Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Luận văn tư sản người việt ở trung kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.77 KB, 155 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU............................................................................................................
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ......................
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.......................................

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tư sản người Việt nói
chung..................................................................................
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa, kinh
tế - xã hội, phong trào yêu nước - cách mạng… của
Trung Kỳ...........................................................................
1.2. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ......................................................
Chương 2: TƯ SẢN NGƯỜI VIỆT Ở TRUNG KỲ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẾN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT (1914).......................
2.1. Sự ra đời bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ.......................................

2.1.1. Điều kiện lịch sử.........................................................
2.1.2. Sự ra đời bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ
.........................................................................................
2.2. Hoạt động sản xuất, kinh doanh.................................................................

2.2.1. Các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh..........................
2.2.2. Các hình thức sản xuất, kinh doanh................................
2.3. Tư sản người Việt ở Trung Kỳ với các cuộc vận động yêu nước đầu thế
kỷ XX.......................................................................................................



Tiểu kết chương 2.....................................................................
Chương 3: TƯ SẢN NGƯỜI VIỆT Ở TRUNG KỲ TỪ NĂM 1914 ĐẾN
NĂM 1930........................................................................................................


3.1. Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ năm 1914 đến năm 1918.......................

3.1.1. Bối cảnh lịch sử...............................................................
3.1.2. Hoạt động sản xuất, kinh doanh......................................
3.1.3. Tham gia phong trào yêu nước.......................................
3.2. Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ năm 1919 đến năm 1930.......................

3.2.1. Điều kiện lịch sử mới.................................................
3.2.2. Sự trưởng thành của tư sản người Việt ở Trung
Kỳ.....................................................................................
3.2.3. Hoạt động sản xuất, kinh doanh......................................
3.2.4. Tham gia phong trào dân tộc dân chủ...........................105
Tiểu kết chương 3...................................................................115
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA TƯ SẢN NGƯỜI VIỆT
Ở TRUNG KỲ TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX....................................
4.1. Đặc điểm của tư sản người Việt ở Trung Kỳ............................................
4.2. Vai trò lịch sử của tư sản người Việt ở Trung Kỳ.....................................136

4.2.1. Về kinh tế...................................................................... 137
4.2.2. Về chính trị - xã hội.......................................................142
Tiểu kết chương 4...................................................................145
KẾT LUẬN....................................................................................................147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................152
PHỤ LỤC.......................................................................................................165


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NCLS

: Nghiên cứu lịch sử

NXB

: Nhà xuất bản

TTLTQG

: Trung tâm lưu trữ Quốc gia


DANH MỤC CÁC BẢNG

Ký hiệu

Nội dung các bảng

Trang

Bảng 3.1: Khối lượng hàng hóa đường dài qua cảng Đà Nẵng từ năm 1914
đến năm 1918...................................................................................
Bảng 3.2: Thống kê số lượng thuyền buôn và khối lượng hàng hóa của

thương nhân Việt Nam xuất cảng, giai đoạn 1910 - 1916..................
Bảng 3.3: Khối lượng hàng hóa vận chuyển ven bờ qua cảng Đà Nẵng từ
năm 1913 đến năm 1918...................................................................
Bảng 3.4: Thống kê số lượng người Việt đóng thuế môn bài ở Trung Kỳ các
năm 1921 - 1922...............................................................................
Bảng 3.5: Phân bố các làng nghề dệt ở Phú Yên trước năm 1930......................
Bảng 3.6: Các sản phẩm dệt của tỉnh Phú Yên tham gia hội chợ........................
Bảng 3.7: Khối lượng hàng xuất - nhập khẩu qua cảng Bến Thủy, Đà Nẵng
năm 1924 và 1926.............................................................................
Bảng 4.1: Thống kê số tiền người Âu và người Việt đóng thuế ở một số tỉnh
khu vực Trung Kỳ năm 1922...........................................................130


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Kỳ (Annam) là tên gọi theo sự phân chia của người Pháp khi đặt ách thống
trị lên đất nước ta. Theo hiệp ước Hácmăng được ký kết giữa triều Nguyễn với thực dân
Pháp ngày 25-8-1883 thì khu vực Trung Kỳ bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình tới Ninh
Thuận. Sau đó, trong Hiệp ước Patơnốt được ký ngày 6- 6- 1884, thực dân Pháp trả lại
Bình Thuận ở phía Nam và Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc cho khu vực Trung
Kỳ. Như vậy, đến đầu những năm 20 của thế kỷ XX khu vực Trung Kỳ chính thức được
xác lập từ địa giới phía Nam tỉnh Bình Thuận trở ra tới địa giới phía Nam tỉnh Ninh Bình,
với các tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc,
Kon Tum, Lâm Viên (sau tách thành Thành phố Đà Lạt và tỉnh Đồng Nai Thượng) và một
thành phố “nhượng địa” là Đà Nẵng. Đây là khu vực có nhiều nét tương đồng về điều kiện
địa lý, tự nhiên, xã hội, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế công - nông - thương
nghiệp, có sức hấp dẫn đối với các nhà tư sản nước ngoài và Việt Nam.
Dưới tác động của các cuộc khai thác thuộc địa và những điều kiện chủ quan,

khách quan khác, cùng với tư sản người Việt cả nước, bộ phận tư sản người Việt ở Trung
Kỳ cũng dần hình thành, phát triển, từ một bộ phận nhỏ bé trong xã hội ở đầu thế kỷ XX
trở thành lực lượng có địa vị nhất định trong xã hội Trung Kỳ từ sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914 - 1918).
Vừa ra đời, tư sản người Việt Trung Kỳ đã có những hoạt động dưới những hình
thức khác nhau và cổ động làm ăn theo lối tư bản chủ nghĩa khá sôi nổi, với những phương
thức kinh doanh phù hợp. Họ không ngừng vươn lên và từng bước khẳng định vai trò, vị
thế của mình, trên cơ sở đó góp phần vào phong trào dân tộc trong những năm đầu thế kỷ
XX.
Cho đến nay vấn đề tư sản người Việt thời Pháp thuộc đã được các nhà khoa học
trong và ngoài nước nghiên cứu, một số công trình đã công bố. Tuy vậy, nhiều vấn đề lịch
sử về tư sản người Việt như tác động của chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với sự
ra đời và trưởng thành của nó, hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tham gia của họ vào
phong trào dân tộc dân chủ, đặc điểm và vai trò lịch sử của họ đối với lịch sử dân tộc vẫn
chưa được giải quyết thỏa đáng. Hơn nữa, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào chuyên
nghiên cứu về tư sản người Việt ở khu vực Trung Kỳ trong những thập niên đầu thế kỷ
XX.
Sự nghiệp đổi mới hiện nay đang gặt hái được nhiều thành tựu, đặc biệt sự kiện
Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đang thúc đẩy quá trình hội nhập


2
kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh những cơ hội thuận lợi, các doanh nghiệp (cả
quốc doanh lẫn tư doanh) vẫn còn lúng túng, chưa thích ứng kịp với những chuyển biến
của cơ chế mới về cạnh tranh trên thị trường. Công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
khu vực đang gặp nhiều trở ngại. Chính sách của Nhà nước đối với doanh nhân, doanh
nghiệp và cuộc vận động “người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” vẫn còn những bất cập, chưa
đạt kết quả như mong đợi. Cần phải có những nghiên cứu về kinh tế - xã hội thời kỳ trước
đổi mới để đúc rút những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho quá trình triển khai
những chính sách trên.

