Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Giao trinh lịch sử triết học căn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.2 KB, 138 trang )

Chơng 1
I. Những vấn đề chung về triết học

1. Khái niệm triết học
Triết học là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ khi xã hội phân
chia giai cấp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Triết
học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI tr.CN với những
học thuyết triết học đầu tiên trong lịch sử ở ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ
đại, Hylạp và LaMã cổ đại.
Nghĩa xuất phát của thuật ngữ "triết học" theo tiếng Hán là "triết"- có
nghĩa là trí, bao hàm sự hiểu biết, sự nhận thức sâu rộng và đạo lý.
Thuật ngữ "triết học" nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là philossophianghĩa là "yêu thích sự thông thái". Theo nghĩa đó, triết học là hình thái cao
nhất của tri thức. Nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân
lý, làm sáng tỏ bản chất của mọi sự vật.
Nh vậy, tất cả các khái niệm gốc cổ xa về triết học, nói lên triết học
bao gồm toàn bộ tri thức lí luận của nhân loại. Thực chất là cha xác định rõ
và đầy đủ về đối tợng, nhiệm vụ và nội dung của triết học.
Hiện nay, theo quan điểm mácxít, với tính cách là một hình thái ý thức
xã hội, triết học là hình thức đặc thù của t duy bao gồm các học thuyết, học
phái phản ánh thế giới bằng một hệ thống lí luận thông qua các khái niệm,
phạm trù, quy luật. Trong lịch sử t tởng triết học đã xuất hiện các học
thuyết triết học nh: triết học ấn Độ, triết học Trung Quốc, triết học Hy LạpLaMã... hay học thuyết bản thể (bản thể luận), học thuyết nhận thức (nhận
thức luận), học thuyết đạo đức (đạo đức học), mỹ học, lôgíc học... Lịch sử
triết học cũng đã xuất hiện các học phái triết học nh: triết học duy vật, triết
học duy tâm, triết học siêu hình, triết học duy vật biện chứng. Trong các
học phái đó có thể có nhiều môn phái khác nhau.
Với t cách là một khoa học, triết học là hệ thống quan điểm lí luận
chung nhất về thế giới và vị trí con ngời trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và t
duy.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri


thức khoa học và phơng pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái
quát cao dựa trên sự trừu tợng hoá và sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc
sống con ngời. Phơng pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới nh
một chỉnh thể và tìm cách đa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể
đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Điều đó chỉ có thể thực
hiện bằng cách triết học phải dựa trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử của
khoa học và lịch sử của bản thân t tởng triết học.
Không phải mọi triết học đều là khoa học. Song các học thuyết triết
học đều có đóng góp ít nhiều, nhất định cho sự hình thành tri thức khoa học
triết học trong lịch sử; là những vòng khâu, những mắt khâu trên "đờng
xoáy ốc" vô tận của lịch sử t tởng triết học nhân loại. Trình độ khoa học của
một học thuyết triết học phụ thuộc vào sự phát triển của đối tợng nghiên
cứu, hệ thống tri thức và hệ thống phơng pháp nghiên cứu.
2. Vấn đề đối tợng của triết học trong lịch sử triết học
Với t cách là một khoa học, triết học có đối tợng nghiên cứu của mình.
Đối tợng của triết học là một vấn đề trong lịch sử triết học từ trớc đến nay
vẫn đang tranh luận. Có cả những câu trả lời khẳng định và phủ định xung
quanh các câu hỏi: triết học có đối tợng hay không? có đối tợng chung của
triết học qua mọi thời đại hay không? có đối tợng chung của triết học duy
vật và triết học duy tâm không? có đối tợng chung của các học thuyết triết
học trong lịch sử không? đối tợng của triết học có khác đối tợng của khoa
học cụ thể hay không và nếu có thì khác nhau nh thế nào?...


Thời cổ đại, do khoa học cha phát triển, nhà triết học chính là nhà
khoa học, nhà bách khoa, thông thái trên các lĩnh vực, triết học bao hàm
toàn bộ tri thức khoa học của nhân loại. Do vậy, triết học là khoa học của
mọi khoa học. Mặc dù các học thuyết triết học đều có các khách thể nghiên
cứu riêng nh: các yếu tố thế giới, nguyên tử, khối lợng, tồn tại, ý niệm .v.v.
song thực chất đối tợng của triết học cha phân biệt đợc với đối tợng của khoa

học cụ thể.
Thời trung cổ, ở Châu Âu tôn giáo ngự trị, thế giới quan duy tâm
tôn giáo thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội, kìm hãm sự phát
triển của các khoa học. Triết học phát triển một cách khó khăn trong
môi trờng hết sức chật hẹp, trở thành "nô bộc" của thần học có nhiệm
vụ giải thích kinh thánh. Các nhà thần học cho rằng tôn giáo và triết
học có điểm chung là đều đi tìm chân lý. Song trí tuệ của Chúa là cao
nhất, chân lý của lòng tin là không cần chứng minh. Triết học là một bộ
phận của thần học.
Thế kỷ XV-XVI, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, đã tạo ra
thời kỳ Phục Hng văn hoá, trong đó có triết học. Đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn, đặc biệt là yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học
chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là
những khoa học độc lập. Sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa; những phát hiện lớn về địa lý và thiên văn; những thành tựu của
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới
cho sự phát triển triết học. Do các khoa học cụ thể phát triển, dần dần tách
khỏi triết học nên ngợc lại triết học dần dần tách khỏi các khoa học cụ thể
và phát triển thành các bộ môn riêng biệt, đó là bản thể luận, nhận thức
luận, lôgíc học, triết học lịch sử, mỹ học, đạo đức học, tâm lý học... Lúc
này xuất hiện t tởng cho rằng các khoa học cụ thể đã là triết học, còn triết
học không có vai trò gì, không cần thiết, không có đối tợng riêng.
Thế kỷ XVII-XVIII và đầu thế kỷ XIX, là thời kỳ cả triết học duy
vật và triết học duy tâm đều phát triển mạnh. Triết học duy vật chủ
nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển
nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
đạt tới những đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII
ở Anh, Pháp, HàLan, với những đại biểu tiêu biểu nh Ph.Bêcơn,
T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiúyt (Pháp), Xpinôda (HàLan)... Các học
thuyết triết học tiêu biểu: triết học tự nhiên, triết học xã hội và đỉnh cao

là triết học nhân bản của Phoiơbắc nửa đầu thế kỷ XIX. Mặt khác, t duy
triết học cũng đợc phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà
đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển
Đức.
Sự phát triển của các khoa học cụ thể đã từng bớc làm mất đi vai trò
của triết học là "khoa học của các khoa học" mà triết học Hêghen là hệ
thống triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Hêghen xem triết học của
ông là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức, trong đó các ngành khoa
học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.
Sự phát triển kinh tế-xã hội và của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn
đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác đã đoạn tuyệt triệt để với
quan niệm "khoa học của khoa học", xác định đợc đối tợng nghiên cứu của
mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trờng duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và t duy. Tuy vậy, nhiều học thuyết triết học hiện đại phơng Tây xác
định đối tợng nghiên cứu riêng của mình nh mô tả những hiện tợng tinh
thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản... Chính vì vậy mà vấn đề triết
học với tính cách là một khoa học và đối tợng của nó đã và đang gây ra
cuộc tranh luận kéo dài trong lịch sử triết học đến nay.
3. Triết học - hạt nhân lí luận của thế giới quan
2


Để tồn tại và phát triển, con ngời phải tìm cách thích nghi và cải tạo
thế giới. Muốn vậy, con ngời cần phải hiểu về thế giới xung quanh và hiểu
bản thân mình. Đặc tính của t duy con ngời là muốn hiểu biết và có khả
năng hiểu biết đến tận cùng, hoàn toàn đầy đủ các vấn đề đó. Song tri thức
mà con ngời và cả loài ngời đạt đợc ở từng giai đoạn lịch sử là có hạn. Do
vậy, quá trình tìm tòi, giải đáp các vấn đề nói trên luôn luôn diễn ra trong
lịch sử, đã hình thành nên những quan niệm nhất định về thế giới và con ngời.
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm về thế giới và về vị trí của

con ngời trong thế giới đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh quan, tức là
toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con ngời và loài ngời. Thế giới
quan là một khối thống nhất hoà quyện những yếu tố cảm xúc và trí tuệ, tri
thức và niềm tin. Tri thức đợc thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống trở thành
niềm tin, lý tởng là trình độ phát triển cao của thế giới quan.
Có các loại hình và hình thức lịch sử của thế giới quan đợc hình thành
từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con ngời và xã hội loài ngời. Tri
thức do các khoa học cụ thể đa lại là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành
những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới. Triết
học tạo nên hệ thống lí luận bao gồm những quan điểm chung nhất về thế
giới nh một chỉnh thể. Do vậy, có thế giới quan khoa học cụ thể và thế giới
quan triết học.
T duy của con ngời vận động và phát triển cùng với quá trình hoạt
động thực tiễn ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp, thông qua cuộc
đấu tranh giữa chân lý và sai lầm. Do vậy, đã hình thành trong lịch sử
thế giới khoa học và thế giới quan phản khoa học. Bên cạnh những quan
niệm đúng đắn về thế giới và vị trí của con ng ời trong thế giới, còn có
những quan niệm sai lầm về các vấn đề đó.
Hình thái biểu hiện tập trung và khái quát thế giới quan của ngời
nguyên thuỷ là huyền thoại. Huyền thoại (bao gồm cả thần thoại) là phơng
thức cảm nhận thế giới rất đặc trng của "t duy nguyên thuỷ", trong đó
các yếu tố tri thức và xúc cảm, lý trí và tín ngỡng, hiện thực và tởng tợng, cái có thật và hoang đờng... hoà quyện vào nhau, diễn tả thế giới
quan của cộng đồng ngời nguyên thuỷ.
Với sự ra đời của tôn giáo, một hình thái lịch sử mới thể hiện tính đa
dạng trong quan niệm về thế giới ra đời, đó là thế giới quan tôn giáo. Thế
giới quan tôn giáo phản ánh hoang đờng về thế giới là một hình thức lịch sử
của thế giới quan đã thâm nhập sâu vào cuộc sống thờng ngày của con ngời.
Với t duy triết học - một phơng thức mới của t duy trong nhận thức thế
giới đợc hình thành, t duy con ngời đạt tới bớc chuyển biến về chất nhờ sự
xuất hiện tầng lớp lao động trí óc trong xã hội cổ đại. Khác với huyền thoại,

triết học diễn tả thế giới quan của con ngời dới dạng một hệ thống các phạm
trù, là các bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Trong thế giới quan
triết học, t duy lí luận là yếu tố chủ đạo, khác với trong huyền thoại, biểu tợng cảm tính là chủ đạo. Với ý nghĩa đó, triết học đợc xem là trình độ tự
giác trong quá trình phát triển của thế giới quan, là khoa học về thế giới
quan. Khác với các khoa học cụ thể, đem lại quan niệm đúng đắn về từng
mặt, từng bộ phận của thế giới, là cơ sở trực tiếp cho thế giới quan triết học,
triết học tạo nên một hệ thống lí luận bao gồm những quan điểm chung nhất
về thế giới nh một chỉnh thể. Nh vậy không phải chỉ có triết học mới là
khoa học về thế giới quan, mà triết học là hạt nhân lí luận của thế giới
quan, là hệ thống các quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và về vị trí
của con ngời trong thế giới đó.
4. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm
Tất cả các hiện tợng trong thế giới chỉ có thể hoặc là hiện tợng vật
chất, tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tợng tinh thần tồn tại
3


trong ý thức chúng ta. Mặc dù các học thuyết triết học đa ra các quan niệm
khác nhau về thế giới thì câu hỏi đặt ra cần trả lời là: Thế giới tồn tại bên
ngoài đầu óc con ngời có quan hệ nh thế nào với thế giới tinh thần tồn tại
trong đầu óc con ngời? t duy của con ngời có khả năng hiểu biết tồn tại thực
của thế giới hay không? Có thể nói, bất kỳ trờng phái triết học nào cũng có
cái chung là phải đề cập đến và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. ở đâu, lúc nào việc nghiên cứu đợc tiến hành không phải bằng những
nét chi tiết, những biểu hiện cụ thể nh các khoa học cụ thể mà đợc thực hiện
một cách khái quát trên bình diện vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức thì
lúc đó t duy triết học đợc bắt đầu.
Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và t duy hay giữa
tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Đây là vấn đề cơ sở, nền

tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại
của triết học. Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản triết học
quyết định sự hình thành thế giới quan và phơng pháp luận của các triết gia,
xác định bản chất của các trờng phái triết học. Giải quyết vấn đề này là cơ
sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời
quyết định cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi:
giữa vật chất và ý thức, giới tự nhiên và tinh thần cái nào có trớc, cái nào có
sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con ngời có khả
năng nhận thức đợc thế giới hay không?
Tuỳ thuộc vào lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, các học thuyết
triết học khác nhau chia thành hai trào lu cơ bản là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới
vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ngời và không
do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc
con ngời; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ thời cổ đại. Hình thái này đã xuất hiện ở nhiều dân tộc
trên thế giới mà tiêu biểu là ở các nớc ấn Độ, Trung quốc và HyLạp, La
Mã. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chất phác, ngây thơ, xuất
phát từ giới tự nhiên để cố giải thích thế giới. Quan điểm đó nói chung là
đúng đắn nhng do khoa học cha phát triển nên triết học cha thể dựa vào
thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành. Do vậy, chủ nghĩa duy
vật cha đứng vững đợc trớc sự tấn công của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo,
đặc biệt trong thời kỳ trung cổ.
Hình thái thứ hai là chủ nghĩa duy vật, máy móc, siêu hình thế kỷ
XVII-XVIII. Hình thái này ra đời khi giai cấp t sản đang lên, nhằm chống
lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Nhng do ảnh hởng của quan điểm máy móc, cơ học và phơng pháp mô tả, thực nghiệm,
chia cắt nên chủ nghĩa duy vật không thoát khỏi quan điểm máy móc, siêu

hình.
Quá trình đấu tranh khắc phục các thiếu sót máy móc, siêu hình và
duy tâm khi xem xét các hiện tợng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII-XVIII cũng đồng thời là quá trình ra đời của hình thái lịch sử thứ
ba là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đ ợc
xây dựng và không ngừng phát triển trên cơ sở khoa học hiện đại và
thực tiễn của thời đại mới.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh
thần có trớc và là cơ sở cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất. Chủ nghĩa
duy tâm cũng xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dới hai dạng chủ yếu:
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng nh Platôn,
Hêghen... cho rằng có một thực thể tinh thần ("lý tính thế giới"; "tinh thần
4


tuyệt đối", "ý niệm tuyệt đối") là cái có trớc thế giới vật chất, tồn tại ở bên
ngoài con ngời và độc lập đối với con ngời, nó sản sinh ra và quyết định tất
cả các quá trình của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng nh Béccơli,
Hium, Phíchtơ, v.v... cho rằng cảm giác, ý thức của con ngời là cái có trớc
và quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tợng bên ngoài. Các sự vật,
hiện tợng chỉ là "những tổng hợp của cảm giác", là "phức hợp của các cảm
giác". Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm
chủ quan cũng phủ nhận luôn cả tính quy luật khách quan của các sự vật,
hiện tợng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.
Cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm, tuy có khác nhau trong quan niệm
cụ thể nhng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý thức, tinh thần là cái có trớc, là cái sản sinh ra và quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo thờng sử dụng
các học thuyết duy tâm làm cơ sở lí luận cho các quan điểm của mình. Tuy
nhiên, thế giới quan tôn giáo dựa trên cơ sở lòng tin. Còn chủ nghĩa duy

tâm triết học dựa trên cơ sở tri thức, là sản phẩm của t duy lý tính của con
ngời. Do vậy, các học thuyết triết học duy tâm ít nhiều đều có những đóng
góp quan trọng vào sự phát triển t tởng triết học nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc xã hội là mối liên hệ với các lực lợng
xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng và nguồn gốc nhận thức của nó là
mối liên hệ với sự phát triển của khoa học. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn
gốc xã hội là mối liên hệ với các lực lợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ,
nguồn gốc nhận thức của nó là tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận
thức, tách ý thức ra khỏi thế giới vật chất.
Lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm (hai đảng phái chính) tạo nên động lực bên trong
của sự phát triển t duy triết học, đồng thời biểu hiện cuộc đấu tranh hệ t tởng của các giai cấp đối địch trong xã hội.
Các học thuyết triết học thuộc nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy
tâm) thì cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất, một trong hai
thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trớc quyết định cái kia. Ngoài nhất
nguyên luận còn có các học thuyết triết học nhị nguyên luận, đó là các học
thuyết cho rằng vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, là hai
nguồn gốc tạo nên thế giới. Lại có cả những học thuyết triết học đa nguyên
luận, những học thuyết đó cho rằng vạn vật là do vô số nguyên thể độc lập
cấu thành. Các học thuyết triết học nhị nguyên luận hoặc đa nguyên luận
đều không triệt để khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản triết học do đó
thờng sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Đối với mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, trả lời câu hỏi con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới hay không, đa số các nhà triết học, cả
duy vật và duy tâm đều trả lời khẳng định, tức là thuộc trờng phái "khả tri".
Triết học gọi đó là tính đồng nhất của t duy và tồn tại. Các nhà triết học duy
vật tìm cơ sở của sự đồng nhất đó ở vật chất, còn các nhà triết học duy tâm
tìm cơ sở đó ở ý thức, tinh thần. Các nhà triết học cho rằng con ng ời
không thể hiểu biết thế giới, họ thuộc vào các học thuyết đợc gọi là
"thuyết không thể biết" (bất khả tri). Thuyết không thể biết đã bị phê
phán gay gắt. Đồng thời, chính thực tiễn của con ngời đã bác bỏ thuyết

không thể biết một cách triệt để nhất.
5. Biện chứng và siêu hình
Trong lịch sử triết học, nghĩa xuất phát của từ "biện chứng" là nghệ
thuật tranh luận để tìm chân lý bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong cách
lập luận, còn nghĩa xuất phát của từ "siêu hình" là dùng để chỉ triết học, với
tính cách là khoa học siêu cảm tính, phi thực nghiệm.
Hiện nay, biện chứng và siêu hình dùng để chỉ hai phơng pháp t
duy đối lập nhau, đó là phơng pháp t duy biện chứng và phơng pháp t
duy siêu hình.
5


Một vấn đề quan trọng mà triết học quan tâm là làm sáng tỏ các sự vật,
hiện tợng của thế giới xung quanh ta tồn tại nh thế nào. Mặc dù có nhiều
cách trả lời khác nhau nhng suy cho cùng đều quy về hai quan điểm chính
đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
Sự đối lập hai phơng pháp xem xét thế giới thể hiện ở chỗ, quan điểm
siêu hình chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt, không liên hệ, không vận
động, phát triển. Ngợc lại quan điểm biện chứng không chỉ thấy sự vật cá
biệt mà còn thấy mối liên hệ phổ biến; không chỉ thấy sự tồn tại mà cả sự
sinh thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn
thấy cả trạng thái động của sự vật. Về tính chất của t duy, đối với nhà siêu
hình, t duy của họ là cứng nhắc. Ngợc lại, t duy biện chứng là một t duy
mềm dẻo, linh hoạt, không có những ranh giới tuyệt đối, nghiêm ngặt.
Phơng pháp biện chứng và phơng pháp siêu hình đã xuất hiện ngay từ
thời cổ đại, luôn luôn gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học, của thực
tiễn và đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn đầu tiên là phép biện chứng tự phát thời cổ đại, thể hiện rõ
nét trong triết học Trung Hoa, triết học Hylạp cổ đại. Các nhà biện chứng
cổ đại đã thấy rằng các sự vật, hiện tợng của thế giới tồn tại trong những

mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó tất cả đều vận động, biến
hoá, sinh thành và tiêu vong. Song do khoa học và thực tiễn cha đạt trình độ
phân tích giới tự nhiên nên các nhà biện chứng cổ đại mơí chỉ chú ý đến sự
vận động, sự quá độ, những mối liên hệ nhiều hơn là chú ý đến cái đang vận
động, đang quá độ, đang liên hệ với nhau. Theo Ăngghen, cách nhận xét
thế giới nh vậy còn nguyên thuỷ, ngây thơ, nhng căn bản là đúng và là kết
quả của một trực kiến thiên tài, song cha phải là kết quả của những sự
nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi, nền khoa học tự nhiên thực sự phát triển
đem đến sự phân ngành mạnh mẽ. Khoa học tự nhiên đã đi sâu phân tích,
chia nhỏ giới tự nhiên, cố định những mảng riêng biệt để nghiên cứu, đã
đem đến những thành tựu vĩ đại trong nhận thức thế giới, nhng phơng pháp
nghiên cứu đó đã để lại thói quen xem xét sự vật một cách siêu hình. Đến
khi Lốccơ, Bêcơn đem cách xem xét của khoa học tự nhiên vào triết học thì
phơng pháp t duy siêu hình trở thành thống trị trong triết học.
Tuy vậy, phơng pháp t duy siêu hình đã đóng một vai trò tích cực trong
quá trình nhận thức thế giới. Khi khoa học phát triển, từ việc nghiên cứu có
tính chất su tập, mô tả từng sự vật, hiện tợng của thế giới, đòi hỏi chuyển
sang nghiên cứu các sự vật hiện tợng trong quá trình phát sinh, vận động,
phát triển của nó thì phơng pháp t duy siêu hình không còn đáp ứng đợc yêu
cầu của nhận thức khoa học nữa. Khoa học phát triển, cùng với những kết
quả nghiên cứu mới đòi hỏi phải có cách nhìn biện chứng về giới tự nhiên.
Nền triết học cổ điển Đức đã phát triển theo tinh thần biện chứng và cho ra
đời phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. Mâu thuẫn lớn nhất của triết học Hêghen là mâu thuẫn giữa phơng
pháp biện chứng với hệ thống duy tâm.
Chính sự phát triển của khoa học và thực tiễn, mà trực tiếp là thực tiễn
sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị - giai cấp, đòi hỏi phải phá
bỏ hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải
tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen và sáng tạo ra phép biện chứng

duy vật -giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng. Công lao của
Mác và Ph.Ăngghen còn ở chỗ tạo đợc sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật với phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết học nhân loại, làm cho
chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng.
II- Lịch sử triết học với tính cách
là một khoa học

1. Lịch sử triết học và đặc điểm của nó
6


Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, lịch sử triết học là
toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của các t tởng triết học, các khuynh
hớng, các hệ thống triết học qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội
trong sự phụ thuộc xét đến cùng vào tồn tại xã hội. Nói cách khác lịch sử
triết học là toàn bộ t tởng triết học trong quá trình lịch sử của nó.
Với tính cách là một khoa học, lịch sử triết học là khoa học nghiên
cứu sự vận động, phát triển có quy luật của các t tởng triết học và nghiên
cứu lôgíc nội tại của các khuynh hớng, các hệ thống triết học tiêu biểu
trong lịch sử. Nói cách khác, lịch sử triết học là khoa học nghiên cứu triết
học trong sự vận động, phát triển có quy luật của nó.
Đặc điểm nổi bật của lịch sử triết học là có sự giao thoa, kết hợp giữa
khoa học lịch sử và triết học. Đòi hỏi tiếp cận, nghiên cứu lịch sử triết học
phải am hiểu cả lịch sử và triết học. Trớc hết, phải bảo đảm đợc yêu cầu về
tính chân thực, khách quan theo thời gian, trong đó phải nổi bật các sự kiện
thuộc về triết học. Mặt khác, phải đáp ứng đợc yêu cầu của khoa học triết
học mà quan trọng nhất là tính lí luận (triết lý) của các vấn đề lịch sử. Đòi
hỏi của lịch sử triết học là phải có sự khái quát cao về lí luận và thực tiễn.
Mặc dù vậy, so với khoa học lịch sử thì lịch sử triết học không nghiên
cứu tất cả các sự kiện trong chiều dài lịch sử, mà chỉ nghiên cứu các sự kiện

có tính chất điển hình liên quan đến t tởng triết học. So với triết học, lịch sử
triết học không đi sâu vào nội dung t tởng triết học của một trờng phái, một
học thuyết triết học mà chỉ nghiên cứu những t tởng cơ bản để làm rõ quá
trình hình thành phát triển của nó.
2. Đối tợng của lịch sử triết học
Các Mác là ngời đầu tiên đặt cơ sở hiện thực cho lí luận về lịch sử
triết học, nhờ đó lịch sử triết học trở thành một khoa học thật sự, không
phải là những sử liệu t tởng của t tởng hỗn độn mà chỉ ra tính quy luật
trong sự phát triển t tởng triết học.
Đối tợng của lịch sử triết học là nghiên cứu những quy luật phát
triển của t tởng triết học và lôgíc nội tại quá trình phát sinh, phát triển
của các hệ thống triết học trong lịch sử.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, lịch sử triết học có hai
nhóm tính quy luật: nhóm tính quy luật phản ánh và nhóm tính quy luật
giao lu. Nhóm tính quy luật phản ánh bao gồm phản ánh điều kiện kinh tế,
xã hội (thực tiễn) và phản ánh sự phát triển khoa học (khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội). Nhóm tính quy luật giao lu bao gồm giao lu đồng loại và
giao lu khác loại. Giao lu đồng loại bao gồm giao lu theo lịch đại (kế thừa,
phát triển t tởng triết học nhân loại theo chiều dọc thời gian) và giao lu theo
đồng đại (liên hệ, ảnh hởng, kế thừa, kết hợp các học thuyết triết học trong
cùng một thời gian). Giao lu khác loại bao gồm giao lu giữa triết học với
các hình thái ý thức xã hội khác (kế thừa các hình thái ý thức xã hội) và
giao lu giữa các hệ thống triết học khác nhau (giữa duy vật và duy tâm, giữa
biện chứng và siêu hình).
Nh vậy, theo quan điểm mác-xít, lịch sử t tởng triết học đợc phát sinh,
phát triển tuân theo những tính quy luật là:
Sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Sự phát triển
của t tởng triết học - một hình thái ý thức xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã
hội, mà trớc hết là phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất.

