Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Tóm tắt và phân tích tác phẩm Khế ước xã hội (Q I)
Nguồn: />Người dịch: Mr. Minh
Quyển I, Chương I - IV
Tóm tắt
Trong Quyển I, Rousseau muốn khám phá ra lý do con người từ bỏ sự tự do tự nhiên, sự
tự do mà họ sở hữu trong trạng thái tự nhiên, và làm thế nào để quyền lực chính trị trở
nên hợp pháp. Ông bắt đầu với câu nói nổi tiếng “Con người sinh ra tự do, nhưng đâu
đâu cũng sống trong xiềng xích”. Xiềng xích này chính là các nghĩa vụ, bổn phận của
mỗi người đối với cộng đồng. Theo Rousseau, bổn phận chung này chỉ có ý nghĩa khi
chung bắt nguồn từ sự thỏa ước.
(1) Ông phủ nhận quan điểm cho rằng tính hợp pháp của thẩm quyền chính trị bắt nguồn
từ tự nhiên. Theo Rousseau, xã hội cổ xưa nhất và là xã hội tự nhiên duy nhất đó là gia
đình. Tuy nhiên trẻ con chỉ bị ràng buộc với cha mẹ bao lâu chúng còn cần cha mẹ để
chăm sóc cho chúng. Một khi đứa trẻ trưởng thành, các thành viên gia đình lại trở về với
trạng thái độc độc lập lẫn nhau trước đó của họ. Gia đình là hình mẫu của tất cả các xã
hội chính trị: cha là thủ lĩnh, và con là dân chúng. Mỗi người từ bỏ sự tự do của mình để
nhận lấy sự bảo vệ của gia đình, và vì vậy thúc đẩy lợi ích của riêng họ.
(2) Theo Rousseau, lực không thể là cơ sở cho tính hợp pháp của thẩm quyền chính trị.
Mọi người tuân theo những kẻ mạnh hơn họ là điều dĩ nhiên, vì họ không có lựa chọn.
Do đó, quyền của kẻ mạnh không thể tạo ra một ý nghĩa về bổn phận, vốn cần thiết để
thiết lập một quyền thực sự. Ngoài ra, bởi vì sức mạnh có tính tương đối, nên các hệ quả
của quyền này thay đổi khi nguyên nhân tạo ra nó thay đổi. Ngay khi một người biến anh
ta thành kẻ mạnh nhất, thì tất cả các tuyên bố trước đó vốn được thiết lập trên quyền của
kẻ mạnh sẽ trở nên vô nghĩa. Vì vậy, khuyết điểm chính của loại quyền này là nó có thể
bị phá vỡ một cách hợp pháp.
Bởi vì không ai có thẩm quyền tự nhiên đối với người khác, và bởi vì lực không tạo ra
quyền, nên tất cả thẩm quyền hợp pháp phải dựa trên sự thỏa ước.
(3) Rousseau tiếp tục bác bỏ Grotius, người cho rằng nhà nước có thể hợp pháp ngay cả
khi người dân là nô lệ và chính quyền là chủ nô. Ông bất đồng với tuyên bố của Grotius
là người dân có thể chuyển nhượng sự tự do của họ và trao chính họ cho vua. Theo
1
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Rousseau, không ai từ bỏ sự tự do của mình mà không đổi lại được thứ gì. Một luận điểm
chung được thừa nhận bởi các triết gia chính trị đó là người dân có thể từ bỏ sự tự do
của họ để đổi lại sự yên bình dân sự mà vua mang lại. Tuy nhiên, theo Rousseau thì hứa
hẹn về sự yên bình dân sự này sẽ trở nên vô nghĩa khi các ông vua đưa đất nước vào vô
số cuộc chiến tranh và đưa ra các đòi hỏi vô cớ đối với dân chúng. Và dù một người sẵn
sàng hi sinh sự tự do của anh ta, thì anh ta cũng không thể dâng tặng sự tự do của con cái
của họ mà không có sự đồng ý của chúng. Do đó, để cho một xã hội là hợp pháp, mỗi thế
hệ phải đưa ra sự chấp thuận công khai của họ về sự từ bỏ sự tự do này.
(4) Rousseau cũng bác bỏ ý tưởng của Grotius là tình trạng nô lệ có thể được xem như là
một khế ước giữa ông chủ và nô lệ. Rousseau cho rằng, không có sự đề bù nào có thể bù
đắp cho sự thiệt hại mà một người từ bỏ sự tự do của anh ta. Ngoài ra, Rousseau tin rằng
các hành động chỉ có thể có tính đạo đức khi chúng được thực hiện một cách tự do. Một
luận điểm khác của Grotius ủng hộ cho tình trạng nô lệ là dựa vào chiến tranh: ông cho
rằng kẻ thắng có quyền giết kẻ bại, và kẻ sau có thể bán sự tự do của mình để đổi lấy
mạng sống. Roussau bác bỏ luận điểm của Grotius là kẻ chiến thắng có thể giết kẻ chiến
bại. Vì chiến tranh là giữa các quốc gia không phải giữa những con người cá nhân, nên
sau khi một quốc gia thất trận, các binh sĩ của họ ngừng là kẻ thù đối với quốc gia đối
địch, và không ai có quyền đối với mạng sống của họ.
Phân tích
Trong quyển 1 của Khế ước xã hội, Rousseau tìm kiếm cơ sở cho tính hợp pháp của
quyền lực chính trị. Để thực hiện nhiệm vụ này, ông khảo sát quá trình chuyển biến của
con người từ trạng thái tự nhiên đến xã hội dân sự. Rousseau trình bày rõ ràng các quan
điểm của ông về trạng thái tự nhiên trong tác phẩm trước đó là, Luận về nguồn gốc của
bất bình đằng. Trong tác phẩm này, Rousseau cho rằng cuộc sống trước khi xuất hiện xã
hội dân sự yên bình hơn, bởi vì mọi người có một lối sống đơn giản, không sở hữu tài sản
và ít cảm xúc. Do đó, con người tự nhiên không có lý do để xung đột, và họ chỉ no lắng
cho sự sinh tồn của mình. Ý tưởng của Rousseau về trạng thái tự nhiên trái ngược với ý
tưởng của Thomas Hobbes, người cho rằng cuộc sống trong trạng thái tự nhiên là “cô
độc, dơ dáy, nghèo nàn, tàn bạo, và ngắn ngủi”. Sự khác nhau chính giữa hai triết gia là,
theo quan điểm của Rousseau, Hobbes đã nhầm lẫn con người tự nhiên với con người
hiện đại. Bởi vì Hobbes thấy con người hiện đại luôn đói khát, tham vọng…, nên ông cho
rằng những đặc điểm này là một phần của bản chất tự nhiên của con người. Trái lại,
Rousseau tin là con người sinh ra với một lòng trắc ẩn tự nhiên, và trạng thái tự nhiên
không phải là một “cuộc chiến tất cả chống lại tất cả”, như Hobbes tin.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh đó là Rousseau không nói rõ khi nào thì sự chuyển dịch
từ trạng thái tự nhiên sang xã hội dân sự xảy ra. Ông cũng không đưa ra bất cứ bằng
chứng nào về việc con người cư xử như ông tuyên bố. Trong thực tế, Rousseau thừa nhận
trong Luận về nguồn gốc của bất bình đẳng là giải thích của ông có thể không phải là
một sự mô tả chính xác về tiến trình của các sự kiện hiện thực. Những người phê phán
Rousseau tập trung vào sự thiếu bằng chứng lịch sử này để làm suy yếu lý thuyết chính
trị của ông, tuy nhiên độc giả cần hiểu là Rousseau muốn tạo ra một trạng thái lý tưởng
để nỗ lực để làm sáng tỏ hơn luận điểm của ông về thẩm quyền chính trị.
2
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Ngoài Hobbes, Rousseau còn tranh luận với Hugo Grotius trong Quyển I. Grorius, sinh
năm 1583, là một nhân vật xuất chúng trong triết học, lý thuyết chính trị, và luật pháp ở
thế kỉ 18. Grotius và Rousseau khác nhau chủ yếu ở ý tưởng của họ về các quyền.
Grotius tin là quyền đơn giản bắt nguồn từ sức mạnh, và không đòi hỏi sự chấp thuận về
mặt đạo đức. Điều này trái ngược hoàn toàn với khái niệm của Rousseau về quyền, trong
đó đạo đức chiếm một vị trí quan trọng. Theo Rousseau, dù kẻ chiến thắng trong chiến
tranh có khả năng để giết kẻ chiến bại, tuy nhiên sự chiến thắng không mang lại cho họ
quyền làm như vậy. Grotius cũng ủng hộ ý tưởng cho rằng quyền có thể chuyển nhượng
hoặc bán như là hàng hóa. Ông sử dụng ý tưởng này để bảo vệ cho tình trạng nô lệ và
chế độ quân chủ chuyên chế. Trái lại, Rousseau tin rằng các quyền (như quyền tự do) là
không thể san nhượng, vì vậy không thể bị chuyển nhượng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Quyển I, Chương V-IX
Tóm tắt
Con người hình thành xã hội khi các thách thức mà họ gặp trong trạng thái tự nhiên
vượt quá khả năng mà một cá nhân đơn lẻ có thể giải quyết. Mỗi người từ bỏ sự tự do tự
nhiên của mình – sự tự do làm bất cứ điều gì mình muốn – đổi lại cho một sức mạnh lớn
hơn của toàn thể cộng đồng. Bởi vì mọi người trao bản thân mình và mọi quyền mà mình
có cho cộng đồng, nên các điều khoản của khế ước xã hội phải là bình đẳng cho tất cả
những người tham gia. Sự kết hợp của nhiều cá nhân với cùng lợi ích tạo ra một thực thể
có tính tập thể với một đời sống và ý chí riêng. Thực thể này được gọi là “quốc gia” khi
nó bị động, và “quyền tối cao” khi nó chủ động.
Bởi vì quyền tối cao có thể được coi như là một con người cá nhân, nên không có luật
pháp nào cưỡng bách đối với nhân dân xét như là một thực thể. Điều này cũng tương tự
như việc một con người cá nhân đưa ra một khế ước với chính anh ta(vô lý). Tuy nhiên,
quyền tối cao không thể làm bất cứ điều gì có hại đối với khế ước xã hội, bởi vì điều đó
sẽ làm cho xã hội bị tan rã. Ngoài ra, bởi vì nó được hình thành từ sự kết hợp của những
cá nhân, nên quyền tối cao không thể có lợi ích mâu thuẫn với các thành viên của nó.
Điều tương tự không đúng với mối quan hệ giữa cá nhân và quyền tối cao. Mỗi con
người các nhân có thể có lợi ích riêng tư mà có thể gây cản trở hoặc thậm chí có hại cho
ý chí chung, nhưng khế ước xã hội ngấm ngầm đòi hỏi cá nhân phải hành động phù hợp
với lợi ích chung.