Từ thực tế trên, thiết nghĩ nghiên cứu về sự ra đời; hoạt động sản xuất, kinh doanh;
hoạt động của bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong phong trào dân tộc dân chủ; đặc
điểm và vai trò của bộ phận người này trong 30 năm đầu thế kỷ XX vừa có giá trị khoa học
vừa có giá trị thực tiễn sâu sắc.
Về khoa học: Nhìn nhận toàn diện, sâu sắc về nguồn gốc, quá trình ra đời và những
đặc điểm nổi bật trong hoạt động kinh tế lẫn chính trị của tư sản người Việt ở Trung Kỳ;
góp phần vào việc đánh giá đúng vai trò của tư sản người Việt trong tiến trình lịch sử khu
vực và dân tộc; đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước hiện nay.
Về thực tiễn: Giải quyết đề tài góp phần bổ sung, làm sáng tỏ, đầy đủ hơn trong
nhận định, đánh giá về giai cấp tư sản Việt Nam; về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc và tác động của chính sách khai thác, bóc lột của thực dân Pháp đến
quá trình công nghiệp hóa của thực dân Pháp ở Đông Dương; là tài liệu cần thiết để biên
soạn, giảng dạy lịch sử Việt Nam thời cận đại ở bậc đại học.
Với những lí do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Tư sản người Việt ở Trung Kỳ
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930” để nghiên cứu viết luận án Tiến sĩ Lịch sử.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư sản người Việt ở Trung Kỳ, với những vấn
đề liên quan tới nó như sự ra đời, quá trình phát triển, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
các lĩnh vực kinh tế, sự tham gia phong trào dân tộc dân chủ và đặc điểm, vai trò lịch sử
của họ trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu của luận án là 30 năm đầu thế kỷ XX. Theo đó, luận án chia
làm hai giai đoạn (từ đầu thế kỷ XX đến năm 1914 và 1914 - 1930) để thấy rõ quá trình
trưởng thành và bước chuyển biến trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động chính


3
trị - xã hội của tư sản người Việt ở Trung Kỳ dưới tác động của những điều kiện lịch sử cụ

thể.
- Không gian nghiên cứu của luận án là khu vực Trung Kỳ theo sự phân chia của
người Pháp, gồm các tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Bình
Thuận, Đắc Lắc, Kon Tum, Lâm Viên (sau tách thành Thành phố Đà Lạt và tỉnh Đồng Nai
Thượng) và thành phố Đà Nẵng.
- Nội dung nghiên cứu của luận án được giới hạn trong việc tìm hiểu điều kiện, sự
ra đời, quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, sự tham gia của tư sản người Việt vào
phong trào dân tộc dân chủ và đặc điểm, vai trò của họ đối với tiến trình lịch sử dân tộc
trong trong 30 năm đầu thế kỷ XX
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống về quá trình phát sinh, phát triển và trưởng thành của tư
sản người Việt ở Trung Kỳ; đặc điểm và vai trò của giai cấp này trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị - xã hội trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Luận án giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích những điều kiện lịch sử và nguồn gốc xuất thân của tư sản người Việt ở
Trung Kỳ đầu thế kỷ XX.
- Tái hiện có hệ thống hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt ở
Trung Kỳ trên từng lĩnh vực, ngành kinh tế cụ thể; sự tham gia của họ vào phong trào dân
tộc dân chủ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930. Qua đây làm rõ những thành công và hạn chế
trong hoạt động của bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ 30 năm đầu thế kỷ XX.
- Bước đầu rút ra những đặc điểm và vai trò lịch sử của bộ phận tư sản người Việt ở
Trung Kỳ trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Luận án được hoàn thành dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau:
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin; văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam; các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

- Tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, IV, Viện Thông tin Khoa học
Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Thư viện Quốc gia Việt Nam và
Thư viện các tỉnh thuộc khu vực Trung Kỳ. Các văn bản, nghị định, báo cáo, chuyên san,
niên giám thống kê của chính quyền thuộc địa được đăng tải trên báo chí đương thời.


4
- Các công trình nghiên cứu đã công bố có nội dung liên quan đến đề tài, bao gồm:
sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, bài viết đăng trên các báo, tạp chí, tập san
tiếng Pháp và tiếng Việt, các luận án, luận văn đã bảo vệ thành công có liên quan đến đề
tài.
- Tư liệu điền dã: Điền dã một số nơi vốn là địa điểm xây dựng nhà máy, xưởng sản
xuất, chế biến và hàng buôn, hiệu buôn của các nhà tư sản người Việt dưới thời Pháp thuộc
trên địa bàn Trung Kỳ.
- Ngoài ra, còn khai thác nguồn tài liệu trên mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai
cấp và sự ra đời của giai cấp tư sản.
- Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học đặt ra là tái hiện hoạt động sản xuất, kinh
doanh và sự tham gia của tư sản người Việt ở Trung Kỳ vào phong trào dân tộc dân chủ
trong 30 năm đầu thế kỷ XX, đồng thời phân tích, đánh giá những đặc điểm, vai trò của họ
đối với lịch sử dân tộc, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành cơ bản:
phương pháp lịch sử và phương pháp logic và sự kết hợp giữa hai phương pháp này.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính chính xác về nội dung, sự kiện và tính thuyết phục
của các luận điểm nghiên cứu nêu ra trong luận án, tác giả còn sử dụng một số phương
pháp liên ngành khác như thống kê, tổng hợp, phân tích và đối sánh tài liệu…
Ngoài ra, còn thực hiện phương pháp điền dã ở một số địa điểm trên địa bàn các
tỉnh Trung Kỳ.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp chủ yếu sau đây:

- Trình bày một cách có hệ thống trên cơ sở khai thác và xử lý các tài liệu thu thập
được về sự ra đời, hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong
30 năm đầu thế kỷ XX.
- Làm rõ quá trình tham gia và đóng góp của của bộ phận tư sản người Việt ở Trung
Kỳ vào phong trào dân tộc dân chủ; đồng thời, phân tích những hạn chế về mặt chính trị
của họ khi tham gia phong trào dân tộc dân chủ trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
- Nêu và đánh giá một cách khách quan đặc điểm, vai trò lịch sử của tư sản người
Việt ở Trung Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
- Kết quả của luận án nêu lên những nhận thức lịch sử khách quan, cụ thể hơn về tư
sản người Việt, do đó có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về lịch sử Việt


5
Nam thời cận đại, nhất là nghiên cứu về tình kinh tế, chính trị - xã hội khu vực Trung Kỳ
nói riêng và cả nước nói chung thời thuộc Pháp.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phẩn mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận án được cấu tạo thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến trước Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914)
Chương 3: Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ năm 1914 đến năm 1930
Chương 4: Đặc điểm, vai trò lịch sử của tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong 30
năm đầu thế kỷ XX.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về giai cấp tư sản nói chung là một vấn đề lịch sử quan trọng đã được

đặt ra từ lâu, suốt từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, những hoạt động công thương nghiệp của tư sản
người Việt nói chung và tư sản người Việt ở Trung Kỳ nói riêng đã được người Pháp quan
tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, nhắc đến tư sản người Việt thời kỳ này chỉ là các bản báo cáo của
các viên cai trị đầu tỉnh và cơ quan chuyên môn về kinh tế hay các tạp chí, niên giám thống
kê của chính quyền thực dân.
Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, nhất là sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp (1945 - 1954), việc nghiên cứu về tư sản người Việt được đặt ra như là một
nhiệm vụ chính trị của giới sử học nhằm phục vụ cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Do đó, trên Tập san Văn Sử Địa đã liên tiếp đăng những bài viết của các tác giả
như Minh Tranh, Nguyễn Công Bình, Nguyễn Kiến Giang, Đào Hoài Nam, Văn Tạo…
Những bài viết này đã dẫn ra các ý kiến về quá trình phát sinh, phát triển, tình hình hoạt
động, đặc điểm của tư sản người Việt và vai trò của nó trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, trong đó có tư sản người Việt ở Trung Kỳ.
Bên cạnh các tác giả trong nước, thời kỳ này cũng có một số tác giả nước ngoài,
người Việt Nam ở nước ngoài hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề này.
Sau năm 1975, vấn đề tư sản người Việt được tiếp tục quan tâm nghiên cứu với tư
cách là một giai cấp mới trong cơ cấu xã hội Việt Nam thời thuộc địa. Các bài viết chủ yếu
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Trong những bài viết này, các tác giả bắt đầu đi vào
tìm hiểu hoạt động của tư sản người Việt nhằm chấn hưng thực nghiệp, phát triển thế lực,
giành vị thế của bộ phận giai cấp mình cả về kinh tế lẫn chính trị trong sự so sánh với tư
sản Pháp và tư sản Hoa kiều. Tuy nhiên, cho đến nay, các tác giả vẫn giành sự quan tâm
nghiên cứu về giai cấp tư sản Việt Nam nói chung, ít có công trình nghiên cứu về tư sản
người Việt ở một khu vực cụ thể. Đó là cơ sở để tác giả định hướng tiếp cận nguồn tài liệu
và xác định hướng nghiên cứu cho luận án của mình.

