Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quy trình và kỹ thuật thiết kế câu hỏi thi trắc nghiệm khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.73 KB, 13 trang )

Quy trình và kỹ thuật thiết kế câu hỏi thi trắc nghiệm
khách quan
Câu hỏi thi trắc nghiệm khách quan có nhiều dạng câu hỏi: đúng sai, điền khuyết,
ghép hợp, đa lựa chọn... trong đó trắc nghiệm đa lựa chọn được sử dụng nhiều nhất, đòi
hỏi các kỹ thuật thiết kế phức tạp hơn cả.
Loại câu hỏi: đúng – sai: Là loại câu hỏi đưa ra một phát biểu để học sinh đánh
giá là đúng hay sai, hoặc dưới dạng câu hỏi để được trả lời có hay không.
Loại câu đúng – sai thích hợp để gợi nhớ lại kiến thức với một khối lượng kiến
thức đáng kể trong một khoảng thời gian nhanh chóng. Tuy nhiên câu dẫn của loại câu
hỏi này phải hoàn toàn rõ ràng để có thể trả lời dứt khoát là có hay không. Điều này tạo
ra sự khó khăn khi áp dụng loại câu hỏi này để kiểm tra trình độ hiểu biết cao hơn. Nó
không tạo cho học sinh phân biệt được những sắc thái khác nhau của ý nghĩa. Câu hỏi
đúng sai còn có hạn chế là xác xuất đoán mò rất cao (50%).
Ví dụ câu đúng – sai: Khoanh tròn vào chữ Đ nếu câu phát biểu được cho là đúng,
và vào chữ S nếu câu đó là sai:
Hydrogen Sulphit
1. Là một chất khí ở nhiệt độ trong phòng
Đ
S
2. Có mầu tím sẫm
Đ
S
3. Cháy tự do trong không khí
Đ
S
4. Tạo thành dung dịch Bazơ trong nước
Đ
S
Loại câu hỏi điền khuyết(điền vào chỗ trống): Loại câu này đòi hỏi học sinh cung
cấp câu trả lời một hay một ít từ cho một câu hỏi trực tiếp hay một câu nhận định chưa
đầy đủ. Ưu điểm của loại câu này là khó tạo điều kiện để học sinh đoán mò vì học sinh


phải nhớ lại hoặc nghĩ ra câu trả lời. Tuy nhiên loại câu điền có thể khó xây dựng cho rõ
ràng. Có thể sẽ có nhiều câu trả lời có giá trị như nhau để điền vào một chỗ trống. Điều
đó gây khó khăn cho khâu chấm điểm.
Ví dụ câu điền vào chỗ trống:
1. Tên của một dụng cụ dùng để đo nhiệt độ là gì? ……………..
2. Con nhím biển thuộc loài ……………..
Loại câu hỏi ghép hợp hay ghép đôi
Loại câu này thường có hai dãy thông tin gọi là các câu dẫn và các câu đáp. Chúng
cần được ghép lại với nhau theo kiểu tương ứng một – một. Hai dãy thông tin này không
nên có số câu bằng nhau để cho cặp ghép cuối cùng không chỉ đơn giản là kết quả của sự
loại trừ liên tiếp.
Loại câu này dễ viết và dễ dùng. Tuy nhiên nếu soạn những câu đo mức độ kiến
1


thức cao đòi hỏi phải mất nhiều công phu. Nếu có nhiều thông tin trong mỗi cột thì người
làm test sẽ phải mất nhiều thời gian đọc và lựa chọn tìm câu ghép đôi.
Bài trắc nghiệm khách quan với các câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn: là một
hình thức đánh giá rất linh hoạt có thể được sử dụng để đánh giá các kiến thức, kỹ năng,
khả năng ở các cấp độ tư duy của học sinh… Thông thường, một bài test dạng này
thường bao gồm một số các câu hỏi yêu cầu học sinh phải lựa chọn một đáp án đúng từ
các phương án đã cho và mỗi câu hỏi luôn có một phương án đúng hoặc đúng nhất, các
phương án còn lại là phương án sai/ phương án nhiễu.
Bài kiểm tra, bài thi với các câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn có thể được sử
dụng với nhiều mục đích giáo dục khác nhau, mặc dù chúng được sử dụng thường xuyên
trên lớp học để đánh giá thành tích học tập và xếp loại học sinh. Các mục đích khác của
dạng bài này là cung cấp thông tin phản hồi về sức học, thành tích học tập tới học sinh,
thông tin phản hồi về giảng dạy tới giáo viên, chẩn đoán những nhận thức sai lệch của
học sinh và một số vấn đề khác.
Mô tả về dạng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn

