ lục bát truyền thống và
giọng điệu thiết tha, uyển chuyển như một lời ru, một bài ca dao. Có lẽ, vì thế
thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ đi sâu vào lòng người.
Như thế, qua những vần thơ dậm chất trữ tình và triết lý, suy tưởng, Tố
Hữu đã thể hiện niềm tự hào về truyền thống dân tộc bằng những vần thơ ngợi
ca quê hương, ngợi ca người anh hùng bất khuất. Vậy trang thơ của Chế Lan
Viên sẽ đề cập đến những vấn đề lớn lao ấy theo cảm nhận của mình như thế
nào?
Thật ra, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam có xuất hiện nhưng còn thưa vắng, đến sau này thì bị
chìm lẫn trong rất nhiều hình tượng khác, phải nói chỉ có ở giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam mới hiện lên rõ
nét và ám ảnh đến thế. Trong nỗi đau đất nước bị chia cắt, khát vọng giải
phóng và thống nhất đất nước đã mang lại nét đặc trưng cho cảm hứng về Tổ
Quốc, cũng như mang đến sắc diện mới trong tiến trình thơ ca nói chung và
trong những sáng tác của Chế Lan Viên nói riêng. Nếu Tố Hữu khi viết về Tổ
Quốc, đã so sánh Tổ Quốc “như bà mẹ sớm chiều gánh nặng, nhẫn nại nuôi
con suốt đời im lặng”, thì đến Chế Lan Viên Tổ Quốc “như bà mẹ nghèo thì
thào cùng tôi qua nước mắt”. Cách so sánh của hai nhà thơ tuy có khác nhau
nhưng đều làm sáng lên tình cảm gắn bó sâu nặng của người con Việt Nam
đối với quê hương đất nước. Nói đến tình yêu nước, trước kia Chế Lan Viên
vẫn còn rụt rè, chưa dám bộc lộ trực tiếp, phải mượn một vương quốc đã mất
để gợi lên nỗi lòng thống thiết, sâu nặng của mình:

4 Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm

4



Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hận
Xương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn
(Trên đường về)
Thì giờ đây, trong lúc Tổ Quốc đang ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc,
Chế Lan Viên mới mạnh dạn tiến nhanh, tiến mạnh, tăng tốc bước theo dòng
người cách mạng. Như một chiếc lò xo càng nén sức bật càng lớn, tình yêu
quê hương, yêu dân tộc vì thế được giãi bày một cách trực tiếp, mãnh liệt:
“Ôi! Tổ quốc ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng!
Ôi, Tổ quốc! Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”...
(Sao chiến thắng)
Chưa bao giờ như những ngày tháng này, dân ta phải lấy “máu thịt” giữ
từng lá cây, ngọn cỏ, mà hình ảnh Tổ Quốc vẫn hiện lên huy hoàng, diễm lệ.
Phải chăng, vì nhà thơ vốn xem Tổ Quốc như “máu thịt”, như một phần sự
sống của bản thân, như thành viên trong gia đình, cho nên càng quyết tâm dù
hy sinh cũng phải bảo vệ, giữ gìn Tổ Quốc toàn vẹn. Tổ Quốc tuy lừng lẫy,
tỏa sáng nhưng cũng đầy đau thương, nước mắt, giọng thơ bỗng trở nên trầm
lắng, đi vào chiều sâu triết lí:
“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất”
(Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Từ lòng tự hào mãnh liệt trước vẻ đẹp của Tổ quốc, nhà thơ lại nhớ về
những những năm tháng lịch sử vẻ vang của ông cha ta, để rồi gợi nhắc về nó
bằng những hình ảnh kỳ vĩ mang tính biểu trưng: “Khi Nguyễn Trãi làm thơ
và đánh giặc / Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn”, “Mỗi chú bé
đều nằm mơ ngựa sắt / Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”, “Khi
Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc / Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng
Bạch Đằng”. Qua đó có thể thấy, Chế Lan Viên không nhìn đất nước bằng