Đặc biệt, t tởng triết học là sự phản ánh nhu cầu phát triển của thực tiễn xã
hội. Do vậy, nó trực tiếp phụ thuộc vào thực tiễn đấu tranh giai cấp, đấu
tranh chính trị, xã hội.
Sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào sự
phát triển của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Trình độ phát triển
của t duy triết học nhân loại phụ thuộc vào trình độ nhận thức chung của
nhân loại, tức là phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa
7


học xã hội. Khoa học phát triển, vừa là cơ sở, điều kiện cho triết học phát
triển. Ngợc lại triết học phát triển, vừa là kết quả, vừa là cơ sở cho sự phát
triển của các khoa học. Triết học với tính cách là một khoa học phụ thuộc
vào trình độ phát triển của khoa học và văn hoá nói chung của nhân loại.
Cả điều kiện kinh tế-xã hội và trình độ phát triển khoa học, xét đến
cùng quyết định nội dung các luận thuyết triết học và trong chừng mực,
quyết định cả hình thức thể hiện t tởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hớng triết học cơ bản- chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Đây là một hình thức giao lu đặc biệt giữa các hệ t tởng triết
học trong toàn bộ lịch sử của nó. Trong quá trình đấu tranh với các học
thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết học cũng tự đấu tranh với bản thân mình
để vơn lên một trình độ mới. Quá trình đấu tranh giữa triết học duy vật và
triết học duy tâm, cũng đồng thời là một quá trình giao lu đặc biệt, bao gồm
hấp thụ những gì tích cực, tiến bộ, hợp lý, đồng thời lọc bỏ những gì lỗi
thời, lạc hậu, tiêu cực, bất hợp lý trong nội dung t tởng triết học. Đấu tranh
giữa duy vật và duy tâm là đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản nhất trong
nội dung t tởng triết học nhân loại. Thông qua cuộc đấu tranh nói trên mà
triết học của mỗi thời đại có sự phát triển mang tích độc lập tơng đối so với
sự phát triển của điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá và khoa học, làm cho

mỗi hệ thống triết học có thể "vợt trớc" hoặc "thụt lùi" so với điều kiện vật
chất của thời đại đó. Đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ lịch sử t tởng triết học, tạo thành
động lực bên trong lớn nhất của sự phát triển t tởng triết học nhân loại, là
bản chất của toàn bộ lịch sử t tởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh giữa hai phơng pháp nhận thức trong lịch sử là phơng pháp
biện chứng và phơng pháp siêu hình. Lịch sử có nhiều cách trả lời khác
nhau đối với vấn đề các sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh ta tồn
tại nh thế nào, nhng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là
biện chứng và siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng chính là
sự phát triển của trình độ nhận thức, của phơng pháp t duy nhân loại,
thông qua cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình. Đây cũng là sự
đấu tranh giữa hai mặt đối lập, tạo nên động lực bên trong của sự phát
triển t tởng triết học nhân loại. Đấu tranh giữa hai phơng pháp nhận
thức biện chứng và siêu hình gắn liền với của đấu tranh giữa hai thế giới
quan duy vật và duy tâm, nhng không phải là đồng nhất.
Sự hình thành, phát triển của t tởng triết học nhân loại phụ thuộc vào
sự kế thừa và phát triển các t tởng triết học trong tiến trình lịch sử. Đây là
quy luật giao lu t tởng triết học cùng loại theo chiều dọc tiến trình lịch sử.
Giao lu t tởng triết học cùng loại trong lịch sử là một phơng thức tái tạo t tởng. Sự tái tạo t tởng của một hệ thống triết học là một quá trình triển khai
những tiềm thế tồn tại ở cái ban đầu, cái xuất phát của cả hệ thống triết học
đó trong lịch sử. Triết học của mỗi thời đại lịch sử bao giờ cũng dựa vào tài
liệu lịch sử của triết học các thời đại trớc, lấy đó làm tiền đề, làm điểm xuất
phát cho hệ thống triết học của mình. Tuy vậy bao giờ nó cũng đợc chọn
lọc, sửa chữa lại, lý giải lại và phát triển phù hợp với điều kiện lịch sử mới
và theo tinh thần mà nó đại biểu về t tởng. Đây chính là sự phủ định biện
chứng, bao gồm duy trì những giá trị tiềm thế và cải tạo có phê phán những
thành tựu t tởng có giá trị, nghĩa là sự kế thừa biện chứng trên con đờng
phát triển của lịch sử t tởng triết học.

Sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào sự liên hệ,
ảnh hởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học trong mối quan hệ
dân tộc và quốc tế. T tởng triết học nhân loại không phải là tổng số đơn
thuần của các hệ thống triết học hình thành trong từng nớc riêng lẻ, tách rời,
độc lập với nhau. Những học thuyết triết học phát sinh, và phát triển ở mỗi
8


nớc, bằng các phơng thức khác nhau, đều nằm trong mối quan hệ lẫn nhau
nhất định với những học thuyết triết học ở các nớc khác, vừa chịu ảnh hởng,
vừa tác động trở lại các học thuyết triết học khác. Đây chính là tính quy luật
về sự giao lu cùng loại, cùng thời đại lịch sử của các t tởng triết học khác
nhau ở các vùng, miền, các quốc gia, dân tộc khác nhau. Sự phát triển t tởng
triết học là kết quả của sự thống nhất và liên hệ lẫn nhau giữa các t tởng
triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào mối
quan hệ với các t tởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật... Đây là một tính quy luật về sự giao lu khác loại, giao lu giữa hình
thái ý thức triết học với các hình thái ý thức xã hội khác. Đây cũng là một
biểu hiện của tính độc lập tơng đối của ý thức xã hội trong đó các hình thái
ý thức xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình thái ý thức nào, tôn
giáo hay nghệ thuật, đạo đức hay pháp quyền... có ảnh hởng lớn đến nội
dung t tởng triết học là tuỳ điều kiện lịch sử cụ thể. Song, trong nhiều trờng
hợp, hệ t tởng triết học trở thành cơ sở lí luận của hệ t tởng chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ thuật. Ngợc lại, các hệ t tởng khác loại này
trở thành cái biểu hiện của triết học. Nhờ sự giao lu đồng loại và khác loại
mà một dân tộc có thể có trình độ phát triển kinh tế không cao, nhng lại có
trình độ phát triển triết học khá cao, vợt xa các dân tộc khác. Đó là một
thực tế lịch sử.
Nh vậy, lịch sử triết học với tính cách là một khoa học, là lịch sử vận

động, phát triển có qui luật của các t tởng triết học.
III- Sự phân vùng và phân kỳ
của lịch sử triết học

1. Sự phân vùng lịch sử triết học
Sự phân chia các vùng lịch sử triết học trớc hết căn cứ vào điều
kiện tự nhiên. Triết học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội, do vậy t tởng triết học ít nhiều phán ánh và mang dấu ấn của
những điều kiện không gian, địa lý, tự nhiên. Ngời ta đã căn cứ vào phơng vị mặt trời (Đông hoặc Tây) để phân chia vùng lịch sử triết học là
lịch sử triết học phơng Đông hoặc lịch sử triết học phơng Tây. Đây là
hai vùng lịch sử triết học lớn, tổng quát nhất với các đặc điểm khác
nhau về sự hình thành, phát triển cũng nh nội dung t tởng triết học.
Trong hai vùng triết học tổng quát đó, thờng có những nền triết học lớn
của các nớc lớn mà sự hình thành lịch sử các quốc gia dân tộc đó t ơng
đối ổn định và có ảnh hởng lớn về văn hoá trong khu vực.
Cùng với điều kiện tự nhiên thì căn cứ chủ yếu nhất để phân vùng lịch
sử triết học là điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Ngoài ra, chiến
tranh cũng là một điều kiện ảnh hởng đến sự hình thành các vùng lịch sử
triết học. Các cuộc chiến tranh lớn của thế giới có thể kìm hãm hoặc sát
nhập các vùng lịch sử triết học.
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều vùng lớn lịch sử triết học. Vùng triết
học ả-rập (Do thái) ra đời sớm nhất, bao gồm toàn bộ vùng Trung Cận
Đông hiện nay. Vùng triết học ấn Độ, vùng triết học Trung Quốc phát triển
rực rỡ nhất khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 2 trớc công nguyên. Vùng triết học
HyLạp-LaMã phát triển rực rỡ cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ ở châu Âu
ra đời, phát triển. Vùng triết học Viễn Đông cũng đợc coi là một vùng triết
học khá phát triển, bao gồm cả triết học Nga và các nớc Đông Liên Xô (cũ).
Có những vùng triết học về sau không phát triển, bị sát nhập, nh triết học
LaMã sát nhập cùng triết học HyLạp (thành triết học HyLạp), t tởng triết
học của một phần Viễn Đông đợc sát nhập thành triết học phơng Đông. Sự

phân vùng lịch sử cho phép và đòi hỏi khi nghiên cứu lịch sử t tởng triết học
chỉ cần thiết nghiên cứu các vùng lịch sử triết học phát triển, tiêu biểu nhất.
2. Sự phân kỳ lịch sử triết học
9


Triết học là một bộ phận cấu thành kiến trúc thợng tầng xã hội về t tởng xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở kinh tế xã hội, do vậy phân kỳ lịch sử
triết học trớc hết dựa trên lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội.
Phân kỳ lịch sử triết học còn phải căn cứ vào lôgíc nội tại của sự phát
triển các hệ thống triết học. Bởi vì, triết học là một hình thái ý thức xã hội
có tính độc lập tơng đối. Trình độ phát triển triết học là biểu hiện trình độ
nhận thức của nhân loại, phụ thuộc vào diễn biến chung của nhận thức
nhân loại. Sự phát triển của triết học còn phụ thuộc vào trình độ phát
triển khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.
Sự phân kỳ lịch sử triết học còn phải căn cứ vào bớc ngoặt cách mạng
do sự sáng lập ra các học thuyết triết học có tính chất vạch thời đại. Do vậy,
có thời đại triết học trớc Mác và có thời đại triết học Mác (kể từ sau khi chủ
nghĩa Mác xuất hiện). Trong mỗi thời đại triết học lại đợc phân chia thành
những thời kỳ lớn. Tuỳ đặc điểm mỗi thời kỳ, có những hình thức đấu tranh
cụ thể giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Theo những căn cứ nói trên, thông thờng ngời ta phân chia những thời
kỳ lịch sử triết học nh sau:
- Triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ.
- Triết học của xã hội phong kiến.
- Triết học thời kỳ tiền t bản.
- Triết học của xã hội t bản.
- Triết học Mác - Lênin (bao gồm thời kỳ Mác -Ăngghen và thời kỳ
Lênin bảo vệ, phát triển triết học Mác).