Một bài test có nhiều lựa chọn thường được cấu thành nên từ các câu hỏi (item) có
nhiều lựa chọn bao gồm 2 phần (gồm câu dẫn thường là một câu hỏi hoặc tình huống có
vấn đề cần giải quyết vàcác phương án trả lời. Đôi khi có thể là 3 phần, phần thức ba này
có thể là một biểu đồ hoặc bảng số liệu, hình vẽ, tranh... chứa thông tin liên quan đến câu
dẫn, phương án trả lời.
VD 1: An cao hơn Bình, Long cao hơn Nam, Toàn cao hơn Huệ, nếu Toàn thấp hơn Bình
và Long thấp hơn Huệ thì thứ tự từ cao đến thấp sẽ là?
A- An, Bình, Long, Nam, Toàn, Huệ
B- Huệ, Long, Nam, An, Bình, Toàn
C- An, Long, Nam,Bình, Toàn, Huệ
D- An, Bình, Toàn, Huệ, Long, Nam
VD 2: “Máy của chiếc xe này ở trong tình trạng xấu đến nỗi không đáng để sửa chữa nó”.
Câu nào dưới đây có khả năng gần sự thật nhất?
A- Tiền công sửa chữa máy cũ sẽ đắt hơn tiền mua máy mới.
B- Dù cố gắng cũng không thể sửa được vì không có phụ tùng thay thế.
C- Sửa máy cũ sẽ không làm tăng giá trị của chiếc xe.
D- Chiếc xe này không có giá trị gì nữa.
VD 3: Cách tốt nhất để phát hiện về bản thân và thế giới xung quanh là:
2


ABCD-

Luôn tích cực và có tinh thần trách nhiệm trong các công việc được giao
Thường xuyên trò chuyện với những người hiểu biết hơn mình
Tích cực hoạt động và cố gắng thử sức mình qua nhiều tình huống thực tiễn
Tìm đọc thật nhiều sách báo và tạp chí

Câu dẫn của một câu hỏi (item) có nhiều phương án lựa chọn thường là một câu
hỏi hay tình huống...sơ đồ, biểu đồ,yêu cầu học sinh phải thực hiện một nhiệm vụ nào đó.

Câu dẫn đặt ra câu hỏi, đưa ra một vấn đề yêu cầu học sinh giải quyết.
Các phương án là những lựa chọn mà từ đó học sinh sẽ chọn ra được một đáp án
đúng. Có hai dạng phương án: “phương án đúng”/”đáp án” là phương án lựa chọn chính
xác hoặc tốt nhất/đúng nhất/phù hợp nhất...; “phương án nhiễu” là những lựa chọn sai,
thiếu chính xác hoặc gần đúng.
Những tranh cãi về dạng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn
Nhiều người cho rằng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn là câu hỏi khách quan.
Tuy nhiên chúng cũng có thể “chủ quan” giống như bất kỳ một câu hỏi tự luận nào nếu
được viết một cách cẩu thả, kém chất lượng. Thực ra một câu hỏi tự luận có chất lượng
và một bản hướng dẫn cách chấm điểm chi tiết có thể khách quan hơn một số câu hỏi có
nhiều phương án lựa chọn. Tính chất chủ quan/khách quan không nằm trong các dạng
câu hỏi mà phụ thuộc nhiều hơn vào cách viết câu hỏi và cách chấm điểm học sinh, vì
vậy phải có kế hoạch đưa tính khách quan vào câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn trước
khi bắt tay vào viết những câu hỏi này (Dwyer, 1993).
Một số người khác cho rằng các câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn chỉ đánh
giá được những kiến thức bề nổi (VD: nhận biết, thông hiểu). Điều này có thể do giáo
viên chưa hiểu và chưa có kỹ năng viết được những câu hỏi có chất lượng. Các bài trắc
nghiệm đánh giá trí tuệ (IQ, CQ, EQ…) do các nhà tâm lý học viết ra thường dùng các
câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi các thành viên
có trình độ cao đẳng, họ không viết được những câu hỏi có chất lượng (Guthrie, 1992;
Lederhouse và Lower, 1974; Mc Dougall, 1997), phần lớn các câu hỏi có nhiều phương
án lựa chọn do họ biên soạn chỉ tập trung kiểm tra học sinh ở cấp độ ghi nhớ và thông
hiểu (Crooks, 1988: Shifflett.Phibbs & Sage 1997).
Một số người khác cho rằng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn chỉ được sử
dụng cho việc xếp loại. Ý kiến này xuất phát từ sự hiểu lầm khi cho rằng đánh giá và
giảng dạy là hai giai đoạn riêng biệt của quá trình học tập. Thực chất, không thể giảng
dạy mà không có đánh giá, và quan trọng hơn, cả hai hoạt động này đều là những yếu tố
giúp cho việc học diễn ra. Đa số giáo viên: “Đã tập trung quá nhiều vào chức năng xếp
loại của đánh giá, đã bỏ qua vai trò của đánh giá là giúp đỡ học sinh trong học tập”. Có
3