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tư sản người Việt nói chung
Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 chưa có cuốn sách nào nghiên cứu
sâu về tư sản người Việt nói chung, tuy nhiên có nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí



7
tiếng Việt giới thiệu những cơ sở sản xuất, phương thức kinh doanh của một số tư sản
người Việt tiêu biểu, đồng thời phản ánh tiếng nói của họ trong cuộc đấu tranh giành quyền
lợi về kinh tế, chính trị cho giai cấp mình. Điển hình như: Bài “Hiện tình buôn bán người
mình còn thua người khách” đăng trên Khai Hóa Nhật báo, số 132, ra ngày 20-12-1921
[59], bàn về việc cạnh tranh yếu kém của các nhà buôn, hiệu buôn người Việt và cách thức
để tăng cường sức cạnh tranh của họ trước sự chèn ép của thương nhân Pháp kiều và Hoa
kiều. Trong đó có đề cập đến tên, tiềm lực vốn, phương thức kinh doanh của một số hiệu
buôn nổi tiếng trên cả nước thời bấy giờ. Báo Lục tỉnh Tân văn, số ra ngày 19-1-1922 đăng
bài viết “Muốn nước giàu dân thịnh kíp dùng đồ nội hóa” [97], phản ánh tình trạng hàng
ngoại hóa tràn ngập thị trường trong nước, xu hướng chuộng đồ ngoại của người dân; kêu
gọi mọi người hưởng ứng cuộc vận động dùng hàng nội hóa để kích thích nền sản xuất
trong nước phát triển. Bên cạnh đó, trên các tạp chí tiếng Pháp, trong niên giám thống kê
của chính quyền thuộc địa cũng giới thiệu các cơ sở sản xuất của một số tư sản người Việt
điển hình từ Bắc chí Nam.
Đối với sử học Việt Nam, việc nghiên cứu về tư sản người Việt được bắt đầu từ sau
Cách mạng tháng Tám-1945, nhằm nghiên cứu một cách toàn diện về quá trình phát sinh,
phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản ở Việt Nam thời thuộc Pháp. Nhất
là trong thời kỳ 1954 - 1975, khi cuộc cách mạng phản đế, phản phong do giai cấp công
nhân lãnh đạo đã hoàn thành ở miền Bắc và miền Bắc đang trên bước đường thực hiện
công cuộc cải tạo, xây dựng xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu về giai cấp tư sản được
đặt ra như một nhiệm vụ chính trị cho giới sử học miền Bắc. Đó là lý do vì sao ở thời kỳ
này, hàng loạt các giáo trình và công trình chuyên khảo viết về tư sản người Việt nói chung
đã được xuất bản. Cụ thể như:
Cuốn “Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc” của Nguyễn Công Bình
do Nhà xuất bản Văn- Sử- Địa ấn hành vào năm 1959 [20]. Trong công trình này tác giả
tìm hiểu nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của tư sản người Việt từ một tầng lớp
người nhỏ bé trong cơ cấu giai cấp xã hội ở đầu thế kỷ XX, vươn lên thành một giai cấp

thực thụ từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nêu và phân tích đặc điểm kinh tế của tư sản
người Việt trong thời Pháp thuộc. Đồng thời, công trình cũng đã giới thiệu sơ lược về thái
độ chính trị của giai cấp tư sản người Việt trong cách mạng qua hai thời kỳ khác nhau: thời
kỳ trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.
Đây là công trình nghiên cứu khá công phu và tương đối đầy đủ về tư sản người
Việt thời Pháp thuộc. Trong đó rải rác ở một số trang có nêu tên, lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, số vốn của một số tư sản người Việt ở lĩnh vực thủ công nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp, in ấn… Bước đầu nêu lên nguồn gốc xuất thân và phác họa sự trưởng thành


8
của tư sản người Việt nói chung. Tuy nhiên, do đây là công trình tìm hiểu về tư sản người
Việt trên cả nước nói chung nên chưa nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về tư sản người
Việt ở Trung Kỳ trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
Cuốn “Về giai cấp tư sản Việt Nam: Một số ý kiến về sự hình thành và phát triển
của giai cấp tư sản Việt Nam” của tác giả Minh Tranh và Nguyễn Kiến Giang, do Nhà xuất
bản Sự thật ấn hành vào năm 1959 [141]. Nội dung của công trình tập trung tìm hiểu quá
trình phát sinh, phát triển, hoạt động sản xuất, kinh doanh và tham gia phong trào dân tộc
dân chủ của giai cấp tư sản người Việt qua hai giai đoạn lịch sử: 1858 - 1920 và 1920 1945. Tác động của chính sách thống trị, khai thác bóc lột của thực dân Pháp lên toàn bộ
nền kinh tế - xã hội nước ta và quá trình phát triển đầy thăng trầm của tư sản người Việt.
Thông qua đó, công trình bước đầu đánh giá về vai trò của tư sản người Việt trong phong
trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong hơn hai thập niên đầu thế kỷ XX. Trong khi trình
bày sự trưởng thành, hoạt động sản xuất, kinh doanh và lập luận về vai trò của tư sản người
Việt, công trình có nêu nhưng chưa đầy đủ tên, lĩnh vực, quy mô sản xuất, kinh doanh,
thực lực về vốn, số lượng công nhân sử dụng của một số công ty, hội buôn, xưởng sản xuất
ở Trung Kỳ tiêu biểu như Liên Thành, Quảng Nam hiệp thương công ty, Phượng Lâu...
Bước đầu nêu lên và đánh giá vai trò về mặt chính trị - xã hội của tư sản người Việt thời
Pháp thuộc.
Cuốn “Mầm mống tư bản chủ nghĩa và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Việt
Nam” của tác giả Đoàn Trọng Truyến do Nhà xuất bản Sự thật ấn hành vào năm 1959

[145]. Công trình chủ yếu nghiên cứu về sự xuất hiện mầm mống tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam.
Gắn với đó, nội dung có đề cập đến quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản
người Việt qua hai thời kỳ: thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1918) và thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1945. Đồng thời, công trình
đã đưa ra nhận định về phạm vi, quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc điểm về kinh
tế và thái độ chính trị của bộ phận giai cấp này đối với cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1945. Trong khi minh chứng cho sự trưởng thành của tư sản người Việt, tác
giả nêu lên tên tuổi, lĩnh vực kinh doanh và có đánh giá về những hoạt động sản xuất, kinh
doanh của một số tư sản người Việt.
Cuốn “Đặc điểm hình thành giai cấp tư sản Việt Nam” của M.A. Trescov do Nhà
xuất bản Khoa học, Mátxcơva ấn hành năm 1968 [143] đề cập đến quá trình phát triển của
tư sản người Việt thời Pháp thuộc. Bằng số liệu cụ thể về số lượng người, vốn và công
nhân làm thuê trong các cơ sở sản xuất kinh doanh của tư sản người Việt khẳng định sự