IV- Những yêu cầu phơng pháp luận và ý nghĩa của

nghiên cứu lịch sử triết học

1. Những yêu cầu phơng pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử
triết học
Nhận thức khoa học phải phù hợp với quy luật khách quan. Từ tính
quy luật của sự hình thành, phát triển t tởng triết học, có thể rút ra những
yêu cầu, những nguyên tắc phơng pháp luận trong nghiên cứu lịch sử triết
học.
Trớc hết là nguyên tắc tính khách quan trong nghiên cứu lịch sử triết
học. Lịch sử t tởng triết học phụ thuộc vào lịch sử đời sống vật chất của xã
hội, trớc hết là cơ sở kinh tế và thực tiễn đấu tranh giai cấp. Đồng thời t tởng triết học tác động trở lại đối với điều kiện kinh tế- xã hội. Do vậy,
nghiên cứu sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phải chỉ ra nguồn
gốc kinh tế- xã hội ( nền tảng, cơ sở vật chất) của nó. Phê phán quan điểm
duy tâm, coi triết học tự nó sản sinh ra t tởng triết học, tách khỏi điều kiện
kinh tế -xã hội, triết học không có tính giai cấp và không có vai trò đối với
đấu tranh giai cấp. Tính khách quan gắn liền với tính khoa học trong nhận
thức toàn diện những đóng góp của các t tởng triết học khác nhau, khắc
phục t tởng chủ quan, phiến diện trong đánh giá các trào lu triết học.
Nghiên cứu lịch sử t tởng triết học đòi hỏi phải dựa trên cơ sở nguyên
tắc tính đảng. Cần thấy rõ cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm là lôgíc nội tại, xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học. Đòi hỏi khi
nghiên cứu mỗi triết gia, mỗi học thuyết triết học phải căn cứ vào nguyên tắc
tính đảng để phân biệt đợc duy vật hoặc duy tâm. Đồng thời đấu tranh giữa
duy vật và duy tâm là một hình thức giao lu t tởng triết học. Do vậy, không đợc đem đối lập một cách giản đơn các học thuyết triết học mà phải thấy rõ phơng diện giao nhau, tiếp cận nhau, chuyển hoá lẫn nhau giữa các t tởng triết
học trong những điều kiện nhất định.
10


Tính đảng trong nghiên cứu lịch sử triết học gắn liền với tính chính trị,
tính giai cấp. Đằng sau cuộc đấu tranh giữa các đảng phái trong triết học là

cuộc đấu tranh giữa các hệ t tởng đối địch của các giai cấp trong xã hội.
Nghiên cứu lịch sử t tởng triết học phải dựa vào nguyên tắc tính lịch
sử. Xem xét các t tởng triết học phải theo quan điểm lịch sử, gắn liền với
kinh nghiệm lịch sử trong điều kiện cụ thể. Phải dựng lại một cách trung
thực và khách quan lịch sử phát triển tiến bộ của cả triết học phơng Đông và
phơng Tây với những đặc thù về nội dung và phong cách t duy vốn có của
nó, chống thái độ đề cao hoặc hạ thấp, thậm chí phủ định sạch trơn những
di sản triết học của quá khứ. Quan điểm lịch sử trong xem xét các t tởng
triết học đòi hỏi nhìn nhận một học thuyết triết học không phải là có gì mới
so với hiện nay, mà có gì mới so với các học thuyết trớc kia. Xem xét mọi
học thuyết triết học với tính cách là những bậc thang nhất định trong quá
trình nhận thức thế giới, đòi hỏi không đợc phép hiện đại hoá nó, không cho
phép gán ghép những t tởng mà họ không có và không thể có. Phải tìm đợc
sự liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, thấy đợc cội nguồn lịch sử và cả xu hớng phát triển, không gò ép, không áp đặt, không xuyên tạc lịch sử theo ý
muốn chủ quan nhằm phục vụ mục đích chính trị nào đó.
Nghiên cứu lịch sử triết học phải trên nguyên tắc tính kế thừa. Xem xét
sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phải thấy đợc sự giao lu đồng
loại( với các t tởng triết học khác) và giao lu khác loại ( với các hình thái ý
thức xã hội khác), xác định đợc mối quan hệ của nó với t tởng chính trị,
pháp quyền, tôn giáo, nghệ thuật...Trong mối quan hệ giữa triết học với các
hình thái ý thức xã hội khác, thấy rõ sự xâm nhập, ảnh hởng, làm tiền đề,
điều kiện phát triển cho nhau.
Lịch sử t tởng triết học cũng chính là lịch sử phát triển của nhận thức
nhân loại, cho nên trong sự phát triển của nó có mối liên hệ mật thiết và kế
thừa sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Quan điểm kế thừa đòi hỏi xem xét lôgíc phát triển nội tại của các trờng phái triết học với tích cách là một quá trình phủ định biện chứng, bao
gồm sự kế thừa, lọc bỏ, bổ sung và phát triển. Nguyên tắc kế thừa phải gắn
với nguyên tắc lịch sử, đòi hỏi phải xem xét những gì đợc kế thừa trong lịch
sử, xem xét mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, mối liên hệ giữa dân tộc
và quốc tế.

Nghiên cứu lịch sử triết học phải trên nguyên tắc tính thực tiễn. Phải
tìm đợc mối liên hệ giữa t tởng triết học với thực tiễn xã hội. Lịch sử triết
học là quá trình t duy đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề mà nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi phải trả lời về mặt nhận thức. Phải tìm cho đợc yêu cầu thực
tiễn của t tởng triết học. Nhu cầu thực tiễn là cơ sở cho t tởng triết học phát
triển. Ngợc lại, sự tiến bộ về t tởng triết học là một nguồn gốc lý luận cho
sự tiến bộ trong thực tiễn, trong lịch sử vật chất xã hội.
2. ý nghĩa nghiên cứu lịch sử triết học
Lịch sử triết học có khả năng bao quát lịch sử xã hội sâu rộng dới hình
thức lý luận, cho ta khả năng hiểu biết và khái quát sự phát triển lịch sử t tởng và lịch sử t tởng triết học của nhân loại. Lịch sử triết học là " bức đồ
ảnh rút gọn" của những thời đại lịch sử dới hình thức t tởng- lý luận trừu tợng nhất. Do vậy, nghiên cứu lịch sử triết học giúp mỗi ngời làm giầu trí tuệ
của mình bằng cách thâu tóm trí tuệ của mỗi thời đại lịch sử đợc kết tinh
trong triết học.
Lịch sử triết học là lịch sử phát triển t duy của nhân loại dới hình thức
lý luận triết học, giúp ta nắm đợc kinh nghiệm của sự nhận thức khoa học,
sự hình thành và phát triển của phơng pháp nhận thức khoa học trong lịch
sử. Do vậy, nghiên cứu lịch sử triết học giúp ta xây dựng phơng pháp nhận
thức khoa học, phơng pháp t duy đúng đắn, rèn luyện năng lực t duy độc
lập, phê phán, biết tranh luận, tự tranh luận, kế thừa, lọc bỏ, phát triển nhận
11


thức khoa học; giúp ta xây dựng thế giới quan, phơng pháp luận khoa học,
thoát khỏi ảnh hởng tự phát của quan điểm duy tâm, siêu hình, phiến diện.
Lịch sử triết học trang bị cho ta vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh t
tởng, lý luận hiện nay. Nghiên cứu lịch sử triết học, giúp chúng ta hiểu rõ
tính chất đúng đắn, tiến bộ của thế giới quan duy vật và tính chất hạn chế,
sai lầm của thế giới quan duy tâm. Lịch sử phép biện chứng từ lúc khởi thuỷ
cho đến nay là lịch sử đấu tranh, tìm tòi chân lý, phát triển nhận thức khoa
học. Lịch sử triết học cho thấy, chỉ có triết học nào gắn liền mật thiết với

đời sống, với thực tiễn mới giúp con ngời tìm ra chân lý khách quan, giải
thích đúng đắn thế giới và cải biến có hiệu quả thế giới hiện thực vì cuộc
sống con ngời. Nghiên cứu lịch sử triết học, trang bị cho chúng ta thế giới
quan khoa học và cách mạng, nâng t duy của chúng ta lên tầm biện chứng
thì cũng đồng thời trang bị cho ta vũ khí t tởng, chuẩn mực phê phán, đánh
giá, đấu tranh với các trào lu t tởng phản khoa học, phản động.
Nghiên cứu toàn bộ lịch sử hình thành, phát triển của t tởng triết học
nhân loại giúp chúng ta khẳng định sự xuất hiện triết học mác-xít là tất yếu
lịch sử, phù hợp với lôgíc khách quan của sự phát triển t tởng triết học nhân
loại; thấy đợc triết học mác-xít không nằm bên ngoài mà đã và đang
phát triển giữa dòng văn minh nhân loại, khẳng định bản chất khoa học
và cách mạng của triết học mác-xít. Nghiên cứu toàn bộ lịch sử t tởng
triết học còn cho thấy tiếp cận triết học mác-xít chính là tiếp cận t duy
triết học của nhân loại ở trình độ hiện đại.
Nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy tính tất yếu mở rộng, phát triển
triết học mác-xít trong điều kiện mới của thời đại; tính tất yếu của việc đấu
tranh với các quan điểm sai lầm, phản động, cơ hội, xét lại...nhằm bảo vệ và
phát triển triết học mác-xít.

12


Chơng II

Khái lợc lịch sử triết học
Phơng đông cổ, trung đại
Phơng Đông cổ, trung đại là một vùng đất rộng lớn trải dài từ AiCập,
Babilon tới ấn Độ, Trung Quốc... Do vị trí địa lý khá đặc biệt: núi cao, sông
dài, biển rộng... đã tạo nên một hoàn cảnh địa lý khá thuận lợi cho con ngời
cổ đại tồn tại và phát triển. Theo tài liệu khảo cổ học, nơi đây đã xuất hiện

những nền văn minh rất sớm. Đó là các nền văn minh sông Nin (Ai Cập),
nền văn minh sông Tigơrơ và Ơphơrát (I-Rắc), nền văn minh sông Hoàng
(Trung Quốc), nền văn minh sông Hằng (ấn Độ)...
Cùng với những nền văn minh trên, những t tởng triết học và văn hoá
cũng xuất hiện hết sức đa dạng và phong phú. Mỗi quốc gia, dân tộc phơng
Đông đều có lịch sử t tởng, văn hoá của mình và có những đóng góp nhất
định trong sự phát triển của t tởng triết học, văn hoá thế giới. Nổi bật và
xuất sắc nhất phải kể đến hai trung tâm lớn đó là ấn Độ và Trung Quốc.
Triết học ấn Độ , Trung Quốc cổ, trung đại không chỉ có cống hiến to
lớn cho sự phát triển của t tởng triết học nhân loại, mà đã từ lâu có ảnh hởng rất lớn đến văn hoá Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử t tởng triết học ấn
Độ, Trung Quốc cổ, trung đại thực sự cần thiết cho việc tìm hiểu t tởng, văn
hoá của Việt Nam .

13


I- Triết học ấn Độ cổ, trung đại

1. Điều kiện kinh tế - xã hội
ấn Độ là một nớc lớn ở miền nam châu á, hai mặt Đông Nam và Tây
Nam giáp ấn Độ Dơng, phía Bắc là dãy núi Hymalaya hùng vĩ, án ngữ theo
vòng cung dài 2600 Km. Tiếp xuống phía Nam là vùng đồng bằng ấn Hằng, do các con sông ấn (Indus), sông Hằng (Gange) và sông
Brahmapoutra chuyên chở phù sa bồi đắp nên. Giữa miền Bắc và miền Nam
ấn Độ đợc phân chia bởi dãy núi Vindhya và vùng xa mạc Thar rộng lớn
Miền Nam ấn Độ là vùng cao nguyên rộng lớn (Cao nguyên Dekkan) có
nhiều rừng núi, sông ngòi chảy qua, đổ ra ấn Độ Dơng. Do địa hình hiểm
trở nên mực nớc các con sông ở đây không ổn định, chảy với tốc độ lớn.
Điều kiện thiên nhiên đã làm cho con ngời và xã hội ấn Độ có những
sắc thái riêng trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình.
Lịch sử ấn Độ cổ, trung đại có thể chia thành ba giai đoạn chính:

Giai đoạn thứ nhất: Từ thiên niên kỷ I đến khoảng giữa thiên niên kỷ
II tr.CN. Đây là giai đoạn thờng đợc gọi là" Nền văn minh Harappa" hay
(Nền văn minh sông ấn) khởi đầu cho văn minh ấn Độ. Cho đến ngày nay,
ngời ta còn biết quá ít về nó. Chủ nhân của nền văn minh này là ngời
Dravida, hiện nay còn sinh sống ở nam ấn Độ.
Giai đoạn thứ hai: Tiếp nối giai đoạn thứ nhất đến thế kỷ VII tr.CN.
Đây là giai đoạn hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của ngời
Arya trên lu vực sông ấn và sông Hằng và cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của
nền văn minh ấn Độ cổ, trung đại.
Khoảng giữa thiên niên kỷ II tr. CN, ngời Arya từ phía bắc tiến
dần xuống phía Đông Nam, nhanh chóng chinh phục đại bộ phận thổ
dân ấn, lập nên đất nớc Aryavarta của họ. Đây là sự kiện quan trọng về
lịch sử, đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn minh của hai chủng tộc
khác nhau. Chính quá trình này đã làm xuất hiện một nền văn minh mới
của ngời ấn Độ: nền văn minh Veda .
Do chiếm đợc những vùng đất đai mầu mỡ, lại có lực lợng lao động
dồi dào (đai bộ phận thổ dân ấn bị biến thành nô lệ), do tiếp thu kỹ thuật,
văn minh của ngời Dravida, ngời Arya bắt đầu chuyển dần từ chăn nuôi, du
mục sang đời sống nông nghiệp định c, phát triển thủ công nghiệp và thơng
nghiệp. Sự phát triển kinh tế đã tạo ra một bớc thay đổi các quan hệ xã hội.
Chế độ thị tộc bị tan rã, xã hội dựa trên cơ sở kết cấu kinh tế theo mô hình "
công xã nông thôn" ra đời; mối quan hệ huyết thống trong cộng đồng trở
nên mong manh, yếu ớt, thay vào đó là quan hệ kinh tế, giai cấp, đẳng cấp
đợc củng cố và phát triển.
Việc phân hoá xã hội thành các giai cấp, đẳng cấp tăng lữ, quí tộc,
bình dân và nô lệ là nguyên nhân chính làm cho xã hội luôn diễn ra các
cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt giữa các lực lợng đối lập. Điều đó phần
nào giải thích đợc vì sao cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ t tởng (trong
đó có triết học) ở thời kỳ này lại sôi nổi, phong phú và đa dạng nh vậy.
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5 - 6 thế kỷ (từ thế kỷ VI tr. CN đến

thế kỷ I tr. CN). Đây là thời kỳ xã hội ấn Độ có những biến cố lớn lao cả về
kinh tế, chính trị , xã hội và t tởng. Lúc này các quốc gia chiếm hữu nô lệ
đã thực sự phát triển và thờng gây chiến tranh để thôn tính lẫn nhau, dẫn tới
hình thành các quốc gia lớn, các vơng triều thống nhất ở ấn Độ. Thời kỳ
này sức sản xuất phát triển rất mạnh do sáng tạo những công cụ sản xuất
bằng sắt, mở mang thuỷ lợi, khai khẩn đất đai... Nghề thủ công cũng rất
phát đạt, nhất là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề luyện sắt , nghề làm đồ
gỗ, gốm sứ... Sự phát triển kinh tế dẫn đến giao lu buôn bán cũng đợc phát
triển. Nhiều con đờng thơng mại thuỷ, bộ, nối liền các thành thị với nhau và
thông từ ấn Độ qua các nớc Trung Hoa, Ai Cập và các nớc Trung á...đợc
kiến tạo.
14