Rousseau cho rằng sự chuyển dịch từ trạng thái tự nhiên đến xã hội dân sự mang lại một
ý niệm về công bằng mà trước đó không có. Trong khi trong trạng thái tự nhiên con
người chỉ hành động theo sự thôi thúc thể xác, thì trong bối cảnh xã hội anh ta cảm thấy
một nghĩa vụ đối với đồng loại. Từ sự thay đổi về mặt đạo đức này, các năng lực trí tuệ
của con người phát triển, và tâm hồn của con người nâng cao. Đây là một sự phát triển
tích cực nếu các yêu cầu của xã hội dân sự không quá cao.
Mỗi người trao chính anh ta – bao gồm tất cả sở hữu của anh ta – cho cộng đồng khi
cộng đồng được hình thành. Quyền tối cao không kiểm soát việc sử dụng tài sản tư nhân,
nhưng đề nghị cho nó một sự bảo vệ tốt hơn so với sự bảo vệ mà cá nhân có thể mang
lại. Điều này là vì sở hữu công là mạnh hơn và dễ được chấp nhận hơn sở hữu tư. Cộng
đồng hợp pháp hóa quyền chiếm hữu đầu tiên. Nó chuyển sự chiếm hữu các nguồn lực tự
3
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
nhiên thành một quyền hợp pháp, bởi vì tất cả công dân thừa nhận sự hợp pháp của sở
hữu tư nhân.
Rousseau kết thúc Quyển I bằng cách nhấn mạnh cơ sở cho mọi hệ thống xã hội. Thay vì
phá hủy sự bất bình đẳng tự nhiên, khế ước xã hội làm cho những sự khác biệt về thể xác
trong trạng thái tự nhiên trở nên vô nghĩa, vì vậy mọi người có thể bình đẳng bởi thỏa
ước và bình đẳng về quyền.
Phân tích
Rousseau lập luận rằng, ở một thời điểm nào đó, thách thức mà con người gặp phải trong
trạng thái tự nhiên trở nên quá lớn so với khả năng của một cá nhân. Con người hình
thành một cộng đồng để kết hợp sức mạnh và tài năng của nhiều cá nhân lại. Tuy nhiên,
sự kết hợp này đối mặt với một vấn đề là làm sao để các cá nhân vẫn giữ được sự tự do
của mình trong khi anh ta trao bản thân cho nhà nước. Rousseau đưa ra hai điều kiện
cho một chính thể hợp pháp. Thứ nhất là công dân không bị phụ thuộc vào người khác,
và thứ hai là khi tuân theo luật pháp công dân chỉ tuân theo chính anh ta. Thông qua
Khế ước xã hội, Rousseau tạo ra các điều khoản cho khế ước mà đảm bảo để đáp ứng hai
điều kiện trên.
Khi con người liên kết với nhau hình thành một cộng đồng, họ tạo ra một thực thể chính
trị với một đời sống và ý chí riêng. Với việc trao tất cả các quyền của anh ta cho quyền
tối cao và do đó cho tất cả các thành viên của nó, thì một công dân không trao anh ta
cho một ai cụ thể. Anh ta đạt được một sự tự do tương tự sự tự do mà anh ta mất đi, và
bây giờ anh ta có một sức mạnh lớn hơn để bảo vệ cuộc sống và tài sản của anh ta.
Dù tham gia vào khế ước xã hội mang lại nhiều lợi ích, Rousseau thừa nhận là mọi người
thường có lợi ích xung đột với lợi ích của quyền tối cao. Ông khẳng định là bất cứ ai
không tuân theo ý chí chung sẽ bị cộng đồng buộc phải làm như vậy, và do đó “buộc
phải tự do.” Phát biểu này gây bối rối cho các độc giả của Rousseau. Từ phát biểu như
vậy, một số cho rằng Rousseau ủng hộ sự chuyên chế và không quan tâm đến các quyền
của cá nhân. Dù phát biểu này có vẻ nghịch lý, tuy nhiên điều quan trọng cần nhớ là
Rousseau phân biệt một vài dạng tự do. Sự tự do tự nhiên là khả năng làm bất cứ điều gì
mình muốn, và chỉ tồn tại trong trạng thái tự nhiên. Khi một người tham gia vào khế ước
xã hội, anh ta từ bỏ sự tự do tự nhiên để đổi lấy sự tự do dân sự, và phải tuân theo luật
pháp mà anh ta tham gia tạo ra. Rõ ràng Rousseau thích sự tự do dân sự hơn là sự tự do
tự nhiên, và khái niệm của ông là một số người phải bị “buộc phải tự do” là tương thích
với sự tự do dân sự.
Phát biểu gây tranh cãi này cũng có thể được hiểu theo cách khác. Rousseau tin rằng tự
do và bình đẳng có quan hệ chặt chẽ: vì mỗi người chỉ tuân theo chính anh ta, luật pháp
phải áp dụng cho mọi người. Khi một người phá vỡ luật tạo ra một quan hệ bất bình
đẳng giữa anh ta và những người tuân theo luật. Trong hoàn cảnh này, nhà nước có thể
sử dụng sức mạnh để đảm bảo sự bình đẳng giữa các công dân của nó.
Tóm tắt và phân tích tác phẩm Khế ước xã hội (Q II)
Nguồn: />
4
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Người dịch: Mr. Minh
Quyển II, Chương I-V
Tóm tắt
Chỉ có ý chí chung mới có thể hướng dẫn sức mạnh của cộng đồng vì lợi ích chung. Một
con người cá nhân có thể tạm thời có lợi ích giống với ý chí chung, nhưng sẽ không chia
sẻ với lợi ích chung này trong mọi hoàn cảnh. Do vậy, quyền tối cao là không thể
chuyển nhượng, và không thể được đại diện bởi bất cứ ai khác ngoài chính quyền tối
cao. Quyền tối cao cũng không thể phân chia: ý chí hoặc phản ánh lợi ích của tất cả các
công dân, hoặc nó không như vậy. Rousseau phàn nàn về các nhà lý thuyết chính trị,
những người đã phân chia quyền tối cao thành các phần khác nhau, như lập pháp và
hành pháp. Trong thực tế, ông tin là những phần này phụ thuộc vào ý chí chung, và chỉ
nhằm thực hiện các lợi ích của cộng đồng.
Ý chí chung luôn luôn đúng, và luôn luôn thúc đẩy lợi ích chung. Tuy nhiên, sự cân
nhắc của người dân không luôn luôn là sự thể hiện của ý chí chung. Rousseau phân biệt
giữa “ý chí của tất cả” – tổng tất cả các ý kiến cạnh tranh trong xã hội – và ý chí chung.
Nếu tất cả các ý kiến khác nhau có một sự ảnh hưởng tương đương, thì ý chí chung sẽ là
ý chí của tất cả. Tuy nhiên, khi có những liên hợp (nhóm) riêng rẽ trong xã hội, thì mỗi
liên hợp sẽ phát triển một tập hợp cụ thể các lợi ích mà khác với lợi ích được diễn đạt bởi
ý chí chung. Khi một nhóm trở nên đủ lớn để chi phối các nhóm khác, thì không còn có ý
chí chung, và chỉ có ý chí riêng được bày tỏ. Do vậy, để cho ý chí chung được thúc đẩy,
điều quan trọng là xã hội không nên có phe phái hoặc các phe phái với quyền lực tương
đương nhau.
Quan tâm chính của nhà nước là sự bảo tồn của nó, và nó có thể đòi hỏi bất cứ điều gì từ
các thành viên của nó để đảm bảo sự bảo tồn này. Do dó, công dân phải đóng góp bất cứ
tài sản hay sự phục vụ nào cho chủ quyền tối cao ngay khi được yêu cầu. Tuy nhiên,
quyền tối cao không thể đưa ra các nghĩa vụ đối với các thành viên mà không mang lại
lợi ích cho cộng đồng. Ngoài ra, quyền tối cao chỉ có thể giải quyết các vấn đề mà ảnh
hưởng đến toàn bộ xã hội. Khi ý chí chung có một mục đích riêng, nó đánh mất tính
đúng đắn của nó và không còn theo đuổi lợi ích chung. Khế ước xã hội đòi hỏi tất cả
người dân phải có quyền như nhau. Do vậy, quyền tối cao không đòi hỏi nhiều hơn từ
bất cứ người nào khác. Khi nó làm như vậy, các quyết định của nó trở nên riêng tư thay
vì là chung, và khác với ý chí chung.
Cuối cùng, Rousseau thảo luận liệu quyền tối cao có thể yêu cầu công dân hi sinh mạng
sống của mình để bảo vệ quyền tối cao hay không. Ông cho rằng dù con người không có
quyền để tự tử, họ có thể mạo hiểm mạng sống của họ để bảo vệ nó. Do đó, một cá nhân
có thể mạo hiểm mạng sống của anh ta để bảo vệ nhà nước. Bởi vì mục đích của khế ước
xã hội là sự bảo tồn của các thành viên của nó, mọi người phải sẵn sàng, ở thời điểm
chiến tranh hay khủng hoảng, mang mạng sống của mình ra để bảo vệ người khác.
Logic tương tự cũng áp dụng đối với hình phạt tử hình. Bởi vì không ai muốn bị giết, nên
họ phải đồng thuận chịu hình phạt tử hình nếu họ trở thành kẻ giết người. Ngoài ra, bất
cứ sự phạm tội nào đều trở thành một kẻ phản bội và là kẻ thù của nhà nước. Anh ta
5
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
không còn là một công dân, và phải bị loại bỏ khỏi xã hội vì sự an toàn của nó. Dù
Rousseau chấp thuận hình phạt tử hình trong một số hoàn cảnh nào đó, ông cho rằng ở
đâu mà sử dụng thường xuyên hình phạt thì ở đó chính quyền là yếu kém. Nhà nước chỉ
nên kết án tử hình đối với ai mà họ không thể làm cho hối cải. Rousseau khẳng định rằng
nhà nước có quyền tha thứ nhưng cần sử dụng nó chường mực để bảo vệ sự tuân thủ
pháp luật.
Phân tích
Rousseau thừa nhận rằng các cá nhân có thể có lợi ích riêng xung đột với ý chí chung,
và bày tỏ sự quan tâm đến ảnh hưởng thao túng của phe nhóm. Thông thường, các lợi ích
cạnh tranh có thể triệt tiêu lẫn nhau, và ý chí của tất cả xấp xỉ ý chí chung. Tuy nhiên, khi
mọi người hình thành phe nhóm, việc diễn đạt ý chí chung trở nên khó hơn. Vì lý do này,
Rousseau khuyên mỗi cử tri có một tinh thần độc lập với các cử tri khác. Với luận điểm
là mọi người phải cân nhắc lợi ích chung khi bỏ phiếu, thì sự tự biệt lập này dường như
là một yêu cầu kì cục. Vì mọi người thừa nhận rằng việc thảo luận một vấn đề với người
khác giúp họ nhận ra lợi ích chung. Tuy nhiên, Rousseau khẳng định rằng sự độc lập của
các cử tri ngăn không cho họ liên kết với nhau và làm méo mó ý chí chung.