nhiều cách để thiết kế và sử dụng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn với mục đích
khuyến khích và tinh lọc việc học, cung cấp thông tin và giảng dạy cũng như xếp loại,
phân lớp học sinh.
Quy trình thiết kế câu hỏi thi trắc nghiệm khách quan (có nhiều phương án lựa
chọn)
Trong đánh giá kiến thức, kỹ năng, giáo viên nên định hướng mục đích vào việc tìm
ra nội dung nào học sinh đã nắm vững, nội dung nào học sinh còn mơ hồ và mức độ nhận
thức của chúng đến đâu. Điểm số bài kiểm tra của học sinh cần phản ánh rõ điều này.
Như vậy về cơ bản, nguyên tắc của việc biên soạn bài test có câu hỏi với nhiều phương
án lựa chọn sẽ hoạt động theo hai cách: tối đa hoá khả năng của học sinh trong việc thể
hiện những gì chúng biết về nội dung và tối thiểu hoá khả năng ảnh hưởng của các nhân
tố bên ngoài tới điểm số của bài kiểm tra. Cần hạn chế tối đa các nhân tố ảnh hưởng tới
khả năng tư duy của học sinh như câu hỏi quá dài, trúc trắc quá khó đọc, tình huống vòng
vo gây mệt mỏi khi đọc... Trong các câu hỏi trắc nghiệm, cần loại bỏ các câu hỏi “đoán
mò” và “đánh lừa”.
Dưới đây là quy trình thiết kế bài trắc nghiệm khách quan có nhiều phương án lựa
chọn:
Bước 1. Lập bảng ma trận nội dung chi tiết cho bài test
Một vấn đề quan trọng trong giai đoạn này đó là việc tạo ra sự phù hợp giữa nội
dung giảng dạy và các chuẩn chương trình, giữa nội dung kiểm tra và nội dung giảng dạy
để đảm bảo rằng chương trình sẽ được giảng dạy và những nội dung giảng dạy sẽ được
đánh giá. Điều này về cơ bản là một vấn đề về sự công bằng cũng như sự phù hợp giữa
dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh. Có rất nhiều ý kiến phàn nàn về việc
kiểm tra đánh giá xuất phát từ sự thiếu cân đối giữa hai vấn đề này. Chẳng hạn học sinh
phàn nàn rằng chúng em không hiểu bài kiểm tra này yêu cầu điều gì, những điều này
chưa bao giờ được nhắc đến trên lớp học. Một bản mô tả chi tiết các các nội dung cần
kiểm tra là một công cụ hữu ích cho thiết kế bài test và cả hoạt động giảng dạy.
Một bảng ma trận chi tiết (Gronlund và Linn, 1990) là một bản mô tả chi tiết về

các nội dung, yêu cầu kiến thức, kỹ năng, các cấp độ đánh giá. Bảng này thường bắt đầu
với một cột chứa đựng các phạm vi nội dung của bài kiểm tra có thể được liệt kê theo chủ
đề, theo chương trình hoặc các cách phân chia khác. Một cột khác là sự phân loại của các
cách mà bạn muốn học sinh mình thể hiện chứng tỏ chúng hiểu biết về nội dung. Cách
phân loại này có thể là một cách truyền thống như thang Bloom [4 cấp độ tư duy: nhận
biết; thông hiểu; vận dụng; đánh giá) hoặc theo cách phân loại của riêng bạn. Cuối cùng,
4


mỗi ô trong bảng có phân định tỷ trọng tương ứng với mỗi nội dung và mỗi cách thể hiện
sự hiểu biết của học sinh ứng với nội dung đó.
Ví dụ về bảng ma trận chi tiết của bài kiểm tra khoá học mở đầu môn vật lý (tổng điểm
50). Ví dụ này cho thấy tỉ lệ % điểm số cho mỗi chủ đề và cấp độ tư duy. Có tổng cộng 50
câu hỏi trong bài kiểm tra.
Cấp độ tư duy
Chủ
đề

Nhận
biết

Thông
hiểu

Vận dụng:
mức độ
thấp

Vận dụng:
mức độ cao


Tổng cộng

Công

2/50 = 4%

1/50 = 2%

0/50 = 0%

1/50 = 2%

4/50 = 8%

Năng
lượng
Thế
năng
Động
năng

năng
Điện
năng
Tổng
cộng

2/50 = 4%


3/50 = 6%

5/50 = 10%

2/50 = 4%

12/50 = 24%

2/50 = 4%

2/50 = 4%

2/50 = 4%

0/50 = 0%

6/50 = 12%

1/50 = 2%

2/50 = 4%

1/50 = 2%

1/50 = 2%

5/50 = 10%

1/50 = 2%


10/50 = 20%

5/50 = 10%

2/50 = 4%

18/50 = 36%

2/50 = 2%

1/50 = 2%

2/50 = 4%

0/50 = 0%

5/50 = 10%

15/50 = 30%

6/50 = 12%

Tổng điểm=50

10/50 = 20% 19/50 = 38%

Một khi đã xây dựng được một bảng ma trận kiểm tra chi tiết, bạn có thể sử dụng
nó để lập kế hoạch cho việc giảng dạy cũng như biên soạn các câu hỏi kiểm tra của mình.
Sở dĩ bảng ma trận chi tiết này có ích trong việc lập kế hoạch giảng dạy bởi nó ghi lại tất
cả những nội dung mà bạn thấy quan trọng nhất và cách thức mà bạn mong muốn học