Nhu cầu phát triển về mọi mặt của xã hội đã tạo ra những động lực
mạnh mẽ cho khoa học phát triển. Ngời ấn Độ lúc này đã biết quả đất
tròn và quay quanh trục của nó, biết làm lịch chính xác, đã giải thích đ ợc hiện tợng nhật thực, nguyệt thực. Về toán học, đại số, hình học, l ợng
giác,y học và hoá học đều phát triển. Nền văn học nghệ thuật cũng phát
triển rực rỡ. Đây là thời kỳ phát triển t duy trừu tợng, thời kỳ hình thành
hệ thống các tôn giáo lớn ấn Độ.
Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị-xã hội cùng với sự
phát triển rực rỡ của văn hoá, khoa học của ấn Độ là những tiền đề lý luận
và thực tiễn phong phú làm nảy sinh và phát triển những t tởng triết học ấn
Độ cổ, trung đại.
T tởng triết học ấn Độ đợc hình thành từ cuối thiên niên kỷ II, đầu
thiên niên kỷ I tr. CN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo.
Những ý thức về triết học, những t tởng triết lý trừu tợng lý giải về nguyên
lý của vũ trụ, giải thích về bản chất đời sống tâm linh con ngời... chỉ thực sự
xuất hiện từ thời đại Upanishad (khoảng thế kỷ X đến thế kỷ VI tr. CN).
Triết học ấn Độ cổ, trung đại đợc chia ra thành hai trờng phái: Chính thống

và không chính thống.
Phái chính thống (àstika) gồm có: Sàmkhya; Mimànsa; Vedànta;
Yoga; Nỳaya và Vaisêsika.
Phái không chính thống(nàstika) gồm có: Jaina; Lokàyata và
Buddha (Phật giáo).
Tiêu chuẩn chính để phân biệt giữa hai trờng phái đó là sự thừa nhận
hay không thừa nhận tính đúng đắn của triết học Vêda.
Những trờng phái triết học nào thừa nhận tính đúng đắn của triết học
Vêda, lấy Vêda làm cơ sở t tởng của mình đợc gọi là trờng phái triết học
chính thống, ngợc lại những trờng phái triết học không thừa nhận Vêda
thuộc về trờng phái triết học không chính thống.
ở thời kỳ trung đại, các nhà triết học ấn Độ thờng kế thừa, tìm cách
làm sáng tỏ một học thuyết đã có và tránh mâu thuẫn với nó. Triết học ấn
Độ cổ, trung đại đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề triết học nh bản thể
luận, nhận thức luận, đạo đức học...
2. Những t tởng triết học cơ bản của các trờng phái
a) Trờng phái Sàmkhya
Trờng phái triết học Sàmkhya là sự tiếp tục của trờng phái triết học
tiền bối có tên là Proto-Sàmkhya xuất hiện vào khoảng thế kỷ VII tr. CN. T
tởng triết học trung tâm của trờng phái này là lý luận về bản nguyên vũ
trụ, những nhà t tởng Samkhya (thời sơ kỳ) không thừa nhận Brahman,
tinh thần vũ trụ và phủ nhận sự tồn tại của thần linh. Họ đ a ra học
thuyết Satkàrya-vàda tức học thuyết tồn tại của kết quả trong nguyên
nhân trớc khi nó xuất hiện và học thuyết Parinàma-vàda tức học thuyết
về sự chuyển hoá thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Trong nguyên
nhân đã chứa cái gì nằm trong kết quả. Nh vậy, từ tính chất của kết quả,
tìm đợc chìa khoá để đi vào nguyên nhân.
Những nhà t tởng Sàmkhya cho rằng, nếu thế giới là vật chất thì
nguyên nhân của nó cũng phải là vật chất, đó là "vật chất đầu tiên"
(Pràkriti) - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể nhận biết

đợc. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva(nhẹ, sáng, tơi
vui); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố này ở trạng
thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái cha biểu hiện - tức trạng thái không
thể trực quan đợc. Nhng khi trạng thái cân bằng bị phá vỡ thì đây là điểm
khởi đầu của sự hình thành vạn vật trong vũ trụ. Vật chất là vĩnh hằng
nhng không đứng yên, biến đổi không ngừng từ dạng này sang dạng
khác.
Trái với quan niệm trên, những nhà t tởng Sàmkhya hậu kỳ lại có
khuynh hớng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu
15


tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa yếu tố tinh thần mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh
khí, năng lợng biến hoá vào yếu tố vật chất.
b) Trờng phái Mimànsà
Mimànsà là một trong những trờng phái chính thống của triết học
ấn Độ cổ đại. Trờng phái này do triết gia Jaimini sáng lập (khoảng thế
kỷ II tr. CN). Kinh điển đầu tiên của hệ thống này là Mimànsà-Sùtra,
gồm 2500 câu châm ngôn.
Cũng nh trờng phái Sàmkhya, trờng phái Mimànsà sơ kỳ không thừa
nhận sự tồn tại của thần. Các nhà triết học của Mimànsà cho rằng không
tìm đợc bằng chứng nào về sự tồn tại của thần. Cảm giác không thể nhận ra
thần mà các nguồn khác của tri thức thì suy cho cùng cũng dựa trên cảm
giác. Họ chống lại quan điểm triết học duy tâm vì nếu tin rằng thế giới hiện
thực là không tồn tại, chỉ có ý thức sinh ra thì nghi lễ mà Mimànsà coi
trọng và hiệu quả của nó trở nên vô nghĩa.
Tinh thần duy vật ấy của triết học Mimànsà đã không đợc tiếp tục phát
triển. Những nhà triết học hậu kỳ lại thừa nhận sự tồn tại của thần.
c) Trờng phái Vedànta
Vedànta đợc coi là phái chính thống của triết học ấn Độ cổ đại, hình

thành từ phong trào biên soạn, chú giải thánh kinh Véda và Upanishad mà
ngời khai sáng là Badarayana, khoảng thế kỷ II tr. C.N, sau này ngời kế tục
xuất sắc là Sankara, ở thế kỷ thứ VIII. Tác phẩm "Brahman-Sùtra" hay
Vedànta-Sùtra đợc coi là kinh điển của trờng phái này. Về nội dung, Sùtra
này đợc trình bày khá mơ hồ nên đã có nhiều cách giải thích khác nhau của
những ngời đi sau.
Cách luận giải có ảnh hởng lớn nhất là quan điểm Advaita-Vedànta
(Vedànta-nhất nguyên) hay Màyà-Vada (lý thuyết ảo ảnh). Theo lý thuyết
này, Brahman, hay tồn tại tuyệt đối, đồng nhất với cái "tôi" (atman) nghĩa là
ý thức thuần tuý. Thế giới vật chất tuyệt đối không hiện thực, hình ảnh của
nó chỉ là ảo ảnh sinh ra do "vô minh" (Avidya). "Avidya" có nghĩa là "duy
nhất". Triết học Advaita là triết học của nhất nguyên luận tuyệt đối. Nó
không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngoài Brahman hay ý thức
thuần tuý.
Các phái Vedànta sau này lại giải thích "Brahman-Sùtra" theo
quan điểm hữu thần, hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh
hồn của vũ trụ, vĩnh hằng, còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận
của linh hồn tối cao, tức thợng đế Brahman.
d) Trờng phái Yoga
Yoga theo tiếng Phạn có nghĩa là "sự hiểu biết" hay "hợp nhất tâm thể
về cùng một khối". T tởng triết học cốt lõi của trờng phái này là sự thừa
nhận nguyên lý hợp nhất vũ trụ nơi mỗi cá thể. Trờng phái Yoga kết hợp t tởng triết học của trờng phái Sàmkhya với sự thừa nhận sự tồn tại của thần
linh, thợng đế. Theo họ, thần hay thợng đế không phải là đấng sáng tạo
hoặc duy trì vũ trụ, không có nhiệm vụ thởng, phạt con ngời mà chỉ là một
loại"linh hồn đặc biệt", không khác các linh hồn cá thể khác là mấy. Vì vậy,
bằng phơng pháp tu luyện và tập luyện nhất định, có thể làm chủ và điều
khiển đợc bản thân mình, tiến đến làm chủ và điều khiển đợc môi trờng,
vạn vật và cao hơn nữa là đạt tới sự "giải thoát","tự do tuyệt đối". Để đạt đợc trạng thái đó, ngời ta phải tu luyện kiên trì, dần dần từng bớc theo từng
giai đoạn, phải tự chủ, phải kiên nhẫn tập luyện lâu dài, bằng tám phơng
pháp gọi là "Bát bảo tu pháp". Nhiều trờng phái Yoga cho rằng, nếu thực

hiện tốt các phơng pháp này con ngời sẽ có sức mạnh siêu nhiên.
Nh vậy, trờng phái Yoga cũng nh các trờng phái Vedànta, Mimànsa
đều có xu hớng giải quyết vấn đề nhân sinh quan theo chủ đích đạt tới sự
"giải thoát" tối hậu: hoà đồng cái tôi (tiểu ngã) với cái vũ trụ (đại ngã).
16


đ) Trờng phái Nyàya-Vaisesika
Triết học Nyàya và triết học Vaísesika từ buổi đầu đã gắn kết với nhau,
và qua thời gian, thực sự hoà làm một. Vì vậy, có thể gọi chung là NyàyaVaísesika. Đại biểu cho trờng phái Nyàya là Gantama, tác giả của "NyàyaSùtra". Đại biểu của trờng phái Vaísesika là Kamanda, tác giả của
"Vaísesika-Sùtra". Những quan điểm t tởng triết học tơng đồng của hai trờng phái này là: học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và lôgíc học.
Về thuyết nguyên tử
Giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới, phơng pháp luận của hai
phái này là quy toàn bộ tính đa dạng của tồn tại vào bốn yếu tố: đất-nớclửa-gió (hay không khí). Những yếu tố này lại đợc quy vào bản nguyên duy
nhất, đó là nguyên tử (Anu). Nguyên tử, theo họ, là phần tử cuối cùng,
không thể chia cắt, không có đơn vị kích thớc, bất biến, vĩnh hằng, đợc
phân biệt ở chất lợng, khối lợng và hình dạng, tồn tại trong một môi trờng
đặc biệt, trong không gian và thời gian.
Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của Anu, các phái này còn cho rằng
có sự tồn tại của linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những
nguyên tử vật chất, đợc gọi là Ya; mà đặc tính của nó đợc thể hiện ra nh: ớc
vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn v.v..
Để thấu triệt nguyên lý thống nhất của những hiện hữu, hai phái này
đã tìm đến lực lợng thứ ba mang tính siêu nhiên, giữ vai trò phối hợp, điều
phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. Đó là
thần Isvara của phái Nyàya hay là linh hồn thế giới (Adrishta) của phái
Vaisesika.
Về nhận thức luận
Hai phái này đều thừa nhận tính khách quan của khách thể nhận thức.
Họ đấu tranh chống lại các quan điểm cho rằng, nhận thức dựa vào kinh

nghiệm là giả; nhận thức không thể kiểm tra đợc.v.v.. Theo họ, nhận thức có
thể tin cậy, nhng cũng có thể không tin cậy đợc. Tiêu chuẩn của tin cậy đó
là phản ánh không nghi ngờ và trung thành với hình ảnh của đối tợng. Bốn
hình thức nhận thức không đáp ứng các yêu cầu đó, đợc coi là không tin
cậy:1. ký ức; 2. nghi ngờ; 3. sai lầm; 4. giả thiết (cha có chứng cớ chắc
chắn).
Nhng nhận thức không tin cậy, không nhất thiết là giả. Nhận thức là
đúng đắn khi nó phù hợp với bản chất của đối tợng. Nhận thức là giả khi nó
không phù hợp với bản chất của đối tợng.
Sự giải thích duy vật mộc mạc đó là những đóng góp của các trờng
phái này vào sự phát triển của lý luận nhận thức nói chung.
Về lôgíc học
Hai trờng phái này cũng có những đóng góp quan trọng cho lôgíc hình
thức. Hình thức biện luận do các phái này đa ra là " ngũ đoạn luận", gồm
năm mệnh đề: 1. luận đề ; 2. nguyên nhân ; 3. ví dụ ; 4. suy đoán ; 5. kết
luận. Việc tuân thủ "ngũ đoạn luận" sẽ giúp cho t duy của con ngời phản
ánh chính xác sự vật hiện tợng của thế giới.
Lịch sử phát triển t tởng triết học ấn Độ cho thấy, các trờng phái
này ban đầu có t tởng vô thần và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
triết học. Song ở giai đoạn cuối, lại thừa nhận có thần và cho rằng thần
đã dùng nguyên tử để xây dựng nên thế giới.
e) Trờng phái Jaina
Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần nh đồng thời với Phật giáo. Ngời
sáng lập trờng phái này là nhà hiền triết Mahavira, còn có hiệu là Jaina
(nghĩa là chiến thắng). Những nhà triết học của trờng phái này phủ nhận sự
sáng tạo ra thế giới của thần linh hay của một lực lợng siêu nhiên, nh "tinh
thần vũ trụ tối cao" Brahman. Chính vì thế, học thuyết Jaina đợc xếp vào hệ
17



