Khoá luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thứ nhất, gia đình là một hình thức cộng đồng người đã có từ rất lâu
trong lịch sử. Quá trình hình thành, sự biến đổi và phát triển của các hình thức
gia đình vì thế đã trở thành vấn đề khoa học được nghiên cứu xuyên suốt
trong lịch sử từ trước đến nay. Nói đến những công trình nghiên cứu về gia
đình, không thể không nhắc tới Ph.Ăngghen với tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” được xuất bản vào khoảng
tháng 10/1884 tại Duyrích (Thụy Sĩ). Tác phẩm đã trở thành một công trình
khảo cứu hoàn chỉnh về các hình thức gia đình trong lịch sử, sự biến đổi của
gia đình và dự báo về những thay đổi của các hình thức gia đình trong tương
lai. Công trình nghiên cứu của Ph.Ăngghen đã phân tích những tác động của
lịch sử xã hội đối với sự thay đổi của các hình thức gia đình. Chính vì vậy, tác
phẩm ấy không chỉ dừng lại ở một công trình nghiên cứu khoa học đơn thuần
và đã trở thành cuốn sách thích hợp với mọi thời đại, mọi quốc gia, mọi dân
tộc. Do đó, việc tìm hiểu, phân tích và đánh giá những tư tưởng của
Ph.Ăngghen về gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của Nhà nước” để thấu hiểu những vấn đề lý luận về gia đình và
vận dụng vào quá trình xây dựng gia đình là điều rất cần thiết.
Thứ hai, việc xây dựng, bảo vệ và duy trì hạnh phúc, sự tiến bộ gia
đình là một trong những vấn đề xã hội đang rất được quan tâm. Ở Việt Nam,
dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, dưới ánh sáng nhân văn và hơi
thở của thời đại, gia đình ngày càng tiến bộ và phồn thịnh hơn. Nền kinh tế thị
trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi thành viên trong gia đình có điều
kiện tốt hơn để chăm lo cho “tổ ấm” của mình. Nhưng bên cạnh đó, kinh tế thị
trường với những mặt trái của nó đã có những ảnh hưởng tiêu cực đối với gia
đình Việt Nam, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lối sống, đạo đức… khiến
những nền nếp truyền thống trong gia đình Việt Nam có nguy cơ bị phá vỡ.
Chính vì vậy, việc xây dựng gia đình văn hóa dưới tác động của kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng
và cần thiết. Gia đình văn hóa mới là mẫu gia đình vừa duy trì những nét đẹp
1
Khoá luận tốt nghiệp
của gia đình truyền thống vừa thích ứng với những yêu cầu của thời đại. Tuy
nhiên, xây dựng gia đình văn hóa mới là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi
hỏi sự kết hợp đồng bộ từ nhiều phía như Nhà nước, chính quyền… và đặc
biệt là từ chính những thành viên trong gia đình.
Thứ ba, việc xây dựng gia đình văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay đòi
hỏi phải vận dụng rất nhiều kinh nghiệm lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận,
cần phải chọn lọc những quan điểm, những tư tưởng đúng đắn để định hướng
cho cả một quá trình. Những quan điểm đó đã được tìm thấy rất nhiều trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”
Ph.Ăngghen. Chính vì vậy, việc vận dụng quan điểm về gia đình của
Ph.Ăngghen trong tác phẩm là rất cần thiết đối với quá trình xây dựng gia
đình ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc những yêu cầu trên, đề tài Vấn đề
gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước” (Ph.Ăngghen) và ý nghĩa đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam hiện nay đã được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, với quy mô của
một khóa luận tốt nghiệp, trong điều kiện nguồn tài liệu chuyên sâu chưa thực
sự phong phú cũng như khả năng của bản thân còn một số hạn chế, đề tài
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, em kính mong nhận được
ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy (cô) giáo trong Hội đồng phản biện để
đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về vấn đề gia đình và xây
dựng gia đình văn hóa mới ở Việt Nam như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Nga trong cuốn giáo trình Gia đình học (Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội, 2009) đã đưa ra khái niệm và nghiên cứu về gia
đình học. Đồng thời, cuốn sách trình bày về mối quan hệ của gia đình học với
các khoa học khác, lịch sử hình thành gia đình, mô hình, chức năng và vai trò
gia đình, quá trình phát triển của đời sống gia đình cũng như quan hệ của gia
2
Khoá luận tốt nghiệp
đình đối với các thiết chế xã hội và xu hướng phát triển gia đình Việt Nam
trong xã hội hiện đại.
Cuốn sách Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới của tác
giả Trần Hữu Tòng (chủ biên), Trương Thìn (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, 1997) đã phản ánh thực tiễn những vấn đề về gia đình đang được xã hội
quan tâm và tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản về văn hoá gia đình và gia
đình văn hoá, nêu một số bài học kinh nghiệm và định hướng cho công tác
xây dựng gia đình văn hoá Việt Nam.
Bàn về vấn đề xây dựng gia đình văn hóa tại các tỉnh, thành trong cả
nước, các tác giả Ngô Quang Hưng, Phạm Phúc Duyên, Đặng Khắc Lợi trong
cuốn Hỏi - đáp về xây dựng gia đình văn hoá ở làng, bản, buôn (Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, 1996) đã giải đáp những câu hỏi về công tác xây dựng gia
đình văn hoá tại các làng, bản, buôn như phong trào xây dựng gia đình văn hoá,
công tác triển khai, vận động thực hiện phong trào, tiêu chuẩn khen thưởng...
Đi sâu vào việc phân tích những nội dung của quá trình xây dựng gia
đình văn hóa mới ở Việt Nam, cuốn sách Thực trạng và thách thức đối với gia
đình Việt Nam.Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 2010. Chính sách của Đảng đối với công tác dân số, gia đình Việt Nam do Võ
Anh Dũng, Đinh Văn Quảng, Ngô Thị Ngọc Anh biên soạn (ban hành tại Ủy
ban Dân số, gia đình và trẻ em; 2006) đã trình bày các vấn dề liên quan đên
hực trạng và thách thức đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam, chiến lược
xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 và những chính sách của
Đảng đối với công tác dân số, gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010.
Đưa ra quan điểm về việc xây dựng gia đình văn hóa trong điều kiện
đất nước đang hòa chung vào bối cảnh toàn cầu hóa, tác giả Bùi Thanh Hà
trong bài viết Xây dựng gia đình văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa (Tạp
chí Giáo dục Lý luận, số 7, tr 25-28, 2005) đã khái quát những đặc trưng của
bối cảnh toàn cầu hóa và tác động của nó đối với gia đình Việt Nam hiện nay.
Đồng thời, đưa ra những đánh giá về thực trạng gia đình Việt Nam dưới ảnh
hưởng của toàn cầu hóa để đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện việc xây
dựng gia đình văn hóa hiệu quả hơn.
3
Khoá luận tốt nghiệp
Tác giả Nguyễn Văn Kiêu trong cuốn Bàn về xây dựng gia đình xã hội
chủ nghĩa (Nhà xuất bản Sự thật, 1983) nhần mạnh vai trò của gia đình trong
xã hội và sự cần thiết phải xây dựng gia đình kiểu mới trong giai đoạn Cách
mạng hiện nay ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra nội dung và những biện
pháp cơ bản để xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa.