9
yếu đuối về mọi mặt của tư sản người Việt thời Pháp thuộc trong sự so sánh với tư sản
Pháp.
Ngoài những công trình đề cập và đi sâu nghiên cứu về tư sản người Việt Nam nói
chung nêu trên, trong những năm 1954 - 1975 còn phải kể đến một số công trình khác
trong quá trình nghiên cứu có đề cập đến tư sản người Việt thời Pháp thuộc. Có thể điểm
qua một số cuốn như: “Tài liệu tham khảo lịch sử Cách mạng cận đại Việt Nam, tập 4” của
Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Hướng Tân do Ban Nghiên cứu Văn- Sử- Địa xuất bản năm 1956
[91], đã khái quát quá trình ra đời và phát triển của tư sản người Việt từ khi mới chỉ là một
tầng lớp nhỏ bé đến lúc trở thành một giai cấp trong cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam
thuộc địa. Các tác giả cũng đã trình bày khái quát hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư
sản người Việt trên khắp cả nước trong thời kỳ 1918 - 1930, trong đó có một số tư sản
người Việt điển hình ở Trung Kỳ trên từng lĩnh vực cụ thể như công nghiệp, thương
nghiệp, nông nghiệp… Qua những số liệu cụ thể, công trình đánh giá địa vị kinh tế của tư

sản người Việt trong sự so sánh với tư sản ngoại quốc. Đồng thời, các tác giả còn nêu lên
tác động của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) đến sự chuyển biến trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt.
Cuốn “Bàn về cách mạng Việt Nam” của Trường Chinh [37] và “Dưới lá cờ vẻ
vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới”
của Lê Duẩn [47] đề cập đến sự phân hóa của tư sản người Việt thành hai bộ phận: tư sản
mại bản và tư sản dân tộc; nêu thái độ chính trị và đánh giá khả năng tham gia phong trào
dân tộc dân chủ của mỗi bộ phận tư sản nêu trên.
Tác giả Minh Tranh với cuốn “Tìm hiểu lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam”
[140], đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của giai cấp tư sản Việt Nam. Từ một
tầng lớp phát triển thành giai cấp, có đầy đủ vị thế về kinh tế và ý thức giai cấp. Qua đó đã
dẫn chứng ra một số lĩnh vực tiêu biểu có sự tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh của
tư sản người Việt. Riêng phần viết về tư sản người Việt ở Trung Kỳ rất ít, chỉ nêu tên, lĩnh
vực kinh doanh của một số tư sản tiêu biểu, thiếu tính hệ thống và chưa chi tiết. Trong khi
đó, tác giả Phan Gia Bền trong cuốn “Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam”
[31] đã nghiên cứu sơ lược lịch sử phát triển của thủ công nghiệp Việt Nam qua các thời
kỳ, vấn đề mầm mống tư bản chủ nghĩa trong thủ công nghiệp Việt Nam, những ảnh hưởng
của chủ nghĩa tư bản Pháp đối với thủ công nghiệp Việt Nam, trong đó có nhắc tới một số
cơ sở sản xuất thủ công nghiệp, hiệu kinh doanh, các sản phẩm thủ công của tư sản người
Việt ở Trung Kỳ thời Pháp thuộc.


10
Bên cạnh đó, thời kỳ 1945 - 1975 có nhiều bài viết về tư sản người Việt được đăng trên
các tạp chí mà chủ yếu là Tập san Văn - Sử - Địa và Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử của nhiều tác giả
khác nhau, đề cập về quá trình ra đời, phát triển, đặc điểm cũng như vai trò của tư sản người Việt
trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, trong đó có tư sản người Việt ở Trung Kỳ. Tiêu
biểu phải kể đến như: Bài “Hoạt động kinh doanh của tư sản dân tộc Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc” của Nguyễn Công Bình, Tập san Văn - Sử - Địa số 4, năm 1955 [18], đề cập những nét khái
quát tình hình công thương nghiệp ở Việt Nam từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm

1918, nêu tên một số nhà buôn, hội buôn, một số tư sản dân tộc tiêu biểu kinh doanh trong các
ngành nghề khác nhau ở Trung Kỳ. Qua đó phản ánh sự chèn ép của tư bản Pháp đối với tư sản
người Việt, dẫn tới sự bấp bênh trong hoạt động kinh doanh của họ. Tác giả này còn có loạt bài
viết với nhan đề “Tình hình và đặc tính của giai cấp tư sản Việt Nam trong thời Pháp thuộc” đăng
trên Tập san Văn - Sử - Địa, từ số 41 đến số 46 năm 1958 [21], [22], [23], [24], [25], [26], đề cập
đến quá trình phát triển của tư sản người Việt qua từ đầu thế kỷ XX đến hết năm 1945 và rút ra
một số đặc điểm của họ trong thời kỳ Pháp thuộc.
Trong khi đó, tác giả Minh Tranh lại có các bài viết đề cập đến quá trình hình thành giai cấp
tư sản Việt Nam và đặc điểm, vai trò của họ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Với bài
“Thử bàn về sự hình thành của giai cấp tư sản Việt Nam” đăng trên Tập san Văn - Sử - Địa, số 17
năm 1956 [139], tác giả đề cập đến sự hình thành tầng lớp tư sản người Việt, sự phát triển lên
thành giai cấp, bước phát triển kinh tế hàng hóa, tiền tệ ở Việt Nam. Đồng thời, nêu lên những
nhận định ban đầu về sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam. Còn trong bài “Một vài đặc điểm
của tư sản Việt Nam và vai trò của họ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc” đăng trên Tập san
Văn - Sử - Địa số 23 năm 1956 [138], tác giả nêu một số đặc điểm chủ yếu của giai cấp tư sản
người Việt, trong đó có tư sản người Việt ở Trung Kỳ về phương diện kinh tế và thái độ chính trị
của bộ phận giai cấp này trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong. Theo đó, tác giả khẳng định
tư sản người Việt có quan hệ kinh tế với phong kiến, kinh doanh trong điều kiện luôn bị đế quốc
chèn ép nên chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, nếu có hoạt động về công nghiệp
cũng hết sức nhỏ bé. Vì vậy, nội bộ tư sản người Việt luôn luôn bị phân hóa, càng về sau yếu tố
mại bản tăng lên và yếu tố dân tộc ngày càng giảm sút.

Ngoài ra, tác giả Đào Hoài Nam trong bài “Góp vào việc nghiên cứu tình hình và
đặc điểm giai cấp tư sản Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc” đăng trên Tập san Văn - Sử Địa, số 3 năm 1959 [98] cũng đề cập đến các vấn đề sản xuất hàng hóa, sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản ở Việt Nam, từ đó đi đến những nhận định về tư sản người Việt trên các khía
cạnh: quá trình tích lũy vốn, số lượng, sự phân hóa, thái độ chính trị…
Từ năm 1975 đến nay, trong điều kiện hòa bình, nhằm góp phần nghiên cứu sâu tác
động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với xã hội Việt Nam, cũng như



11
cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa, giới sử học Việt Nam đã quan tâm
nghiên cứu về tư sản người Việt. Trong đó, tập trung tìm hiểu về hoạt động sản xuất, kinh
doanh của tư sản người Việt tiêu biểu phải kể đên các công trình như: Cuốn “Cơ cấu kinh
tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 - 1945)” của Nguyễn Văn Khánh [74] khi trình
bày quá trình hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế thuộc địa ở nước ta có đề cập đến sự
ra đời, phát triển thành giai cấp và khái quát hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản
người Việt, trong đó có một số tư sản người Việt ở Trung Kỳ. Tác giả Vũ Huy Phúc trong
công trình “Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858 - 1945)” xuất bản năm 1996 [112] tìm
hiểu về hoạt động của thủ công nghiệp Việt Nam trong các giai đoạn 1858 - 1919, 1919 1930 và 1930 - 1945, trong đó có nhắc tới một số ngành nghề thủ công phát triển theo lối
sản xuất tư bản chủ nghĩa ở khu vực Trung Kỳ. Trong khi đó, tác giả Trần Văn Giàu,
Nguyễn Ngọc Cơ lại quan tâm về thái độ chính trị, hoạt động và vai trò của tư sản người
Việt trong phong trào dân tộc dân chủ đầu thế kỷ XX. Với cuốn “Sự phát triển của tư tưởng
ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám: Ý thức hệ tư sản và sự bất lực của
nó trước các nhiệm vụ lịch sử” [54], tác giả Trần Văn Giàu nghiên cứu về hệ ý thức của
giai cấp tư sản người Việt, những hạn chế về khả năng chính trị và sự bất lực của tư sản
người Việt trong việc thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ từ đầu thế
kỉ XX đến năm 1945. Tác giả Nguyễn Ngọc Cơ trong cuốn “Phong trào dân tộc trong đấu
tranh chống Pháp ở Việt Nam (1885 - 1918)” do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội ấn
hành năm 2007 [39] nghiên cứu về những biến đổi trong cơ cấu kinh tế - xã hội dưới tác
động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, sự xuất hiện của tầng lớp tư
sản người Việt và diễn biến của phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu
thế kỷ XX (đến năm 1918).
Ngoài ra, những năm gần đây, trên các Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử đăng tải một số bài viết về tư sản người Việt nói chung. Các bài viết này tuy không
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về tư sản người Việt nhưng lại đề cập đến
những khía cạnh khác nhau về tư sản người Việt như sự ra đời, quá trình trưởng thành; hoạt
động sản xuất, kinh doanh; sự tham gia vào phong trào dân tộc, dân chủ của họ những năm
đầu thế kỷ XX; đặc biệt đã bước đầu đưa ra những nhận định về đặc điểm, vị trí, vai trò
của tư sản người Việt trong tiến trình lịch sử dân tộc. Có thể dẫn ra đây các bài viết đó như:

