Đề tài: Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với thị trường
tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng
I.
KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính mất cân đối nghiêm trọng dẫn đến sụp
đổ. Hay nói cách khác, khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập
đoàn tài chính dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính; là sự đổ
vỡ trầm trọng các bộ phận của thị trường tài chính tiền tệ kéo theo sự vỡ nợ của hàng loạt
ngân hàng và tổ chức tài chính do sự sụt giảm mạnh, nhanh chóng về giá tài sản. Kết quả
cuối cùng, thị trường tài chính bị đông cứng và bất lực, các hoạt động kinh tế sụt giảm
nghiêm trọng.
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Khủng hoảng tài chính xảy
ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung. Nhu cầu tiền mặt của người dân hay của nhà
đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính khiến
cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có thể sụp đồ. Trong nền kinh tế thế
giới hiện nay sự lây lan của khủng hoảng tài chính thường đi kèm với sự khủng hoảng
kinh tế kéo dài.
2. Dấu hiệu
-
Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền.
-
Tỷ giá hối đoái tăng độ biến và dây chuyền.
-
Lãi suất tín dụng gia tăng.
-
Hệ thống ngân hàng tê liệt.
-
Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng.
-
Các hoạt động kinh tế suy giảm.
1
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
3. Phân loại:
3.1 Khủng hoảng ngân hàng (Banking crisis)
Khủng hoảng ngân hàng là khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tới các hoạt động
ngân hàng. Khủng hoảng ngân hàng bao gồm rút tiền gửi hàng loạt ảnh hưởng tới từng
ngân hàng riêng lẻ; hoảng loạn ngân hàng ảnh hưởng tới nhiều ngân hàng; và khủng
hoảng ngân hàng hệ thống là sự đổ vỡ ngân hàng mang tính hệ thống, các tổ chức tài
chính và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh lý hợp đồng đúng thời hạn (theo
Wikipipedia).
Hay nói cách khác, đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt
khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khách hàng đồng loạt
rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt
có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi
của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên
không lan rộng, nhưng lãi suất tín đụng được tăng lên do lo ngại về sự thiếu hụt trong
ngân sách. Lúc này chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài
chính. Lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng cho rằng tính bất ổn (dễ đổ vỡ) của hệ thống
ngân hàng bắt nguồn từ những thông tin bất cân xứng – là tình trạng khi một bên trong
mối quan hệ kinh tế hay giao dịch có ít thông tin về phía bên kia.
Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng ngân hàng:
+ Do (1) chính sách kinh tế vĩ mô; (2) chính sách kinh tế vi mô, bao gồm toàn bộ chỉ
số hoặc phạm vi về cơ cấu và giám sát dưới sự kiểm soát hoặc ảnh hưởng trực tiếp của
Chính phủ; (3) chiến lược và hoạt động của từng ngân hàng (theo nghiên cứu của Latter –
1997).
+ Do đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng, như: quản trị thiếu hiệu quả, các quyết định
cho vay thiếu thận trọng…; các yếu tố kinh tế vĩ mô của ngân hàng, như: giảm tốc độ
tăng trưởng, các điều khoản ngoại thương, khủng hoảng tiền tệ, nâng giá đồng tiền, sự sụt
2
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
giá của thị trường BĐS và thị trưởng chứng khoán…
+ Do bản chất của hoạt động các ngân hàng là đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn, khi
thị trường tài chính không hiệu quả, bong bóng đổ vỡ tại các thị trường tài chính.
3.2 Khủng hoảng tiền tệ (Currency cisis)
Đây còn được gọi là khủng hoảng tỉ giá hối đoái hay cán cân thanh toán nổ ra khi
hoạt động “đầu cơ” tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc
trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của nước mình bằng
cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng lớn ngoại hối.
Khủng hoảng tiền tệ xảy ra khi có sự suy sụp giá trị đồng nội tệ của một quốc gia.
Sự suy sụp giá trị tiêu cực này ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc gia đó, tạo ra bất ổn
định trong tỷ giá hối đoái. Sự mất giá trị đồng nội tệ sẽ làm mất đi vai trò là một phương
tiện thanh toán cũng như phương tiện tích lũy giá trị của đồng nội tệ. Khủng hoảng tiền tệ
thường tác động mạnh tới các quốc gia theo chế độ neo tỷ giá hơn là chế độ thả nổi tỷ
giá.