Lợi ích chung thúc đẩy lợi ích tốt nhất của nhà nước dù cho sự phản đối của cá nhân. Ví
dụ, nhà nước có nên ban hành thuế để hỗ trợ kinh phí cho giáo dụng công hay không. Dù
hầu hết mọi người đồng ý rằng đó là lợi ích tốt nhất của nhà nước khi có các công dân
được giáo đục, nhưng một số cá nhân có thể không muốn đóng thuế này. Ví dụ, họ không
còn ở tuổi đi học, và do đó không có lợi gì từ giáo dục công, vì vậy thấy nó như là gánh
nặng. Trong trường hợp này, ủng hộ lợi ích chung có nghĩa là rời bỏi sự tư lợi cá nhân
để củng cố sự thịnh vượng của nhà nước.
Rousseau cũng khẳng định tính không thể chuyển nhượng của quyền tối cao. Người dân
không thể chuyển nhượng quyền lập pháp cho cá nhân hoặc nhóm mà không hủy bỏ khế
ước xã hội. Trong quyển I, Rousseau lập luận rằng khi một cá nhân trao anh ta cho người
khác thì có nghĩa là anh ta từ bỏ đạo đức và nhân tính của mình. Khái niệm tương tự
cũng áp dụng cho quyền tối cao. Nếu quyền tối cáo chuyển quyền lập pháp cho một cá
nhân hay một nhóm, thì các thành viên của xã hôi ngừng có bất cứ nghĩa vụ đạo đức nào
với nhau.
Rousseau cũng khẳng định là quyền tối cao không thể phân chia. Tính không thể phân
chia của quyền tối cao có quan hệ với tính không thể chuyển nhượng. Sự phân chia
quyền lực tối cao giống với một sự chuyển nhượng một phần của quyền lập pháp. Cả
tính không thể phân chia và tính không thể chuyển nhượng của quyền tối cao làm thỏa
mãn điều kiện thứ hai của Rousseau về chính thể hợp pháp – đó là khi tuân theo luật,
mỗi người tuân theo chính anh ta. Vì điều này là đúng đắn, nên mọi người phải thực thi
thẩm quyền lập pháp trong mọi lĩnh vực.
Rousseau phân biệt giữa luật và sắc lệnh, và khẳng định là cái sau liên quan đến các
vấn đề cụ thể, trong khi cái trước liên quan đến vấn đề tổng quát. Luật như là một sự
diễn đạt của ý chí chung là thứ duy nhất có thể gán các nghĩa vụ cho các thành viên của
xã hội. Trong chương 4, quyển II, Rousseau cho rằng quyền tối cao không có quyền
“thiên vị cho người này hơn người khác”. Nếu nó làm như vậy, thì quyền tối cao sẽ mất
6
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
đi tính hợp pháp. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh đó là yêu cầu cho rằng tính tổng
quát có thể được mở rộng ra ngoài khuân khổ của luật tới sự ứng dụng của nó. Tức là,
một luật có thể được diễn đạt ở dạng tổng quát nhưng chỉ áp dụng cho các cá nhân cụ thể.
Tuy nhiên, theo Rousseau một luật đúng đắn phải thực sự áp dụng hoặc có khả năng áp
dụng cho mọi công dân.
Quyển II, Chương VI-VII
Tóm tắt
Khế ước xã hội mang lại đời sống cho cơ thể chính trị, nhưng luật chứa đựng ý chí
chung. Theo Rousseau, một luật là một quyết định mà nó xét quốc gia như một tổng thể,
và không thể áp dụng cho các cá nhân cụ thể. Ví dụ, luật có thể tạo ra một chính phủ
hoàng gia và sự kế vị cha truyền con nối, nhưng nó không thể lựa chọn một gia đình
hoàng gia. Vì, quyền bổ nhiệm lãnh đạo chính trị thuộc sức mạnh hành pháp.
Bởi vì người dân thường không biết làm thế nào để theo đuổi lợi ích chung, Rousseau
khẳng định là phải có sự hướng dẫn để giúp người dân ban hành luật. Hướng dẫn này,
người mà Rousseau gọi là “nhà lập pháp” đảm bảo cho luật luôn hỗ trợ cho sự bảo tồn
của nhà nước. Nhà lập pháp bảo vệ luật khỏi bị thao túng bởi ý chí riêng, cũng giúp đỡ
người dân cân nhắc các lợi ích ngắn hạn so với chi phi dài hạn của một quyết định. Do
vậy nhà lập pháp phải là người xuất chúng trong nhiều lĩnh vực. Anh ta phải cực kì
thông mình và có khả năng chống lại niềm đam mê của người dân trong khi vẫn phải
tính đến lợi ích trong hạnh phúc của họ. Anh ta phải xem xét hiện tại và tương lai khi
ban hành luật. Nhà lập đứng ở vị trí có thể thay đổi bản chất con người, thay thế sự tự do
dân sự cho sự tự do trong trạng thái tự nhiên, và củng cố quyền lực của nhà nước. Dù
nhà lập pháp là người có trí tuệ cao hơn, người dân phải chấp thuận đề nghị của anh
ta trước khi chúng trở thành luật. Người dân không thể từ bỏ quyền lập pháp, bởi vì chỉ
ý chí chung mới có thể ràng buộc lên các các nhân riêng rẽ.
Bởi vì quyền tối cao nằm ở trong tay người dân, nên nhà lập pháp phải làm luật dễ hiểu
với đại chúng và phải thuyết phục người dân tuân theo luật mà không sử dụng vũ lực. Vì
lý do này, trong suốt lịch sử, các nhà làm luật đã đề cập đến một thẩm quyền tối cao để
thuyết phục người dân chấp nhận luật. Rousseau cho rằng tôn giáo và chính trị không có
cùng mục đích, nhưng trong giai đoạn đầu của quốc gia, tôn giáo có thể phục vụ như là
một công cụ chính trị đầy quyền lực.
Phân tích
Rousseau bắt đầu Chương VI bằng định nghĩa về luật. Một luật là một quyết định được
đưa ra bởi toàn thể cộng đồng mà ảnh hưởng tất cả mọi người. Trong hệ thống chính trị
Mỹ, Hiến pháp là một tập hợp các luật. Một sắc lệnh thì khác với một luật vì nó quan
tâm đến các cá nhân hay nhóm cụ thể. Sự bổ nhiệm lãnh đạo chính trị hay sự trường phạt
một tội cụ thể là một sắc lệnh. Định nghĩa của Rousseau về luật trả lời cho nhiều vấn đề
mà các triết gia chính trị nêu lên trong lịch sử. Từ định nghĩa này, không còn phải quan
tâm xác định ai là người làm ra luật, bởi vì luật được định nghĩa như là một sự diễn đạt
của ý chí chung, và cũng không còn phải hỏi vị nguyên thủ có đứng trên luật hay không,
7
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
vì ông ta cũng chỉ là một thành viên của nhà nước. Ngoài ra, luật không thể không công
bằng, bởi vì mọi người là tác giả của nó.
Dù Rousseau trao quyền lập pháp cho người dân, ông có một vài quan ngại về sự thực thi
quyền tối cao này. Ông tin là con người bình thường có thể thiển cận, dễ dàng bị thao
túng, và thường không ý thức về nhu cầu của họ. Vì vậy, nhà lập pháp giúp hiểu chỉnh
những khuyết điểm này của quá trình làm luật trong khi bảo đảm quyền tối cao thuộc về
người dân.
Để cho xã hội chính trị của Rousseau hoạt động được, thì các công dân phải ưu tiên ý
chí chung bên trên lợi ích cá nhân của họ. Đây là một đòi hỏi rất khó, và Rousseau thừa
nhận là nhà lập pháp phải giúp người dân theo đuổi lợi ích chung. Rousseau miêu tả nhà
lập pháp như có một phẩm chất ling thiêng. Anh ta phải có trí tuệ và khả năng thuyết
phục để tạo ra sự thay đổi về mặt đạo đức khiên các công dân ý chí về người khác trước
khi ý chí về chính họ. Nhiều chỉ trích đối với lý thuyết chính trị của Rousseau tập trung
vào việc không thể tìm thấy một nhà lập pháp như vậy.
Một điều không rõ ràng là liệu Rousseau có tin rằng người dân có thể đáp ứng các yêu
cầu của việc làm luật mà không có sự hướng dẫn của nhà lập pháp hay không. Nhà lập
pháp giúp người dân cân nhắc lợi ích trước mặt so với rủi ro dài hạn, và ngăn cản lợi ích
riêng khỏi bóp méo các tính toán của ý chí chung. Đây là những chức năng quyết định
của quá trình lập pháp, và nếu không có sự giúp đỡ của nhà lập pháp, thì sẽ rất khó để
duy trì nhà nước.
Rousseau rất tin tưởng quyền lực của luật pháp. Luật biến đổi bản chất con người bằng
cách thay thế sự tự do tự nhiên bằng tự do dân sự, và làm cho cá nhân là một phần của
một toàn thể lớn hơn. Trong khi trạng thái tự nhiên cho phép con người làm bất cứ điều
gì anh ta muốn, luật quy định anh ta các nghĩa vụ và đạo đức dân sự.
Quyền II, Chương VIII-XII
Tóm tắt
Điều quan trọng đối với bất cứ nhà lập pháp nào là phải khảo sát người dân để quyết
định liệu họ đã sẵn sàng tuân theo luật chưa. Các xã hội có thể ở trong các giai đoạn
phát triển khác nhau ở thời điểm khác nhau, và một số không được trang bị đầy đủ để
tuân theo luật bất kể luật là tốt hay xấu. Rousseau cho rằng một khi người dân phát triển
các thói quen xấu, thì rất khó để cải biến họ thông qua luật. Dù các cuộc cách mạng có
thể đưa đến một giai đoạn mới trong một xã hội và loại bỏ sự xấu xa của nó, những sự
kiện này là rất hiếm và không thể xảy ra hai lần đối với cùng một dân tộc. Rousseau cho
rằng người dân có thể đạt được sự tự do, nhưng họ không thể khổi phục nó sau khi nó đã
mất. Do đó, các nhà lập pháp phải chờ đợi để xem liệu người dân đã đủ chín chắn trước
khi bắt họ tuân theo luật: một nhiệm vụ rất khó khăn không thể coi nhẹ.
Có những giới hạn đối với kích thước thực thể chính trị. Nó phải đủ lớn để duy trì chính
nó, nhưng không quá lớn đến nỗi gây khó khăn cho quản lý. Nhìn chung, một nhà nước
nhỏ được quản lý tốt hơn một nhà nước lớn vì những lý do sau. Thứ nhất, việc quản lý
trở nên khó khăn hơn với khoảng cách xa. Thứ hai, chi phí duy trì hoạt động của chính
quyền tăng với sự gia tăng kích thước. Thứ ba, người dân trở nên mệt mỏi với việc phải
8
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
tuân theo mệnh lệnh của quá nhiều cấp chính quyền khác nhau. Khi chính quyền quá lớn,
nó không thể củng cố luật. Người dân mất đi tình cảm với lãnh đạo và với quốc gia vì
luật không thể phù hợp phổ quát cho mọi người sống ở các khu vực khác nhau và có
truyền thống khác nhau.