thống triết học không chính thống. Tác phẩm trình bày đầy đủ t tởng triết
học của Jaina là " Tattvartha-Dhigama-Sùtra" gọi tắt là ( Tattvartha-Sùtra).
T tởng triết học cơ bản của Jaina là học thuyết về "cái tơng đối". Theo
thuyết này, tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thuỷ, vô chung, sự biến chuyển
của vạn vật là không cùng; thế giới vạn vật là sự thống nhất của cái bất biến
và cái biến đổi. Cái vĩnh hằng là vật chất; cái không vĩnh hằng là các dạng
vật chất cụ thể. Ngoài ra, Jaina còn thừa nhận có một thứ vật chất tinh tế,
cái mà không thể nhận thức đợc bằng cảm giác, nó quyết định mối liên hệ
giữa linh hồn và thể xác. Triết học Jaina không thừa nhận có linh hồn duy
nhất và Thợng đế tối cao. Song lại cho rằng, trong thế giới có một số lợng
rất lớn và cố định những linh hồn đợc thể hiện trong các thực thể sống, hoặc
là không đợc thể hiện ra. Linh hồn cũng nh vật chất không do ai tạo ra, tồn
tại ngay từ đầu và tồn tại mãi mãi.
Quan điểm của Jaina đợc thể hiện qua các khái niệm: 1. tồn tại; 2.
Không tồn tại; 3. vừa tồn tại, vừa không tồn tại; 4. không thể miêu tả; 5. tồn
tại và không thể miêu tả; 6. không tồn tại và không thể miêu tả; 7. tồn tại và
không tồn tại và không thể miêu tả đợc.
g) Trờng phái Lokàyata
Lokàyata còn đợc gọi là triết học Carvaka, hay Barhaspatya. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, tên Lokàyata ra đời do chỗ triết học này phổ biến rộng
rãi trong nhân dân (Lokésu).
T tởng triết học của phái Lokàyata phát triển trong nhiều thế kỷ và
những ngời theo phái này luôn chống lại những t tởng duy tâm, tôn
giáo. Quan điểm triết học của họ thể hiện tập trung ở luận giải về bản
thể; lý luận nhận thức và đạo đức học.
Về bản thể luận
Lokàyata cho rằng tất cả mọi sự vật, hiện tợng trong vũ trụ đều do bốn
yếu tố, đất, nớc, lửa và không khí cấu thành. Bốn yếu tố này có khả năng tự
tồn tại, tự hoạt động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con ngời.
Tính đa dạng của vạn vật là do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố bản

nguyên ấy. Sự hợp thành và tan rã của chúng, quy định sự tồn tại hay mất đi
của vạn vật. ý thức cũng đợc nảy sinh từ những yếu tố đó nh là sức mạnh
kích thích. Con ngời không phải là gì khác ngoài thân thể có ý thức.
Lokàyata là trờng phái triết học duy vật triệt để nhất trong các tr ờng phái triết học ấn Độ cổ, trung đại; nó khá xa lạ với tinh thần truyền
thống tôn giáo của nớc này.
Về lý luận nhận thức
Triết học Lokàyata thừa nhận cảm giác là nguồn duy nhất xác thực của
nhận thức, đồng thời phủ nhận tính xác thực của tri thức gián tiếp. Theo họ,
suy lý, kết luận hay những chứng minh v.v. đều là những phơng pháp sai
lầm của nhận thức.
Về đạo đức học
Trờng phái triết học Lokàyata kịch liệt phê phán những học thuyết
tuyên truyền cho sự chấm dứt đau khổ bằng cách kiềm chế mọi ham muốn
dục vọng và hy vọng một cuộc sống hạnh phúc nơi thiên đờng, nơi thế giới
bên kia sau khi chết. Các nhà triết học của phái này chủ trơng hãy để cho
mọi ngời sống, hoạt động hởng thụ tất cả trên cõi đời với những niềm cay
đắng và những vị ngọt ngào của nó. Vì thế, lý luận đạo đức của họ đợc gọi
là "chủ nghĩa khoái lạc".
h) Trờng phái Buddha ( Phật giáo)
Phật giáo ra đời khoảng giữa thiên niên kỷ I tr. CN do Thích Ca
Mầu Ni ( Sakyamuni), hay còn gọi là Buddha sáng lập.
Kinh điển triết học Phật giáo rất đồ sộ, gồm ba bộ phận (Kinh; Luật;
Luận) gọi là (tam tạng kinh).
T tởng triết học Phật giáo thể hiện tập trung ở những phơng diện: bản
thể luận; quan điểm về nhân sinh; nhận thức luận và lý luận về đạo đức.
18


Về bản thể luận
Phật giáo không thừa nhận có ai sáng tạo ra vũ trụ, không thừa

nhận vũ trụ có ngày đợc tạo ra và có ngày bị tiêu diệt. Vạn vật sinh ra là
do sự chuyển biến của bản thân nó, trong nó, vũ trụ là tự tại. Thế giới
vạn vật là vô thuỷ, vô chung (vô cùng về hai phía). Mỗi sự vật, hiện tợng cụ
thể có thuỷ, có chung (có giới hạn), có sinh, có diệt theo chu trình: (sinh,
trụ, dị, diệt) tức là sinh ra, tồn tại trong không gian, thời gian, h hoại, tan ra
(thành, trụ, hoại, không). Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tợng diễn ra
theo quy luật nhân quả.
Về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của đạo Phật tập trung ở 4 luận đề (Tứ diệu
đế) đợc Phật giáo coi là 4 chân lý vĩ đại.
- Khổ đế, cho rằng đời sống con ngời là bể khổ trâm luân. Trong
kinh Phật nói rằng: "Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái
gì a mà phải rời là khổ, cái gì không a mà phải nhập là khổ, cái gì muốn
mà không đợc là khổ, nói tóm lại triền miên trong ngũ trọc giả hợp là
khổ."
- Nhân đế, giải thích nguyên nhân của đau khổ. Nguyên nhân của
đau khổ chính là do dục vọng không bao giờ nguôi ngoai của con ng ời.
Vì tham sống mà luân hồi sinh tử, càng tham càng muốn, càng đợc càng
tham.... Trong kinh nhà Phật giải thích nỗi đau khổ của con ng ời bằng
lý thuyết "Thập nhị nhân duyên" tức 12 nguyên nhân: 1.Vô minh; 2.
Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ;
10. Hữu; 11. Sinh; 12. Lão, tử.
Ngoài" Thập nhị nhân duyên" Nhà Phật còn cho rằng: nỗi khổ của con
ngời còn do nghiệp báo, luân hồi, đó chính là luật báo ứng (gieo gió gặp
bão), (gieo gì gặp nấy). Theo thuyết này, đã sinh ra thì phải có chết đi, đã
chết đi thì phải có tái sinh, vô cùng, vô tận.
- Diệt đế, cho rằng có thể tiêu diệt đợc cái khổ, đạt tới trạng thái
Niết bàn.
- Đạo đế, chỉ ra con đờng diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đờng"tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm tám nguyên tắc (Bát
chính đạo)

Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là:
tập trung tinh thần; nhìn rõ sự thật; ý chí ngay thẳng. Làm đợc nh vậy, con
ngời sẽ thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, trở về trạng thái hoàn toàn yên
tĩnh, trong sạch (Niếtbàn).
Về nhận thức luận
ở ấn Độ, triết học gọi vấn đề nguồn gốc của nhận thức là "tri l ợng". Trớc khi Phật giáo xuất hiện, có thuyết Thánh giáo lợng (nguồn
gốc của nhận thức do thần, thánh mách bảo). Phật giáo bác bỏ Thánh
giáo lợng, mà cho rằng nguồn gốc của nhận thức là do hiện lợng và tỷ lợng. Từ cảm giác đi qua tri giác đến quan niệm, đó là hiện l ợng. Tỷ lợng gồm có phán đoán, suy lý. Hiện lợng cho ta biết " Tự tớng" của sự
vật, tỷ lợng cho ta biết "cộng tớng" của sự vật. biết sự vật là phải biết cả
Tự tớng và Cộng tớng của nó.
Về lý luận đạo đức
Lý luận đạo đức của Phật giáo chủ trơng tiết dục (cấm dục). Theo quan
điểm của Phật giáo, sở dĩ có luân hồi là vì có dục vọng (tham, sân, si); có
dục vọng là do lầm lạc, vô minh mà tạo nghiệp chớng cho bản thân. Muốn
giải thoát tất phải diệt nghiệp bằng sự sáng suốt, phá lầm lạc bằng cấm dục.
Mặt khác, xuất phát từ quan điểm cho rằng Ngời và Ta đều là những
pháp khác nhau của giới pháp, vô thuỷ, vô chung; đều thuộc về Chân nh cả
vì vậy lý luận đạo đức Phật giáo chủ trơng: đối với mình " khắc kỷ", đối với
19


mọi ngời phải từ bi, bác ái, vị tha, coi ngời khác nh mình. Vì vậy, không
phải chỉ biết cứu mình mà còn cứu nhân độ thế...
Nh vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có t tởng vô thần luận, phủ nhận đấng
sáng tạo tối cao (Brahma) và có t tởng biện chứng (thuyết duyên khởi). Đây
là những đóng góp to lớn của nó cho sự phát triển của t tởng triết học nhân
loại nói chung và ấn Độ nói riêng.
Sau khi Phật tịch, các học trò của ông đã biên soạn các kinh điển Phật
giáo, trớc hết là kinh tạng và luật tạng. Trong kinh điển Phật giáo, đây đợc
coi là kết tập lần thứ nhất.

Một trăm năm sau khi Phật tịch, kết tập lần thứ hai. Do bất đồng về
quan đểm, Phật giáo chia thành hai phái: Đại chúng bộ và Thợng toạ bộ.
Vào khoảng đầu Công nguyên, từ các trào lu Phật giáo, nổi lên hai
giáo phái phật giáo tiêu biểu là Đại thừa và Tiểu thừa. Phái Đại thừa tự coi
là "cỗ xe lớn", cho rằng mình có thể đa đợc nhiều ngời đến giác ngộ. Theo
Đại thừa, mọi ngời đều có thể giác ngộ để đi đến Niết bàn không chỉ bằng
tự lực, mà còn bằng sự dẫn dắt của các bậc đại giác (các vị bồ tát).
Về mặt triết học, Đại thừa có hai phái chủ yếu có ảnh hởng lớn:
- Phái trung luận (Madhyamika). Phái này quan niệm thế giới có
bản chất là tính không (Sunyata), còn các hiện t ợng thấy đợc là giả. Thế
giới hiện ra là vì vô minh, nếu Tuệ (Prajna) hiện ra thì thế giới sẽ về với
không. Đó là Niết bàn.
- Phái Dugià (Yogacara) hay còn gọi là phái Duy thức. Phái này thừa
nhận sự tồn tại vĩnh hằng của ý thức.
Đối lập với Đại Thừa là Tiểu thừa. Theo Đại thừa, thì Tiểu Thừa chỉ lo
tu dỡng bản thân, một mình đến chỗ giác ngộ bằng tự lực, không chú ý đến
cứu độ ngời khác.
Phật giáo trên đất ấn Độ suy tàn vào khoảng thế kỷ IX; nhng trong thời
gian tồn tại của nó, Phật giáo đã từ ấn Độ truyền bá ra các nớc xung quanh,
trở thành hệ thống tôn giáo-triết học thế giới, có ảnh hởng lớn đến đời sống
tinh thần và lịch sử văn hoá của nhiều nớc Phơng Đông trong đó cóViệt Nam.
3. Một số đặc điểm về t tởng triết học ấn Độ cổ, trung đại
Triết học ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bớc đầu giải quyết nhiều
vấn đề của triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể
luận, nhận thức luận và nhân sinh quan..., triết học ấn Độ đã thể hiện
tính biện chứng và tầm khái quát sâu sắc; đã đa lại nhiều đóng góp quý
báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.
Một xu hớng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ, trung đại là quan
tâm giải quyết những vấn đề thuộc đời sống tâm linh, không mãn nguyện
với việc suy luận tri thức mà gắn với đời thực, việc thực.