sinh của mình thể hiện sự hiểu biết của chúng về những nội dung đó. Đồng thời nó cũng
cung cấp các quyết định liên quan tới kế hoạch giảng dạy của bạn. Còn vì mục đích khác
là tạo ra sự phù hợp giữa giảng dạy, kiểm tra kết quả học tập, những nội dung được nhấn
mạnh trong giảng dạy cũng được nhấn mạnh trong đánh giá. Do đó, một bản mô tả chi
tiết sẽ là một cách thức hiệu quả để thống nhất giảng dạy và đánh giá (Nitko, 2001).
Bước 2: Viết câu hỏi
Vấn đề đáng quan tâm đầu tiên trong bước này là giáo viên sẽ tự viết các câu hỏi
hay sử dụng các câu hỏi đã có sẵn trong các ngân hàng câu hỏi đi kèm với sách giáo
5


khoa. Giáo viên có thể gặp phải một số rủi ro khi sử dụng các ngân hàng câu hỏi đã được
xuất bản rộng rãi. Trước hết, đó là sự khác biệt giữa bảng ma trận kiểm tra chi tiết của
giáo viên và của ngân hàng câu hỏi. Giáo viên cần phải đảm bảo rằng những nội dung
cần nhấn mạnh trong bài kiểm tra vẫn được giữ nguyên. Thứ hai, không thể chắc chắn
được rằng các câu hỏi trong ngân hàng câu hỏi đã được thử nghiệm và đều là những câu
hỏi đúng, có chất lượng cao, phù hợp với học sinh. Vì vậy nên hạn chế hoặc ít nhất phải
xem xét kỹ lưỡng khi sử dụng các câu hỏi trong ngân hàng câu hỏi.
a). Các nguyên tắc chung của việc ra đề thi trắc nghiệm khách quan:
• Xác định tổng số câu hỏi mà bạn muốn viết. Vấn đề cần quan tâm ở đây là:
phạm vi kiến thức mà bạn muốn đánh giá qua bài test, mức độ đánh giá, mức
độ phức tạp của câu hỏi và thời gian làm bài kiểm tra. Thường thì một phút
một câu hỏi hoặc có thể nhiều hơn một phút nếu câu hỏi phức tạp (Gronlund,
1988, Oosterhof, 2001).
• Sử dụng bảng ma trận kiểm tra chi tiết để xác định số lượng câu hỏi bạn cần
viết trong mỗi ô.
• Tránh đưa ra câu hỏi có nội dung quá chung chung hoặc quá chi tiết. Điều này,
về một khía cạnh nào đó, phụ thuộc vào các chuẩn kiến thức, kỹ năng nhưng
không nên hỏi về các vấn đề quá rộng lớn hoặc quá vụn vặt.
• Đảm bảo rằng mỗi câu hỏi kiển tra một và chỉ một khái niệm/vấn đề. Nếu câu

hỏi kiểm tra hai hoặc nhiều khái niệm, bạn sẽ không biết chắc được học sinh
thực sự hiểu khái niệm nào nếu chúng đưa ra đáp án đúng. .
• Quyết định xem các câu hỏi đã bao quát hết các phạm vi kiến thức kỹ năng cốt
lõi cần đánh giá.
b). Các nguyên tắc viết câu dẫn cho câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn:
• Đưa “ý chính” của câu hỏi vào câu dẫn, không nên đưa vào các phương án lựa
chọn.
• Sắp xếp câu dẫn hợp lý để tránh các ngôn ngữ/cách diễn đạt mới lạ, không hợp
lý nhưng cũng cố gắng để đưa được nhiều hơn ý của chủ đề vào câu dẫn và đưa
ra những phương án lựa chọn ngắn gọn hơn.
• Tránh các từ ngữ mang tính chất phủ định như “ngoại trừ”, “không”. Nếu sử
dụng những từ ngữ này, bạn phải làm nổi bật chúng bằng cách in nghiêng, in
đậm hoặc gạch chân. Đánh dấu các từ ngữ quan trọng như “không”, “chỉ có”,
6


“ngoại trừ” nếu sử dụng chúng trong câu hỏi.
c). Nguyên tắc viết phương án lựa chọn cho các câu hỏi có nhiều lựa chọn:
• Câu hỏi khách quan đa lựa chọn có từ 3-5 phương án,thông thường nên có bốn
phương án lựa chọn trong đó có một phương án đúng/đúng nhất. Các phương
án sai/ nhiễu là một phương án gần đúng và những lỗi thường gặp ở học sinh.
Tuy nhiên ba phương án lựa chọn có chất lượng cho một câu hỏi có thể tốt hơn
bốn phương án nếu trong đó có một phương án nhiễu kém chất lượng (học sinh
dễ nhận ra).
• Các phương án lựa chọn nên có độ dài tương xứng. Một phương án dài hơn
hoặc ngắn hơn một cách thái quá có thể thu hút sự chú ý của học sinh vì chúng
nổi bật và có thể dễ dàng nhận thấy.
• Các phương án lựa chọn phải phù hợp với câu dẫn về mặt ngữ pháp.
• Tránh đưa ra các phương án lựa chọn chồng chéo, có sự trùng lặp, nối tiếp với
nhau.