Một cơ thể chính trị có thể được đo bởi dân số và kích thước lãnh thổ. Trong một xã hội
tốt, cả hai phải thỏa mãn một tỉ lệ lý tưởng. Phải có đủ người để bảo vệ và mở mang lãnh
thổ, và lãnh thổ phải đủ để cung cấp lương thực cho tất cả. Nếu lãnh thổ quá rộng vượt
quá khả năng bảo vệ của công dân, thì quốc gia đối mặt với nguy cơ bị xâm lược liên tục.
Nếu có quá ít đất, quốc gia sẽ có xu hướng xâm lăng các nơi khác để đảm bảo nhu cầu
của mình.
Mục đích của tất cả sự lập pháp phải là thúc đẩy sự tự do và bình đẳng. Tuy nhiên,
bình đẳng không có nghĩa là mọi người phải có cùng một lượng quyền lực và sự giàu có
như nhau. Quyền lực không bao giờ dựa trên bạo lực, và phải được thực thi phù hợp với
luật. Liên quan đến sự giàu có, không ai có quá nhiều tiền đến nỗi anh ta có thể mua
người khác, và không ai có quá ít để bị buộc phải bán mình. Dạng bình đẳng này có thể
không tồn tại trong thực tế, nhưng luôn luôn phái là mục đích của nhà lập pháp.
Nguồn lực tự nhiên và tâm tính của con người sẽ quyết định thể chế kinh tế mà xã hội có.
Ví dụ, quốc gia với bờ biển dài, và thuận tiện sẽ tập trung vào thương mại và hàng hải,
trong khi các quốc gia với bờ biển là các vách đá thì sẽ luôn trong tình trạng biệt lập với
các quốc gia khác.
Phân tích
Trong chương trước, Rousseau lập luận rằng luật pháp tạo ra sự thay đổi về mặt đạo
đức trong con người bằng cách thay thế sự tự do tự nhiên bằng sự tự do chính trị. Ở đây,
ông tuyên bố là chỉ một số người thực sự sẵn sàng tuân theo luật pháp và do đó sẵn sàng
cho sự chuyển đổi về mặt đạo đức. Điều này đưa đến vấn đề là liệu Rousseau tin rằng
bản chất con người hay luật pháp thì cái nào quan trọng hơn khi làm biến đổi đạo đức.
Ông khẳng định là con người có thể đạt đến một mức độ chín chắn nào đó trước khi phục
tùng luật, nhưng không cung cấp bất cứ yếu tốt hữu hiệu nào để xác định là một người đã
đạt đến điểm đó.
Rousseau khẳng định là mỗi nước có một kích thước lý tưởng mà sẽ cho phép nó được
quản lý hữu hiệu. Nhà nước phải đủ lớn để nó độc lập và có khả năng chống lại các quốc
gia khác, nhưng không quá lớn khiến cho việc quản lý trở nên không thể. Dù Rousseau
thừa nhận là rất khó để quyết định nhà nước như thế nào là lớn, rõ ràng ông thích nhà
nước nhỏ hơn là nhà nước lớn. Trong các quốc gia lớn, chi phí cho quản trị tăng lên,
người dân mất đi tình lòng tự hào dân sự của họ, và luật pháp thì không thể áp dụng như
nhau cho các khu vực khác nhau của quốc gia.
Rousseau khẳng định các hệ thống pháp lý phải hướng đến mục đích thúc đẩy sự tự do
và bình đẳng. Luật phải bảo vệ tự do bởi vì kiểu quan hệ phụ thuộc sẽ làm mất đi sức
mạnh của nhà nước. Nếu một người bị nô lệ bởi người khác, thì rõ ràng anh ta không thể
trao mình cho nhà nước theo điều kiện mà khế ước xã hội đòi hỏi. Luật pháp phải duy
trì sự bình đẳng vì sự tự do không thể tồn tại mà không có bình đẳng. Tuy nhiên, sự
nhấn mạnh của Rousseau vào sự bình đẳng không nhất thiết có nghĩa là ông ủng hộ nhà
9
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
nước cộng sản. Theo Rousseau, có thể có sự khác biệt về quyền lực và giàu có, nhưng sự
xã hoa không được phép tồn tại.
Dù Rousseau cho rằng mỗi nước phải hướng đến sự bình đẳng, nhưng ông tin là các
nguồn lực tự nhiên sẽ quyết định cách tổ chức kinh tế của nhà nước. Ví dụ, các nước có
đất đai khô cằn phải tập trung vào công nghiệp và bán các hàng hóa của họ để đổi lấy
lương thực. Do đó, dù các châm ngôn có thể áp dụng cho tất các nhà nước, nhưng mỗi
quốc gia nên tạo ra hệ thống pháp lý phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình.
Tóm tắt và phân tích tác phẩm Khế ước xã hội (Q III)
Nguồn: />Người dịch: Mr. Minh
Quyền III, Chương I-III
Tóm tắt
Theo Rousseau, quyền hành pháp không thuộc về người dân bởi vì nó xử lý với các hành
động cụ thể, trong khi người dân nên tập trung vào những vấn đề chung. Do đó, người
dân phải có người đại diện để thi hành ý chí chung và kết nối giữa quốc gia (cơ thể bị
động) và quyền tối cao (cơ thể chủ động). Để chính phủ thi hành ý chí chung, thì nó phải
có đời sống và ý chí của riêng nó và có thể phân biệt chính nó với quyền tối cao. Các
pháp quan phải có một mối quan tâm chung được gọi là “ý chí tập thể”, vốn có xu hướng
bảo vệ chính phủ. Dù Rousseau ủng hộ sự độc lập của chính phủ với một mức độ nhất
định, tuy nhiên ông cho rằng ý chí tập thể phải luôn luôn phục tùng vào ý chí chung.
Rousseau nhấn mạnh rằng sự phục tùng của người dân đối với lãnh đạo không phải là
một khế ước. Các quan chức chính phủ là những nhân viên của quyền tối cao, và chịu
trách nhiệm cho việc thi hành quyền lực mà họ được ủy nhiệm. Quyền tối cao có thể thay
đổi chính phủ. Có một dạng thức chính phủ duy nhất thích hợp cho mỗi quốc gia, và bởi
vì các sự kiện có thể thay đổi các hoàn cảnh của quốc gia, nên các chính phủ khác nhau
có thể thích hợp ở các thời điểm khác nhau.
Một chính phủ mà quyền tối cao trao quyền lực cho tất cả mọi người (hoặc đa số) là
chính phủ “dân chủ”. Quyền tối cao cũng có thể trao quyền lực cho một thiểu số cá
nhân, dạng chính quyền này được gọi là chính phủ “quý tộc”. Cuối cùng, quyền tối cao
có thể trao cho một cá nhân duy nhất, dạng này được gọi là chính phủ “quân chủ”. Tuy
nhiên, ba dạng chính quyền này không loại trừ lẫn nhau. Ví dụ, có thể có một chính
quyền quân chủ với hơn một vua, hay dân chủ mà chỉ đại diện cho một nữa dân số.
Dân số của quốc gia là một yếu tố quyết định dạng thức chính phủ. Khi kích thước nhà
nước tăng lên, mỗi người có một phần nhỏ hơn trong quá trình lập pháp. Do đó, khi quốc
gia lớn, người dân mất sự kết nối của họ với nhà nước, và ý chí riêng của anh ta trở nên
mạnh hơn ước muốn thúc đẩy lợi ích chung. Bởi vì có ít sự đồng thuận giữa ý chí riêng
và ý chí chung, chính phủ phải sử dụng sức mạnh áp bức hơn khi dân số tăng.
10
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Rousseau cho rằng sự điều hành công việc chung sẽ chậm hơn khi có nhiều người hơn,
và đó là lý do mà chính phủ nhỏ hơn thì hoạt động hiệu quả hơn chính phủ lớn. Ông đề
nghị là nên có một mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa kích thước chính phủ và kích thức nhà
nước. Vì các quốc gia nhỏ nên có chính phủ dân chủ, quốc gia trung bình có chính
phủ quý tộc, và quốc gia lớn có chính phủ quân chủ.
Phân tích
Mỗi hành động tự do có hai nguyên nhân: một là đạo đức, và một là vật chất. Khi một
hành động được tiến hành, tác nhân của nó phải muốn thực hiện nó và phải có khả năng
về mặt thể xác để thi hành nó. Trong xã hội dân sự, đạo đức tương tự năng lực lập pháp
và vật chất tương tự năng lực hành pháp. Rousseau tuyên bố là không có gì được thực
hiện mà không có sự phối hợp của cả hai.
Rousseau đã đặt quyền lập pháp vào tay nhân dân, nhưng theo ông họ không nên thi
hành quyền hành pháp, bởi vì nó giải quyết các vấn đề cụ thể thay vì các vấn đề chung.
Một cách hiểu khác đó là, quyền lập pháp và hành pháp không thể trọn lẫn vì điều này sẽ
phá hủy sự bình đẳng giữa các công dân. Vì bản chất của khế ước xã hội, là mỗi cá nhân
có thể tham gia tạo ra các luật lệ qua đó mọi người phải tuân theo, nhưng không ai có
quyền buộc người khác phải làm điều mà anh ta không tự mình làm.??? Do đó, người
ban hành luật không nên là người thi hành luật.
Bởi vì sự cần thiết của việc tách rời quyền lập pháp và hành pháp, người dân phải có một
tác nhân để thi hành ý chí chung. Chính phủ là đóng vai trò trung gian giữa người dân
và quyền tối cao, và chịu trách nhiệm cho việc thực thi luật pháp. Quan hệ giữa người
dân và chính phủ không phải là một khế ước: người dân không có nghĩa vụ giữ tuân giữ
chính phủ của họ, và có thể thay đổi như họ thấy phù hợp. Quan chức chính phủ có thể
được coi như là những người làm công cho quyền tối cao, họ được ủy nhiệm sử dụng
quyền lực quốc gia để thi hành ý chí chung. Niềm tin này mâu thuẫn với các niềm tin của
các nhà lý thuyết chính trị như Hobbes và Grotius, những người trao quyền tuyệt đối cho
vua.
Dù Rousseau trao quyền tối cao vào tay người dân thay vì vào chính phủ, nhưng ông
cũng trao cho quyền hành pháp một số thẩm quyền nhất định. Chính phủ có thể được
xem như một thực thể mới trong quốc gia, khác với người dân và quyền tối cao. Dù
chính phủ tồn tại chỉ thông qua quyền tối cao, nó phải có ý chí riêng để thúc đẩy sự tồn
tại riêng của nó và phân biệt nó với quốc gia. Tuy nhiên, quan tâm của chính phủ,
Rousseau gọi là ý chí tập thể, phải luôn luôn phụ thuộc vào ý chí chung.
Quyển 4, Chương IV-VII
Tóm tắt
Dân chủ là chính phủ khó duy trì nhất, và rất ít nhà nước đáp ứng được các điều kiện
cần thiết để duy trì nó. Thứ nhất, nhà nước phải đủ nhỏ để nó dễ dàng tổ chức các hội
nghị cộng đồng. Thứ hai, để ngăn ngừa các cuộc tranh luận gay gắt và giải quyết hiệu
11
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
quả công việc chung, người dân phải có một thái độ đạo đức và thói quen tương tự nhau.