Ví dụ cụ thể cho khủng hoảng tiền tệ là cuộc khủng hỏang tài chính các nước
Đông Nam Á năm 1997 (có trình bày ở phần sau).
3.3 Khủng hoảng kép (Twin crisis)
Xảy ra khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng xảy ra đồng thời.
3.4 Khủng hoảng nợ công
Là khi khả năng thanh toán nguồn vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ
tiêu quan trọng nhất là tỉ lệ thanh toán nợ nước ngoài (tỉ lệ giữa nguồn vay nước ngoài cả
gốc và lãi mà quốc gia đó trả trên một năm trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của quốc
gia đó trong năm đó hoặc trong năm trước. Bình thường chỉ tiêu này dưới 20%, nếu chỉ
tiêu này lớn hơn 20% chứng tỏ lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia đó quá lớn.
Hay nói cách khác, khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ)
3
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
làm chao đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu
chi tăng cao trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ phải đi vay tiền thông qua nhiều
hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng… để chi, từ đó dẫn đến
tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm,
để lâu thành “lãi mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm.
Nguyên nhân chủ yếu gây ra khủng hoảng nợ công:
+ Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của
bộ máy nhà nước…
+ Chính phủ không minh bạch các số liệu về tình trạng ngân sách của quốc gia, sự
kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ yếu kém của Nhà nước, không chặt chẽ, gây thất thoát,
lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, tệ nạn tham nhũng phát triển…
+ Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi (cắt giảm thuế, trốn
thuế, tệ tham nhũng…)
+ Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn lan,
đầu tư quá trớn, thiếu tính toán…
+ Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số
ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng tạo thành bong bóng. Mặt khác còn lựa chọn
bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ.
+ Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp làm cho thâm hụt ngân sách ngày càng tăng.
4. Các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
4.1 Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997
Đây là cuộc khủng hoảng minh chứng cho lý thuyết “bộ ba bất khả thi” bắt nguồn
ở Thái Lan năm 1997. Ngày 02/7/1997, Ngân hàng trung ương Thái Lan tuyên bố thả nổi
đồng bath kéo theo phản ứng giảm giá dây chuyền đối với các đồng tiền trong khu vực
như Singapore, Philippin… Trước hết phải kể đến chiến lược phát triển kinh tế có phần
4
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
thiên lệch của Chính phủ Thái Lan: không duy trì được thế cân bằng giữa các chính sách
kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính ngân hàng không được phát triển tương ứng dẫn đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế giảm (từ 9% năm 1995 xuống còn 6,4% năm 1996), nợ nước ngoài
tăng quá lớn so với dự trữ ngoại tệ (nợ 90 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới 40%).
Việc ồ ạt đầu tư vào bất động sản dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các nhà cao ốc
văn phòng và khu nhà ở lên tới 20%, kéo theo nguy cơ thanh khoản của các ngân hàng ở
mức báo động do các nhà đầu tư không có tiền trả nợ. Đồng thời Thái Lan chủ yếu dựa
vào danh mục đầu tư ngắn hạn của nước ngoài, mà phần lớn số này được thông qua các
ngân hàng trong nước và các công ty tài chính. Như vậy, càng khoản vay càng trở thành
gánh nặng không chịu nổi với Thái Lan. Mặt khác, việc Chính phủ Thái Lan giữ cố định
tỷ giá đồng bath đối với đồng đô la Mỹ trong suốt 13 năm trước đó đã khiến đồng bath
trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với các nhà xuất khẩu. Đồng bath lên giá đã làm
cho hàng hóa của Thái Lan trở nên quá đắt trên thị trường nước ngoài, cán cân thương
mại bị thâm hụt tài khoản vãng lai (nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu). Do chính sách quản
lý ngoại hối của Thái Lan tương đối tự do, cơ chế chuyển đổi ngoại tệ đồng bath khá dễ
dàng nên khi có biến động trên thị trường tài chính tiền tệ, luồng vốn ngoại tệ chuyển ra
ngoài tăng mạnh đã kéo đồng bath xuống giá. Bối cảnh này thúc đẩy giới đầu cơ trong và
ngoài nước muốn phá giá đồng bath để kiếm lợi nhuận do chênh lệch tỷ giá. Việc Ngân
hàng trung ương Thái Lan tuyên bố phá giá đồng bath chẳng qua là giải pháp cuối cùng
cứu vãn tình thế nhưng trên thực tế lại góp phần đẩy tỷ giá USD/bath tăng thêm. Trước
tình hình đó, Chính phủ Thái Lan đã phải công bố những giải pháp ưu tiên hàng đầu, đó
là sáp nhập một số công ty tài chính với nhau (có số vốn ít nhất là 7,5 tỷ bath) và dùng
quỹ của Ngân hàng trung ương Thái Lan cứu vãn tình trạng của khoảng 91 công ty có số
nợ trên 200 triệu bath. Chính phủ Thái Lan cũng kêu gọi sự giúp đỡ về mặt tài chính của
các quốc gia trong khu vực và IMF để có được ít nhất là 10 tỷ USD giải quyết cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng này.