Bài “Suy nghĩ về giai cấp tư sản dân tộc, quá khứ và hiện tại” của Vũ Dương Ninh đăng
trên Tạp chí Lịch sử Đảng [111], đề cập đến việc đánh giá vai trò của giai cấp tư sản dân
tộc ở các nước châu Á trong tiến trình lịch sử dân tộc của các nước, từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa


12
hiện nay ở Việt Nam. Tác giả Trần Viết Nghĩa với bài viết “Hoạt động chấn hưng thực
nghiệp của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử [104], lý
giải nguyên nhân vì sao tư sản người Việt thực hiện phong trào chấn hưng thực nghiệp,
những vấn đề cơ bản mà hoạt động chấn hưng thực nghiệp tập trung vào như: đánh giá vai
trò của thực nghiệp đối với đất nước; vai trò của từng ngành kinh tế; chấn hưng nội hóa,
bài trừ ngoại hóa; thành lập các hội công thương. Trong đó có đề cập đến những hội buôn,
công ty tiêu biểu của tư sản người Việt và hoạt động cạnh tranh của họ với tư sản Pháp
kiều và Hoa kiều. Còn tác giả Phạm Xanh và Nguyễn Dịu Hương lại có bài viết với nhan
đề “Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp và Hữu Thanh tạp chí với vấn đề bảo vệ quyền
lợi của giai cấp tư sản Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử [147], nêu khái
quát về Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp và Hữu Thanh tạp chí với hệ thống chi hội ở
khu vực Trung Kỳ và những hoạt động của hội này trong việc bảo vệ quyền lợi của giới tư
sản Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế và chính trị thông qua Tạp chí Hữu Thanh. Trong đó,
nêu tên một số tư sản người Việt tiêu biểu trong hoạt động kinh doanh ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ
và Nam Kỳ.
Đặc biệt, năm 2012 tác giả Trần Thanh Hương đã nghiên cứu và bảo vệ thành công
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Tư sản Việt Nam ở Bắc Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX” tại
Đại học Sư phạm Hà Nội [72]. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu khá toàn diện về tư
sản người Việt ở một khu vực cụ thể. Luận án đề cập đến bối cảnh lịch sử thế giới và trong
nước với tư cách là những tiền đề cho sự ra đời của tầng lớp tư sản người Việt; những hoạt
động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị và đánh giá đặc điểm, vai trò lịch sử của tư sản người
Việt ở Bắc Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Qua đó, cung cấp những tư liệu về tư sản
người Việt ở Bắc Kỳ, là cơ sở để tác giả so sánh với tư sản người Việt ở Trung Kỳ khi giải

quyết nội dung của luận án.
Điểm qua các công trình nghiên cứu về tư sản người Việt nói chung đã công bố nêu
trên, có thế thấy rằng:
- Những công trình nghiên cứu về tư sản người Việt nói chung chủ yếu được xuất
bản trong những năm 1954 - 1975. Từ năm 1975 đến nay hầu như không có một quyển
sách chuyên khảo nào về tư sản người Việt được xuất bản, mà chủ yếu là các bài viết đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành.
- Các công trình trên qua các thời kỳ khác nhau đã đề cập đến một số vấn đề có liên
quan đến nội dung luận án, đó là:
+ Cơ bản nêu lên nguồn gốc ra đời, quá trình phát sinh, phát triển của tư sản người
Việt từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1930.


13
+ Khái quát hoạt động của tư sản người Việt nói chung và một số tư sản người Việt
điển hình ở Trung Kỳ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng trong
những năm đầu thế kỷ XX.
+ Nêu một số đặc điểm (chủ yếu về hoạt động sản xuất, kinh doanh) của tư sản
người Việt, từ đó bước đầu đánh giá thái độ chính trị của họ trong cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, đây chưa phải là những công trình chuyên khảo về tư sản người Việt ở
Trung Kỳ nên vẫn chưa trình bày có hệ thống, toàn diện về điều kiện lịch sử, sự ra đời,
hoạt động sản xuất, kinh doanh và sự tham gia của tư sản người Việt ở khu vực này vào
phong trào dân tộc dân chủ trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, các công trình nêu trên
vẫn chưa rút ra được những đặc điểm, vai trò và đánh giá thỏa đáng về tính tức cực cũng
như những hạn chế của tư sản người Việt ở miền Trung trong tiến trình lịch sử dân tộc. Có
khá nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo đề cập đến tư sản người Việt;
song, những bài viết này hoặc là nêu lên quá khái quát theo từng thời đoạn lịch sử ngắn,
hoặc là đi vào chi tiết một vài hoạt động, khía cạnh cụ thể của một số tư sản người Việt tiêu
biểu. Do đó, còn thiếu tính hệ thống, toàn diện khi nghiên cứu về sự ra đời, nguồn gốc,

hoạt động, cũng như vai trò, đặc điểm của tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong ba thập kỉ
đầu thế kỷ XX.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa, kinh tế - xã hội,
phong trào yêu nước - cách mạng… của Trung Kỳ
Khu vực Trung Kỳ theo sự phân chia của người Pháp trong Hiệp ước Patơnốt (6-61884) gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận và khu vực Tây Nguyên. Với bề dày
lịch sử - văn hóa lâu đời và đặc biệt có phong trào yêu nước - cách mạng sôi nổi từ sớm
nên khu vực này được nhiều học giả quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong những
công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa, kinh tế - xã hội, phong trào yêu nước - cách
mạng… của Trung Kỳ ít nhiều có đề cập đến bộ phận tư sản người Việt thời Pháp thuộc.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các công trình nghiên cứu dưới dạng
địa chí của học giả người Pháp và người Việt Nam về lịch sử, kinh tế - chính trị, văn hóa xã hội, tộc người của khu vực Trung Kỳ nói chung và các tỉnh trong khu vực này nói riêng
tuy không nhiều nhưng có đề cập đến bộ phận tư sản người Việt. Điển hình có một số công
trình như: Cuốn “L’Annam en 1906”, Imprimerie Samat et Quai du canal, Marseille, 1906
[163], giới thiệu về lịch sử, tộc người, văn hóa của các tỉnh khu vực Trung Kỳ, trong đó có
phần giới thiệu cụ thể về công nghiệp, thương mại và nông nghiệp của từng tỉnh từ Bình
Thuận đến Thanh Hóa; nêu tình hình sản xuất công nghiệp, các ngành sản xuất thủ công