Thứ ba, mọi người phải có một lượng tài sản tương tự, bởi vì sự bất bình đẳng kinh tế tạo
ra sự khác biệt về quyền lực, dẫn dến nguy hại cho nền dân chủ. Cuối cùng, phải không
có sự xa hoa, bởi vì sự xa hoa làm thái hóa đạo đức công bằng cách làm cho người giàu
kiêu căng, người nghèo thèm muốn. Ngoài ra, dân chủ cũng có khả năng nhất dẫn đến
nội chiến và xung đột nội bộ. Bởi vì những lý do này, Rousseau tin rằng dân chỉ là quá
khó cho con người bình thường có thể duy trì. Ông khẳng định rằng, chỉ có thần thánh
mới có thể quản lý chính họ một cách dân chủ.
Rousseau sau đó hướng sự chú ý tới chính phủ quý tôc, hay “cai trị bởi số ít”. Có ba
dạng quý tộc: tự nhiên, kế thừa, và tuyển cử. Dạng thứ nhất, vốn chỉ dựa trên sức mạnh
tự nhiên, nên chỉ thích hợp cho các dân tộc còn sơ đẳng. Dạng thứ hai là dạng tồi tệ nhất
bởi vì nó thúc đẩy sự bất công và cho phép những người không đủ phẩm chất nắm quyền
cai trị. Do vậy, loại bỏ hai cái đầu, Rousseau đề nghị chính quyền quý tộc tuyển cử. Dạng
chính quyền này có một vài thuận lợi so với chính quyền dân chủ thuần túy. Các hội động
được tổ chức thuận tiện hơn, và công việc chung dễ dàng được thực hiện hơn. Quý tộc
được lựa chọn có tiếng nói được tôn trọng hơn và thực hiện tốt hơn chính sách ngoại
giao. Tuy nhiên, dạng chính quyền này cũng có bất lợi của nó. Người dân phải sẵn sàng
chấp nhận sự bất bình đẳng về kinh tế ở tầng lớp quý tộc, nhưng sự xấu xa là cần thiết
để những người tài năng nhất sẽ cai trị.
Trong nền quân chủ, một người đại diện cho toàn bộ quốc gia và kiểm soát tất cả mọi
lực lượng của nó. Quân chủ là dạng chính quyền quyền lực nhất, những cũng là dạng
chính quyền mà ý chí riêng có ảnh hưởng lớn nhất. Trong hầu hết trường hợp, vua
khuyến khích tình trạng yếu kém và khốn khổ của người dân để họ không có khả năng
chống lại ông ta. Các chính quyền quân chủ có nhiều khuyết điểm và có khả năng
suy đồi nhất. Bởi vì vua quyết định ai được bổ nhiệm ở chức thẩm phán, nên rất dể cho
những người kém cỏi giữa địa vị cao. Rousseau cho rằng khuyết điểm rõ ràng nhất của
nền quân chủ là làm thế nào nó giải quyết vấn đề kế nhiệm. Quá trình này có thể xảy ra
thông qua hai phương pháp: bầu chọn, hoặc kế thừa. Phương pháp thứ nhất khiến xã hội
bất ổn trong giai đoạn chuyền giao quyền lực, và thúc đẩy sự suy đổi trong quá trình bỏ
phiếu. Phương pháp thứ hai cho phép những người không đủ phẩm chất cai trị vì nó xuất
phát từ sự kế thừa.
Phân tích
Dù quyền tối cao có thể chọn bất cứ kiểu chính quyền nào, Rousseau gợi ý rằng có một
kiểu mà thường được ưa thích hơn các kiểu còn lại. Sự tách rời chặt chẽ giữa quyền
lực lập pháp và hành pháp loại bỏ nền dân chủ thần túy khỏi như là một lựa chọn khả
thi. Rousseau khẳng định rằng mọi người xem xét các hành động cụ thể, thì sự lập pháp
trở nên bị tha hóa bởi lợi ích riêng tự. Trong nền quân chủ, lợi ích của vua hoàn toàn
khác với lợi ích của người dân. Anh ta duy trì một cuộc sống xa hoa làm cho người dân
nghèo đói và khốn khổ, và bổ nhiệm những người không đủ năng lực vào các vị trí cao
do sở thích cá nhân.
12
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Do vậy, lựa chọn tốt nhất là chính phủ quý tộc, vốn có thể có dạng: kế thừa hoặc tuyển
chọn. Quý tộc kế thừa sẽ vi phạm các điều khoản của khế ước xã hội bởi vì quyền tối cao
không thể ban hành luật mà ảnh hưởng chỉ đến cá nhân cụ thể. Khi chỉ định một gia đình
hay một giai cấp cai trị quốc gia sẽ phá hủy sự bình đẳng giữa các công dân, một điều
kiện cần thiết cho sự hợp pháp của chính thể. Ngoài ra, quý tộc kế thừa sẽ không mang
lại lợi ích cho quốc gia bởi vì nó chọn các lãnh đạo mà không cân nhắc tài năng hay trí
tuệ. Quý tộc bầu chọn lựa chọn người tốt nhất để cai trị nhà nước và tránh khuyết điểm
của cả dân chủ và quân chủ. Công việc chung được thực hiện hữu hiệu hơn bởi vì rất dễ
dàng cho một số ít đi đến một quyết định hơn là đa số. Đồng thời quý tộc bầu chọn sẽ cai
trị phù hợp với ý chí chung hơn là quân chủ.
Dù Rousseau cho rằng quý tộc kế thừa là dạng tồi tệ nhất, nhưng ông có một danh sách
dài những phàn nàn về nền quân chủ. Trong nền quân chủ, lợi ích riêng và lợi ích chung
đứng đối lập nhau, và vua chỉ có thể gia tăng sự giàu có của mình bằng cách làm cho
người dân nghèo đói. Rousseau chấp nhận bất cứ chính quyền nào mà thúc đẩy lợi ích
chung đều trở nên hợp pháp, nhưng chứng mình rõ rằng là nền quân chủ không thể làm
được làm điều này. Ở một vài chỗ trong Khế ước xã hội, Rousseau xếp quân chủ cùng
hàng với chính thể chuyên chế.
Quyển III, Chương VIII-IX
Tóm tắt
Tự do không thích hợp cho mọi loại khí hậu, do đó không thể đạt được một cách phổ
quát. Phân tích của Rousseau về tự do và khi hậu tập trung vào việc người dân cung cấp
chi phí cho chính phủ như thế nào. Trong mọi quốc gia, chính phủ sử dụng rất nhiều,
nhưng lại không tạo ra được gì. Nó nhận được những gì mà nó chi dung từ thặng dư mà
nhân dân tạo ra. Do đó, nhà nước chỉ có thể sống sót bao lâu mà người dân tạo ra nhiều
hơn những gì họ cần. Một số chính phủ tiêu tốn hơn các chính phủ khác, do đó gây ra
một gánh nặng lớn hơn cho dân chúng.
Rousseau cho rằng gánh nặng kinh tế ít liên quan đến kích thước chính phủ mà liên quan
nhiều hơn đến sự luân chuyển các lợi ích. Trong nền dân chủ, quyền hành pháp và lập
pháp là giống nhau, và thuế trở lại với người dân trong dạng thức chi tiêu của chính phủ.
Trong nền quân chủ, thuế dùng cho các lợi ích riêng của vua, sự luân chuyển chậm và
hầu như không tồn tại. Nói cách khác, người dân bị đè nặng ít hơn trong nền dân chủ, và
nhiều nhất trong nền quân chủ. Từ đây là các nền quân chủ phù hợp với quốc gia giàu
có, vốn tạo ra nhiều sản phẩm thặng dự, và dân chủ thì phù hợp với quốc gia nghèo.
Khí hậu quyết định dạng chính phủ mà quốc gia sẽ chấp nhận do ảnh hưởng của số
lượng thặng dư. Bởi vì các quốc gia nóng có đất đai mầu mỡ nhất và tạo ra nhiều thặng
dư nhất, họ cần có một ông vua mà sự xa hoa của ông ta sẽ tiêu dùng các tài sản dư thừa.
Trái lại, các quốc gia lạnh tạo ra số lượng thặng dư khiêm tốn vì vậy nên có dạng chính
quyền dân chủ.
Không thể quyết định dạng chính phủ nào là lý tưởng mà không biết về điều kiện cụ thể
của quốc gia. Tuy nhiên, Rousseau cung cấp một biện pháp đánh giá sự hữu hiệu của
13
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
chính phủ. Khi dân số tăng có nghĩa là chính quyền thúc đẩy sự thịnh vượng của các
thành viên của nó. Rousseau khẳng định nếu chính phủ mà làm cho“dân chúng trở nên
đông đúc thì tuyệt đối là chính quyền tốt nhất”.
Phân tích
Dù Rousseau ca ngợi sự tự do dân sự trong suất tác phẩm Khế ước xã hội, nhưng ông
khẳng định là không phải tất cả mọi người có thể đạt được nó. Một dân tộc có thể hình
thành một xã hội tự do hay không là phụ thuộc vào nguồn lực tự nhiên của họ. Khí hậu
ảnh hưởng nhiều đến sản lượng của quốc gia và do đó quyết định liệu nó phù hợp với chế
độ dã man hay chế độ chuyên chế, hay chế độ chính trị tốt. Ảnh hưởng mà khí hậu
khuyến khích hay ngăn cản sự tự do tạo ra một sự căng thẳng gia tăng trong tác phẩm của
Rousseau. Theo Rousseau, bằng cách trao đổi sự tự do tự nhiên cho tự do dân sự, con
người có một cái nhìn về đạo đức. Tuy nhiên, bởi vì ông cho rằng khí hậu có thể ngăn
cản sự tự do, nên ông muốn ám chỉ là một dân tộc nào đó sẽ không thể cư xử đạo đức do
khu vực địa lý của họ.
Sự phân tích về khí hậu và chính phủ dựa trên sự luôn chuyển thuế trong một xã hội.
Trong xã hội dân chủ, thuế nhanh chóng được đưa lại cho người dân dưới dạng chi tiêu
của chính phủ. Do đó, dân chủ đè nặng lên người dân ít nhất dù có rất nhiều quan lại.
Trái lại, trong nền quân chủ người dân phải chịu đè nặng nhất vì sự luôn chuyển chậm
và rất ít được trở lại với người dân thông qua chi tiêu của chính phủ.
Do vậy, Rousseau lập luận rằng dạng chính phủ của một quốc gia phải phù hợp với các
khả năng sản xuất của nó. Có lẽ việc nói lên điểm yếu của lý thuyết của mình, ông không
chấp nhận cho nó bị bác bỏ. Ông khẳng định rằng, ngay cả khu vực nóng cũng có các
nền dân chủ, và lạnh cũng có quân chủ, thì sự kiện này không bác bỏ lý thuyết. Nó chỉ
cho thấy là các nhân tố khác thay thế khí hậu quyết định chính phủ của quốc gia.