Nguyên nhân:
+ Tình trạng tăng trưởng kinh tế quá nóng, đầu tư mất cân bằng: Tốc độ tăng trưởng
5
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
cao lẽ ra là cần thiết đối với các nước đang phát triển muốn theo kịp đà phát triển của thế
giới. Tuy nhiên, Thái Lan là quốc gia có tốc độ tăng trưởng gần như dẫn đầu khu vực
châu Á lúc bấy giờ nhưng lại có sự đầu tư mất cân đối và thiếu hiệu quả, đặc biệt là tập
trung nguồn vốn quá nhiều vào các lĩnh vực hạ tầng. Nợ Chính phủ và chủ yếu là nợ
nước ngoài tăng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp ở Thái Lan cũng thiên về kinh doanh bất
động sản và lại sử dụng chủ yếu là nợ ngắn hạn đòi hỏi độ thanh khoản cao. Thực tế đã
chứng minh là ở Thai Lan, phần vay nợ kinh doanh BĐS tăng với tốc độ bằng khỏang 10
lần tốc độ tăng trưởng kinh tế Thái Lan. Cung vượt quá cầu, khu vực BĐS giảm giá mạnh
dẫn đến khủng hoảng. Các doanh nghiệp không có tiền trả nợ kéo theo các NHTM và các
công ty tài chính rơi vào tình trạng mất thanh khoản.
+ Khủng hoảng nợ đồng USD: Trong một thời gian dài, các nước Đông Nam Á đã
gắn tỷ giá hối đoái của mình với đồng USD khiến các doanh nghiệp, ngân hàng trong
nước và cả các nhà đầu tư nước ngoài dần tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ quốc
gia đó.
Cộng vào đó, việc các quốc gia này đã tự do hóa và mở cửa thị trường vốn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, ngân hàng trong nước lẫn giới đầu tư tài chính thế giới
cho vay đồng USD với lãi suất thấp, cho vay lại bằng đồng nội tệ với lãi suất cao để ăn
chênh kệch lãi suất mà không phải lo sợ rủi ro phá giá đồng nội tệ. Như vậy, dự trữ ngoại
tệ không đủ để trả nợ nước ngoài.
+ Sự hoạt động yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính: Do Chính phủ các nước có
cơ chế mở cửa trong việc vay vốn từ nước ngoài nên các ngân hàng đã đổ xô huy động
vốn USD từ các ngân hàng nước ngoài với lãi suất thấp. Phần lớn nguồn vốn vay này cho
các nhà đầu tư ngành BĐS vay lại, hoặc tập trung vào các lĩnh vực hóa dầu, xe ô tô, sắt
thép… hay tài trợ các giới đầu tư tài chính trong nước mua cổ phiếu (vốn đã bão hòa trên
thị trường thế giới). Khi thị trường BĐS suy giảm và thị trường chứng khoán bị phá giá
mạnh, các công trình công nghiệp không sinh lợi, các doanh nghiệp mất khả năng thanh
khoản kéo theo các ngân hàng và các công ty tài chính gặp khủng hoảng.