14
tiêu biểu, hoạt động trao đổi buôn bán ở các tỉnh này dưới dạng những bảng thống kê hoạt
động xuất - nhập khẩu hàng hóa. Tập san “Những người bạn Cố Đô Huế” (Bulletin des
Amis du Vieux Hué) của Hội Đô thành Hiếu Cổ [63], [64], [65] có nhiều bài viết giới thiệu
về các tỉnh Trung Kỳ, trong đó cũng ít nhiều đề cập đến hoạt động sản xuất, thương mại và
một số cơ sở kinh tế tiêu biểu của người Việt. Đặc biệt, thông qua các bảng số liệu tổng
hợp về kinh tế, tập san đưa ra những đánh giá về trình độ phát triển kinh tế của các tỉnh ở
Trung Kỳ thời Pháp thuộc.
Tác giả Ch. Robequain với cuốn “Le Thanh Hoa” ấn hành ở Paris năm 1918 [194]
giới thiệu khá đầy đủ về tỉnh Thanh Hóa ở đầu thế kỷ XX, trong đó có đề cập đến tiểu thủ
công nghiệp, công cuộc thực dân hóa về kinh tế và hệ thống giao thông, phương tiện vận

tải ở tỉnh Thanh Hóa. A.Monfleur trong Tập sách chuyên khảo giới thiệu về tỉnh Đắc Lắc
có tên “Monographie de la province du Darlac 1930”, Imprimerie d’Extrême- Orient, Ha
Noi, 1931 [155] đã nghiên cứu các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị tỉnh Đắc Lắc
trong những năm 1929 - 1930. Trong đó, có phần nhỏ khái quát về các ngành nông nghiệp,
công nghiệp và thương mại ở tỉnh này. Đồng thời, mô tả cách thức tổ chức sản xuất của
một số ngành nghề, cơ sở sản xuất tiêu biểu ở đây nhưng không nhiều. Cuối năm 1933,
trong 5 số liên tục, Tạp chí Nam Phong đăng bài viết dài kỳ với tiêu đề “Kom Tum tỉnh
chí” [76], [77], [78], [79], [80] nhằm giới thiệu tổng quan về hình thể, chính trị, tôn giáo,
kinh tế của tỉnh Kon Tum. Trong phần giới thiệu về tình hình kinh tế, bài viết giới thiệu
hoạt động giao thương, sản xuất công nghiêp, thủ công nghiệp, giao thông vận tải… tuy
chưa đầy đủ nhưng tác giả có đề cập đến tình hình kinh doanh của các nhà tư sản người
Việt ở địa phương này.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu về các tỉnh ở khu vực Trung
Kỳ như “An - Tĩnh cổ lục” của Hippolyte le Breton [34], “Địa dư tỉnh Phú Yên” của
Nguyễn Đình Cầm và Trần Sĩ [35], “Les province de l’Annam (Phu Yen) 1907” [165],
“Province Binh Dinh” [169], “Province de Nghe An 1907” [170]… cũng có khái quát qua
về hoạt động sản xuất, kinh doanh của một số tư sản người Việt ở Trung Kỳ, đặc biệt trong
đó thống kê khá đầy đủ về sản lượng, thị trường xuất - nhập khẩu của những tỉnh này.
Bên cạnh đó, trên các tạp chí, tờ báo thời Pháp thuộc cũng có những bài viết miêu
tả các cơ sở sản xuất, phương thức kinh doanh của một số tư sản người Việt ở Trung Kỳ,
tiêu biểu như: Bài “Nghề làm đường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi” đăng trên Thực nghiệp
dân báo, ngày 30-7-1923 [103], miêu tả cách thức tổ chức sản xuất, hiện tượng giàu lên
của các chủ “công xi” làm đường thông qua bóc lột lao động làm thuê và bán sản phẩm ra
thị trường ở hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Bài “Les camions à gaz pauvre de bois


15
sur la route de Vinh à Thakhek” đăng trên tạp chí L’Eveil Economique, 22- 3- 1925 [164],
miêu tả và đánh giá về công ty vận tải của nhà tư sản nổi tiếng Phạm Văn Phi ở Vinh thuộc
Trung Kỳ - một công ty vận tải mà theo thực dân Pháp đánh giá là có sức cạnh tranh lớn

với tư bản Pháp trong lĩnh vực giao thông vận tải. Hay các bài viết về kinh tế và giao thông
vận tải ở Trung Kỳ và Vinh; về nghề trồng mía đường tại Nghệ An và Trung Kỳ đăng trên
Tập san Chấn hưng kinh tế Đông Dương được sao dịch tại Phòng địa chí thuộc Thư viện
các tỉnh Trung Kỳ [122], [123], cung cấp những thông tin về kinh tế, sản xuất mía đường
và giao thông vận tải ở Trung Kỳ nói chung và Nghệ An nói riêng, trong đó có nêu tên và
miêu tả hoạt động của các công ty, hãng buôn, hiệu buôn của một số nhà công - thương
nghiệp ở Vinh - Bến Thủy và khu vực Trung Kỳ.
Trên các tạp chí, tờ báo bằng tiếng Pháp trước năm 1945 như: L’Eveil économique
de l’Indochine, Bulletin économique de l’Indochine, Revue indochineoise, Revue
économique politique… có một số bài đề cập đến tư sản người Việt, chủ yếu là hoạt động
sản xuất, kinh doanh của họ.
Tuy nhiên, những bài viết ở trên các báo, tạp chí trước năm 1945 thường chỉ tìm
hiểu những nhà tư sản điển hình hoặc một số ngành sản xuất thủ công nổi tiếng của Trung
Kỳ thời bấy giờ, thiếu toàn diện. Đặc biệt, những bài viết này ít đề cập đến sự tham gia vào
phong trào dân tộc dân chủ của tư sản người Việt ở Trung Kỳ, cũng như chưa nêu được đặc
điểm, vai trò của họ đối với tiến trình lịch sử dân tộc trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
Từ năm 1945 đến nay, số lượng công trình nghiên cứu các khía cạnh lịch sử khác
nhau của khu vực Trung Kỳ nói chung và các tỉnh, thành ở khu vực này nói riêng khá
nhiều và đa dạng về thể loại, gồm cả sách, bài báo, luận án, luận văn…, trong đó có đề cập
đến số lượng, hoạt động sản xuất, kinh doanh, sự tham gia phong trào dân tộc dân chủ của
bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ thời Pháp thuộc.
Tác giả Nguyễn Văn Xuân trong cuốn “Phong trào Duy Tân” do Nhà xuất bản Đà
Nẵng ấn hành năm 1995 [148] có đề cập đến hoạt động kinh doanh của một số hãng buôn
được thành lập theo lời kêu gọi của các sĩ phu Duy Tân ở Trung Kỳ đầu thế kỷ XX. Tập kỷ
yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Việt Nam 100 năm phong trào Đông Du và hợp tác Việt Nhật” [67], tập hợp nhiều bài viết của các tác giả có uy tín cả trong và ngoài nước xoay
quanh về phong trào Đông Du và Phan Bội Châu - người đứng đầu phong trào; ý nghĩa, vai
trò và bài học kinh nghiệm của phong trào Đông Du đối với lịch sử dân tộc đầu thế kỷ XX.
Trong một số bài viết của tác giả Trần Vũ Tài, Chương Thâu, Hoàng Văn Hiển, Lưu Anh
Rô… có đề cập đến sự tham gia, ủng hộ của tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong phong
trào này.