VD:
Câu hỏi có chất lượng kém:
1. Ở khoảng nhiệt độ nào, nước sẽ là chất lỏng?
a) giữa 0 và 50
b) giữa 50 và 100
c) giữa -50 và 0
d) giữa 100 và 150
(Lưu ý: cả phương án avà b đều có 0; cả phương án a và c đềucó 100)
Câu hỏi viết lại có chất lượng tốt hơn:
2. Ở khoảng nhiệt độ nào nước sẽ là chất lỏng?
a) giữa 1 và 50
b) giữa 51 và 99
c) giữa -50 và 0
d) giữa 100 và 150
• Tránh đưa ra phương án “tất cả các phương án trên đều đúng”
- Nguyên tắc viết phương án lựa chọn của câu hỏi có nhiều lựa chọn: “bí kíp” viết các
phương án đúng/đáp án.
7


• Đảm bảo rằng các đáp án đúng được viết dựa vào chủ đề/đoạn văn và /hoặc sự
phù hợp/nhất trí về nội dung kiểm tra (những kiến thức, kỹ năng cơ bản, cốt lõi
được giảng dạy trên lớp học... cần đánh giá).
• Tránh các câu hỏi “gợi ý” hoặc “kết nối”, đáp án của câu này được tìm thấy
hoặc phụ thuộc vào câu khác. Vấn đề này thường gặp khi tập hợp các câu hỏi
để tạo thành một bài test hoàn chỉnh hoặc khi bạn viết câu hỏi cho một vài lớp
học.
- Nguyên tắc viết phương án lựa chọn cho câu hỏi có nhiều lựa chọn: “bí kíp” viết các
phương án nhiễu
• Phương án nhiễu được đưa ra nhằm “thu hút” những học sinh không hoàn toàn

nắm vững nội dung/kiến thức. Đây không phải là “thủ đoạn” hay “đánh lừa”
hoặc “không công bằng”. Nó xuất phát từ “tiền đề’ rằng mục tiêu của kiểm tra
đánh giá là tìm ra những học sinh đã hiểu bài và những học sinh không hiểu
bài. Học sinh đã học và nắm vững kiến thức sẽ chọn được đáp án đúng và
ngược lại những học sinh không học, không hiểu bài sẽ không chọn được đáp
án đúng.
• Tất cả các phương án nhiễu phải có tính hợp lý. Đó thường là những hiểu lầm
những sai sót học sinh thường mắc. Sử dụng kiến thức, hiểu biết của giáo viên
về các lỗi thông thường mà học sinh hay mắc phải để viết phương án nhiễu là
cách làm khôn ngoan nhất. Ví dụ, nếu giáo viên biết rằng, học sinh thường bỏ
qua một bước hoặc nhầm lẫn trong quá trình tính toán nào đó, hãy đưa ra một
phương án nhiễu là kết quả của thiếu sót/ nhầm lẫn đó. Cũng có rất nhiều
nghiên cứu đã đưa ra những dẫn chứng về nhận thức sai thông thường trong
các khái niệm khoa học. Bạn có thể đưa những nhận thức sai này vào các
phương án nhiễu. (Sadler, 1998).
Bước 3. Xây dựng bài trắc nghiệm khách quan:
Dưới đây là những hướng dẫn giúp xây dựng, hoàn chỉnh một bài kiểm tra trắc
nghiệm khách quan:
• Đưa ra bản hướng dẫn rõ ràng. Nếu bạn sử dụng nhiều dạng câu hỏi khách
quan, hãy viết các hướng dẫn riêng cho từng dạng câu hỏi.
• Sắp xếp các câu hỏi theo nội dung, dạng câu hỏi, sau đó là sự tăng dần của
mức độ khó (Gronlund, 1998). Quy luật này được đưa ra dựa trên nguyên tắc
xử lý thông tin. Sẽ dễ dàng hơn cho học sinh khi chúng trả lời tất cả các câu
8


hỏi về một nội dung trước khi chuyển sang nội dung khác. Học sinh cũng thực
hiện các nhiệm vụ trí óc tương tự với các câu hỏi tương tự trước khi chuyển
sang nhiệm vụ và các dạng câu hỏi khác. Cuối cùng, hãy xếp các câu dễ trước
các câu khó để học sinh có thể đạt được một số điểm nhất định, có thêm tự tin