Được trình bày dưới dạng hỏi – đáp, cuốn sách Hỏi đáp về chính sách
dân số và xây dựng gia đình Việt Nam do tác giả Thanh Ngọc biên soạn (Nhà
xuất bản Lao động, 2010) đã diễn giải một cách ngắn gọn, tổng quan và dễ
hiểu một số vấn đề liên quan đến chính sách dân số và xây dựng gia đình Việt
Nam như kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, cấp dưỡng, li
hôn,... để cung cấp cho người đọc những cơ sở pháp lý và hiểu biết về những
vấn đề căn bản liên quan đến việc xây dựng gia đình.
Cùng một hướng khai thác, tác giả Trần Hữu Tòng, Trương Thìn trong
cuốn Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia) đã biên soạn, tập hợp những bài viết của nhiều tác giả
đánh giá về thực trạng gia đình Việt Nam, những thành tựu và hạn chế trong
quá trình xây dựng gia đình Việt Nam thời gian gần đây. Đồng thời, đưa ra
những giải pháp trên tầm vĩ mô cũng như những giải pháp cụ thể, tương ứng
với điều kiện của từng vùng, từng địa phương trên cả nước để công tác xây
dựng gia đình văn hóa tại Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về gia đình. Tuy nhiên,
nghiên cứu để tìm ra giải pháp xây dựng gia đình văn hóa mới dưới tác động
của nền kinh tế thị trường trên cơ sở áp dụng những quan điểm của
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của Nhà nước” còn khá khiêm tốn. Đề tài này mong muốn góp một phần nhỏ
vào việc giải quyết vấn đề nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nêu lên những quan điểm của Ph.Ăngghen về gia đình trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”.
4
Khoá luận tốt nghiệp
Vận dụng những quan điểm đó đối với việc xây dựng gia đình văn hóa
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày, phân tích những quan điểm của Ph.Ăngghen về gia đình trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”.
Khảo sát và đánh giá thực trạng gia đình Việt Nam dưới tác động của
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển gia đình Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháo luận của CNDVBC, CNDVLS
Một số phương pháp xã hội học: phân tích tài liệu, khảo sát số liệu…
3.4. Đóng góp của đề tài
Đề tài đưa ra đánh giá chân thực về những mặt tích cực và tiêu cực của
gia đình Việt Nam hiện này, vận dụng những vấn đề lý luận về gia đình được
Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của Nhà nước” để xây dựng gia đình văn hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường trên cơ sở gắn liền lý luận với thực tiễn.
5
Khoá luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC
CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
(PH.ĂNGGHEN)
1.1 Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa tác phẩm
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Thời kỳ những năm 1883-1891 được coi là thời kỳ phát triển tương đối
hòa bình của chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đồng thời cũng
là thời kỳ giai cấp vô sản đang tập trung lực lượng để chuẩn bị cho cuộc cách
mạng sắp tới.
Trong bối cảnh đó, đặc biệt là sau khi C.Mac từ trần (1883),
Ph.Ăngghen đã hướng toàn bộ hoạt động của mình vào nhiệm vụ phát triển
hơn nữa học thuyết Mác, chống lại mọi trào lưu tư tưởng phi mácxit. Trong số
những di cảo của Mác, Ph.Ăngghen đã tìm thấy bút ký của Mác về “Xá hội
cổ đại” – một tác phẩm của nhà nhân chủng học Mỹ L.Morgan.
Khi đọc xong tác phẩm này, Mac nhận thấy quan điểm của Morgan
trùng với quan điểm của ông về hình thái xã hội đầu tiên của loài người là xã
hội nguyên thủy. Ông dự định đưa ra một tác phẩm tổng kết kết quả nghiên
cứu của Morgan, đồng thời trình bày quan điểm duy vật về lịch sử của Mac về
giai đoạn tiền sử của văn minh nhân loại (xã hội nguyên thủy). Tuy nhiên, dự
định đó của Mac chưa thực hiện được vì năm 1883 Người mất.
Khi đọc bút ký của Mac, Ăngghen nhận thấy “Xã hội cổ đại”
(L.Morgan) đã xác minh quan điểm duy vậy về lịch sử mà cả Mac và
Ăngghen đã phát hiện được 40 năm. Ăngghen thấy cần phải viết một tác
phẩm riêng của Mac và Ăngghen để hoàn thiện quan điểm duy vật về lịch sử
của mình. Việc viết tác phẩm phải đi trên cơ sở những tài liệu ông tìm được
trong “Xã hội cổ đại” (L.Morgan).
Mục đích của Ăngghen khi viết tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của Nhà nước” là nhằm vạch trần những quan điểm sai
6
Khoá luận tốt nghiệp
trái lúc bấy giờ của giai cấp tư sản về gia đình. Qua đó, ông đi đến luận giải
một cách khoa học những vấn đề về gia đình như: gia đình ra đời từ đâu? sự
vận động, biến đổi và phát triển của gia đình như thế nào? Vì lúc này, giai cấp
tư sản cho rằng gia đình phụ quyền tồn tại từ trước đến nay cũng đồng nhất
với gia đình tư sản. Quan điểm đó cho thấy họ không nhìn thấy được sự phát
triển, sự tiến hóa của gia đình trong lịch sử của mình. Đồng thời, giai cấp tư
sản còn cho rằng gia đình tư sản là gia đình kiểu mẫu, quá lý tưởng. Tuy
nhiên, thực tế khi đó cho thấy, gia đình tư sản chưa đạt được trình độ phát
triển đó, mà sau gia đình tư sản, gia đình vẫn tiếp tục phát triển cho tới khi xã
hội không còn giai cấp thì gia đình mới đạt tới hoàn thiện.
Bên cạnh đó, trong tác phẩm, Ăngghen còn bác bỏ quan điểm của một
số nhà tư tưởng thời kỳ này về vấn đề chế độ tư hữu và Nhà nước. Trên cơ sở
phê phán những quan điểm đó, ông đã đưa ra luận giải một cách khoa học,
đúng đắn, xác thực về sự xuất hiện của chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp,
Nhà nước. Ông đã đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
trong luận giải, xem xét những vấn đề của lịch sử xã hội. Đồng thời, ông còn
dựa trên những tài liệu mà Morgan nghiên cứu trong tác phẩm “Xã hội cổ
đại” cùng với những công trình nghiên cứu của mình để viết nên tác phẩm
“Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”.
Ăngghen viết tác phẩm này còn với mục đích là tiếp tục phát triển
những tư tưởng thiên tài của Mac về giai cấp, đấu tranh giai cấp và về Nhà
nước, khẳng định và bảo vệ quan điểm duy vật về lịch sử của Mac và bản
thân ông. Đồng thời, xác định quan điểm duy vật tự phát của Morgan, phê
phán những quan điểm sai lầm của những nhà sử học và kinh tế học ở châu
Âu khi đó.