+ Sai lầm trong chiến lược xuất khẩu: Trong tình hình lúc bấy giờ, đồng USD đang
dần có giá hơn so với các đồng tiền mạnh như yên Nhật, DM của Đức dẫn đến việc hàng
6
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
hóa của các nước Đông Nam Á kém cạnh tranh (do cố định tỷ giá với USD), xuất khẩu
giảm. Các nước này đã theo đuổi chính sách theo hướng xuất khẩu một cách cứng nhắc
và tập trung quá cao vào một vài mặt hàng theo kiểu độc canh đã làm mất dần khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, công nghệ chậm đối mới. Xuất khẩu giảm dẫn đến
nhập khẩu tăng, kết quả làm thâm hụt cán cân vãng lai. Để bù đắp lượng ngoại tệ thiếu
hụt phải bổ sung bằng vay nợ, mà chủ yếu là vay nợ ngắn hạn nước ngoài với những điều
kiện không thuận lợi và lãi suất cao. Chính sách tỷ giá cố định gắn chặt với đồng USD
trong thời gian này vô tình kìm hãm xuất khẩu, vừa kích thích tiêu dùng quá mức. Hậu
quả là chính sách hướng về xuất khẩu không những không thực hiện được còn xu hướng
đầu tư nước ngoài để thay thế hàng nhập khẩu lại bộc lộ khá rõ nét. Tình trạng này càng
làm cho nhập khẩu bị đẩy lên, cán cân thương mại thêm thâm hụt.
4.2 Khủng hoảng tài chính thế giới 2007 – 2009
Đây là cuộc khủng hoảng gây thiệt hại lớn, có quy mô rộng và được đánh giá là
một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế của con người. Cuộc khủng hoảng bắt
nguồn từ cường quốc kinh tế số một thế giới (Hoa Kỳ) làm suy sụp trung tâm tài chính
trứ danh phố Wall và lan rộng sang các nước khác; làm tê liệt hệ thống tài chính toàn cầu
và gây thiệt hại cho rất nhiều quốc gia.
Nguyên nhân
+ Do sự mất cân đối toàn cầu. Có thể được hiểu là những khỏan thặng dư thương mại
khổng lồ của một số quốc gia như Trung Quốc, và thâm hụt thương mại của một số quốc
gia như Mỹ. Một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao và các nước
xuất khẩu dầu lửa đã chảy vào nước Mỹ khiến lãi suất ở Mỹ được duy trì ở mức thấp.
Điều này gây ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng kéo theo sự tăng vọt của giá
các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán tại Mỹ. Khi những bong bóng này vỡ, khủng
hoảng tài chính nổ ra.
7
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
+ Các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính Mỹ đã sử dụng chiêu bài “Cỗ
máy đầu tư cấu trúc” (hoạt động cho vay dưới tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng khoán hóa,
cụ thể: huy động vốn ngắn hạn thông qua việc phát hành thương phiếu với lãi suất thấp
để đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản). Đầu năm 2001, để giúp
nền kinh tế thoát khỏi trì trệ. FED đã liên tục hạ lãi suất cơ bản dẫn đến việc các Ngân
hàng thương mại cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Chính phủ Mỹ lúc đó
lại đang có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ
dàng hơn để mua nhà (cho vay không cần chứng minh thu nhập – cho vay dưới chuẩn).
Hai công ty tài chính Fannie Mae và Freddie Mac (được Chính phủ bảo trợ) đã đổ vốn
vào thị trường bằng cách mua lại các khoản cho vay dưới chuẩn của các Ngân hàng
thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay thế
chấp (MBS) rồi bán lại cho các nhà đầu tư trên Thị trường chứng khoán. Điều tất yếu, thị
trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các Ngân hàng thương mại hoặc
các công ty chuyên cho vay thế chấp BĐS nữa mà đã có sự tham gia tích cực của các nhà
đầu tư và đầu cơ trên Thị trường chứng khoán vốn có khả năng tài chính rất dồi dào. Do
có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các
Ngân hàng thương mại đã mạo hiểm hơn trong việc cho vay bất chấp khả năng trả nợ của
người vay.
II. KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm thị trường chứng khoán
-
Thị trường chứng khoán: là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của
nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn
vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất,
tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
8
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
-
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng
khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. do vậy thị trường
chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.