5


con mắt cá nhân mà ông nhìn bằng con mắt của lịch sử, của dân tộc, “con mắt
Bạch Đằng”, “con mắt Đống Đa” nhằm ngợi ca truyền thống tự cường, bất
khuất của dân tộc trong suốt “bốn nghìn năm” “mỗi trang sử đất này đều
nhuộm máu cha ông” và “phải trăm năm mới có ngày độc lập”. Vì thế, phải
luôn nhớ cái giá trị của sự hy sinh là vô cùng to lớn:
Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời
Gì quý hơn giá trị con người?
Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu.
Người ta vẫn thường cho rằng thơ Chế Lan Viên giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ mang tính chất chính luận cùng những dòng suy tư, chiêm nghiệm
khô khan trừu tượng. Nhưng thật ra đằng sau những dòng suy tư khô khan ấy
là cả một tình yêu tha thiết, ngọt ngào đối với quê hương đất nước, con người
Việt Nam. Sao chiến thắng là một tác phẩm như thế, bài thơ mở đầu bằng thể
thơ ngũ ngôn, từ nhạc điệu đến tiết tấu, khổ thơ đanh lại như một lời thề quyết
tử:
Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu tất cả
Một chiếc cầu vừa mới bắc qua sông
Một hợp tác lúa chiêm vàng óng ả
Một nhà ăn cửa sổ sơn hồng...
(Sao chiến thắng)
Tuy nhiên từ đó về sau câu thơ chuyển hướng, kéo dài ra theo thể thơ
tám chữ và lối thơ vắt dòng, tạo nên âm hưởng thiết tha, xúc động. Có thể nói
đây là những dòng thơ trữ tình cảm động nhất, làm khơi dậy tình yêu nước lớn
lao trong trái tim người nghệ sĩ và trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam
trong những giờ phút trang nghiêm của lịch sử.
Nhìn chung thơ của Chế Lan Viên có khi chất chứa những suy tưởng

triết lí về một vấn đề nào đấy trong cuộc sống nhưng cũng có khi mang
những cảm xúc đằm thắm thiết tha, những câu thơ mềm mại như lời ru của
mẹ, như câu hò, điệu hát có sức ngân xa, thấm sâu trong tình cảm người đọc.
6


Vì lẽ đó, đến với thơ Chế Lan Viên, ta thấy được sự kết hợp hài hòa giữa trí
tuệ sắc xảo và cảm xúc nồng cháy mãnh liệt.

II.2.2.

Cảm hứng ngợi ca về sức mạnh và phẩm chất con người Việt Nam.

Cùng với đề tài Tổ quốc, chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn của
văn học giai đoạn này, trong đó người ta ngợi ca sức mạnh, những phẩm chất
tốt đẹp của con người Việt Nam. Để nói đến hình tượng mẫu mực đại diện
cho sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp ấy không ai khác chính là vị lãnh
tụ vĩ đại, người cha già mến yêu của dân tộc Việt Nam - chủ tịch Hồ Chí
Minh. Vì lẽ đó Bác Hồ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận trong thi ca và
được viết về Bác là niềm tự hào vô bờ của người nghệ sĩ. Trong số đó phải kể
đến Tố Hữu và Chế Lan Viên - hai trong những cây bút viết về Bác hay nhất,
sâu sắc nhất. Tuy cùng viết về Bác nhưng với hai phong cách nghệ thuật và
nguồn cảm hứng sáng tạo riêng đã làm cho hình tượng của Bác trở nên vừa
thân quen vừa mới lạ đối với người đọc.
Tố Hữu – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là
người có nhiều bài thơ hay về Bác. Có lẽ mảng thơ ấn tượng và xúc động nhất
là những bài thơ viết khi Bác mất, trong bài “Bác ơi” Tố Hữu đã khắc họa rõ
nét, tính cách giản dị, khiêm tốn, chí công vô tư của Người:
“Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”

“Bác ơi” còn là tiếng nấc của Tố Hữu: “Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! /
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa..” ở mỗi dòng thơ đều chất chứa sự ngẹn
ngào, như ứa nước mắt, như tràn đầy nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn. Nhưng
càng viết, càng nghĩ về Bác Tố Hữu lại càng bình tâm, lòng càng cứng rắn
hơn, có lẽ vì thế những câu thơ đang thấm đẫm nước mắt bổng trở nên mạnh
mẽ vô cùng:
“Giặc đã đánh. Thì ta quyết đánh!
Thà hy sinh tất cả, không nao
Lời Bác gọi, nửa đêm vang lệnh:
"Hãy xông lên, chiến sĩ đồng bào!"
(Theo chân Bác)
7