Tác phẩm được xuất bản lần thứ nhất vào khoảng thoáng 10/1884 tại
Duyrích (Thụy Sĩ) bằng tiếng Đức. Sở dĩ tác phẩm này không thể ra mắt tại
Đức bởi trong nội dung của nó đã phê phán mạnh mẽ xã hội tư sản hiện đại và
đưa ra kết luận về sự diệt vong không tránh khỏi của nó. Trong khi, tại Đức
giai đoạn này, những điều luật đặc biệt chống những người xã hội chủ nghĩa
7
Khoá luận tốt nghiệp
đang có hiệu lực. Thời gian đầu, nhà cầm quyền Đức gấy trở ngại cho việc
phát hành cuốn sách, nhưng về sau những khó khăn đó được khắc phục và
vào những năm 1886-1889, sách đã được xuất bản tại Stut-gat (Đức).
Từ lần xuất bản đầu tiên vào tháng 10/1884 đến 1891, có rất nhiều công
trình nghiên cứu về sự phát triển gia đình, đáng chú ý là những tác phẩm của
Bắccôphen, của Máclennan và đặc biệt là tác phẩm “Khái luận về gia đình,
về sự phát triển gia đình và của cải” của nhà sử học và xã hội học người Nga
M.M.Côvalépxki. Ăngghen thấy cần phải tổng kết những thành tựu khoa học
đó để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa tác phẩm của ông. Trong tác
phẩm, vấn đề gia đình được bổ sung, viết hoàn thiện, khoa học nhất và logic
nhất, được Ăngghen trình bày trọn vẹn trong chương II.
1.1.2. Ý nghĩa tác phẩm
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước” (Ph.Ăngghen) là một trong những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác, ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang phát triển ở trình độ cao và đang
chuyển mạnh sang giai đoạn chủ nghĩa Đế quốc, đồng thời cũng là thời kỳ giai
cấp vô sản tập trung lực lượng để chuẩn bị cho những cuộc cách mạng mới.
Bởi vậy, việc Ăngghen quyết định viết tác phẩm giống như thực hiện
một di chúc, tiếp tục phát triển tư tưởng thiện tài của C.Mac – quan điểm duy
vật về lịch sử. Theo đó, ông đã luận giải một cách khoa học về hình thái kinh
tế xã hội đầu tiên trong lịch sử cũng như quá trình hình thành và phát triển
của xã hội nói chung và những tổ chức chính trị xã hội nói riêng.
Đồng thời, Ăngghen đã trình bày một cách có hệ thống, chính xác và
khoa học về những hình thức gia đình trong lịch sử, nguồn gốc ra đời và sự
phát triển của các hình thức gia đình.
Bên cạnh đó, ông còn nêu lên nguồn gốc, đặc trưng, bản chất giai cấp
của Nhà nước cùng với sự thủ tiêu chế độ tư hữu, vạch ra những đường nét
cơ bản của các tiền đề kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” ra đời được
8
Khoá luận tốt nghiệp
coi là tác phẩm kiểu mẫu, sách giáo khoa của chủ nghĩa Mác về quan điểm
duy vật lịch sử.
Tác phảm còn góp phần to lớn vào việc giáo dục và trang bị cho giai
cấp công nhân trên toàn thế giới vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống lại hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu phi mácxít khác, hướng giai cấp
công nhân đoàn kết lại trong một khối thống nhất, có tổ chức, đấu tranh vì
một xã hội tương lai – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Gia đình và sự tiến hóa của gia đình trong lịch sử
1.2.1. Quan điểm của Ph.Ăngghen về nguồn gốc gia đình
Ăngghen đã dựa trên những lý luận rất cơ bản của chủ nghĩa Mác được
ông luận giải trên cơ sở những tài liệu của chính ông, của Mác và đặc biệt là
của Morgan trong cuốn “Xã hội cổ đại” để tìm ra nguồn gốc và cơ sở hình
thành gia đình.
Morgan sống phần lớn thời gian của đời mình với những người Irôqua
cư trú tại bang Niu-oóc (Mỹ) và ông được một trong những bộ lạc của họ
nhận làm con nuôi. Do đó, ông đã nhận thấy những người Irôqua có một hệ
thống họ hàng mâu thuẫn với những hình thức gia đình thực tế của họ.
Ở người Irôqua, hình thành hình thức gia đình cặp đôi, trong đó, con
cháu cảu một cặp vợ chồng đều được công nhận và xác định rõ. Nhưng trong
thực tế, việc dùng những danh từ xưng hô như: cha, mẹ, con trai, con gái, anh,
chị, em… trong gia đình cặp đôi lại hoàn toàn trái ngược.
Người đàn ông Irôqua không chỉ gọi con của mình mà còn gọi con của
các anh, em trai mình là con trai, con gái và con của anh em trai người đó
cũng gọi người đó là cha. Những người đó lại gọi con của chị mình, em gái
mình là cháu trai, cháu gái và những người cháu này gọi người đó là cậu.
Ngược lại, người đàn bà Irôqua gọi con mình, con của chị mình, em gái
mình là con trai, con gái; đồng thời, con của những chị em gái gọi người đó là
mẹ. Nhưng đối với con của anh, em trai mình, người đàn bà Irôqua lại gọi là
cháu trai, cháu gái; còn những người cháu này gọi người đó là cô.
9
Khoá luận tốt nghiệp
Con của những người anh em trai với nhau gọi là anh em, chị em; con
của những người chị em gái với nhau cũng gọi như thế. Ngược lại, con của
một người đàn bà và con của anh em trai người đàn bà đó gọi nhay là anh em
họ, chị em họ.
Những quan niệm đó, được dùng làm cơ sở cho một hệ thống họ hàng
đã được xác định mà theo đó những danh xưng ấy có thể biểu thị hàng trăm
mối quan hệ họ hàng khác nhau. Giải thích điều này, Ăngghen đã nói “do vai
trò quyết định của họ hàng trong chế độ xã hội của tất cả các công dân mông
muội và dã man, chúng ta không thể đơn giản dùng vài câu để gạt bỏ ý nghĩa
của một hệ thống phổ biến như vậy được. Một hệ thống thịnh hành khắp châu
Mỹ, tồn tại cả ở châu Á trong những dân tộc thuộc chủng tộc hoàn toàn khác,
một hệ thống mà người ta thường gặp, dưới những hình thức có thay đổi ít
nhiều trên khắp châu Phi và Ôxtơrâylia – một hệ thống như thế đòi hỏi phải
được giải thích về mặt lịch sử chứ không thể dùng mấy câu để gạt nó đi, như
Máclennan chẳng hạn, đã toan làm” [1;45].
Giải thích về hệ thống họ hàng mâu thuẫn với những hình thức gia đình
thực tế của thời tiền sử, Ăngghen đã dẫn lời Morgan để làm rõ quan điểm của
mình: “Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên
một chỗ, mà chuyển từ một hình thức thấp lên một hình thức cao, khi xã hội
phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao. Trái lại, những hệ
thống thân tộc thì thụ động, chỉ có trải qua những thời kỳ lâu dài, những hệ
thống đó mới phản ánh được những tiến bộ do gia đình đã đạt được trong
thời kỳ đó, và chỉ khi nào gia đình đã hoàn toàn thay đổi thì những hệ thống
ấy mới hoàn toàn thay đổi” [1;53].
Như vậy, để phù hợp với hệ thống thân tộc ấy phải là một hình thức gia
đình cổ xưa hơn cái gia đình cặp đôi, hình thức ấy chính là chế độ quần hôn,
đó là hình thức “sớm nhất, cổ nhất”, “hình thức chúng ta có thể chứng minh
được một cách chắc chắn là có tồn tại trong lịch sử ngày nay chúng ta vẫn có
thể nghiên cứu được ở một số nơi nào đó” [1;55].