Dù Rousseau tuyên bố là sự gia tăng dân số là thước đo tốt nhất khi phân tích năng lực
của chính phủ, nhưng ông không đưa ra lý do đầy đủ tại sao lại như vậy. Có vô số ví dụ
về quốc gia mà được quản lý yếu kém tuy nhiên dân số vẫn tăng. Có lẽ quyết định sử
dụng dân số như là một chỉ dẫn về chính quyền tốt bắt nguồn từ ước muốn thúc đẩy nông
nghiệp của ông.
Sự tăng dân số chỉ có thể xảy ra nếu có một sự gia tăng tương ứng về sản lượng nông
nghiệp. Nhà nước khuyến khích mở mang nông nghiệp, và có dân số phân bố trên khắp
lãnh thổ. Trái lại, nhà nước nào không quan tâm đến nông nghiệp khiến tụt giảm dân số,
vốn chỉ tập trung trong các thành phố. Điều quan trọng là, Rousseau không chấp nhận
đời sống đô thị, và tin rằng nó thúc đấy sự lười nhác và xa hoa.
Quyển III, Chương X-XIV
Tóm tắt
Giống như ý chí riêng của một cá nhân, quan tâm của chính phủ có xu hướng đi đến đối
lập với ý chí chung. Từ đầu, Rousseau đã khẳng định rằng nếu không có tình trạng phe
phái trong một quốc gia, thì các lợi ích xung đột của mỗi cá nhân sẽ triệt tiêu lẫn nhau và
vì vậy xấp xỉ ý chí chung. Trong trường hợp của chính phủ, không có một thực thể tương
14
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
tự để đối lập với ý chí tập thể và tạo ra sự cân bằng. Do đó, ngay cả trong các quốc gia
được xây dựng tốt nhất, thì các lợi ích của chính phủ cuối cùng sẽ đối lập với quyền tối
cao.
Sự giả thể quốc gia có thể xảy ra theo hai cách. Thứ nhất, vua không tuân theo luật pháp
và chiếm đoạt quyền tối cao của người dân. Khi điều này xảy ra, khế ước xã hội bị phá
vỡ và người dân bị bắt buộc – hơn là ràng buộc về mặt đạo đức – để tuân theo chính phủ
của họ. Cách thứ hai mà quốc gia có thể bị giải tán là khi một số thành viên nào đó của
chính phủ chiếm đoạt quyền lực mà họ nên thực thi như là cơ thể tập thể. Bởi vì sự căng
thẳng này giữa chính phủ và quyền tối cao, nên không quốc gia nào có thể tồn tại mãi
mãi. Rousseau than vãn rằng nếu cả Sparta và Roma xụp đổ, thì không quốc gia hiện đại
nào có thể làm tốt hơn. Giống như cơ thể con người, quốc gia bắt đầu chết ngay khi nó
sinh ra. Tuy nhiên, một sự tổ chức tốt có kể kéo dài sự sống của quốc gia. Quá trình lập
pháp nằm ở trái tim của quốc gia, và bao lâu nó còn duy trì, thì quyền tối cao phổ thông
được duy trì.
Bởi vì chỉ quyền tối cao có quyền lập pháp và luật là một sự đạt của ý chí chung, dẫn
đến là thực thể chính trị chỉ có thể hoạt động khi người dân hội họp. Dù Rousseau thừa
nhận rằng sự tập hợp toàn bộ dân chúng là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng ông đưa ra ví
dụ về Rome cổ đại để cho thấy là điều đó không phải là không thể. Dù có một kích thước
đáng kể, Cộng hòa Roma tổ chức các buổi họp cộng đồng ít nhất một lần trong vài tuần.
Trong mỗi quốc gia, nên có các buổi họp định kì để ngăn chặn chính phủ chiếm đoạt
quyền tối cao của nhân dân. Tuy nhiên, những buổi họp này nên xảy ra ở những ngày đã
quy định bởi vì quyền hội họp bắt nguồn từ luật pháp. Số lượng buổi hội họp cộng đồng
nên phụ thuộc vào hoàn cảnh quốc gia. Nhìn chung, khi chính phủ có nhiều quyền lực
hơn, thì người dân nên hội họp thường xuyên hơn để đảm bảo quyền tối cao của họ.
Khi người dân hội họp, quyền hành pháp bị đình chỉ. Điều này là vì chính phủ phục vụ
như là một trung gian giữa người dân và quyền tối cao, và chịu trách nhiệm thi hành ý
chí chung. Tuy nhiên, khi người dân hội họp, thì nhu cầu trung gian không còn nữa. Ở
thời điểm khi quyền hành pháp bị đình chỉ các nhà lãnh đạo chính trị sẽ cảm thấy rất khó
chịu, phiền toái. Trong suốt lịch sử, họ cố gắng để bảo vệ lợi ích riêng tư của mình bằng
cách ngăn cả các cuộc họp cộng đồng.
Phân tích
Rousseau cung cấp một sự phân tích sâu sắc vào sự căng thẳng giữa chính phủ và quyền
tối cao. Về bản chất, ông tuyên bố rằng người dân thực thi quyền tối cao trong mọi quốc
gia ở mọi lúc. Tuy nhiên, chính phủ lạm dụng quyền lực mà người dân trao cho nó, và
tuyên bố quyền tối cao thuộc về chính nó.
Trong Khế ước xã hội, Rousseau cố gắng hết sức để tách rời quyền lập pháp và hành
pháp. Tuy nhiên, sự tách rời này không tồn tại trong thực tế. Trong Quyển III, Rousseau
thừa nhận là các chính phủ sẽ luôn luôn vượt qua các giới hạn đã được quy định đối với
nó. Do đó, mọi quốc gia đối mặt với một vấn đề không thể tránh được: quốc gia phải có
quyền hành pháp để thi hành ý chí chung, nhưng xu hướng tự nhiên của chính phủ là
chiếm đoạt quyền tối cao của nhân dân. Trong các buổi hội họp cộng đồng, các thành
viên của cơ thể chính trị có thể tuyên bố họ chấp nhận tình trạng hiện tại hay không và
15
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
chính phủ hiện tại có phụ vụ tốt nhất lợi ích chung hay không. Những buổi hội họp phải
xảy ra định kì để đảm bảo cho thực thể hành pháp được kiểm soát. Do vậy sẽ là không
đủ khi người dân thảo ra một hiến pháp và cho phép quốc gia vận hành mà không có sự
đồng thuận liên tục với nó.
Điều quan trong đó là, Rousseau khẳng định rằng sự tự do không dễ để duy trì. Để bảo
vệ chính họ khỏi chính phủ và thúc đẩy sự lành mạnh của quốc gia, người dân phải có
một sự tôn trọng sâu sắc cho các bổn phận dân sự của họ. Dù việc tụ tập tất cả các thành
viên của quốc gia là một việc khó khăn, nhưng Rousseau tin tưởng một cách chắc chắn
rằng điều đó là có thể. Một ví dụ điển hình mà ông trích dẫn đó là Roma cổ đại, họ tổ
chức các buổi họp định kì dù thành phố có hàng nghìn cư dân. Do đó, trong phần thảo
luận về chính quyền, Rousseau ca ngợi đạo đức dân sự và chỉ trích sự lười biếng. Như
Rousseau lập luận trong các chương sau của Quyển III, khi người dân không thi hành
cam kết của họ như là công dân, thì họ đang hi sinh sự tự do dân sự của mình.
Quyển III, Chương XV-XVIII
Tóm tắt
Khi người dân không còn quan tâm đến lợi ích chung và trả tiền cho người khác thi hành
nghĩa vụ dân sự của họ, thì quốc gia đứng bên bờ vực tiêu vong. Khi quốc gia giàu mạnh,
thì người dân sẽ đặt ý chí chung bên trên lợi ích riêng của mình và vui vẻ hoàn thành các
nghĩa vụ dân sự của mình. Rousseau khẳng định việc sử dụng tiền để lảng tránh trách
nhiệm sẽ phá hủy sự tự do dân sự. Ông cũng không chấp nhận sự nhờ cậy vào người đại
diện để thể hiện ý chí chung. Quyền tối cao không thể được đại diện cho với lý do giống
như nó không thể bị chuyển nhượng: nó hoặc diễn đạt ý chí của người dân xét như một
tổng thể, hoặc nó không như vậy. Do đó, Rousseau khẳng định là người Anh và các dân
tộc khác trong nền dân chủ đại diện không thực sự tự do dù họ có thể tin rằng họ tự do –
họ chỉ tự trong trong các cuộc bầu cử. Tất cả luật pháp phải được người dân xét như
tổng thể phê chuẩn mới được xem là hợp pháp.
Dù Rousseau thảo luận chủ đề này mở một chương trước, nhưng ông nhấn mạnh một lần
nữa niềm tin của ông là sự thiết lập chính phủ không tạo ra một khế ước giữa người dân
và lãnh đạo của họ. Thứ nhất, quyền tối cao, theo định nghĩa, luôn luôn có thẩm quyền
tối cao trong quốc gia. Do đó, quyền tối cao không thể bị đè nén bởi chính phủ. Thứ hai,
một khế ước giữa người dân và lãnh đạo của họ là một hành động cụ thể và không phải là
một luật. Do đó, khế ước này có thể là bất hợp pháp và nếu không thì nó phải được quản
lý bởi một sức mạnh cao hơn (vô lý vì không có quyền lực nào cao hơn quyền tối cao).
Nếu quan hệ giữa chính phủ và người dân không phải là một khế ước, thì chính phủ
được thiết lập như thế nào? Thứ nhất, quyền tối cao quyết định rằng sẽ có một thực thể
quản lý, và hành động này là một luật. Thứ hai, quyền tối cao chỉ định những người cụ
thể vào chính phủ. Bởi vì hành động thứ hai đơn thuần là một sự áp dụng của luật, nó
thực sự là một hành động của chính phủ và không thuộc thẩm quyền lập pháp. Do đó vấn
đề nảy sinh là làm sao mà một hành động của chính phủ lại có thể được thi hành khi
chính phủ được tạo ra. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, Rousseau khẳng định rằng quyền
tối cao tạm thời nắm quyền hành pháp để thiết lập chính phủ.
16
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Bây giời Rousseau quay lại vấn đề làm thế nào để ngăn chặn chính phủ khỏi chiếm đoạt
quyền tối cao. Lời giải của ông là các cuộc hội họp cộng đồng để đánh giá cộng việc của
chính phủ. Khi người dân hội họp định kì, thì họ có trách nhiệm trả lời hai câu hỏi. Thứ
nhất, họ có chấp thuận dạng chính phủ hiện tại hay không? Thứ hai, họ có chấp thuận các
quan chức chính phủ hiện tại hay không?
Phân tích
Rousseau hoàn toàn không chấp nhận việc sử dụng tiền để lẩn tránh trách nhiệm dân sự.