Trái lại, nếu Tố Hữu viết về Bác bằng những tình cảm chân thành mộc
mạc thì Chế Lan Viên viết về Bác bằng tất cả tình cảm tinh tế và sâu sắc.
Ngoài hai bài thơ rất quen thuộc viết về Bác: “Người đi tìm hình của nước” và
“Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi”, ông còn có một loạt bài viết
trong giai đoạn 1954 - 1976 in trong tập “ Hoa trước lăng Người”.
Hình ảnh Bác hiện lên trong thơ Chế Lan Viên thật rực rỡ với: "Tám
trăm xác phi cơ ùn cao dưới chân dép Bác Hồ", chẳng những thế, trong “con
mắt thơ” của Chế Lan Viên, Bác Hồ không chỉ là người lãnh đạo cách mạng
thành công, làm đổi thay số phận của mỗi con người Việt Nam, mà Bác còn
làm sống dậy những tinh hoa của văn hóa dân tộc:
“Người đánh thức hồn dân tộc đã về kia
……
Điệu lục bát và màu nâu nơi ruộng rẫy”
(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi)
Với Bác, nhà thơ luôn thể hiện một tình yêu thiết tha trước sự vĩ đại của
Người, nhưng “vĩ đại mà chẳng làm ai kinh ngạc”, ông luôn yêu quý nhân

cách và lối sống rất giản dị của Người, ngoài vài bộ quần áo Người chỉ có một
đội dép: “Rau trong vườn Người đã tăng gia / Cái quạt mát làm bằng lá cọ”.
Đến rau cải Người cũng tự trồng lấy, còn cái quạt của Người – đường đường
là một vị lãnh tụ, không phải là quạt điện, quạt máy mà là chiếc quạt tay. Hình
ảnh chiếc quạt tay làm từ lá cọ, một hình ảnh đầy tư duy, mang nhiều ý nghĩa
triết lý. Ngoài thể hiện cách sống hòa hợp với tự nhiên, cái quạt lá còn có thể
hiện đức tính tiết kiệm của Bác, chẳng những có thể tiết kiệm điện lại có thể
chủ động cả khi mất điện. Nó còn gợi cho ta suy nghĩ, phải chăng con người
có thể tạo ra gió ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ chỗ nào, cũng như gợi nhắc ta về
sức người và trí tuệ con người: “Bàn tay ta làm nên tất cả”. Từ cảm hứng trữ
tình, từng câu thơ toát lên chất suy tưởng, triết lý đậm nét, trang thơ của Chế
Lan Viên đã làm cho lòng kính yêu của ông đối với vị cha già vĩ đại có cái gì
đó thật sâu sắc, thấm đẫm tình cảm dân tộc.
Tuy xuất phát từ nguồn cảm xúc khác nhau khi viết về Bác, Tố Hữu và
Chế Lan Viên vẫn gặp nhau ở một điểm, đó là cả hai ngòi bút đều ý thức
được việc kết hợp cảm hứng trữ tình gắn liền với suy tưởng, triết lý trong cảm
hứng ngợi ca, thể hiện tình yêu dành cho Bác. Nếu kết hợp thơ của Tố Hữu và
Chế Lan Viên người đọc sẽ có cái nhìn khá toàn vẹn về bức chân dung của
Bác - một biểu trưng thiêng liêng cho lòng yêu nước, ý chí chống ngoại xâm,
8


là hình tượng mang những vẻ đẹp bất diệt, hết sức trìu mến, gần gũi, giản dị
và hào hùng.
2.2.3. Lòng căm thù giặc đồng thời thể hiện niềm tin vào sự thắng lợi của dân
tộc.
Khát vọng lý giải sức mạnh dân tộc và nhận diện đúng đắn gương mặt
của kẻ thù ở mọi khía cạnh đã thu hút phong cách suy tưởng, chính luận như
là nét nổi trội và chi phối nền thơ ca chống Mỹ và ở hầu khắp các tác giả. Với
Tố Hữu, việc kêu gọi, hô hào, cổ vũ nhân dân “Hãy gầm lên như sấm sét đùng