khi làm bài test..
• Đảm bảo rằng học sinh sử dụng sự hiểu biết, hạn chế tối đa sự “đoán mò” khi
làm bài kiểm tra. Nếu bài trắc nghiệm có nhiều câu, đa số học sinh phải đoán
mò, lúc đó điểm số của chúng không phản ánh những điều chúng biết mà là
khả năng đoán mò, kỹ năng làm bài kiểm tra.
• Không tập hợp nhiều câu hỏi trong một trang.
• Tránh sử dụng hai mặt giấy vì học sinh có thể bỏ qua trang sau.
• Viết các dòng hướng dẫn ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
Bước 4. Chấm điểm:
Bạn có thể sử dụng mẫu ghi chép đầy đủ (a full-credit model) để ghi lại tất cả
những câu trả lời đúng hoặc sai của học sinh. Bạn cũng có thể sử dụng mẫu ghi chép
không đầy đủ (a partial credit model) để ghi lại toàn bộ những đáp án đúng của học sinh
và một số phương án nhiễu mà học sinh đã chọn.
Biến đổi linh hoạt dạng câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn
Đây thực sự là một trong những điểm mạnh của câu hỏi có nhiều lựa chọn. Một số
biến đổi hữu ích khiến câu hỏi đa lựa chọn trở thành dạng câu hỏi vô cùng linh hoạt.
VD: Sự đa dạng về đáp án đúng:
- Đáp án rõ ràng đúng và phương án nhiễu rõ ràng sai.
- Đáp án là lựa chọn tốt nhất/ gần đúng nhất, trong khi các phương án
nhiễu, cũng “gần đúng”.
VD: sự liên kết một chuỗi các câu hỏi từ các dữ liệu “tạo nguồn”. Chẳng hạn, sử
dụng một đoạn văn/ một câu chuyện, một đồ thị/ một bảng biểu thống kê…rồi đưa ra liên
tiếp những câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn. Dạng bài này đặc biệt có tác dụng trong
việc cùng kiểm tra một số kỹ năng tư duy khác nhau.
Xử lý phân tích câu hỏi trắc nghiệm đa lựa chọn
Về cơ bản có hai sự phân tích có thể tiến hành đối với các câu hỏi có nhiều lựa
chọn:
9



- Dạng phân tích thứ nhất là phân tích hình thức chấm điểm-liên quan tới việc chấm
điểm bài kiểm tra để xác định thành tích học tập của học sinh.
- Dạng phân tích thứ hai là phân tích câu hỏi- liên quan tới việc phân tích chức năng
của câu hỏi.
Phân tích các cách chấm điểm
Có một số cách thức chấm điểm học sinh đối với dạng câu hỏi có nhiều lựa chọn.
Dưới đây là hai cách:
- Một là cách ghi chép đầy đủ – ghi lại tất cả các câu trả lời của học sinh dù đúng
hay sai. Tổng điểm của học sinh sau đó là tổng của các câu trả lời đúng.
- Hai là ghi chép một phần - ghi lại toàn bộ các câu trả lời đúng của học sinh và
một số phương án nhiễu mà học sinh đó lựa chọn. Cách chấm điểm này sẽ phát huy tác
dụng tối đa đối với các câu hỏi có “đáp án chính xác nhất” hoặc những câu hỏi mà học
sinh có thể chọn “hơn một” đáp án. Ví dụ, bạn có thể cho điểm học sinh khi học sinh đó
đã chọn đáp án đúng nhưng không phải là đáp án đúng nhất, chính xác nhất.
Vấn đề cuối cùng trong việc chấm điểm đó là “trọng số của câu hỏi”. Cách tiếp
cận dễ dàng nhất là cho 01 điểm cho tất cả các câu hỏi để chúng có cùng “trọng lượng”.
Tuy nhiên, dựa vào bảng ma trận kiểm tra chi tiết hoặc các yếu tố khác, giáo viên có thể
quyết định tập trung vào một số câu hỏi hơn những câu khác và tăng điểm của chúng
trong tổng điểm bài kiểm tra.
Phân tích câu hỏi
Khi biên soạn đề thi và tiến hành kiểm tra, giáo viên có thể thực hiện một số phân
tích để đảm bảo chất lượng của câu hỏi trong cả lần thi hiện tại và trong những lần thi
tiếp theo.
Mức độ khó: Câu hỏi khó hay dễ đối với nhóm học sinh này? Độ khó của từng câu
hỏi được tính theo tỉ lệ học sinh chọn đúng đáp án trên tổng số thí sinh làm bài. Mức độ
khó thường dao động từ 0.00 đến 1.00. Tốt nhất nên có sự hài hoà/pha trộn về mức độ
khó: một vài câu khó cho các học sinh khá giỏi, xuất sắc; một vài câu dễ cho các học sinh
yếu kém và một số câu có mức độ khó trung bình. Mức độ khó trung bình của cả bài
kiểm tra với hầu hết các dạng câu hỏi có nhiều lựa chọn là từ 0.6 đến 0.7 (Gronlund và
Linn, 1990).