10
Khoá luận tốt nghiệp
Ăngghen giải thích hình thức quần hôn có nghĩa là không có sự cấm
đoán hạn chế. Trong thời kỳ sơ khai chẳng những anh em, chị em đều là vợ
chồng, mà còn có cả những quan hệ tình dục giữa cha mẹ và con cái. Trước
khi phát minh ra sự loạn luân (đó là một phát minh hết sức quý báu), quan hệ
tình dục giữa cha mẹ và con cái có thể cũng không gây một sự ghê tởm gì lớn
hơn quan hệ tình dục giữa những người khác thuộc những thế hệ khác nhau.
Tất nhiên là không phải hoàn toàn không có từng cặp sống với nhau riêng rẽ
trong một thời gian có hạn, trong thực tế, ngay cả trong chế độ quần hôn,
trường hợp đó cũng vẫn là đa số.
Phê phán quan điểm của Vextơmac phủ nhận vấn đề tạp hôn của người
nguyên thủy và cho rằng “tình trạng đó là tệ mại dâm”, Ăngghen chỉ rõ
“chừng nào còn xem xét những điều kiện nguyên thủy qua cặp kính nhà thổ
thì không thể nào hiểu được điều kiện ấy” [1;56].
Như vậy, những lập luận của Ăngghen thông quan việc trích dẫn những
quan điểm của Morgan đã cho thấy, cơ sở để hình thành gia đình chính là
quan hệ hôn nhân và trong gia đình tồn tại quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống. Đồng thời, hình thức cổ xưa nhất, hay nguồn gốc của gia đình chính là
chế độ quần hôn.
1.2.2. Quan điểm của Ph.Ăngghen về các hình thức gia đình trong lịch sử
1. Gia đình huyết tộc
Gia đình huyết tộc hay còn gọi là gia đình cùng dòng máu là giai đoạn
đầu của lịch sử gia đình. Ở đây, các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế hệ.
Đặc trưng của gia đình này là kết hôn theo thế hệ trong huyết tộc, tất cả các
ông bà đều là vợ chồng với nhau, các con của họ, nghĩa là các người cha và
các bà mẹ, cũng đều là vợ chồng với nhau, rồi đến lượt con cái của những
người này cũng họp thành nhóm vợ chồng chung thứ ba, rồi con cái của
những người ấy, tức là chắ của những ông bà nói trên, cũng lại họp thành một
nhóm vợ chồng thứ tư.
11
Khoá luận tốt nghiệp
Trong hình thức gia đình này, chỉ giữa những tổ tiên và con cháu, giữa
cha mẹ và con cái là không có quyền và không có nghĩa vụ vợ chồng với
nhau.Khi nhận xét về hình thức gia đình như trên, Mác đã nói rằng: “Trong các
thời nguyên thủy, chị em gái là vợ, và lúc nó như thế là hợp với đạo đức” [1;57].
Trên thực tế thì gia đình huyết tộc đã tiêu vong từ rất lâu. Tuy lịch sử
những dân tộc mông muội nhất cũng không cung cấp cho chúng ta những ví
dụ xác đáng về hình thức gia đình đó, nhưng hình thức gia đình đó nhất định
đã tồn tại. Hệ thống họ hàng ở Haoai cho đến nay vẫn đang tồn tại ở khắp đảo
Pôlimêđia là những bằng chứng bắt buộc chúng ta phải công nhận điều đó, vì
hệ thống ấy biểu hiện những mức độ quan hệ huyết tộc chỉ có thể phát sinh
dưới hình thức gia đình đó thôi. Toàn bộ sự phát triển của gia đình sau này
cũng bắt buộc chúng ta phải thừa nhận điều đó như là giai đoạn tất yếu đầu
tiên của thời tiền sử.
2. Gia đình punaluan
Đây là hình thức gia đình phát triển tiến bộ hơn gia đình huyết tộc ở
bước tiến thứ nhất là hủy bỏ quan hệ tình dục giữa cha mẹ và con cái, bước
tiến thứ hai là hủy bỏ quan hệ tình dục giữa anh em trai và chị em gái. Theo
Morgan thì bước tiến đó là “một sự minh họa rất tốt về tác động của nguyên
tắc đào thải tự nhiên” [1;59].
Sở dĩ Ăngghen đánh giá cao bước tiến thứ hai vì đó chính là cơ sở trực
tiếp để hình thành thị tộc. Thị tộc đã trở thành cơ sở xã hội của đa số, nếu
không nói là của tất cả người dân dã man trên trái đất; đồng thời đánh dấu sự
phát triển của lịch sử từ thời đại dã man sang thời đại văn minh.
Khi xã hội không ngừng phát triển để từ công xã gia đình nguyên thủy
hình thành công xã gia đình mới. Phương thức kiếm sống thay đổi khiến
những con người cùng thế hệ trong công xã gia đình nguyên thủy cũ không
thực hiện được việc kết hôn. Từ đó, gia đình punaluan được hình thành.
Trong gia đình punaluan, một số nhất định chị em gái cùng mẹ hoặc xa
hơn đều là vợ chung của những người chồng chung (trừ anh em trai của họ
ra); những người chồng đó không gọi nhau là anh em nữa, mà gọi nhau là
12
Khoá luận tốt nghiệp
punaluan, nghĩa là bạn thân hay những người cùng hội. Cũng giống nhua thế,
một số anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy chung một số vợ không phải
là chị em gái của họ, và những người vợ đó đều gọi nhau là punaluan.
Đó chính là hình thức cổ điển nhất của một kết cấu gia đình. Kết cấu
gia đình này về sau sẽ có sự biến đổi và có đặc trưng chủ yếu là: chung
chồng, chung vợ với nhau trong phạm vi một gia đình nhất định, nhưng phải
loại trừ những anh em trai của các người vợ, và những chị em gái của các
người chồng. Xét về tính chất thì gia đình punaluan vẫn theo chế độ quần hôn,
do đó dòng dõi chỉ có thể xác định về bên mẹ được thôi, và vì vậy chỉ có nữ
hệ được thừa nhận (chế độ mẫu quyền).
Trên cơ sở đó, Ăngghen đã dấn đến kết luận cho rằng hình thức gia
đình huyết tộc là một hình thức sơ khai và rất thấp của chế độ quần hôn, còn
gia đình punaluan là hình thức phát triển cao nhất của chế độ đó.
Hình thức gia đình huyết tộc là hình thức gia đình phù hợp với trình độ
phát triển xã hội của những người mông muội, dã man, du mục.
Hình thức thứ hai, giả định là những cộng đồng cộng sản nguyên thủy
đã phải có những điểm cư trú tương đối ổn định và nó đã dẫn thẳng đến giai
đoạn phát triển tiếp theo cao hơn. Giữa hai hình thức hôn nhân ấy có những
giai đoạn trung gian. Đó là một lĩnh vực nghiên cứu chỉ vừa mới được mở ra
và cho đến nay, theo Ăngghen mới chỉ được đề cập đôi chút.