Ông tin rằng một khi các công dân sử dụng tiền để thực thi các nghĩa vụ của họ với quốc
gia (ví dụ, trả cho những kẻ hám lợi thay mình phục vụ quân đội), thì họ đang đánh mất
sự tự do của mình. Rousseau tán thành các luận điểm được trình bày trong tác phẩm
Luận văn thứ hai. Việc sử dụng tiền làm xói mòn sự bình đẳng của quốc gia và phá hoại
tính thiêng liêng của khế ước xã hội. Rõ ràng là Rousseau có vô số sự phản bác đối với
nền dân chủ Mỹ, vốn ủng hộ sự đóng góp tài chính thay cho sự tham dự chính trị trực
tiếp. Đối với Rousseau, với việc viết một tấm séc cho một tổ chức hay ứng viên là không
đủ để thi hành các nghĩa vụ của công dân. Một khi người dân sử dụng tiên để né tránh
các bổn phẩn của mình, thì chính quốc gia có thể bị bán.
Rousseau cũng không chấp nhận sự nhờ cậy vào người đại diện để diễn đạt ý chí chung.
Quyền tối cao không thể được đại diện với lý do tương tựu lý do nó không thể bị chuyển
nhượng. Bất cứ luật nào yêu cầu sự chấp thuận của toàn thể dân chung trước khi nó có
hiệu lực. Theo Rousseau, các nền dân chủ hiện đại như anh và Mỹ chỉ tự do khi họ lựa
chọn người đại diện của họ.
Rousseau tin rằng trong một quốc gia tốt, người dân sẽ đặt công việc chung lên trước lợi
ích cá nhân. Người dân sẽ tham gia các buổi hội họp và sẵn sàng chấp nhận các bổn phận
công dân của họ, cũng như tòng quân khi cần thiết. Ngày nay, có rất ít chính phủ đáp ứng
được các tiêu chuẩn quá cao của Rousseau. Dường như sẽ là thú vị khi xem xét liệu
Rousseau có thay đổi lý thuyết chính trị của mình để phù hợp với xu hướng chính trị hiện
đại hay không.
Ở đây, Rousseau nhấn mạnh lại một lần nữa niềm tin của ông là sự thiết lập chính phủ
không phải là khế ước giữa người dân và pháp quan. Thứ nhất, bởi vì quyền tối cao có
thẩm quyền tối cao trong quốc gia, nó không bị buộc phải tuân theo chính phủ. Thứ hai,
khế ước giữa người dân và chính phủ là một hành động cụ thể, và vì vậy nằm ngoài
phạm vi của luật. Nếu người dân được coi như là một thực thể và chính phủ là một thực
thể khác, thì một khế ước giữa họ sẽ chỉ phục tùng các luật của tự nhiên và các sức mạnh
cao hơn – nhưng chúng đã được tuyên bố là bất hợp pháp.
Tóm lại, Rousseau nhấn mạnh rằng quyền tối cao phải nằm trong tay người dân.
Niềm tin này ngăn cản ông thấy mối quan hệ giữa người dân và chính quyền là một khế
ước. Không như những triết gia như Hobbes và Grotius, những người tước bỏ quyền của
người dân và trao cho cơ quan hành pháp, Rousseau khẳng định rằng chính phủ chịu
trách nhiệm trước quyền tối cao.
17
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Nguồn: />Người dịch: Mr. Minh
Quyển IV, Chương I-IV
Tóm tắt
Chừng nào cá nhân xem họ là một phần của một cơ thể tập thể đơn nhất, thì quốc gia sẽ
mạnh và sẽ cần có ít luật lệ. Quốc gia sẽ thụ hưởng hòa bình, thống nhất, và bình đẳng.
Khi luật mới cần được thi hành, mọi người sẽ biết luật nào là thích hợp và phê chuẩn luật
đó với một ý thức tốt. Quốc gia đánh mất sự nhất trí này khi ý chí riêng thách thức lợi
ích chung. Một lúc nào đó, không ai còn cảm thấy bất cứ nghĩa vụ xã hội nào, và mọi
người chỉ còn theo đuổi lợi ích riêng. Tuy nhiên, hoàn cảnh này không có nghĩa là ý chí
chung đã bị phá hủy. Mặc dù lợi ích chung vẫn tồn tại, nhưng nó không quan trọng bằng
ý chí cá nhân. Khi quốc gia đang trong giai đoạn đi xuống, thì công dân sử dụng quyền
bỏ phiếu của mình để làm lợi cho các cá nhân và đảng phái cụ thể hơn là cho quốc gia
như một tổng thể. Do đó, Rousseau khẳng định là hành vi của công dân trong một hội
đồng sẽ cho biết tình hình của cơ thể chính trị. Dù có một số ngoại lệ, nhưng các cuộc
tranh luận dài, gay gắt cho thấy sự thiếu kết dính xã hội và dấu hiệu của sự đi xuống của
nhà nước. Sự nhất trí cho thấy người dân chia sẻ các giá trị và một ước muốn chung để
thúc đẩy lợi ích chung.
Chỉ có duy nhất một luật mà yêu cầu sự đồng thuận tuyệt đối của tất cả công dân, và đó
là khế ước xã hội. Bởi vì mọi người sinh ra tự do, không ai có thể buộc anh ta phục tùng
sự phán quyết của nhà nước mà không có sự đồng thuận của anh ta. Do đó, những người
phản đối khế ước xã hội có quyền không tham gia vào trong nó. Tuy nhiên, sau khi nhà
nước được hình thành, sự cư trú hàm ý sự đồng thuận.
Ngoài khế ước xã hội ra thì luật đa số sẽ chiếm ưu thế. Người ta có thể hỏi, nếu như vậy
“Làm thế nào mà các công dân tự do có thể tự do, khi họ bị buộc tuân theo luật pháp mà
không có sự chấp thuận của họ”. Luật pháp luôn luôn đồng nghĩa với ý chí chung, và khi
một người bỏ phiếu, thì anh ta phán quyết liệu luật đó có phù hợp với chí chung hay
không. Anh ta không bỏ phiếu vì anh ta đồng ý hay không đồng ý với luật, nhưng mà vì
nó có thúc đẩy lợi ích chung hay không. Do đó, khi một người bỏ phiếu chống lại một
luật mà nó đã được thông qua, thì điều đó chỉ đơn giản cho thấy anh ta đã sai khi đánh
giá ý chí chung.
Quyền tối cao có quyền quyết định tỷ lệ đa số cần thiết để phê chuẩn luật pháp. Vì đối
với các quyết định quan trọng, Rousseau cho rằng phần trăm người dân cần để thông qua
luật sẽ phải gần với 100%. Đối với các hoàn cảnh đòi hỏi các hành động trực tiếp, một đa
số đơn thuần là đủ.
Trong chương III, Rousseau nói về sự bầu chọn các quan chức chính phủ, và liệu nó nên
được thực hiện bằng cách chọn lựa hay bằng rút thăm. Dù lý do của ông là khá khác,
Rousseau đồng ý với Montesquieu rằng trong một nền dân chủ, bầu cử cần được thực
hiện bằng cách rút thăm. Ông cho rằng trở thành một phần của chính quyền là một trách
nhiệm lớn lao, nó không thể áp đặt lên ai đó một cách công bằng ngoại trừ bằng cách
ngẫu nhiên. Lý do này phù hợp với luận điểm trước đó của ông về tính phổ quát của luật.
18
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Bởi vì Rousseau thấy việc trở thành một viên chức như là một gánh nặng, nên nhà nước
chỉ có thể lựa chọn quan chức bắng cách ngẫu nhiên. Trong các nhà nước mà các cuộc
bầu cử được thực hiện cả bằng lựa chọn và rút thăm, các công dân sẽ lựa chọn người
bằng cách lựa chọn khi vị trí đòi hỏi tài năng đặc biệt. Các vị trí mà đòi hỏi phải có một ý
thức tốt và đạo đức (như quan tòa) nên được lựa chọn bằng cách bỏ phiếu kín, bởi vì
những phẩm chất này là phổ biến ở mọi người trong một nhà nước tốt đẹp.
Phân tích
Dù Rousseau nhấn mạnh là ý chí chung vẫn tồn tại trong một nhà nước trái đạo đức, tuy
nhiên rất khó để nhận thấy ý chí chung là gì hay điều gì là quan trọng trong hoàn cảnh
như vậy. Rốt cuộc, liệu thực sự có một lợi ích chung giữa những người mà họ tin rằng
mình không có các mối quan hệ chung hay lợi ích tương hỗ? Liệu sự chấp thuận ban đầu
đối với một khế ước xã hội có đủ để đảm bảo đời sống vĩnh cửu của ý chí chung? Nếu
mọi người có thể hủy bỏ khế ước xã hội, thì tất yếu kéo theo là họ cũng có thể hủy bỏ ý
chí chung.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là khi mọi người tham gia vào một khế ước xã hội, họ
đồng ý với phương tiện của quá trình lập pháp – chứ không phải là mục đích của nó. Bao
lâu mà luật được làm ra theo cách hợp pháp, thì thiểu số bị buộc phải tuân theo chúng.
Ngoài ra, khi bỏ phiếu, một người không quyết định liệu một luật cụ thể có mang lại lợi
ích cho anh ta hay không, mà đúng hơn là hay liệu bộ luật có phù hợp với ý chí chung
hay không. Nếu anh ta bỏ phiếu chống lại một luật nhưng nó đã được thông qua, điều
này giải thích rằng anh ta đơn giản là không chính xác khi đánh giá ý chí chung.
Bằng cách đặt cở sở của nghĩa vụ pháp trên ý chí chung, Rousseau thảo mãn điều kiện
thứ hai của chính thể hợp pháp; đó là tuân theo luật pháp, cá nhân tuân theo chính anh
ta. Chắc chắn không thể có được là mọi luật đều có được sự chấp thuận 100%, nhưng
điều này không có nghĩa là một người nào đó mất đi sự tự do. Bao lâu mọi người đồng ý
với khế ước xã hội, họ có một nghĩa vụ đạo đức tuân theo điều mà bắt nguồn từ nó.
Ngoài ra, thiểu số bị buộc tuôn theo luật để đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người. Ngày
từ đầu trong Khế ước xã hội, Rousseau khẳng định là sự tự do không thể tồn tại mà
không có bình đẳng. Nếu thiểu số tuyên bố là nó không phải tuân theo luật, thì nó đang
tuyên bố là một cá nhân miễn khỏi một nghĩa vụ chung. Khái niệm chính của luật là tính
phổ quát của nó. Việc ban hành luật phải xem xét toàn thể dân chúng, và nó phải ảnh
hưởng đến toàn thể dân số.
Cuối cùng, Rousseau cho rằng bầu cử trong một nền dân chủ xảy ra bằng cách bỏ phiếu
kín. Điều thú vị là Rousseau xem việc trở thành một viên chức chính quyền là một gánh
nặng và không phải là một đặc lợi. Bởi vì pháp quan phải có tránh nhiệm lớn, anh ta tin
rằng phương pháp bầu cử hợp pháp và công bằng chỉ có thể là bỏ phiếu kín. Ngoài ra,
trong một nền dân chủ đúng đắn, tục lệ và tài năng gần như giống nhau, và bầu cử bằng
bỏ phiếu kín sẽ không ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo. Tuy nhiên, Rousseau thừa
nhận là một nền dân chủ đúng đắn như vậy không thể tồn tại.
Quyển IV, Chương V-IX
Tóm tắt
19
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Rousseau tạo ra một thực thể đặc biệt được gọi là "tribunate" để duy trì các quyền lực
của quyền tối cao và của chính quyền, đồng thời ngăn chặn chúng xung đột với nhau.