đùng / Tất cả pháo và xông lên dũng sĩ” là chưa đủ mà nhà thơ còn muốn lên
án, vạch mặt, tố cáo bản chất xấu xa của kẻ thù, làm khơi dậy lòng căm thù
giặc sôi sục của nhân dân hai miền Nam - Bắc. Bằng ngòi bút điêu luyện của
mình, Tố hữu đã hoàn toàn phơi bày gương mặt “thú vật hoá” của kẻ thù,
chúng vốn không có khuôn mặt người, thật đáng ghê sợ, chúng mang gương
mặt quỷ gớm ghiếc, kinh dị, chúng là “Những thằng dạ chó tanh hôi mặt
người”, “Những con thú Mỹ nuôi béo mã” – ngày đêm giày xéo đất nước ta,
hòng đưa nước ta về thời kỳ đồ đá, chúng ném bom hủy diệt tàn bạo làm nên
“những hố bom thét lớn căm hờn”, làm “trụi lá cây rừng, hạt lúa thành
than”. Chẳng những thế chúng còn điên cuồng tàn sát đồng bào ta bất kể già,
trẻ, gái, trai "Giết cả trăm người, trong một sáng / Máu tươi lênh láng đỏ
đường thôn”. Có những ông già thì nó đem ra khảo tra “Chẳng khai, nó chém
giữa sân nhà”, còn những chị “gần sinh, không chịu nhục” thì nó “Lấy vồ nó
đập, vọt thai ra”. Kể cả những đứa trẻ ngây thơ vô tội chúng cũng không tha:
Có em bé nghịch ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười… em nhỏ khóc
“Má ơi! nóng quá, cứu con mau”
(Lá thư Bến Tre)
Trước tiếng kêu xé lòng và sự dửng dưng “reo cười trong lúc nước mắt
ta rơi” khiến cho dân ta, người người đều căm giận, quyết bảo vệ mảnh đất
quê hương, bảo vệ sự sống của dân mình, chúng ta đã chống trả quyết liệt.
Vậy mà trong những tháng ngày gian khổ đó Tố Hữu vẫn luôn vững tin vào
đất nước và nhân dân, dù từ trong đau thương máu lửa ông vẫn tin rằng
“Người vươn lên như một thiên thần”, tin vào bàn tay lao động của nhân dân
mình sẽ dựng xây lại đất nước, sẽ biến những nơi “trụi lá cây rừng” thành
9


những nơi “xanh tươi cuộc sống”. Chính vì vậy, mặc cho mưa bom bão đạn,

nhân dân hậu phương vẫn ngang nhiên sản xuất gieo trồng, vẫn lạc quan
“những miệng cười và ca hát yêu thương”, vẫn “không khuất phục”, “vươn
lên cao và tự biết: Vô cùng!”, vì đã “Có Đảng ta đây, có Bác Hồ” thế nên nhà
thơ vẫn luôn cho rằng thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về ta. Sẽ có một
ngày trong “buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp” đồng bào sẽ được reo vui
trước tin “Toàn thắng về ta”. Với niềm tin chiến thắng ấy nhà thơ không thể
nào quên được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ:
“Cảm ơn Đảng đã cho ta dòng sữa
Bốn nghìn năm chan chứa ân tình!”
Ngợi ca, khâm phục và tự hào vốn là giọng điệu chung của thơ ca giai
đoạn này, làm sao không ngợi ca, khâm phục cho được khi dân tộc ta bé nhỏ
như thế, chỉ với hai bàn tay không mà dám đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ,
hùng mạnh nhất. Dù thơ của Tố Hữu kêu gọi, hô hào, vạch trần bản chất kẻ
thù hay thể hiện niềm tin vào sự thắng lợi tất yếu của chính nghĩa thì thơ Tố
Hữu cũng không hề đao to búa lớn, mà lại rất chân thành, thiết tha, mỗi câu
thơ đều chứa đựng nỗi xót xa của ông trước cảnh đau thương của đất nước,
của dân tộc, những tình cảm ấy được thể hiện thông qua lớp ngôn ngữ bình
dân, không hoa lệ, nó làm cho thơ của ông tuy đào sâu, suy ngẫm lý giải
những vấn đề của dân tộc nhưng vẫn rất gần gũi, quen thuộc, dễ chạm đến trái
tim của người đọc.
Cũng là một nhà thơ yêu nước sâu sắc, Chế Lan Viên lại càng không
thể nào im lặng trước hành động bạo tàn của kẻ thù. Nào là “xé xác trẻ em”,
“châm lửa đốt nhà”, “giết ruộng đồng ta bằng hóa học” rồi “ đâm lê vào
những áo cà sa”, “chúng ném bom Na - pan trong kinh nguyện nhà thờ” ấy
vậy mà chúng vẫn muốn tỏ ra văn minh, khoa học và rao giảng hoà bình – đó
là thứ hoà bình được trộn vào bom nguyên tử mà giờ đây chúng đang rải rác
khắp nơi để phá huỷ ruộng đồng, nhà cửa của ta. Những tội ác khiến trời
không dung, đất không tha của bọn ác ôn xâm lược đã được Chế Lan Viên
nhanh chóng vạch trần: “Giặc Mỹ giết người rất đỗi văn minh”, “Giặc Mỹ
cầm dao bằng những dáng hoà bình”5. Những luận điểm và lí lẽ chân thực,