3. Gia đình cặp đôi
Theo Ăngghen, “gia đình cặp đôi là hình thức kết hôn từng cặp đã tồn
tại trong một thời gian ngắn hoặc dài hạn, trong những điều kiện của chế độ
quần hôn rồi, hoặc còn tồn tại sớm hơn nữa; lúc bấy giờ, trong số vợ rất đông
của mình, người đàn ông có một vợ chính, (nhưng chưa thể nói đó là người
vợ yêu nhất) và trong số nhiều người chồng khác, anh ta cũng là chồng chính
của người đàn bà ấy” [1;71-72].
Vào thời kỳ những thị tộc ngày càng phát triển, những nhóm anh em
trai và chị em gái không thể lấy nhau được nữa thì những kiểu kết hôn từng
cặp đã trở thành tập quán. Do đó, trong tình trạng cấm kết hôn ngày càng
13
Khoá luận tốt nghiệp
phức tạp ấy, hình thức quần hôn ngày càng không thể phát triển được, hình
thức ấy bị hình thức gia đình cặp đôi thay thế.
Trong gia đình cặp đôi, thường thì người phụ nữ phải tuyệt đối chung
tình trong thời gian chung sống với chồng và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng
trị một cách tàn ác. Tuy thế, mối liên hệ vợ chồng vẫn có thể bị bên này hay
bên kia cắt đứt một cách dễ dàng, con cái chỉ thuộc về bên mẹ và gia đình cặp
đôi vẫn tồn tại dưới chế độ mẫu hệ.
Đề cập đến cơ sở kinh tế của gia đình cặp đôi, Ăngghen cho rằng gia
đình cặp đôi không hề hủy bỏ được nền kinh tế gia đình cộng sản do thời
trước để lại. Nhưng nền kinh tế gia đình cộng sản lại có nghĩa là thiết lập địa
vị thống trị của người đàn bà trong gia đình. Do đó, trong kinh tế gia đình
cộng sản phần đông là phụ nữ, là cơ sở hiện thực của quyền thống trị của
người đàn bà – quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thủy.
Gia đình cặp đôi xuất hiện vào cuối thời kỳ mông muội và chuyển sang
thời đại dã man trên cơ sở kết đôi từng cặp. Đó là kết quả của sự phát triển
của gia đình trong lịch sử.
Có thể nói gia đình cặp đôi là hình thức gia đình đặc trưng của thời đại
dã man, cũng như chế độ quần hôn là hình thức gia đình đặc trưng của thời
đại mông muội và chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đặc trưng
của thời đại văn minh.
Tiếp theo, Ăngghen phân tích nguyên nhân khiến cho gia đình cặp đôi
phát triển thành gia đình một vợ một chồng. Ông cho rằng do phương thức
kiếm sống phát triển, con người biết chăn nuôi và trồng trọt đã tạo ra nguồn
của cải dồi dào và quan hệ xã hội mới. Của cải ấy, một khi đã trở thành sở
hữu riêng của các gia đình riêng rẽ và một khi đã tăng lên nhanh chóng, thì
đánh một đòn rất mạnh và xã hội dựa trên chế độ hôn nhân cặp đôi và chế độ
thị tộc mẫu quyền. Hôn nhân cặp đôi đã đưa vào gia đình một yếu tố mới.
Theo sự phân công lao động tồn tại trong gia đình thời bấy giờ, người chồng
có nhiệm vụ đi kiếm thức ăn và những công cụ lao động cần thiết cho việc
14
Khoá luận tốt nghiệp
kiếm thức ăn, do đó anh ta là người sở hữu những công cụ ấy, khi li hôn,
người chồng mang công cụ đi, còn người vợ giữ lại các công cụ gia đình.
Theo phong tục thịnh hành trong xã hội ấy, người chồng cũng là người
sở hữu một nguồn thức ăn mới, tức là gia súc và sau này lại là người sở hữu
một loại công cụ lao động mới tức là nô lệ.
Vậy là cảu cải tăng dần thêm thì một mặt, trong gia đình của cải đó
mang lại cho người chồng địa vị quan trọng hơn người vợ, mặc khác, của cải
đó khiến cho người chồng có xu hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn ấy để
đảo ngược trật tự thừa kế cổ truyền có lợi cho con cái mình. Vì vậy, trước hết
phải xóa bỏ chế độ tính dòng dõi theo mẫu quyền, và chế độ đó đã thực sự bị
xóa bỏ. “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn
thế giới của phụ nữ. Ngay cả trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền
cai quản, còn người đàn bà thì bị mất đi cái vị trí danh dự của họ, bị nô dịch,
bị biến thành nô lệ để giải trí cho đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn
thuần”[1;89]. Như vậy, chế độ phụ quyền đã thay thế chế độ mẫu quyền. Đó
là một trong những cuộc cách mạng triệt để nhất mà nhân loại đã đi qua.
4. Gia đình một vợ một chồng
Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia đình cặp đôi, hình thành
vào giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man và bước vào thời đại
văn minh.
Hình thức gia đình này hình thành trên cơ sở kết hôn của một người
đàn ông và một người đàn bà. Sự kết hôn này rất chặt chẽ do người đàn ông
giữ vai trò thống trị tuyệt đối đối với người đàn bà, người phụ nữ hoàn toàn
phụ thuộc và không được quyền ly hôn. Chính vì vậy, theo Ăngghen mâu
thuẫn đầu tiên trong lịch sử là mâu thuẫn giữa đàn ông với đàn bà trước khi có
giai cấp ra đời.
Trong gia đình một vợ một chồng đã xác định quyền lực tuyệt đối của
người đàn ông, đồng thời biểu hiện sự tồn tại song song của chế độ phụ quyền
với chế độ thừa kế. Quyền thống trị của người đàn ông trong gia đình ấy
nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không ai
15
Khoá luận tốt nghiệp
tranh cãi được, đó là điều kiện cần thiết để những đứa con đó sau này sẽ được
thừa hưởng tài sản của cha.
Chính vì vậy, chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên
không dựa trên những điều kiện tự nhiên, mà dựa trên những điều kiện kinh tế,
tức là dựa trên thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy.
Trong lịch sử, gia đình một vợ một chồng trải qua 4 kiểu gia đình, đó là:
gia đình gia trưởng, gia đình phong kiến, gia đình tư sản và gia đình vô sản.
• Gia đình gia trưởng
Ăngghen cho rằng cùng với sự xuất hiện của gia đình gia trưởng, loài
người bước sang giai đoạn lịch sử thành văn. Gia đình gia trưởng là hình thức
gia đình đánh dấu sự chuyển từ chế độ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ
một chồng. Để đảm bảo sự trung thành của người vợ, do đó đảm bảo việc con
cái đích thực là do người cha đẻ ra, người vợ buộc phải phục tùng quyền lực
tuyệt đối của người chồng, nếu chồng giết vợ đi chăng nữa thì cũng chỉ là
thực hiện quyền lực mà thôi.
Chính vì vậy, trong gia đình gia trưởng, nét đặc trưng chủ yếu không nằm
ở chỗ đó là một chế độ nhiều vợ, mà là việc thu nhận những người nô lệ và
quyền lực gia trưởng. Điển hình của hình thức gia đình đó là gia đình La Mã.