Mức độ phân biệt: Câu hỏi thể hiện sự khác biệt thế nào giữa học sinh nắm vững
kiến thức và học sinh chưa nắm vững kiến thức? Mức độ phân biệt này được tính như
một hệ số tương quan giữa điểm số của một câu hỏi và tổng điểm hoặc như sự khác nhau
10


về tỉ lệ học sinh có điểm số cao khi đưa ra các đáp án đúng và học sinh có điểm số thấp
khi đưa ra các đáp án đúng. Mức độ phân biệt dao động từ -1.00 đến +1.00. Giá trị âm (1.00) có nghĩa tất cả các học sinh điểm thấp có câu trả lời đúng và tất cả học sinh điểm
cao có câu trả lời sai, nếu điều này xảy ra thì câu hỏi đã sai chức năng. Giá trị dương
(+1.00) có nghĩa tất cả các học sinh điểm cao có câu trả lời đúng và tất cả học sinh điểm
thấp có câu trả lời sai, lúc này câu hỏi thực hiện đúng chức năng của chúng. Giá trị = “0”
có nghĩa câu hỏi không phân biệt học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém. Giá trị mong
đợi của mức độ phân biệt thường từ khoảng 0.3 đến 0.5 (Oosterhof, 2001).
Phân tích phương án nhiễu: Học sinh chọn phương án nào cho mỗi câu hỏi?
Thông thường, học sinh được chia thành hai nhóm: nhóm điểm cao và nhóm điểm thấp, tỉ
lệ chọn phương án cũng được ghi lại. Nhóm học sinh điểm cao thường chọn đáp án đúng
và những học sinh điểm thấp thường chọn phương án nhiễu. Nếu điều ngược lại xảy ra,
đó là lúc phải xem lại câu hỏi vì có thể có vấn đề với phương án nhiễu nên chúng đã gây
khó khăn cho nhóm học sinh khá giỏi.(Oosterhof, 2001).
Hệ số tin cậy:Độ tin cậy là mức độ mà trong đó các kết quả của học sinh nhất quán
qua các lần đánh giá (độ ổn định). Độ tin cậy còn được đánh giá theo mức độ tương quan
trong giữa các item, tính băng hệ số alpha Cronbach hoặc KR-21. Cả hai cách tính trên
đều có giá trị từ 0.00 đến 1.00 trong đó giá trị càng lớn thì độ tin cậy càng cao. Mặc dù
không có các giới hạn tuyệt đối cho các hệ số tin cậy “có thể chấp nhận được” do độ tin
cậy thường bị ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố khác nhau, một sự thống nhất trong
việc tính toán hệ số tin cậy đó là giá trị từ 0.60 đến 0.70 là một giá trị có thể chấp nhận
được [nếu bài kiểm tra được sử dụng cùng với các hình thức đánh giá khác]. Nếu bài
kiểm tra là công cụ duy nhất được sử dụng để xếp loại học sinh thì hệ số tin cậy thấp nhất
phải là .08. Bài test tốt có các item có độ phân biệt gần .50, có sự đa dạng về mức độ khó
và có nhiều câu hỏi hơn sẽ gia tăng độ tin cậy (Nitko, 2001; Oosterhof, 2001).

Việc phân tích độ khó, độ phân biệt, độ tin cậy (dựa trên sự hỗ trợ của các phần
mềm như QUEST, CONQUEST...) sẽ giúp xác định các câu hỏi có chất lượng tốt hoặc
kém chất lượng. Các thông tin này có thể được sử dụng theo rất nhiều cách.
- Các bài kiểm tra hiện tại Bạn có thể sử dụng các thông tin này để loại bỏ các câu
hỏi kém chất lượng sau mỗi lần test. Học sinh nhận được điểm số phản ánh sát thực năng
lực hơn khi những câu hỏi kém chất lượng được loại bỏ qua quá trình phân tích câu hỏi.
Ví dụ, nếu thấy rất nhiều học sinh điểm cao chọn một phương án nhiễu nhất định nào đó
giáo viên sẽ phải suy nghĩ và xem xét lại liệu đó có phải là phương án đúng/ phương án
tốt nhất hay không.
11


- Các bài kiểm tra trong tương lai. Sử dụng lại các câu hỏi là một quá trình hiệu quả
và tiết kiệm chi phí. Chất lượng của bài test sẽ tiếp tục tăng lên nếu giáo viên biết loại bỏ
hoặc chỉnh sửa các câu hỏi kém chất lượng - những câu hỏi quá khó hay quá dễ, câu hỏi
có giá trị phân biệt là giá trị âm, bằng “0” hoặc “ gần 0”…Giáo biên cần biết phân tích
các câu hỏi để nắm bắt được lý do chọn các phương án đúng, chọn phương án nhiễu.
Điểm mạnh của bài trắc nghiệm đa lựa chọn
- Các bài trắc nghiệm đa lựa chọn được xác nhận mang lại tính hiệu quả và lợi ích
kinh tế cao. Do thời gian làm bài trắc nghiệm ngắn nhưng học sinh phải trả lời rất nhiều
câu hỏi, điều này cho phép bao quát một phạm vi kiểm tra đánh giá rộng khắp theo yêu
cầu môn học.
- Việc chấm điểm dễ dàng, nhanh chóng, có thể chấm bằng máy và bảo đảm tính
khách quan trong khâu chấm bài. Kết quả trắc nghiệm có thể dễ dàng phân tích độ tin cậy
và độ giá trị bằng các phần mềm có sử dụng các mô hình phương pháp toán học. Các câu
hỏi có nhiều đáp án lựa chọn thường rất linh hoạt để sử dụng... Tất cả những thuận lợi
này sẽ được phát huy nếu các câu hỏi đựoc chuẩn bị kỹ lưỡng và bài test được thiết kế
cẩn thận. Điều này yêu cầu có thời gian, kế hoạch, tính sáng tạo và kỹ năng thiết kế.
Điểm yếu của bài trắc nghiệm đa lựa chọn
- Một trong những điểm yếu của các bài kiểm tra với câu hỏi có nhiều phương án