-
Thị trường sơ cấp: người mua, mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành.
-
Thị trường thứ cấp: nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành
ở Thị trường sơ cấp.
-
Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ phiếu, trái phiếu và
một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm.
2. Vị trí thị trường chứng khoán: Trong thị trường Tài chính có hai thị trường lớn
-
là:
Thị trường Tài chính ngắn hạn (Thị trường tiền tệ)
Thị trường Tài chính dài hạn (Thị trường vốn): bao gồm Thị trường tín dụng dài hạn
(gồm Thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho thuê tài chính); và Thị trường
chứng khoán
3. Đặc điểm của thị trường chứng khoán
-
Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người cung cấp vốn
-
đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian tài chính.
Là thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do tham gia vào
thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán, mà giá cả ở đây được
-
hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu.
Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị
trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường
chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền
mặt bất cứ lúc nào họ muốn.
4. Vai trò của Thị trường chứng khoán
-
Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền
9
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
tiết kiệm này và đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư.
- Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
- Thị trường chứng khoán góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo
nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới Thị trường chứng khoán (TTCK)
5.1 Các nhân tố vĩ mô tác động Đến thị trường chứng khoán
Môi trường chính trị :cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán, xã
hội luôn có những tác động nhất định đến hoạt động của TTCK. Yếu tố chính trị bao gồm
những thay đổi về chính phủ và các hoạt động chính trị. sửa đổi chính sách có ảnh hưởng
rất lớn đến TTCK
Môi trường xã hội và pháp luật : Hệ thống chính sách có tác động rất lớn đến bản
thân TTCK và hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính sách có thể kéo theo
các tác động làm giá chứng khoán tăng hoặc giảm, nhất là trong những thời điểm nhạy
cảm.
Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá chứng
khoán trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình
hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
Tỷ giá hối đoái : Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môi
trường tài chính và chính bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là
những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái tăng cao đã tác động tới thị trường chứng khoán khá nhiều, các
nguồn vốn nước ngoài được đầu tư nhiều vào thị trường chứng khoán nhưng việc tỷ giá
hối đoái tăng mạnh đã làm nảy sinh lí do khiến các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi
thị trường, một lượng vốn lớn nhanh chóng bị rút khỏi thị trường sẽ làm giá chứng khoán
giảm và điều này sẽ tác động làm tăng lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng
cho kinh tế và ngược lại.
10
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và tiết
kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới doanh nghiệp.
Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ
không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá
cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và
ngược lại.
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển tốt và có
xu hướng giảm khi nền kinh tế giảm sút. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển
của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Vì vậy việc dự
đoán tình hình kinh tế để xem xét các ảnh hưởng của nó đến giá chứng khoán cũng rất
quan trọng đến các nhà đầu tư.
Lãi suất: Lãi suất Trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thay đổi
trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán, khi lãi suất
chuẩn tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống, ngược lại lãi suất
chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tăng lên.
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi
phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi suất khi nó
chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó.
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều
nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng
cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu
càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi
lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm.
Không chỉ vậy, quan hệ quan hệ giữa lãi suất thì trường và lãi suất chứng khoán là
mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi suất thị trường cao hơn
lãi suất chứng khoán thì giá chứng khoán sẽ giảm, điều này khiến cho hoạt động trên thị
trường chứng khoán giảm sút vì người ta thích gửn tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng
khoán.
11
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
5.2 Các yếu tố theo thời gian
Các yếu tố ảnh hưởng ngắn hạn
Thời kỳ ngắn hạn, TTCK lên xuống do những sự kiện hàng ngày, các thông tin cập
nhật, kể cả những tin đồn gây nên. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên tiếp
nhận, diễn giải thông tin, suy đoán, kết luận và quyết định mua bán có thể sai hoặc nhầm
lẫn nếu thông tin đó không chính xác. Ở thời kỳ này, không phải bản thân các sự kiện hay
thông tin, mà chính trạng thái tâm lý hiện hành trên thị trường làm giá chứng khoán lên
xuống. Đôi khi, nhà đầu tư phản ánh một cách hốt hoảng, thái quá, ngược với mọi logic
thường nhật hay các luận cứ kinh tế. Điều này có thể dẫn đến thị trường tăng giảm vô căn
cứ, chỉ vì người chơi chứng khoán lấy các sự kiện như một cách biện minh cho hành
động của mình.