Trong gia đình gia trưởng, người cha và tất cả những người vợ của họ
sống chung trong cùng một nhà. Người cha là người quản lý tối cao, đồng
thời là người đại diện đối ngoại cho cộng đồng, người có quyền bán các đồ
vật có giá trị, chịu trách nhiệm về cộng đồng cũng như việc tiến hành công
việc làm ăn sao cho tốt.
Bên cạnh đó, tất cả các công việc của người phụ nữ đều đặt dưới quyền
của bà chủ nhà, thường là vợ của người quản lý gia đình. Đó là người có tiếng
nói quan trọng trong việc quyết định lựa chọn chồng cho các thiếu nữ trong
cộng đồng. Nhưng quyền tối cao thuộc về hội đồng gia đình, về hội nghị toàn
thể các thành viên, cả nam lẫn nữ.
Cộng đồng gia đình gia trưởng, với việc sở hữu và cày cấy chung ruộng
đất, mang ý nghĩa khác trước. Theo Côvalépxki thì cộng đồng gia trưởng là
16
Khoá luận tốt nghiệp
giai đoạn quá độ sang công xã nông thôn, hay công xã Máccơ với chế độ canh
tác cá thể theo từng gia đình và việc phân chia đất canh tác, đồng cỏ, đầu tiên
chia theo định kỳ, rồi sau chia vĩnh viễn.
Biểu hiện rất rõ của gia đình gia trưởng là ở La Mã cũng như Hy Lạp,
người đàn ông trong gia đình có quyền lực tuyệt đối, quyết định mọi việc của
gia đình, người vợ chỉ sinh con đẻ cái, quản lý nô tì cho chồng. Còn ở Aten,
người vợ được coi như người hầu chính và Nhà nước lại bảo hộ cho sự ngoại
tình của người chồng.
• Gia đình phong kiến
Trong gia đình phong kiến cũng xác lập quyền lực tuyệt đối của của
người đàn ông đối với người phụ nữ. Đồng thời, chế độ một vợ một chồng chỉ
có ý nghĩa đối với người vợ, vẫn tồn tại chế độ nhiều vợ đối với người chồng.
Nói về gia đình một vợ một chồng theo kiểu gia đình phong kiến,
Ăngghen đã chỉ ra mặc dù hôn nhân được coi là thiêng liêng “ đàn ông tự
thỏa mãn với vợ, đàn bà bị sự trinh tiết của mình bó buộc” [1;108] nhưng đối
với bọn quý tộc và trưởng bộ lạc thì chế độ nhiều vợ vẫn thịnh hành.
• Gia đình tư sản
Trong môi trường tư sản, hôn nhân được tiến hành theo hai lối. Trong
các nước theo đạo Thiên Chúa, cha mẹ tìm vợ hay tìm chồng cho con cái
mình, điều đó làm mâu thuẫn trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy
đủ nhất, về phía chồng thì tạp hôn bừa bãi, vợ thì ngoại tình lu bù. Điều đó
khiến hôn nhân một vợ một chồng dưới thời tư sản gắn liền với tệ ngoại tình
khi cho rằng “không có phương thuốc nào trị được ngoại tình cũng như
không có phương thuốc nào trị được cái chết” [1;111-112]. Bên cạnh đó, ở
các nước theo đạo Tin lành, người ta để cho đứa con trai tư sản ít nhiều được
tự do chọn vợ trong những người cùng giai cấp, vì vậy, tệ tạp hôn của người
chồng được thực hiện ít kiên quyết hơn và người vợ cũng vậy.
Chính vì vậy mà hôn nhân một vợ một chồng trong môi trường tư sản
chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý. Đằng sau nó, chế độ Hêtaya (quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân) vẫn tồn tại một cách phổ biến.
17
Khoá luận tốt nghiệp
Hơn nữa, hôn nhân dưới môi trường tư sản đều dựa trên địa vị giai cấp
của đôi bên, vì vậy, đó là hôn nhân có tính toán.
• Gia đình vô sản
Đối với hôn nhân một vợ một chồng của giai cấp vô sản, trong các giai
cấp bị áp bức thì tình yêu nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc trong các
quan hệ đối với người phụ nữ, cho dù những quan hệ đó có được đăng ký một
cách chính thức hay không.
Do gia đình vô sản không có một tài sản nào cả, đồng nghĩa với không
có một cơ sở để lập ra chế độ thừa kế cũng như phương tiện để thực hiện nó
như pháp luật, bảo hộ quyền thống trị… Đồng thời, đại công nghiệp đã đưa
người phụ nữ ra khỏi gia đình vào các công xưởng, cũng làm cho họ trở thành
một trụ cột trong gia đình, khiến cho những tàn tích cuối cùng của quyền
thống trị của người đàn ông bị mất hết mọi cơ sở. Do đó, gia đình vô sản
không còn có tính chất một vợ một chồng theo nghĩa chặt chẽ của danh từ mà
hình thành trên cơ sở nam nữ thực sự yêu thương nhau, bình đẳng và không
dựa trên cơ sở tính toán, họ đều có một mối tình thắm thiết nhất và trung
thành tuyệt đối nhất. Chính vì vậy, tệ tạp hôn và nạn ngoại tình trong gia đình
vô sản đóng vai trò không đáng kể. Điều quan trọng hơn cả là “người vợ đã
thật sự giành lại được quyền li hôn và một khi cả hai bên không thể sống
chung được nữa, thì họ chọn con đường xa lìa nhau. Tóm lại, hôn nhân của
người vô sản là hôn nhân một vợ một chồng theo nghĩa ngữ nguyên, chứ
không phải theo nghĩa lịch sử của danh từ đó” [1;115].
Tuy nhiên, Ăngghen cũng chỉ ra những hạn chế của hôn nhân một vợ
một chồng theo kiểu vô sản. Hạn chế đó nằm ở chỗ nhờ có đại công nghiệp
mà người phụ nữ được tham gia vào các công việc sản xuất xã hội. Nhưng
trong tình hình đó, nếu người đàn bà làm tròn bổn phận với gia đình thì họ
phải đứng ngoài lề sản xuất xã hội và không thể có được thu nhập. Ngược lại,
nếu họ muốn tham gia vào công việc xã hội và có thu nhập độc lập thì không
thể làm tròn được nhiệm vụ gia đình. Chính vì vậy, người chồng phải kiếm ra
tiền, là người nuôi dưỡng gia đình, tình trạng này làm cho người đàn ông có
18
Khoá luận tốt nghiệp
một địa vị thống trị mà không cần có một đặc quyền nào của pháp luật cả.
Trong gia đình, người chồng là tư sản, người vợ đóng vai trò của giai cấp vô
sản. “Tính chất đặc biệt của sự thống trị của người chồng đối với người vợ
trong gia đình vô sản nằm ở chỗ về mặt pháp luật thì cả vợ và chồng vẫn có
quyền hoàn toàn ngang nhau. Đến khi đó, người ta thấy rằng tiền đề đầu tiên
để giải phóng là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia sản xuất xã hội, và
điều kiện đó đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không còn là một đơn vị
kinh tế của xã hội nữa”[1;118].