giàu chất trí tuệ, suy tưởng ấy đã chạm đến cảm xúc, chạm đến nỗi đau của
5 Cái hầm chông giản dị, tập thơ Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967)

10


mỗi người dân Việt Nam, không những thế nó còn làm người đọc phải suy
ngẫm về kẻ sát sân khát máu - là kẻ thù chung của dân tộc và cái chung này đã
được Chế Lan Viên nâng lên thành triết lý có ý nghĩa bao quát: “Đế quốc Mỹ
là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta”, chính cái riêng ấy đã làm nền tảng gắn nối
mọi trái tim Việt Nam yêu nước chung sức chung lòng, đánh thắng Mỹ. Đằng
sau những trang thơ, Chế Lan Viên đã giúp người đọc nhận ra bộ mặt thật của
kẻ thù, sau những luận điệu hoa mỹ, xảo quyệt của chúng, Chế Lan Viên còn
thầm nhắc chúng ta hãy nâng cao tinh thần cảnh giác. Bởi vì:“Ghê sợ thay
chúng vẫn có mặt người / Phải chi bọn giết người có gương mặt quỷ” 6. Thì
lúc ấy “Nhân loại nhận ra liền khi chúng đi qua”.
Trong đau thương chia cắt, sức mạnh con người được đánh thức bằng
một chân lý giản đơn, Chế Lan Viên cũng vậy, đau xót khi nhìn thấy cảnh quê
hương nhuốm màu đau thương tang tóc, “sống giữa quê hương mà như kiếp
đi đày” đứng trước nỗi đau của người dân mất nước lại càng ý thức sâu sắc
hơn quy luật cuộc sống và con đường đi không thể khác của mình, ông đã tìm
đến với cách mạng: “Đảng kính yêu! Tôi tìm đảng giữa nơi này”. Không riêng
gì Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng tin tưởng và không tiếc lời ca ngợi lãnh tụ,
ngợi ca Đảng quang vinh, chẳng phải ông đã từng hát khúc reo vui mà đâu đó
là niềm xúc động vô bờ khi được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng hay
sao: “Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ “. Càng tin tưởng Đảng bao nhiêu
ông càng kỳ vọng về một tương lai huy hoàng của đất nước trong ngày chiến
thắng bấy nhiêu, ông đã thốt lên những vần thơ thật hào sảng, oai hùng:
“Ở đâu? ở đâu? Có sự diệu kỳ
Ta xé vải chôn ta để may cờ chiến thắng”

(Ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng)
Thơ của Chế Lan Viên là như thế, khi “rưng mắt lệ”, khi đanh thép hào
hùng, cũng có khi vượt lên trên loại thơ thời sự để nói lên tiếng nói phẫn nộ
của một trái tim yêu nước. Những câu thơ ấy vừa mộc mạc, giản dị, vừa ngậm
ngùi, sâu lắng đã đem đến cho người đọc một sự rung động sâu sắc. Nó như
được viết ra từ một trái tim thiết tha, chân thành. Chính điều đó đã làm chất
thơ và chất chính luận hòa làm một và từ đó nảy sinh những hình tượng vừa
độc đáo vừa giàu chất trí tuệ .
6 Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta, tập thơ Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967)