Tribunate sẽ duy trì luật pháp và bảo vệ quyền lực lập pháp. Tuy nhiên, tribunate không
là một phần của thể chế và do đó sẽ không thực thi quyền lập pháp hay hành pháp.
Rousseau cho rằng dù tribunate không thể làm bất cứ điều gì, nhưng nó có thể ngăn chặn
mọi thứ, và do đó có thể nhiều quyền lực. Ngoài ra, ông cho rằng một tribunate tốt là
phương tiện hiệu quả nhất để duy trì thể chế. Vấn đề chính với tribunate là nó có thể trở
nên quá mạnh để có thể kiểm soát. Một cách để ngăn chặn điều này khỏi xảy ra là quy
định các thành viên của tribunate có một nhiệm kì cố định và ngắn hạn.
Đôi khi sự cứng nhắc của luật pháp có thể ngăn chặn nhà nước không thể đối phó với
một cuộc khủng hoảng. Khi nhà nước phải hành động nhanh chóng, sự chậm chạp cố hữu
của các thủ tục hình thức có thể có hại. Do đó, trong các trường hợp khẩn cấp liên quan
đến vấn đề an toàn của cộng đồng, luật pháp có thể bị đình chỉ và quyền lực có thể trao
cho một nhà độc tài để phục vụ nhà nước. Rousseau cho rằng ý chí chung vẫn có thể
được bảo vệ bên dưới dạng độc tài này bởi vì quan tâm chính của nhà nước là sự bảo tồn
của chính nó. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đặt các giới hạn về thời gian mà nhà
đôc tài nắm giữ quyền lực. Sau khi hết giới hạn này, nhà độc tài hoặc trở thành chuyên
chế hoặc không còn cần thiết.
Bây giờ Rousseau chuyển sự chú ý của ông tới tôn giáo dân sự, một trong những vấn đề
tranh cãi nhất được giải quyết trong Bàn về khế ước xã hội. Ông cho rằng trước tiên
người dân nghĩ về các vị thần như là các lãnh đạo chính trị của họ, và tất cả các chính
quyền mang mầu sắc chính trị thần quyền. Sự phân chia quốc gia dẫn đến thuyết đa thần,
bởi vì các quốc gia mâu thuẫn không thể chia sẽ chung lãnh đạo. Một lần nữa, thuyết đa
thần mang lại một sự khoan dung tôn giáo và khoan dung dân sự. Ki tô giáo thay đổi sự
tổ chức của quốc gia bằng cách thúc đẩy ý tưởng về vương quốc tinh thần tách rời với bất
cứ hệ thống chính trị nào. Do vậy nó phân chia các khía cạnh quản lý của quốc gia khỏi
thần học, và tạo ra nguồn gốc của sự xung đột giữa các quốc gia ki tô giáo.
Dựa vào những ảnh hưởng này của nó đối với nhà nước, Rousseau mô tả ba dạng tôn
giáo. Thứ nhất đó là “tôn giáo của con người”, vốn kết nối cá nhân với thần thánh và
theo sau lời dạy của thần thánh. Rousseau ủng hộ tôn giáo này trên phương diện trừu
tượng nhưng tin răng nó có hại với nhà nước. Ví dụ, những người Ki tô giáo mộ đạo sẽ
làm tròn bổn phận của họ đối với nhà nước, nhưng họ sẽ làm như vậy mà không có sự
nhiệt tình bởi vì họ coi sự cứu rỗi tinh thần quan trọng hơn sự thành công thế tục. Trong
một cuộc chiến, một hoàn cảnh mà lòng đam mê cho chiến thắng là một điều kiện thiết
yếu, Rousseau cho rằng đội quân Ki tô giáo sẽ bị nghiền nát. Dạng thứ hai kết hợp các
khía cạnh tôn giáo và quản lý của nhà nước, và là dạng tôn giáo mà mọi người có trước
Kito giáo. Trong nhà nước mà theo sau tôn giáo này, tình yêu thượng đế củng cố tình yêu
của họ với luật pháp và cá nhân tuân theo nhà nước với một sự hăng hái cuồng tín. Tuy
nhiên, tôn giáo này cũng thúc đẩy sự không khoan dung. Dạng thứ ba của tôn giáo là
dạng, giống như Kito giáo, phân chia nhà thờ và nhà nước. Rousseau hoàn toàn không
chấp thuận dạng tôn giáo này, bởi vì nó mang đến cho cá nhân các bổn phận mâu thuẫn
và buộc họ ưu tiên hoặc tôn giáo của họ hoặc trách nhiệm công dân của họ.
Rousseau giới thiệu một sự kết hợp hai dạng đầu tiên của tôn giáo trong một xã hội lý
tưởng. Mỗi cá nhân tự do có niềm tin tôn giáo của mình, bởi vì quyền tối cao chỉ có thể
20
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
điều tiết các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích chung. Tuy nhiên, Rousseau cho rằng có một
số niềm tin mà mỗi cá nhân phải có để trở thành một người tốt. Dù quyền tối cao không
thể bắt ai đó chấp nhận những niềm tin này, nó thể thể trục xuất khỏi nhà nước bất cứ ai
không có chúng. Những niềm tin này bao gồm một tôn giáo dân sự mà Rousseau tin mọi
công dân phải tuân theo. Nhìn chung, các công dân phải tin vào thượng đế, sự tồn tại của
đời sống sau khi chết, và sự linh thiêng của khế ước xã hội. Các công dân cũng phải tin
vào sự công bằng và không chấp nhận sự không khoan dung.
Phân tích
Trong phần này, Rousseau thảo luận một số vấn đề gây tranh cãi nhất trong Khế ước xã
hội: độc tài, kiểm duyệt, và tôn giáo dân sự. Bởi vì Rousseau ủng hộ cả ba, nên nhiều
nhà hàn lâm tuyên bố là ông phản đối sự tự do cá nhân và ủng hộ nhà nước toàn trị. Tuy
nhiên, sự phản đối này có thể hơi quá. Rousseau có những lý do gây tranh cãi cho việc
ủng hộ những điều mà có thể trở thành sự giới hạn đối với sự tự do cá nhân. Rousseau
khẳng định rằng trong thời điểm khủng hoảng, luật có thể cần bị đình chỉ, và một nhà
độc tài phải nắm quyền lực. Khẳng định này mâu thuẫn với luận điểm trước đó của ông
là quyền tối cao là không thể chuyển nhượng. Vì nhà độc tài sẽ bảo vệ nhà nước, anh ta
phải ngừng sự làm luật và làm điều gì anh ta tin là tốt nhất cho quốc gia. Dù Rousseau
mâu thuẫn với yêu sách trước đó của ông về quyền tối cao, nhưng ông khẳng định là sự
bảo vệ quốc gia là mối quan tâm quan trọng nhất. Cuộc sống phải được bảo vệ - dù điều
đó gây nguy hiểm cho khế ước xã hội.
Mặc dù có vẻ mâu thuẫn khi Rousseau có thể chấp nhận sự độc tài, nhưng nhiều dẫn
chứng cho thấy ông không xem độc tài theo nghĩa mà chúng ta xem ngày nay. Theo
Rousseau, các nhà độc tài La mã cảm thấy gánh nặng trách nhiệm và nhanh chóng giải
phóng họ khỏi những vị trí này ngay khi có thể. Do đó, Rousseau thừa nhân là đối với
hầu hết mọi người, trở thành một nhà độc tài là một trách nhiệm không mong muốn hơn
là một cơ hội để theo đuổi lợi ích cá nhân.
Tiếp theo, Rousseau nói đến sự kiểm duyệt, điều mà ông tin có thể duy trì đạo đức công.
Cũng như luật pháp diễn đạt ý chí chung, sự kiểm duyệt diễn đạt quan điểm cộng đồng.
Với việc nhấn mạnh các luận điểm trước đó trong Quyền II, ông khẳng định là quan điểm
cộng đồng hình thành cơ sở cho đạo đức của công dân. Người dân luôn luôn yêu điều gì
tốt, nhưng quyết định điều gì tốt hay xấu là một vấn đề của phán đoán cộng đồng. Do đó,
Rousseau cho rằng đạo đức có thể được cải cách bằng cách thay đổi các quan điểm. Sự
kiểm duyệt là cần thiết để bảo vệ đạo đức bằng cách ngăn chặn sự suy thoái của quan
điểm cộng đồng.
Rousseua kết thúc Bàn về khế ước xã hội bằng cách thiết lập một tập hợp các niềm tin
mà mọi công dân phải chia sẻ, được ông gọi là “tôn giáo dân sự”. Những người phê
phán Rousseau cho rằng các ý tưởng của ông về tôn giáo dân sự tấn công sự tự do cá
nhân và đặt nền tảng cho chủ nghĩa toàn trị. Theo nhiều cách, tín ngưỡng dân sự là một
sự thêm vào gây nhiều bối rối của tác phẩm Khế ước xã hội, đặc biệt là với ước muốn
bảo vệ tự do cá nhân được phát biểu trong các chương trước đó. Nó thúc đẩy một sự thần
thánh hóa quốc gia và mang đến cho quyền tối cao quyền lực để kiểm soát mọi niềm tin
của công dân.
21
Tóm tắt tác phẩm Khế ước xã hội
Mặc dù nhiều nhà hàn lâm xem tín ngưỡng dân sự là một ý tưởng không cần thiết, gây
khó chịu cho tác phẩm Khế ước xã hội, tuy nhiên Rousseau dùng nó để giải quyết vấn đề
nhà thờ - nhà nước. Rousseau tin rằng sự tách rời nhà thời và nhà nước do Kito giáo tạo
ra mang đến một tình thế lưỡng lan lớn. Sự tách rời đó làm cho con người có nhiều bổ
phận mâu thuẫn, và đó là không thể cùng lúc trở thành một Kito hữu ngoan đạo và một
công dân tốt. Tín ngưỡng dân sự giải quyết vấn đề ày bằng cách thiết lập lại sự thống
nhất tôn giáo và đạo đức trong nhà nước. Do đó, Rousseau dự định tôn giáo dân sự cho
các nhà nước mà thần học và chính trị tách rời và các giáo hội cạnh tranh tranh giành tín
đồ. Trong các xã hội tiền Kito giáo, không có nhu cầu quy định mọi người phải tin vào
thượng đế bởi vì tất cả mọi nhà nước có nền chính trị thần quyền. Dù cho các lợi ích của
tôn giáo dân sự, nhưng việc trục xuất những người bất đồng khỏi quốc gia làm cho độc
giả đương đại bối rối, vì dẫn đến mở cho chính quyền thao túng tín ngưỡng dân sự và
chuyên chế đối với xã hội.
Nhóm Khai Minh
Khai Minh chia sẻ những giá trị văn hóa tinh hoa nhằm thúc đẩy và phát triển văn hóa
Việt. Khai Minh sở hữu các bài viết được viết, biên dịch bởi các thành viên trong nhóm.
Bất cứ cá nhân, tổ chức nào sử dụng bài viết từ đây đều cần trích nguồn.
22