16
Các công trình nghiên cứu về lịch sử các tỉnh ở khu vực Trung Kỳ như: “Thanh
Hóa thời kỳ 1802 - 1930” của Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử tỉnh Thanh Hóa [11];
“Lịch sử Hà Tĩnh”, tập 2 của Đặng Duy Báu [14]; “Lịch sử Nghệ An, tập I” [136]; “Lịch
sử Quảng Bình: dùng trong nhà trường” của Nguyễn Thế Hoàng [62]; “Lịch sử thành phố
Đà Nẵng” của Dương Trung Quốc [114], “Lịch sử Thành phố Quy Nhơn” của Đỗ Bang
[12]; “Lịch sử Phú Yên từ năm 1900 đến năm 1930” của nguyễn Văn Nhật [105]; tập “Địa
chí Bình Thuận” do Tô Quyên, Trần Ngọc Trác, Phan Minh Đạo biên soạn [116]; “Địa chí
Gia Lai” của Nguyễn Chí Bền, Vũ Ngọc Bình [33]; “Địa chí Đắk Lắk” của Y Ghi Niê,
Trịnh Đức Minh, Nguyễn Lưu [55]… trong phần về kinh tế - xã hội có nêu tên và hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như thái độ chính trị của bộ phận tư sản người Việt trong
phong trào yêu nước - cách mạng ở địa phương.
Tác giả Nguyễn Quang Hồng trong công trình “Thành phố Vinh quá trình hình
thành và phát triển (1804 - 1945)” [69] đã giành một số trang nhất định giới thiệu về bộ
phận tư sản người Việt ở thành phố Vinh qua các giai đoạn lịch sử từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1945. Qua đó, tác giả nêu tên và cơ sở sản xuất, kinh doanh và hiện tượng độc quyền
kinh doanh ở một số lĩnh vực của tư sản người Việt ở đây. Đồng thời, tác giả còn so sánh
thế lực kinh tế của tư sản người Việt với tư sản Pháp. Tuy nhiên, do không phải là công
trình chuyên khảo về kinh tế - xã hội hay về tư sản người Việt nên chưa nghiên cứu có hệ
thống về tư sản người Việt, nhất là hoạt động của họ trong phong trào dân tộc và đánh giá
về những đặc điểm, vai trò của họ trong tiến trình lịch sử. Trong công trình “100 năm thị
xã Phan Thiết (1898 - 1998)” [96] của tác giả Trương Quốc Minh cũng có một số bài viết
giới thiệu về phố buôn của tư sản người Việt, người Hoa ở Phan Thiết thời Pháp thuộc, đặc
biệt là hoạt động chế biến nước mắm- sản phẩm nổi tiếng của Bình Thuận thời kỳ này.
Ngoài ra, còn phải kể đến các công trình chuyên khảo về lĩnh vực kinh tế của các
tỉnh Trung Kỳ qua các thời kỳ lịch sử như: “Phác thảo lịch sử kinh tế Thanh Hóa (Từ
nguyên thủy đến 1945)” của Phạm Văn Đấu [50]; tác giả Nguyễn Quang Hồng với công
trình “Kinh tế Nghệ An từ năm 1885 đến năm 1945” [60]… cũng có khái quát về hoạt

động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt trên các lĩnh vực kinh tế.
Đặc biệt, những năm gần đây có một số bài bài báo, luận án, luận văn nghiên cứu về
những vấn đề lịch sử, kinh tế ở các tỉnh Trung Kỳ có đề cập đến hoạt động sản xuất kinh doanh và
sự tham gia vào phong trào dân tộc của tư sản người Việt ở khu vực này, cụ thể như: Luận văn
Thạc sĩ Lịch sử “Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp (1900-1945)” của Nguyễn Thị Hạnh [58], đề
cập và miêu tả về quy mô, vị trí địa lý, phương thức kinh doanh của một số ít tư sản người Việt


17
trên lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa; Luận văn Thạc sĩ Lịch sử “ Thành phố Thanh Hóa - Quá
trình hình thành và phát triển từ 1804 đến trước Cách mạng tháng 8-1945” của Nguyễn Thị Thu
Hà [57] trong phần trình bày về sự chuyển biến của kinh tế - xã hội ở thành phố Thanh Hóa có khái
quát qua về bộ phận tư sản người Việt ở địa phương này. Đồng thời, nêu tên, lĩnh vực hoạt động
sản xuất, kinh doanh và các công ty, xưởng sản xuất, đồn điền của một số tư sản người Việt tiêu
biểu ở thành phố Thanh Hóa; Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX (1903-1908)” của Trương Thị Dương [48] đề cập đến sự hưởng ứng phong trào phát triển công
- thương nghiệp theo lời kêu gọi của giới sĩ phu tiến bộ của một số tư sản người Việt ở Trung Kỳ
đầu thế kỷ XX.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về các khía cạnh lịch sử - văn hóa, kinh tế xã hội, phong trào yêu nước - cách mạng… của khu vực Trung Kỳ qua các thời kỳ đã ít
nhiều đề cập đến sự ra đời, hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt cũng như
sự tham gia của họ vào phong trào dân tộc dân chủ trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, đây không phải là những công trình chuyên sâu về tư sản người Việt nên chỉ đề cập
ở mức độ khái quát nhất về các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như thái độ chính trị
của một số tư sản người Việt điển hình và mang tính riêng lẻ từng địa phương. Do vậy, việc
nghiên cứu về tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX vẫn còn là
khoảng trống.
Điểm qua tình hình nghiên cứu về tư sản người Việt từ trước đến nay của giới
nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể thấy việc nghiên cứu về tư sản người Việt đã có từ
sớm, cả trong nước lẫn ngoài nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu bài bản, rầm rộ phải đến

sau kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thắng lợi, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Việc quan tâm tìm hiểu về hoạt động của tư sản người Việt trước đó của người Pháp
chỉ nhằm mục đích phục vụ cho chính sách cai trị của chính quốc, nhất là các chính sách về
kinh tế.
Tổng hợp từ các nhóm công trình trên cho thấy với những mức độ khác nhau đã đề
cập đến những vấn đề cơ bản của đề tài:
Thứ nhất, các công trình đã cơ bản làm rõ được nguồn gốc, thời gian ra đời của
tầng lớp tư sản người Việt, tuy nhiên còn có những ý kiến khác nhau về thời điểm họ trở
thành giai cấp.
Thứ hai, các công trình đã khái quát được quá trình phát triển của tư sản người Việt
dưới thời Pháp thuộc qua từng thời đoạn lịch sử gắn với chính sách thuộc địa về mặt kinh


18
tế của thực dân Pháp. Qua đó, chỉ ra những tác động thuận chiều, cũng như ngược chiều
của các chính sách kinh tế của thực dân Pháp đối với quá trình phát triển của giai cấp này.
Thứ ba, đã đề cập ở những mức độ khác nhau về hoạt động của tư sản người Việt
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội dưới thời Pháp thuộc.
Thứ tư, các nhóm công trình nêu trên đã bước đầu đưa ra nhận xét về đặc điểm
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người Việt và sơ lược về thái độ chính trị
của họ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Trên cơ sở nguồn tài liệu là thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước mà
tác giả tiếp cận trên, tuy đa dạng và phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề về tư sản người
Việt thời Pháp thuộc, nhưng nhìn chung, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu, mang tính hệ thống về tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong 30 năm đầu thế kỷ XX.
Hơn thế nữa, việc nghiên cứu, đánh giá về đặc điểm, vai trò của tư sản người Việt ở Trung
Kỳ thời kỳ này vẫn ít được đề cập trong các công trình nêu trên. Tuy nhiên, đó là nguồn tư
liệu có ý nghĩa, gợi mở để tác giả lựa chọn, hình thành hướng nghiên cứu, đồng thời là
những tư liệu quý có giá trị tham khảo trong việc triển khai thực hiện đề tài.


1.2. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ
Từ tình hình nghiên cứu về tư sản người Việt thời Pháp thuộc nêu trên có thể khẳng
định chưa có một công trình nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về tư sản người Việt ở
Trung Kỳ trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Thực tiễn nêu trên đặt ra cho luận án của tác giả
nhiều nội dung cần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, cụ thể là:
Một là, tìm hiểu bối cảnh lịch sử, điều kiện về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa tư tưởng dẫn tới sự ra đời, phát triển của tư sản người Việt ở Trung Kỳ trong 30 năm đầu
thế kỷ XX. Từ đó, phân tích, đánh giá khách quan, thỏa đáng về tác động của các điều kiện
đó đối với sự trưởng thành của lớp người này, nhất là chính sách thống trị của thực dân
Pháp ở khu vực Trung Kỳ.
Hai là, nghiên cứu có hệ thống các hoạt động sản xuất, kinh doanh của tư sản người
Việt ở Trung Kỳ và sự tham gia của họ vào phong trào dân tộc dân chủ trong 30 năm đầu
thế kỷ XX gắn với các chính sách kinh tế của thực dân Pháp qua từng thời kỳ lịch sử cụ
thể: từ đầu thế kỷ XX đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) và từ Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 - 1918) đến năm 1930.
Ba là, tìm ra đặc điểm và đánh giá khách quan vị trí, vai trò của tư sản người Việt ở
Trung Kỳ trong tiến trình lịch sử dân tộc ở ba thập niên đầu thế kỷ XX; lý giải những hạn


19
chế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và thái độ chính trị của họ trong giai đoạn lịch sử
đã nêu.