Trên cơ sở đó, Ăngghen đã đưa ra dự báo về gia đình một vợ một
chồng trong tương lai. Ông phân tích chế độ một vợ một chồng sinh ra từ tập
trung rất nhiều của cải vào tay một người – vào tay người đàn ông mà thực
chất đó chính là chế độ tư hữu. Như vậy, chế độ một vợ một chồng do nguyên
nhân kinh tế sinh ra, nhưng khi những nguyên nhân ấy mất đi chế độ đó
chẳng những không mất đi mà chỉ đến bấy giờ nó mới thực hiện toàn vẹn. Vì
với việc các tư liệu sản xuất biến thành tài sản xã hội, thì chế độ lao động làm
thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ mất đi, tình trạng một số phụ nữ phải bán mình
vì đồng tiền cũng không còn nữa. Đồng thời, khi các tư liệu sản xuất chuyển
thành tài sản chung thì gia đình cá thể sẽ không là đơn vị kinh tế của xã hội
nữa, nền kinh tế gia đình tư nhân sẽ biến thành một ngành lao động xã hội.
Điều đó dẫn đền sự thay đổi sâu sắc về địa vị của cả người đàn ông và người
đàn bà trong gia đình. Bên cạnh đó, việc chăm sóc và giáo dục con cái trở
thành một công việc xã hội.
Và như để nhấn mạnh thêm cho dự báo về tương lai của gia đình một
vợ một chồng, Ăngghen đã trích lời Morgan cho rằng hình thức gia đình một
vợ một chồng trong tương lai “phải phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội, và phải biến đổi cùng sự biến đổi của xã hội... Là sản vật của một chế độ
xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của chế độ
xã hội đó. Vì gia đình một vợ một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt đầu
thời kỳ văn minh và được cải tiến rất rõ rệt trong thời kỳ cận đại, nên chí ít
người ta cũng có thể giả định rằng hình thức đó còn có thể cải tiến thêm nữa,
19
Khoá luận tốt nghiệp
cho tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ. Còn như nếu trong tương
lai xa xôi sau này, gia đình một vợ một chồng sẽ không có thể đáp ứng được
những nhu cầu của xã hội, thì cũng không thể nào dự đoán trước được là gia
đình tiếp sau đó sẽ có tính chất như thê nào”[1;133-134].
• Một số kết luận chung về gia đình
Từ những lý luận trên, Ăngghen đã nêu lên một số kết luận chung về
gia đình.
Trước hết, trong lịch sử gia đình có 3 hình thức hôn nhân chính, tương
ứng về đại thể với ba giai đoạn phát triển của nhân loại: ở thời đại mông muội
có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại
văn minh có chế độ một vợ một chồng, được bổ sung bằng tệ ngoại tình và
nạn mại dâm. Ở giai đoạn cao của thời đại dã man, giữa chế độ hôn nhân cặp
đôi và chế độ một vợ một chồng có xen kẽ sự thống trị của người đàn ông đối
với nữ nô lệ và chế độ nhiều vợ.
Các hình thức gia đình từ khi hình thành đều tuân theo chiều hướng
phát triển từ thấp đến cao, qui mô gia đình ngày càng thu nhỏ. Nguyên nhân
của sự biến đổi các hình thức gia đình đều do sự phát triển của xã hội. Đồng
thời, ba hình thức gia đình đầu tiên được hình thành chủ yếu bằng con đường
đào thải tự nhiên, còn sự hình thành, phát triển và tiến hóa của chế độ một vợ
một chồng là do yếu tố xã hội.
1.2.3. Vấn đề tình yêu và hôn nhân
a) Vấn đề tình yêu
Trong tác phẩm, Ăngghen đã đưa ra nhận xét tình yêu chỉ là cơ sở của
hôn nhân khi gia đình đã phát triển đến một trình độ hay giai đoạn nhất định
nào đó.
Theo Ăngghen, trước thời kỳ trung cổ thì không thể nói đến tình yêu cá
nhân giữa trai và gái được, mặc dù những vẻ đẹp về thể chất, tính thân mật, những
khuynh hướng giống nhau vẫn làm nảy nở trong lòng người ta sự ham muốn có
quan hệ tính giao với nhau. Nhưng từ đó đến tình yêu nam nữ thì còn rất xa.
20
Khoá luận tốt nghiệp
Trong suốt thời cổ đại, các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ quyết định
thay cho con cái, và con cái đều yên tâm vâng theo. Nếu người ta thấy có đôi
chút tình yêu giữa vợ chồng trong thời cổ thì tình yêu đó không phải là một
khuynh hướng chủ quan mà là một nghĩa vụ khách quan, nó không phải là cơ
sở của hôn nhân của là phần bổ sung vào hôn nhân. Trong thời cổ, những
quan hệ yêu đương theo nghĩa hiện đại chỉ có ở bên ngoài xã hội quan
phương. Nếu những quan hệ yêu đương thật sự xuất hiện giữa nam nữ công
dân tự do thì đó chỉ là việc ngoại tình.
Đến thời kỳ của chế độ phong kiến và tư sản, tình yêu đã có bước phát
triển. Tình yêu nam nữ khi đo khác về căn bản với tình dục đơn thuần, với êrô-xơ (sự luyến ái) của người cổ đại. Một là, nó giả định phải có tình yêu trả
lại của người mình yêu; về mặt này, người đàn bà bình đẳng với người đàn
ông; còn đối với sự luyến ái của thời cổ đại thì quyết không phải bao giờ
người ta cũng hỏi ý kiến người đàn bà. Hai là, sức mạnh và sự bền bỉ của tình
yêu thường đến mức hai bên thấy việc không lấy được nhau và phải xa nhau
là điều đau khổ lớn. Tuy nhiên, vì yếu tố để hình thành nên gia dình vẫn là lợi
ích nên tình yêu vẫn chưa thể là cơ sở của hôn nhân. Ở gia đình phong kiến vẫ
tồn tại tình yêu hiệp sĩ mà mầm mống của tình yêu gắn với tệ thông dâm; từ
thứ tình yêu làm phá hoại hôn nhân đó đến thứ tình yêu làm cơ sở cho hôn
nhân còn cả quãng đường dài. Bên cạnh đó, trong gia đình tư sản vẫn tồn tại
thứ tình yêu lãng mạn gắn liền với chế độ Hêtaya mà thực chất là tệ ngoại tình.
Tiếp theo, Ăngghen còn đưa ra những dấu hiệu và bản chất của tình
yêu. Trước hết, tình yêu phải dựa trên cơ sở nam nữ phải thực sự yêu thương
nhau và tình yêu ấy rất mãnh liệt. Bên cạnh đó, tình yêu phải gắn liền với
tính giao tự nguyện. Đồng thời, bản chất của tình yêu còn nằm ở chỗ không
thể chia sẻ được, cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam nữ, do ngay
bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng. Và với những đặc điểm
như vậy thì chỉ ở gia đình vô sản thì tình yêu giữa nam và nữ mới là tự do
và tự nguyện, là hoàn toàn trong sáng, không vụ lợi, tính toán và là cơ sở
của hôn nhân.
21
Khoá luận tốt nghiệp
2. Vấn đề hôn nhân
Trong tác phẩm, Ăngghen đã khái quát về lịch sử hôn nhân và mối
quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân.