Một ví dụ rõ nhất là sự ảnh hưởng mạnh và rõ rệt của những biến động hàng ngày,
hàng giờ của kinh tế thế giới trong thời gian qua. Những sự kiện như việc phá sản hàng
loạt tổ chức tài chính hàng đầu sau khi mọi nỗ lực giải cứu không thành khiến TTCK
toàn thế giới sụt giảm kỷ lục. Tâm lý nặng nề đó tiếp tục khiến nhà đầu tư hoảng hốt,
tháo chạy không cân nhắc và hiển nhiên TTCK càng thêm suy thoái.
Các yếu tố ảnh hưởng trung hạn
Tiền và tâm lý là những yếu tố có tính quyết định đến trào lưu thị trường trung
hạn. Theo nhiều nhà kinh tế, khi cả hai yếu tố tiền và tâm lý đều âm, TTCK rất trầm. Nếu
chỉ có một trong hai yếu tố tích cực, còn yếu tố kia âm thì thị trường vẫn chưa thể khởi
sắc. Song khi có tiền cộng với tâm lý phấn khích, TTCK theo xu hướng đi lên, phát triển
nhanh một cách bùng nổ. Bên cạnh tiền và tâm lý, yếu tố lãi suất cũng đóng vai trò quan
trọng. Việc tăng hay giảm lãi suất của hệ thống tổ chức tín dụng đôi khi còn phát huy tác
dụng lên TTCK, vượt trước tác động vào nền kinh tế một thời gian.
12
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
Các yếu tố ảnh hưởng dài hạn
Quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân, quá trình kinh doanh của các ngành
cũng như từng doanh nghiệp, triển vọng sinh lời của chúng là những yếu tố ảnh hưởng tới
TTCK trong một khoảng thời gian dài. Thêm vào đó, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ hay tình hình chính trị và chính sách tín dụng, tiền tệ cũng rất quan trọng. Hai trạng
thái bi quan và lạc quan trong tâm lý công chúng nhà đầu tư cũng là vấn đề cần lưu tâm.
Ngoài ra, vấn đề đối nội, đối ngoại, chủ trương phát triển kinh tế của nhà nước, sự phát
triển thị trường bất động sản, thị trường vàng, thị trường tiền tệ,… cũng có ảnh hưởng
trực tiếp đến TTCK.
Việc phân chia các yếu tố ảnh hưởng theo thời gian chỉ là tương đối, bởi thực tế
các yếu tố ảnh hưởng này có thể diễn ra luân phiên nhau, thay thế và xen kẽ nhau nên rất
khó biết trước để phán đoán chính xác sự biến động của TTCK. Có thể nhà đầu tư đã
tham gia thị trường khá lâu sẽ dần hình thành trực giác cho khả năng quan sát và cảm
nhận diễn biến của TTCK.
III. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI ĐỐI VỚI THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Đối với thị trường chứng khoán thế giới
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris, Frankfurt,
Tokyo đều có thời điểm sụt giá lớn lịch sử.
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82.[3] Chỉ số DAX
hôm 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 hôm 27 tháng 12
năm 2007. Chỉ số CAC 40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45
điểm.
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái
cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài
chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối loạn. Chỉ số giá cổ
13
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các ngày 8 và 10 tháng 10 năm
2008.
2. Đối với thị trường chứng khoán trong nước.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động
lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở của những
kết luận trên là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế và
thị trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách thấu đáo có thể
thấy rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu
sự tác động nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện
trên các phương diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc
gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị
trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi
nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn
đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ
phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước
ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5
ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ
vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua. Trước đó, nhiều ý
kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ không có chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì
phần lớn các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. Tôi cho rằng, ý kiến
trên là không thuyết phục. Vì xét về bản chất thì các quỹ đóng không mua lại chứng chỉ
đã phát hành cho nhà đầu tư nhưng họ hoàn toàn có thể thực hiện tái cấu trúc danh mục
đầu tư của mình, trong đó có việc bán chứng khoán ở thời điểm này để mua vào thời
điểm khác hoặc bán ở thị trường này để đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị
14
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
trường ngoại hối. Thực tế cho thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi
lạm phát đã mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng
Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng kể. Khả năng nhà
đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp tục mất giá cũng như các
đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu
kịch bản diễn ra đúng như họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào
chứng khoán.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK Việt
Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc
biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK
Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì
mua không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ
có hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và
bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác
môi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư
cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch
định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu
mỡ cho các hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm
lý mua bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi khi
các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, Ngân hàng nhà nước tăng lãi suất cơ bản hoặc
chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ TTCK. Trong giai
đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái
mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo.
Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi
như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không
nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã
không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan
15
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có
hành vi đầu tư tương tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt
Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư
theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”.
Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy
TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở
một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so
với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức
khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán
xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám
mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm
tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng
hoảng về tính thanh khoản.
Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề khác mà trong phạm
vi bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như các vấn đề về khung
pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị trường…
Thứ sáu các công ty chứng khoán đang đứng trước nhiều khó khăn về lợi nhuận để
tồn tại và phát triển, với mức thu nhập trung bình thường chỉ bằng 1/3 tổng chi phí cần
thiết trong hoạt động của mình… Điều này đòi hỏi các công ty chứng khoán quan tâm
hơn đến các giải pháp về cơ cấu lại kinh doanh; cơ cấu lại dịch vụ hoạt động và giảm tối
đa chi phí hoạt động....Đặc biệt là đổi mới và phát triển công nghệ hiện đại, nâng cao chất
lượng hoạt động để phát triển khi thị
trường phục hồi.
Thứ bảy sức hấp dẫn kinh doanh trên TTCK đã giảm sút, sức nóng của TTCK giảm
16
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
dần, song hầu như chỉ nhận được các giá trị ảo "tiềm năng" các cổ phiếu thưởng thay vì
"tiền tươi" từ cổ tức hàng năm, quy luật lợi nhuận bình quân trong kinh tế thị trường phát
huy sức mạnh của nó, tỷ suất lợi nhuận trong các lĩnh vực kinh doanh được san bằng, giá
trị các chứng khoán phải trở về đúng với giá trị thực và mức sinh lãi thực của chúng (phụ
thuộc vào dao động xung quanh và mức lợi nhuận bình quân xã hội trên dưới 10%/năm,
chứ không phải vài trăm phần trăm và phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty phát
hành chứng khoán…) nghĩa là, có thể nói, giá trị các chứng khoán hiện nay là ngày càng
sát hơn với giá trị thực của chúng.
IV DẤU HIỆU NHẬN BIẾT VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA ĐỐI VỚI TTCK VIỆT
NAM
1. Dấu hiệu nhận biết
-
Thị trường hàng hoá, tiêu thụ thu hẹp: khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho thị trưòng
tiêu thụ hàng hoá thu hẹp, do sản xuất của doanh nghiệp; thu nhập người dân giảm mạnh.
Vì vậy nhu cầu về tiêu thụ hàng hoá sản phẩm giảm mạnh.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp giảm.
-
Khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu có tác động gián tiếp đến thị trường tài chính
tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tác động này phản ánh trên 03 phương diện sau:
+ Dòng vốn đầu tư gián tiếp biến động mạnh. Trong thời gian qua, thị trường
chứng khoán trong nước liên tục điều chỉnh, với nhiều yếu tố tác động. Trong đó việc bán
ròng của các nhà đầu tư nước ngoài có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường, tạo
hiệu ứng mạnh đến tâm lý nhà đầu tư, và làm cho thị trường liên tục giảm điểm trong thời
gian qua. Việc các tổ chức tài chính –chi nhánh hoặc công ty con đang hoạt động ở Việt
Nam, rút vốn về nước nhằm cứu nguy hoặc đảm bảo an toàn cho các công ty mẹ. Bên
cạnh đó khủng hoảng tài chính cũng tạo tâm lý bảo toàn vốn; tâm lý nắm giữ tiền mặt
hơn là cổ phiếu của các Nhà đầu tư – Đây là 02 nguyên nhân cơ bản mà nhà đầu tư nước
ngoài bán ròng trong thời gian qua, có tác động ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán
trong nước.