11


2.2.4. Nhận xét chung về “Sự kết hợp cảm hứng trữ tình với chất suy tưởng,
triết lý trong thơ Tố Hữu và Chế Lan Viên những năm chống Mỹ”.
Trong cuộc chiến gay go, ác liệt, văn học phải theo sát những sự kiện
lớn, những vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị, tư tưởng của dân tộc.
Trước cơn phong ba lịch sử ấy, văn học không thể “ru theo trăng và vơ vẩn
cùng mây”, cũng không thể quá chú ý đến cái tôi nhỏ hẹp mà phải tham gia
vào cuộc kháng chiến bằng cách riêng của mình. Để đáp ứng những đòi hỏi
đó, thơ Tố Hữu và Chế Lan Viên - hai cây bút được coi là lĩnh xướng của thơ
ca chống Mĩ, đã cho ra đời những tác phẩm thơ đậm chất triết lý, suy tưởng
phối kết hợp với chất trữ tình đằm thắm. Tuy nhiên, trước những yêu cầu
chung của thời đại như thế, bằng cách nào họ có thể cùng nói đến cái chung
mà đồng thời có thể nhấn mạnh vào cái riêng, cái cá tính sáng tạo của mình?
Đọc thơ của Chế Lan Viên có thể nhận thấy thơ của ông độc đáo không
thể lẫn lộn vào đâu được, bởi nó không chỉ hấp dẫn người đọc ở chất suy nghĩ
mà con hấp dẫn ở cảm xúc, vừa làm thỏa mãn được trái tim vừa làm thõa mãn
trí tuệ của người đọc. Tuy có nhiều bài thơ làm người ta không thích, nhất là
khi ông hét to và lắm lý sự, nhưng Chế Lan Viên như thế mới là Chế Lan

Viên. Ông luôn song hành cùng cuộc sống và thời đại, mãi mê tìm tòi, muốn
thử sức, bộc lộ mình trong tất cả giọng điệu, ở mọi cung bậc, sắc thái, “lúc
cần trang trọng hào hùng thì trang trọng hào hùng, lúc cần đanh thép quyết
liệt thì đanh thép quyết liệt, lúc cần thủ thỉ tâm tình thì thủ thỉ tâm tình”7. Ta
gặp ông ở sử thi anh hùng ca rồi lại gặp ông trong chính luận trào phúng trữ
tình. Ở phương diện thể thơ, dù trong thể truyền thống hay tự do ta thấy ông
vẫn thể hiện được bản lĩnh của mình, ông thường không bằng lòng với những
gì mình đạt được mà luôn tìm tòi, lật xới mọi thứ từ cuộc sống, từ sách vở, từ
tâm hồn mình để mở rộng khả năng của thơ, xông xáo mở con đường mới cho
thi ca hiện đại. Đọc lại thơ của Chế Lan Viên trong những năm chống Mỹ,
chúng ta thấy sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng trữ tình và chất suy tưởng,
triết lý. Với trí tưởng tượng phong phú, sức liên tưởng kỳ diệu và cách nhìn sự
vật trong sự đối lập Chế Lan Viên đã chạm khắc những câu thơ giàu hình ảnh,
đem đến những vần thơ mới lạ, đặc sắc làm lắng sâu vào suy nghĩ của người
đọc. Đối với Chế Lan Viên hiện thực trong thơ không phải đơn giản là cái
7 Thơ Chế Lan Viên những lời bình

12


nhìn thấy, cái để miêu tả mà còn là cái cảm thấy, nghĩ thấy. Tất cả những yếu
tố đó góp phần mang đến cho trang thơ của ông nhiều triết lý, suy tưởng,
nhưng không vì thế nó làm cho thơ ông trở nên khô khan khó đọc.
Nếu ngòi bút Chế Lan Viên chủ yếu đi theo hướng hiện đại hóa thì Tố
Hữu chủ yếu học tập ở tinh hoa của văn học dân gian và thơ ca truyền thống.
Chế Lan Viên bằng sự cảm nhận và trải nghiệm của riêng mình trong Hoa
ngày thường – Chim báo bão, Đối thoại mới, Những bài thơ đánh giặc, đã bộc
lộ những suy nghĩ của mình về những vấn đề trong cuộc sống đầy chất trí tuệ,
thì với Ra trận, Máu và Hoa của Tố Hữu được xem là đỉnh cao của thơ trữ
tình chính trị. Tuy nói về chính trị, nói về những vấn đề lớn của đất nước, của