Triết học ấn Độ cổ, trung đại suốt mấy ngàn năm phát triển không
diễn ra cuộc cách mạng t tởng. Nó chỉ phát triển dới hình thức chú
thích, diễn giải; chỉ có sự kế thừa, phát triển, không có sự phủ định các
học thuyết tiền bối.
Hầu hết các trờng phái triết học ấn Độ cổ, trung đại đều có sự biến
đổi theo xu hớng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm
hay nhị nguyên. Điều đó phản ánh sức ỳ của một xã hội dựa trên cơ sở
của "Phơng thức sản xuất Châu á".
II- Lịch sử triết học Trung Quốc cổ, trung đại

1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Trung Hoa là một nớc lớn ở miền Đông Châu á, phía Đông và Đông
Nam giáp biển; phía Nam, Tây- Nam đợc ngăn cách với các nớc Việt Nam,
Lào, ấn Độ... bởi những dãy núi cao hùng vĩ; tiếp xuống Trung Nguyên là
vùng đồng bằng rộng lớn do các con sông Hoàng Hà, Hắc Thuỷ, Nhợc
Thuỷ, Lạc Thuỷ... chuyên chở phù sa bồi đắp nên. Trung Quốc thuộc vùng
khí hậu ôn đới, rất thuận lợi cho con ngời tồn tại và phát triển.
20


Lịch sử Trung Quốc cổ, trung đại có thể chia thành bốn thời kỳ chính:
Thời kỳ thứ nhất: thời kỳ hình thành và tồn tại xã hội nguyên thuỷ
Trung Quốc, khoảng thiên niên kỷ V trớc C.N, trở về trớc. Trong thời kỳ
này đợc chia thành hai giai đoạn:1/Giai đoạn viễn cổ. Cho đến ngày nay ngời ta còn biết quá ít về nó; song dựa vào những kết quả khai quật hoá thạch
trong lòng đất cho thấy: Ngời Vợn đã sinh sống ở Trung Quốc cách đây
trên dới một triệu năm. Họ sống thành bầy đàn đợc phân chia theo huyết
thống. 2/ Giai đoạn hình thành xã hội nguyên thuỷ ở Trung Quốc
(khoảng thiên niên kỷ IV tr. C.N đến thiên niên kỷ II tr. C.N). Giai đoạn
này gắn liền với các thủ lĩnh có tên tuổi ở Trung Quốc thời đó nh:
Hoàng Đế; Nghiêu; Thuấn; Vũ.

Đặc điểm kinh tế-xã hội của thời kỳ này
Về sản xuất vật chất: trình độ sản xuất còn rất lạc hậu, công cụ sản
xuất chủ yếu bằng gỗ, đá... ở thời kỳ này ngời ta đã biết mài xơng động vật
làm kim khâu, biết cách chăn nuôi, trồng trọt cùng với săn bắn, đánh cá.v.v.
Về tổ chức xã hội: từ bầy ngời nguyên thuỷ, con ngời tiến lên sống
trong các hình thức cộng đồng mới (thị tộc, bộ lạc). Cuối thời Hoàng Đế, đã
xuất hiện tổ chức quản lý xã hội, đứng đầu là một ngời có uy tín, do thị tộc,
bộ lạc tín nhiệm bầu ra và đợc thay thế theo chế độ "thiện nhợng".(1)
Về đời sống văn hoá tinh thần: Chủ yếu là Tôtem giáo, Vật linh giáo,
bên cạnh những truyền thuyết hoang đờng, thần bí, không có thật.
Thời kỳ thứ hai: thời kỳ hình thành và tồn tại của xã hội Nô lệ Trung
Quốc. Thời kỳ này tồn tại khoảng hơn một ngàn năm, trải qua các triều đại:
Hạ, Ân-Thơng và Chu.
Về sản xuất vật chất, từ nhà Hạ đến nhà Chu (đặc biệt là Tây Chu) lực
lợng sản xuất có bớc phát triển mạnh. Thời nhà Hạ, nhà Ân ngời ta đã biết
dùng và chế tạo đồ sắt, biết dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi để gieo
trồng, chăn nuôi. Nhờ vậy, họ đã tạo ra đợc đời sống ổn định, sản xuất phát
triển. Cuối đời Ân, xã hội Trung Quốc đã có sự phân chia giữa thành thị và
nông thôn, có sự phân định và xác lập bờ cõi. Đến đời Tây Chu, do thực
hiện chính sách cải cách mới về kinh tế, hoàn thiện hệ thống thuỷ nông,
phát triển các loại cây trồng, mở rộng quy mô sử dụng lực lợng sản xuất...
đã làm cho lực lợng sản xuất và một số ngành thủ công nghiệp phát triển
mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất nô
lệ cũng từng bớc đợc hoàn thiện mà đỉnh cao là chế độ quốc hữu về t liệu
sản xuất và sức lao động nhà Chu. Thời Tây Chu, nhà vua tự xng là "Thiên
tử" thống trị toàn bộ đất đai và thần dân trong nớc. Thiên tử thực hiện chế
độ phong hầu kiến địa cho ch hầu và họ hàng, thân tộc; ch hầu lại phong
chức tớc, đất đai cho đại phu...vì thế, mặc dù năng suất lao động có phát
triển, song đời sống ngời lao động vẫn rất khổ cực.
Về chính trị-xã hội: chế độ thiện nhợng bị bãi bỏ, thay vào đó là chế

độ thế tập vơng vị. Trong xã hội tầng lớp quý tộc đợc đề cao, ngời lao động
bị khinh rẻ, ngợc đãi. Đây là nguyên nhân nẩy sinh mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội. Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp quý tộc đã tôn giáo hoá
một cách toàn diện hệ thống t tởng chính trị của mình. Chúng cho rằng: sự
biến hoá của mọi sự vật, hiện tợng trong tự nhiên và trong đời sống xã hội
cũng nh số phận của con ngời đều bị ý chí của trời và quỷ thần chi phối.
Chúng tuyên bố là chịu mệnh trời để cai trị nhân dân trên mặt đất; mọi ngời
chỉ có quyền phục tùng tuyệt đối, nếu không trời và quỷ thần sẽ trừng
phạt...
Về đời sống văn hoá tinh thần: do trình độ nhận thức và đời sống xã
hội còn thấp, lại chịu ảnh hởng tuyên truyền của giai cấp quý tộc làm cho
đời sống tâm linh, tôn giáo thời kỳ này có sự phát triển mạnh. Tô tem giáo
và tín ngỡng vật linh giáo đã mất hết giá trị, thay vào đó là những tín ngỡng
tôn giáo thần bí với các biểu tợng về "Thợng đế, Thần linh, Linh hồn tổ
tiên". Theo họ đây là gốc gác của con ngời; muốn có đời sống yên lành cần
21


phải tế lễ chu đáo. Không chỉ thế, họ còn tin rằng, con ngời có thể thông đạt
với những lực lợng linh thiêng đó bằng thuật chiêm tinh, bói toán...
Bên cạnh sự phát triển của tôn giáo, do nhu cầu của sự phát triển xã
hội nói chung và sản xuất vật chất nói riêng, ở thời kỳ này khoa học cũng
có sự phát triển nhất định. Ngời ta đã phát minh ra chữ viết, ghi việc bói
toán lên xơng thú, mai rùa, gọi là "văn giáp cốt". Họ đã quan sát sự vận
hành của mặt trăng và nhận biết đợc vị trí của nhiều ngôi sao, tính đợc chu
kỳ của thuỷ triều, tìm ra quy luật sinh trởng của cây trồng mà làm ra âm
lịch. Họ cũng đã dựa trên hệ thống 10 (can), 12 (chi) phối hợp để tính ngày,
giờ, tháng, năm và bốn mùa, sáng tạo ra lịch pháp để phục vụ cho sản xuất.
Thời kỳ thứ ba: sự tàn lụi của xã hội nô lệ và sự hình thành xã hội
phong kiến Trung Quốc (khoảng từ thế kỷ V tr. C.N. đến cuối thế kỷ III tr.

C.N), còn đợc gọi là thời kỳ Xuân thu-Chiến quốc.
Đặc điểm kinh tế-xã hội của thời kỳ này
Về sản xuất vật chất: trong thời kỳ này, do sử dụng công cụ bằng sắt
và dùng bò kéo cày đã khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất
hoang, hoàn thiện kỹ thuật canh tác ruộng đất và kỹ thuật "dẫn thuỷ nhập
điền", góp phần nâng cao năng suất lao động (trong nông nghiệp). Thủ công
nghiệp có bớc phát triển mới, đặc biệt ở sự phân công lao động và chuyên
môn hoá sản xuất, tạo ra một loạt ngành nghề mới bên cạnh các nghề cổ
truyền nh nghề luyện kim, nghề đúc và rèn sắt, nghề mộc, xây, thuộc da,
nhuộm v.v.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp, thơng nghiệp
buôn bán cũng phát triển hơn. Do phát triển sức sản xuất xã hội, đất do ngời
dân vỡ hoang trở thành ruộng t ngày càng tăng thêm. Bọn quý tộc có quyền
thế chiếm đoạt ruộng đất ngày càng nhiều. Chế độ sở hữu t nhân về
ruộng đất hình thành. Thời Chiến quốc kinh tế tiếp tục phát triển, do có
chế độ mua bán ruộng đất tự do. Bọn quý tộc, th ơng nhân đã chiếm đợc
nhiều ruộng đất của nông dân, trở thành những địa chủ lớn, chúng
chuyển sang hình thức mớn nhân công và cho phát canh thu tô. Quan hệ
phong kiến nông nô xuất hiện dần dần chiếm u thế trong đời sống xã
hội.
Về chính trị-xã hội: đây là thời kỳ phong kiến hoá xã hội Trung Quốc.
Do sự phát triển của kinh tế, đặc biệt là sự xuất hiện của tầng lớp mới, có t
hữu tài sản, có địa vị kinh tế trong xã hội đã làm cho quyền lực nhà Chu
ngày một suy giảm. Suốt thời Xuân thu, mệnh lệnh của thiên tử không còn
đợc tuân thủ, trật tự, lễ nghĩa, cơng thờng xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi
"vơng đạo suy vi, bá đạo trị vì". Các nớc ch hầu đua nhau động binh gây
chiến tranh thôn tính lẫn nhau hết sức tàn khốc. Chiến tranh liên tục và tàn
khốc làm cho đời sống nhân dân vốn đã cùng cực lại càng cùng cực hơn,
trật tự xã hội bị đảo lộn, lòng dân ly tán. Mạnh Tử viết:"Đánh nhau
tranh thành, thì giết ngời thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, thì

giết ngời thây chết đầy đồng" ("Mạnh Tử", Ly lâu thiên14).
Về đời sống tinh thần xã hội: chính trong thời đại lịch sử chuyển biến
sôi động đó đặt ra nhiều vấn đề về xã hội, con ngời , buộc các nhà t tởng
phải quan tâm lý giải. Và kết quả là hàng loạt hệ thống các quan điểm về
chính trị-xã hội, triết học, đạo đức,... đã xuất hiện. Sự phong phú, đa dạng
đó thực sự trở thành đỉnh điểm của toàn bộ đời sống văn hoá, tinh thần xã
hội Trung Quốc cổ đại.Vì thế thời kỳ này còn đợc gọi là thời kỳ " bách gia
tranh minh".
Thời kỳ thứ t :thời kỳ xã hội phong kiến Trung Quốc từ thế kỷ III trớc
C.N. đến trớc cách mạng Tân Hợi 1911.
Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, xã hội phong kiến Trung
Quốc chính thức hình thành. Do chính sách cai trị hà khắc của Tần Thuỷ
Hoàng, nhà Tần chỉ tồn tại đợc 15 năm. Nhà Hán thay thế, xã hội phong
22


kiến Trung Quốc đi vào ổn định và phát triển. Xã hội phong kiến phát triển
cực thịnh ở đời Tống và từ đó bắt đầu đi vào thời kỳ suy tàn.
Đặc điểm kinh tế-xã hội của thời kỳ này
Về kinh tế: từ Tần đến Đờng là thời kỳ tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất phong kiến, hình thái sở hữu ruộng đất lớn tiếp tục đợc củng cố và có
chiều hớng gia tăng. Tầng lớp đại địa chủ, quan liêu quý tộc tiếp tục củng
cố địa vị thống trị của mình. Đến đời Tống, quan hệ sản xuất phong kiến
đạt đến đỉnh điểm của sự phát triển và bắt đầu suy tàn. Hình thái sở hữu lớn
về ruộng đất dới hình thức "điền trang","thái ấp" trở thành hình thái sở hữu
thống trị. Phơng thức bóc lột chuyển sang phơng thức ngời nông dân phụ
thuộc trực tiếp vào chúa phong kiến; chúa phong kiến thực hiện bóc lột
nông dân bằng địa tô là chủ yếu. ở thời kỳ này, thành thị và kinh tế
công-thơng nghiệp cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Nghề in, đúc thép,
dệt vải, làm giấy...đều có sự tiến bộ mới. Tầng lớp chủ các công tr ờng