17
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
+ Các hoạt động đầu tư, liên kết góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến
lược vào hệ thống ngân hàng trong nước giảm và hạn chế hơn.
+ Những biến động của lãi suất; giá vàng; đồng Dolla Mỹ... trên các thị trường
tiền tệ thế giới trong điều kiện khủng hoảng thường biến động nhanh, liên tục và khó dự
báo. Điều này tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ, và tác động ảnh hưởng nhất định
đến thị trường tiền tệ ; thị trường ngoại hối...
2. Cách phòng ngừa đối với thị trường chứng khoán Việt Nam
Mặc dù khủng hoảng tài chính toàn cầu không tác động trực tiếp đến Việt Nam
nhưng nước ta ít nhiều cũng đã chịu sự tác động nhất định. Sự tác động rõ nét nhất là đối
với nền kinh tế, trong đó có thị trường chứng khoán (TTCK). Chính vì vậy, việc nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân, diễn biến, các giải pháp khắc
phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhằm hình thành các giải pháp
hoàn thiện việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và TTCK nói riêng là hết sức
hữu ích đối với Việt Nam.
Một khi diễn biến của tình hình giao dịch trên TTCK đã thoát khỏi sự tác động của
các yếu tố nội tại mà đã chuyển sang phụ thuộc vào những yếu tố từ bên ngoài như các
thông tin về diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính hay sự tăng, giảm của các chỉ số
chứng khoán nước ngoài thì việc dự báo về tình hình thị trường cũng như đề xuất các giải
pháp là hết sức khó khăn. Tuy vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, chúng ta cũng
thấy rằng các nhà điều hành và hoạch định chính sách phát triển TTCK Việt Nam cần tập
trung vào các vấn đề sau:
– Tiếp tục thực thi chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đã được Chính phủ phê
chuẩn, trong đó việc liên thông, kết nối với thị trường các nước là cần thiết, tuy nhiên
phải được tiến hành cẩn trọng, có lộ trình để hạn chế đến mức thấp nhất “các cơn địa
chấn” có thể xảy ra như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đồng thời, tăng
18
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến TTCK
cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử phạt đủ mạnh nhằm tạo ra môi trường kinh
doanh chứng khoán minh bạch, công bằng và đúng pháp luật.
– Xây dựng lộ trình hợp lý cho việc áp dụng các công cụ, sản phẩm mới cho thị
trường như bán khống và giao dịch ký quỹ, đặc biệt là các công cụ phái sinh. Các công cụ
phái sinh chỉ nên áp dụng khi đã hình thành một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh việc
phát hành và giao dịch các công cụ phức tạp này trên cơ sở nhận thức đầy đủ những yếu
tố tích cực và tiêu cực của nó sau khi trình độ quản lý, điều hành thị trường đã được nâng
lên một bước.
– Cần nghiên cứu và sớm triển khai các công cụ kích cầu trong đầu tư. Trước hết,
Chính phủ nên xem xét khả năng lùi thời gian thu thuế từ đầu tư chứng khoán vì nguồn
thu từ đầu tư chứng khoán không nhiều nhưng nó sẽ là nguồn động viên tinh thần giúp
các thị trường có thể cải thiện phần nào niêm tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay. Ngoài ra, theo tín hiệu thị trường cần sớm đưa vào áp dụng các giải phải
giúp hỗ trợ tính thanh khoản và khuyến khích đầu tư như lệnh thị trường, cho phép nhà
đầu tư được mở nhiều tài khoản và được cùng mua, cùng bán một loại chứng khoán trong
cùng một ngày giao dịch, sớm đưa thị trường giao dịch các cổ phiếu chưa niêm yết đi vào
hoạt động…
– Đẩy mạnh và kiên quyết đối với việc tách chức năng lưu ký tiền của nhà đầu tư
từ công ty chứng khoán sang ngân hàng để minh bạch hoá hoạt động của công ty chứng
khoán, gây dựng lòng tin của các nhà đầu tư. Thường xuyên kiểm tra và giám sát các hoạt
động kinh doanh của công ty chứng khoán, đặc biệt là các hoạt động tiềm ẩn xung đột lợi
ích cao.
19