nhân dân, mà câu thơ vẫn ngọt ngào, say đắm. Chế Lan Viên trong "Lời nói
đầu tuyển tập thơ Tố Hữu" đã nhận định: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào
cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ
dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế
quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa
thức người bằng ý”. Thật vậy, khó có ai có thể biến một vấn đề lịch sử chính
trị vốn khô khan, khó viết, trở thành những vần thơ ngọt ngào, tha thiết chạm
đến trái tim người đọc như Tố Hữu. Thật ra một phần là do Tố Hữu được sinh
ra ở mảnh đất Thừa Thiên, lại lớn lên trong một gia đình có truyền thống thơ
ca, do đó thơ ông giàu chất nhạc, thấm đượm giai điệu của con người xứ Huế
với những câu ca, giọng hò ngọt ngào của quê hương. Ngoài ra một phần còn
xuất phát từ quan niệm của nhà thơ đó là: “Thơ là chuyện đồng điệu, thơ là
tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí” vì vậy ngôn ngữ ông dùng
trong thơ là thứ ngôn ngữ bình dân rất gần với lối nói của dân tộc, dễ nhớ, dễ
thuộc, cách diễn đạt thì tự nhiên, liền mạch. Không như thơ Chế Lan Viên,
luôn hướng tới những cái gì tầm cỡ lớn lao, kì vĩ, với ngôn từ diễm lệ, đậm
chất trí tuệ, cũng một phần vì thế mà thơ Chế Lan Viên kén độc giả, những
người đọc bình dân có lẽ sẽ rất khó tiếp nhận thơ của ông. Bên cạnh đó ta còn
thấy thơ Chế Lan Viên không tái hiện từng sự kiện lịch sử hay là miêu tả từng
con người anh hùng từ cụ thể đến hình tượng như ngòi bút Tố Hữu, bởi thơ
Chế Lan Viên thường thiên về bình luận, triết luận, chính luận.
KẾT LUẬN
Thời gian trôi qua và cũng là thử thách, là công cụ để chứng minh, để ta
thấy được những giá trị lớn lao, sức sống mãnh liệt của văn học giai đoạn
III.

13


kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của Tố Hữu và Chế Lan Viên là một

minh chứng! Dù quan niệm như thế nào, dù phong cách riêng như thế nào, hai
nhà thơ lớn của dân tộc đã thêm vào kho tàng văn học Việt Nam những bài
thơ giàu chất suy tưởng, triết lý nhưng vẫn đậm chất trữ tình, đậm đà bản sắc
dân tộc bằng tất cả trái tim của mình. Sức hấp dẫn của thơ chống Mĩ có lẽ chủ
yếu nằm ở đấy. Các nhà thơ đã dám sống tận cùng vì đất nước, họ đi thẳng
vào rốn lửa của cuộc chiến sinh tử, bởi thế, thơ họ là sự biểu hiện thật nhất
những rung động sâu sắc của tâm hồn họ.

-------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phạm Thanh Hùng (2014). Văn học Việt Nam từ 1945 đến hết thế kỷ XX,

Trường Đại học An Giang, khoa sư phạm, bộ môn ngữ văn.
2. PGS.TS Đoàn Trọng Huy (2006). Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Đại

học sư phạm,
3. Mai Hương – Thanh Việt (2000). Thơ Chế Lan Viên những lời bình, Nxb

văn hóa thông tin,
4. Mai Hương (1999). Thơ Tố Hữu những lời bình, Nxb văn hóa thông tin, Hà

Nội,.
5. Thư viện quốc qua Việt Nam />
a=d&d=TTkGWOSuniTy1999.1.12&e=-------vi-20--1--img-txIN-------#
6. Thư viện trực tuyến Violet

/>7. Quân đội nhân dân online />
van-hoa/hinh-tuong-bac-ho-trong-tho-to-huu-254990
14



8. Thư viện tài liệu, ebook />
trong-tho-khang-chien-chong-my-36140/

15



×