Cho đến trước thời kỳ trung cổ, việc kết hôn vẫn không phải là việc do
bản thân những người kết hôn quyết định. Lúc đầu, người ta sinh ra là đã
thành hôn rồi – thành hôn với cả một nhóm người thuộc giới tính khác.
Trong chế độ hôn nhân đối ngẫu, lệ thường là các bà mẹ thỏa thuận với
nhau trong việc hôn nhân của con cái mình và cái quyết định vẫn là những sự
tính toán về quan hệ thân tộc mới làm sao cho địa vị của đôi vợ chồng trẻ
được củng cố trong thi tộc và bộ lạc.
Khi chế độ tư hữu chiến thắng chế độ công hữu gắn với sự xuất hiện
của chế độ thừa kế mà chế độ phụ quyền và chế độ một vợ một chồng chiếm
địa vị thống trị thì việc kết hôn chỉ hoàn toàn dựa vào lý do kinh tế. Việc kết
hôn dưới thời kỳ này không phải được quy định theo phẩm cách cá nhân mà
qua tài sản của con người có được. Sự luyến ái giữa đôi bên phải là lý do cao
hơn hết thảy mọi lý do khác trong việc kết hôn, đó là điều vẫn chưa từng nghe
nói đến từ xưa đến nay trong thực tiễn của các giai cấp thống trị. Có chăng,
thì nhiều lắm cũng chỉ có trong thế giới của chủ nghĩa lãng mạn, hay trong
các giai cấp bị áp bức, là những giai cấp không hề được đếm xỉa tới.
Khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, con người đi từ cái trật tự kế
thừa đến cái trật tự do tự do khế ước quy định. Trật tự đó đã tạo ra những con
người tự do và bình đẳng, là những người có thể tự do làm chủ thân thể mình,
làm chủ những hành vi và tài sản của mình, và bình quyền đối với nhau.
Những con người đó chính là một trong những công trình chủ yếu nhất của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Và đến lúc đó, theo quan niệm tư sản thì hôn
nhân là một khế ước, một việc giao dịch có tính chất pháp lý, hơn nữa là một
việc giao dịch quan trọng hơn tất cả trong mọi việc giao dịch, vì nó định đoạt
cả thể xác lẫn tinh thần của hai con người trong suốt cả đời họ. Theo đó, việc
hôn nhân không thể giải quyết được nếu không có sự đồng ý của đôi bên.
Chính vì vậy, hôn nhân trong giai cấp tư sản tuy vẫn là hôn nhân giai cấp,
22
Khoá luận tốt nghiệp
nhưng trong phạm vi của giai cấp, người ta để cho những người trong cuộc
được tự do lựa chọn đến một mức độ nào đó. Bên cạnh đó, những cuộc hôn
nhân không dựa trên tình thương yêu lẫn nhau và trên sự thỏa thuận thực sự
tự do giữa vợ chồng thì đều vô đạo đức. Tóm lại, kết hôn vì tình yêu đã được
tuyên bố là quyền con người, cũng có nghĩa là quyền của cả người đàn ông và
người đàn bà.
Tuy nhiên, Ăngghen đã chỉ ra những hạn chế trong hôn nhân tư sản để
từ đó đưa ra quan điểm về một hình thức hôn nhân khác tiến bộ hơn. Theo
ông, trong hôn nhân tư sản, giai cấp thống trị vẫn bị chi phối bởi những ảnh
hưởng kinh tế nhất định, cho nên những trường hợp hoàn toàn tự do kết hôn
trong giai cấp đó chỉ là ngoại lệ, còn trong giai cấp bị áp bức thì những cuộc
hôn nhân thật sự tự do, không bị chi phối bởi lợi ích kinh tế lại là thông lệ.
Như vậy, chỉ khi nào mà việc xóa bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và
các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra, đã gạt bỏ được tất cả những lý
do phụ, những lý do kinh tế, hiện vẫn ảnh hưởng rất lớn đến việc chọn vợ kén
chồng, thì lúc đó quyền hoàn toàn tự do kết hôn mới có thể trở thành một tài
sản chung. Chỉ đến lúc ấy mới không còn động cơ nào khác ngoài tình thương
yêu lẫn nhau. Và theo như lời Ăngghen nói trên thì hôn nhân như vật sẽ chỉ
diễn ra trong môi trường vô sản, là hôn nhân vô sản mà thôi.
23
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG TÁC PHẨM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA
NHÀ NƯỚC” (PH.ĂNGGHEN) ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm gia đình và gia đình văn hóa
2.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức cộng đồng người đã có từ rất lâu trong lịch
sử. Đồng thời, là yếu tố cơ bản, là hạt nhân quan trọng để hình thành nên xã
hội. Chính vì vậy có rất nhiều cách định nghĩa về gia đình.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách
kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản
cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra một cách xác định phù hợp
với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so
sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình
loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm
tra và sự tác động của xã hội, vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia
đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế… khiến cho nó không giống với bất kỳ nhóm xã
hội nào. Với mỗi góc độ nghiên cứu hay mỗi khoa học khi xem xét về gia
đình đều có thể đưa ra những khái niệm khác nhau.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì
vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một
thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa
con người. Theo đó, gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội
nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách
nhiệm đạo đức nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng
như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người”[14;20].
24
Khoá luận tốt nghiệp
Ở nước ta, căn cứ vào tình hình thực tế của đại đa số gia đình hiện nay,
giáo sư Lê Thi nêu lên và phân tích những đặc điểm của gia đình Việt Nam.
Theo ông “gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội được hình thành trên
cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn
nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại) cùng chung sống. Đồng
thời có thể có một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ
máu mủ. Những thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền
lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm, tình dục). Giữa họ có những điều ràng buộc
có tính pháp lý, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời, có những
quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình
dục giữa các thành viên trong gia đình theo luật Hôn nhân và Gia đình cũng
như theo truyền thống dân tộc”[16;87].
Bên cạnh đó, ông còn phân biệt khái niệm gia đình với khái niệm hộ ở
Việt Nam. “Hộ được hiểu như nhóm người sống chung dưới một mái nhà, có
thể có quỹ thu chi chung… Hộ có thể gồm những người có quan hệ ruột thịt,
họ hàng hay chỉ quen biết. Ở Việt Nam, trong cuộc điều tra dân số năm 1989
đã đưa ra khái niệm hộ gia đình bao gồm những người có quan hệ hôn nhân
hay ruột thịt hoặc nuôi dưỡng có quỹ thu chi chung. Mỗi hộ gia đình có sổ
đăng ký hộ khẩu ghi rõ số nhân khẩu, người chủ hộ và quan hệ những thành
viên với chủ hộ. Đây là tài liệu có tính pháp lý để chính quyền địa phương có
thể quản lý gia đình”[16;88].
Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có đặc điểm là có nhiều thế hệ cùng
chung sống trong một mái nhà. Mỗi gia đình thường có ba thế hệ sống chung
với nhau: ông bà, cha mẹ, con cái. Đối với gia đình Việt Nam, theo truyền
thống, người trụ cột là người chồng (hoặc người cha). Bên cạnh đó, về mặt
pháp lý, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam còn có nhiều chính sách, nhiều quy
định cụ thể về gia đình và các vấn đề liên quan. Đặc biệt, quyết định
72/2001/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam được ban hành đã chọn
ngày 28/06 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.
25