*
*

*

Nghiên cứu về tư sản người Việt thời thuộc Pháp có một quá trình lâu dài. Đối với
giới sử học mác xít, vấn đề này bắt đầu được đặt ra từ sau năm 1954. Trong đó, những thập
niên 50, 60 của thế XX diễn ra rầm rộ nhất. Đã có nhiều công trình, bài viết được xuất bản

và đăng tải trên các chuyên san, tạp chí chuyên ngành. Những năm gần đây, vấn đề tư sản
người Việt thời thuộc địa được quan tâm và phản ánh nhiều hơn.
Dưới những góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu về tư sản người Việt ngày
càng tăng về số lượng và chất lượng. Dần làm rõ diện mạo của giai cấp này cũng như đóng
góp của họ trong lịch sử dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài
nước; nguồn tài liệu đã sưu tầm, tiếp cận, nhất là nguồn tài liệu lưu trữ, tác giả tập trung
làm rõ đề tài “Tư sản người Việt ở Trung Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930”.


20
Chương 2
TƯ SẢN NGƯỜI VIỆT Ở TRUNG KỲ TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẾN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT (1914)
2.1. Sự ra đời bộ phận tư sản người Việt ở Trung Kỳ
2.1.1. Điều kiện lịch sử
2.1.1.1. Điều kiện quốc tế
Ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới chứng kiến những biến động hết
sức lớn lao. Chủ nghĩa tư bản đã xác lập thành một hệ thống và chuyển biến sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Cùng với quá trình đó, chủ nghĩa thực dân hiện đại ra đời và bành
trướng ra toàn thế giới. Làn sóng xâm thực với cường độ lớn của chủ nghĩa tư bản phương
Tây đã dẫn tới sự chuyển biến trong cấu trúc và cơ chế vận hành của kinh tế các nước
thuộc địa và phụ thuộc. Tại các nước Đông Á - nơi đang nằm dưới sự thống trị của thực
dân phương Tây, kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh và phát triển, dẫn tới sự ra đời giai cấp
tư sản. Giai cấp tư sản đến lượt nó đã tiến hành cuộc vận động nhằm đánh đuổi các thế lực
xâm lược, giải phóng dân tộc. Từ đó, những điều kiện cho sự ra đời của tư sản người Việt
trên cả nước nói chung và ở khu vực Trung Kỳ nói riêng cũng dần xuất hiện.
Cho đến nửa sau thế kỷ XIX, các nước Đông Á đã lần lượt trở thành thuộc địa và
phụ thuộc của tư bản phương Tây. Tại các nước này, tư bản phương Tây đã đầu tư vốn xây
dựng cơ sở hạ tầng, tiến hành khai thác, bóc lột về kinh tế. Những chính sách cai trị và bóc

lột của tư bản phương Tây đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế truyền thống của các nước Đông
Á, dẫn tới sự ra đời và phát triển của một loạt ngành kinh tế mới. Đó là cơ sở để hình thành
những giai cấp, tầng lớp mới của xã hội hiện đại, trong đó có tư sản dân tộc.
Ở Trung Quốc, từ khi đế quốc chủ nghĩa xâm nhập, kinh tế nước này đã có những
biến chuyển căn bản. Bên cạnh các xí nghiệp lớn của đế quốc đầu tư vào, một số công
xưởng của tư sản bản xứ cũng xuất hiện ở các tỉnh ven biển. Tầng lớp tư sản trỗi dậy, bày
tỏ những bực tức đối với sự kìm hãm, thống trị của bọn xâm lược ngoại quốc; tiếp thu tư
tưởng mới, ủng hộ cuộc vận động Duy Tân đất nước.
Ngay sau khi Tiết Phúc Thành đề xướng “biến pháp” nhằm thúc đẩy công- thương
nghiệp Trung Quốc phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, tinh thần cải cách, hướng theo
ngọn cờ mới ở Trung Quốc phát triển mạnh. Điển hình nhất trong chuỗi sự kiện vận động
Duy Tân ở Trung Quốc là việc Trần Xí vận động thành lập Nghị viện theo tinh thần dân
chủ của phương Tây (1893) và cuộc Chính biến Mậu Tuất do Lương Khải Siêu và Khang
Hữu Vi lãnh đạo (1898). Cuộc vận động Duy Tân này tuy thất bại, nhưng đã tấn công
mạnh mẽ hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu, mở đường cho tư tưởng dân chủ tư sản phát triển


21
trong xã hội Trung Quốc. Nó thức tỉnh lòng yêu nước, đề cao ý thức độc lập dân tộc, chống
ngoại xâm và ý thức dân chủ chống chuyên chế.
Cuộc đấu tranh nói trên đã dẫn tới cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) do Đồng minh
hội- một tổ chức yêu nước của giai cấp tư sản Trung Quốc, đứng đầu là Tôn Trung Sơn
lãnh đạo. Cuộc cách mạng này, như Lênin đánh giá, đã kết thúc chế độ phong kiến tồn tại
hai ngàn năm nay, đưa quan niệm dân chủ cộng hòa vào sâu tận đáy lòng người.
Năm 1868, Nhật Bản tiến hành cuộc vận động Duy Tân đất nước. Sau 30 năm
(1898), Nhật Bản đã tiến sang con đường tư bản chủ nghĩa với tốc độ nhanh. Nhiều công ty
độc quyền được thành lập. Nhờ đó, Nhật không chỉ giữ được độc lập mà còn bành trướng,
tham gia xâu xé thuộc địa. Đến đầu thế kỷ XX, Nhật Bản trở thành nước đế quốc hùng
mạnh nhất khu vực châu Á mà minh chứng rõ nhất chính là làm nên hiện tượng “gió đảo
chiều” trong quan hệ ở khu vực Đông Bắc Á, trước hết với Trung Quốc và giành thắng lợi

vang dội trong cuộc chiến tranh với nước Nga (1904 - 1905). Giai cấp tư sản Nhật, sau khi
ủng hộ phe quý tộc miền Nam đánh đổ phái Mạc phủ, đã trở thành giai cấp đặc quyền
trong xã hội, nắm toàn bộ quyền chi phối kinh tế và chính trị trong nước.
Tại khu vực Đông Nam Á, cuộc vận động phát triển kinh tế dân tộc và chống thực
dân xâm lược, giải phóng dân tộc diễn ra rầm rộ dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản dân
tộc. Cùng với những biến đổi trong nền kinh tế dưới tác động của cuộc khai thác, bóc lột
của tư bản Tây Ban Nha, kết cấu giai cấp trong xã hội Philíppin cũng thay đổi theo. Những
thập niên 60 và 70 của thế kỷ XIX, giai cấp tư sản dân tộc Philíppin cũng hình thành.
Những phần tử trí thức thuộc giai cấp tư sản sớm tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã phát
động “phong trào tuyên truyền”, nhằm đòi quyền tự do, bình đẳng cho người Philíppin.
Tiếp đó, từ năm 1896, phái cấp tiến trong giai cấp tư sản nước này đã xây dựng tổ chức
“Hiệp hội cao quý nhất của toàn thể dân tộc” gọi là Katipunan, xây dựng cương lĩnh, lãnh
đạo nhân dân Philíppin thực hiện cuộc cách mạng tư sản chống thực dân Tây Ban Nha.
Ở các nước Đông Nam Á khác như Mã Lai, Thái Lan, Inđônêxia…, tư sản dân tộc
cũng lần lượt ra đời; tiến hành cuộc vận động xây dựng nền kinh tế dân tộc và phát động
cuộc đấu tranh chống lại sự bảo hộ, cai trị của các nước tư bản phương Tây, giành độc lập
dân tộc.
Những thay đổi lớn lao của tình hình thế giới mà trước hết là tình hình tại Trung
Quốc và Nhật Bản có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đặc biệt khi nước ta
đang có những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế - xã hội dưới tác động của cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã đặt ách thống trị lên ba nước Đông
Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), biến những nước này thành thị trường tiêu thụ sản


×