thủ công, các thơng nhân ngày một nhiều, những mầm mống ban đầu
của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa đã xuất hiện.
Về chính trị xã hội: ở thời kỳ này, xã hội Trung Quốc phát triển tơng
đối ổn định. Kết cấu xã hội về cơ bản vẫn gồm hai giai cấp: nông dân và địa
chủ, ngoài ra còn xuất hiện một số tầng lớp khác nh chủ các công trờng thủ
công, các thơng nhân... Đây là thời kỳ hoàn thiện nhà nớc phong kiến trung
ơng tập quyền. Để củng cố địa vị thống trị của mình, nhà nớc phong kiến đã
chia quốc gia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính quận, huyện...
Về đời sống văn hoá tinh thần xã hội: do xã hội không có sự phát triển
đột biến về cơ sở kinh tế và kiến trúc thợng tầng nên bộ mặt đời sống tinh
thần ở thời kỳ này nghèo nàn hơn nhiều so với thời kỳ Xuân thu-Chiến
quốc. Các trào lu t tởng mới hầu nh không xuất hiện, mà chủ yếu là kế thừa,
khai thác và phát triển các trào lu t tởng lý luận của các thời kỳ trớc. Thậm
chí, để bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến, các nhà t tởng thời
kỳ này còn có biểu hiện xuyên tạc một cách cực đoan, phủ nhận những giá
trị của những t tởng cổ truyền.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát sinh, phát triển
của t tởng triết học Trung Quốc gắn liền với quá trình biến đổi của điều
kiện kinh tế, xã hội và sự phát triển của khoa học. Triết học Trung Quốc cổ,
trung đại hình thành từ cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trớc C.N và
phát triển rực rỡ nhất ở thời kỳ Xuân thu-Chiến quốc. Đặc trng chủ yếu nhất
của t tởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại là đều có xu hớng giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị-đạo đức của xã hội. Song, nó cũng đặt ra và
giải quyết những vấn đề triết học khác nh: vấn đề về bản nguyên của thế
giới; vấn đề cơ bản của triết học; vấn đề con ngời ...
2. Những t tởng triết học cơ bản của các trờng phái
a) Thuyết âm-dơng, ngũ hành
Thuyết Âm dơng và thuyết Ngũ hành là hai trào lu t tởng triết học
Trung Quốc đã đợc lu truyền từ trớc thời Xuân thu-Chiến quốc. Tới Xuân
thu- Chiến quốc những t tởng này đạt tới mức trở thành một hệ thống các

quan điểm về bản nguyên và sự vận động của vũ trụ. Lý luận Âm dơngNgũ hành có ảnh hởng rất sâu sắc đến các trờng phái cũng nh các cá nhân
những nhà t tởng Trung Quốc kể cả duy vật lẫn duy tâm cổ, trung đại.
Âm dơng-Ngũ hành có chung một gốc, đó là tìm hiểu và giải thích
căn nguyên và cơ cấu của vũ trụ với quan điểm duy vật chất phác và t tởng
biện chứng tự phát, lấy chính t nhiên để giải thích tự nhiên. Song giữa hai
thuyết này cũng có nét độc lập tơng đối.
T tởng triết học Âm dơng, có thiên hớng suy t về nguyên lý vận hành
đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tơng tác của hai thế lực đối lập
nhau: Âm và Dơng.
"Âm" là một phạm trù rất rộng; phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật nh mềm, yếu, thấp, tối, ẩm ớt, giống cái, số chẵn..."D23


ơng" là phạm trù đối lập với "Âm", phản ánh các thuộc tính nh: rắn, mạnh,
cao, sáng, khô ráo, giống đực, số lẻ...
Âm - Dơng thống nhất trong Thái cực, thể hiện nguyên lý về sự thống
nhất của hai mặt đối lập. Hai thế lực này tuy đối lập, song chúng không tồn
tại độc lập mà luôn thống nhất với nhau trong mỗi sự vật, hiện tợng. Sự tác
động qua lại giữa chúng làm cho mọi sự vật, hiện tợng vận động và biến đổi
không ngừng.
Âm dơng đảo đổi cho nhau theo các quy luật: âm thịnh, dơng suy;
trong âm có dơng, trong dơng có âm; quan hệ âm dơng tuy tơng phản
nhng không loại trừ, phủ định nhau mà là tơng giao, tơng thành, tơng cầu, tơng ứng.
T tởng triết học Ngũ hành, có xu hớng phân tích cấu trúc của vạn vật
và quy nó về những yếu tố khởi nguyên, với những tính chất khác nhau,
những tơng tác (tơng sinh, tơng khắc, tơng thừa, tơng vũ) với nhau. Đó là
năm yếu tố Kim-Mộc-Thuỷ-Hoả-Thổ gọi là Ngũ đại.
Ngũ hành không chỉ biểu hiện ở những hiện tợng tự nhiên, mà còn
biểu hiện cả tính chất, năng lực của con ng ời cũng nh các quan hệ xã
hội và những biến cố lịch sử.

Các yếu tố của ngũ hành không tồn tại tĩnh, mà chúng là những yếu tố
động, liên hệ, tơng tác thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau. Sự tơng tác lẫn
nhau của ngũ hành theo nguyên tắc "tơng sinh","tơng khắc".
Tơng sinh là sinh hoá cho nhau: thổ sinh kim; kim sinh thuỷ; thuỷ sinh
mộc; mộc sinh hoả; hoả sinh thổ v.v.
Tơng khắc là quá trình các yếu tố của ngũ hành chế ớc lẫn nhau: mộc
khắc thổ; thổ khắc thuỷ; thuỷ khắc hoả; hoả khắc kim; kim khắc mộc v.v.
Sự hợp nhất Âm dơng-Ngũ hành còn đợc thể hiện ở chỗ, bản thân
mỗi hành đều là sự thống nhất âm dơng, xét cho cùng sự vận động của
Ngũ hành cũng chính là sự vận động của âm dơng, và ngợc lại, sự
thống nhất âm dơng cũng thuộc về các hành nhất định. Sự đảo đổi của
âm dơng làm cho các hành vận động. Học thuyết Âm dơng-Ngũ hành
đợc thể hiện đặc biệt rõ nét trong tác phẩm "kinh dịch", một tác phẩm
cổ điển nhất của Trung Quốc thời cổ , một cuốn kỳ th của thế giới. Chỉ
với hai vạch âm (nét đứt), dơng (nét liền) đảo đổi cho nhau mà ngời
Trung Quốc có thể giải thích đợc mọi sự sinh thành, vận động, biến đổi
của vũ trụ, nhân sinh.
b) T tởng triết học Nho gia (Nho giáo)
Nho gia ra đời vào khoảng thế kỷ VI trớc C.N, do Khổng Tử (551-479
T.C.N), nhà t tởng vĩ đại của Trung Quốc thời cổ sáng lập. Đến thời Chiến
quốc, nho gia đợc Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai hớng khác nhau, trong đó dòng nho Khổng-Mạnh có ảnh hởng rộng và lâu
dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số nớc lân cận.
Kinh điển của Nho gia gồm Tứ th (Trung dung, Đại học, Luận ngữ và
Mạnh tử), ngũ kinh (Lễ, Dịch, Thi, Th và Xuân thu).
Qua hệ thống kinh điển của nho giáo cho thấy, hầu hết các kinh và
sách viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc. Điều đó
chứng tỏ xu hớng biện luận về xã hội, về chính trị, đạo đức là những t tởng
cốt lõi của nho giáo. Đơng nhiên, nói nh vậy không có nghĩa nho giáo
không bàn đến những vấn đề thuộc về thế giới tự nhiên.
T tởng triết lý nho gia thể hiện trên những phơng diện: bản thể luận;

triết học chính trị-xã hội và học thuyết về giáo dục.
Về bản thể luận
Nho gia cho rằng, vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hoá không
ngừng theo đạo của nó. Tuy nhiên , bên cạnh việc giải thích nguồn gốc vũ
trụ nh vậy, nho giáo còn thừa nhận có trời và quỷ thần.
Trời, theo nho gia là lực lợng có ý chí, làm chủ của vũ trụ, chi phối
mọi sự biến hoá cho hợp lẽ điều hoà. Khổng Tử nói:" Đạo của ta thi hành ra
24


đợc cũng do mệnh trời, mà bị bỏ phế vong cũng do mệnh trời". ("Luận
ngữ", Hiến vấn, 38); T Mã Thiên viết:"Phù thiên giả, nhân chi thuỷ dã"
nghĩa là (trời là thuỷ tổ của con ngời); trời là cái bất biến, cùng mục đích
với con ngời, con ngời có thể hiểu đợc trời đất...
Khổng Tử cũng tin có quỷ thần và cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng
của trời đất tạo thành, tuy mắt ta không nhìn thấy, tai ta không nghe thấy
v.v. nhng dờng nh lu động trong đầu ta, ở bên phải ta, bên trái ta, đâu đâu
cũng có".(Trung dung", 16). Song, Ông lại cho rằng, quỷ thần không có tác
dụng chi phối đời sống con ngời. Vì vậy, ông phê phán mê tín, sùng bái quỷ
thần, kêu gọi mọi ngời hãy chú trọng vào việc làm của mình.
Nh vậy, trong quan điểm về thế giới, t tởng Nho gia có tính chất
mâu thuẫn. Một mặt, giải thích thế giới đi từ chính bản thân thế giới, đó
là yếu tố duy vật chất phác và t tởng biện chứng tự phát. Mặt khác, lại
thừa nhận có lực lợng siêu tự nhiên chi phối, quyết định sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật, của con ngời, đó lại là những yếu tố duy
tâm. Thực chất mâu thuẫn trong t tởng, lý luận nho gia chính là phản
ánh mâu thuẫn của xã hội lúc đó.
Hoc thuyết về đạo đức, chính trị, xã hội
Từ quan niệm trời là cái bất biến, cùng mục đích với nhân loại, nho
gia chủ trơng xây dựng, tổ chức đời sống xã hội theo đạo trời ( nền thiên

trị).
T tởng "thiên trị" thể hiện ở chỗ: lấy trời làm cứu cánh cho việc trị
nớc (vua thay trời hành đạo), trị nớc theo luật của tự nhiên "thiên tạo",
còn các luật do con ngời đặt ra "nhân tạo" đều cố hết sức tránh, nếu bất
đắc dĩ phải lập ra, thì chỉ cốt dùng tạm thời. "Dùng hình pháp cốt mong
sao bỏ đợc hình pháp".
Nho gia cho rằng một xã hội thịnh trị khi, xã hội đó có chủ nghĩa, có
tôn ti trật tự trên dới,có đờng lối tổ chức, dân chúng đợc giáo hoá, thuận trời
đất, lòng ngời...Ngợc lại, xã hội sẽ loạn, khi, lòng ngời xa rời đạo lý, khinh
thị cơng thờng, vua không ra vua, tôi không ra tôi, xã hội không còn tôn ti
trật tự.
Để đổi loạn thành trị, Nho gia chủ trơng thuyết "chính danh".
Khổng Tử giải thích:"Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng"
("Luận ngữ", Nhan Uyên, 1). "Chính danh" thì ngời nào có địa vị, bổn
phận chính đáng của ngời ấy, trên dới, vua tôi, cha con trật tự phân
minh. Và, muốn trị nớc, trớc tiên "ắt phải sửa cho chính danh", vì nếu
"danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc
không thành, việc không thành thì lễ nhạc không hng thịnh, lễ nhạc
không hng thịnh thì hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì
dân không biết đặt tay làm, đặt chân đứng vào đâu".
Để thực hiện chính danh, Nho gia chủ trơng "tu thân" theo ngũ
luân, ngũ thờng.
Ngũ luân là năm mối quan hệ Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Phụ, Côn-Đệ,
Bằng-Hữu. Trong năm mối quan hệ đó có ba mối quan hệ rờng cột (QuânThần, Phụ-Tử, Phu-Phụ) gọi là tam cơng. Nguyên tắc tu thân theo ngũ luân
đòi hỏi: Quân nhân- thần trung, phụ từ- tử hiếu, phu nghĩa- phụ thính,
huynh lơng- đệ đễ, và bằng hữu phải thành tín.
Ngũ thờng là năm phẩm chất của con ngời (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín),
trong tu thân cần rèn luyện. Trong việc trị nớc, tu thân, Khổng Tử đặc biệt
quan tâm đến đức "nhân" và"lễ".
"Nhân" là đức tính toàn thiện, là cái gốc đạo đức của con ng ời. Chữ

"nhân" theo Nho gia bao hàm một nội dung hết sức rộng rãi. Một học
trò hỏi Khổng Tử,"thế nào là nhân", ông trả lời: "thơng ngời là nhân","
điều gì mà mình không muốn thì đừng đem áp dụng cho ngời khác" (kỷ
sở bất dục, vật thi nhân) là nhân; "mình muốn lập thân, thì cũng giúp
ngời lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp ngời thành đạt"
25


×