lựa chọn là giáo viên chỉ viết được những câu hỏi ở bậc tư duy thấp như nhận biết, hồi
tưởng/ nhớ lại… và khó viết được những câu hỏi có khả năng đánh giá được các cấp độ
cao của tư duy như vận dụng, sáng tạo…điều này luôn là mối quan tâm của cả giáo viên
và học sinh (Crooks, 1988; Shifflett, Phibbs, & Sage, 1997). Nếu giáo viên xem kỹ bảng
ma trận các nội dung chi tiết cho bài kiểm tra thì đó sẽ là một cách rất tốt để tránh được
những khó khăn không thể ngờ tới.
- Việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khá phức tạp, tốn thời gian đòi hỏi người xây
dựng trắc nghiệm phải được huấn luyện đầy đủ.
- Một yếu điểm khác của bài kiểm tra với câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn là
chúng đặt thông tin ra khỏi ngữ cảnh. Điều này có nghĩa là chúng khiến cho kiến thức thường là các dẫn chứng thực tế - bị đẩy ra khỏi ngữ cảnh (Shepard, 1989; Wiggins,
1989, 1992). Một số người cho rằng việc đặt thông tin không đúng ngữ cảnh sẽ làm cho
việc đánh giá không có hiệu lực. Người ta vẫn thường thừa nhận rằng trong khuôn khổ có
giới hạn của một bài kiểm tra, các tình huống đánh giá thường có tính gián tiếp/giả định
(Shepard, 1989). Các bài tập tình huống, bài tiểu luận, thậm chí cả bài viết luận thường
12


được coi là “thật” hoặc “phản ánh đúng thế giới” hơn (Wiggins, 1989, 1992).
Sử dụng trắc nghiệm khách quan cần tuân theo một số yêu cầu sau:
- Câu trắc nghiệm cần có độ tin cậy và độ giá trị đáp ứng yêu cầu đo đúng mục tiêu
cần đo và kết quả ổn định không phụ thuộc vào người chấm hay thời gian địa điểm thi.
- Quá trình tiến hành trắc nghiệm cần phải được chuẩn bị chu đáo. Cần có những
biện pháp chống gian lận khi làm bài, có thể bằng phương án đảo ngẫu nhiên các câu hỏi
để những người ngồi cạnh nhau không có trình tự câu hỏi giống nhau.

Những yêu cầu chung khi thiết kế câu hỏi thi trắc
nghiệm khách quan
Các trắc nghiệm khách quan thường được dùng để đo lường, năng lực nhận thức,
năng lực học tập, thành tích học tập, các năng lực chuyên biệt, mức độ thành thạo các
kỹ năng... do vậy cần lưu ý khi viết các item:

1- Các câu hỏi được viết với mức độ đọc hiểu phù hợp cho đối tượng làm test: câu
đơn nghĩa, từ vựng phổ thông, tránh dùng những từ đa nghĩa, tiếng lóng, khó hiểu
2- Đảm bảo các phương án trả lời cho mỗi câu hỏi phải có câu trả lời đúng/ đúng
nhất/ tốt nhất được các chuyên gia chấp nhận
3- Đảm bảo mỗi câu hỏi có một nội dung đo lường thật cụ thể, khu biệt tương đối
nằm trong một phạm vi nội dung cần đo đã được xác định.
4- Đảm bảo mỗi item có tính độc lập. Một item hoặc một câu trả lời này không được
gợi ý câu trả lời cho một item khác
5- Tránh viết các item theo kiểu câu hỏi đánh đố, mẹo, bẫy vì dễ chuyển tải sai thông
tin. Câu hỏi khách quan có xu hướng trở thành câu hỏi đánh đố, mẹo, cài bẫy khi
buộc học sinh phải chọn ra một từ hay một con số của câu mà nó có ý nghĩa định
hướng vào một vấn đề hoàn toàn khác.
Ví dụ: tình huống: ”Hai người cùng đến một con sông, con sông chỉ có một con đò,
con đò chỉ chở được một người. Hỏi làm thế nào cả hai cùng qua được sông?”. Tình
huống này được cài bẫy ở từ ”cùng”.
6- Đảm bảo tình huống được viết ra là rõ ràng dễ hiểu, hiểu đúng nghĩa
Ví dụ : Viết kém:

Đ S Bệnh đái tháo đường được phát triển sau 40 tuổi

Câu này nghĩa không rõ ràng vì từ phát triển có nghĩa không rõ ràng, câu này có thể
hiểu: ”chỉ mắc bệnh sau lứa tuổi 40” hay ”bệnh hay mắc phải sau tuổi 40”

13



×