Tải bản đầy đủ (.ppt) (59 trang)

Bài 10: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.27 MB, 59 trang )





Địa lý Trung Quốc trải dài khoảng 5026 km dọc theo lục địa Đông Á giáp với
Biển Đông Trung Hoa, Vịnh Triều Tiên, Hoàng Hải, và Biển Nam Trung Hoa,
giữa Bắc Triều Tiên và Việt Nam trong một hình dạng thay đổi của các đồng
bằng rộng lớn, các sa mạc mênh mông và các dãy núi cao chót vót, bao gồm
các khu vực rộng lớn đất không thể ở được. Nửa phía Đông của quốc gia này
là các vùng duyên hải rìa các đảo là một vùng bình nguyên phì nhiêu, đồi và
núi, các sa mạc và các thảo nguyên và các khu vực cận nhiệt đới. Nửa phía
Tây của Trung Quốc là một vùng các lưu vực chìm trong các cao nguyên, các
khối núi, bao gồm phần cao nguyên cao nhất trên trái đất.
Trung Quốc là quốc gia lớn thứ 4 thế giới về tổng diện tích (sau Nga, Canada,
và Hoa Kỳ).[1] Số liệu về diện tích của Trung Quốc hơi khác nhau, tùy theo việc
người ta lấy số liệu từ các biên giới mập mờ. Con số chính thức do Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa đưa ra lá 9,6 triệu km2, khiến cho quốc gia nhày chỉ hơi
nhỏ hơn một tý so với Hoa Kỳ. Trung Hoa Dân Quốc đóng ở Đài Loan đưa ra
con số là 11 triệu km2, nhưng số liệu này bao gồm cả Mông Cổ, một quốc gia
có chủ quyền độc lập. Trung Quốc có đường viền khá giống với Hoa Kỳ và
phần lớn có cùng vĩ độ của Hoa Kỳ. Tổng diện tích Trung Quốc ước tính là
9.596.960 km², trong đó diện tích đất là 9.326.410 km² và nước là 270.550 km²
Tọađộ:35°00′N,105°00′E


Địa lý và khí hậu

Bài chính: Địa lí Trung Quốc.

Do lãnh thổ trải rộng nên Trung Quốc có phong cảnh
tương đối đa dạng, phía tây có nhiều cao nguyên và núi


non, trong khi phía đông đất đai bằng phẳng và thấp hơn.
Do vậy, hầu hết các con sông chính đều chảy từ tây sang
đông, trong đó có Dương Tử, Hoàng Hà và Hắc Long
Giang cũng như chảy từ phía tây về phía nam như Châu
Giang, Mê Kông, và Brahmaputra), và tất cả các sông này
đều đổ ra Thái Bình Dương, trừ Brahmaputra đổ ra Ấn Độ
Dương.

Hầu hết các vùng đất trồng trọt được đều nằm dọc theo hai
con sông chính là Dương Tử và Hoàng Hà, và đây cũng là
trung tâm phát sinh các nền văn minh cổ đại rực rỡ của
Trung Quốc.

Về phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng Hải và Đông Hải là
các đồng bằng phù sa rất đông dân; còn bờ biển của Biển
Đông ("Nam Hải Trung Quốc") và miền nam Trung Quốc
có nhiều đồi núi và dãy núi thấp.



Về phía tây, miền bắc có đồng bằng phù sa lớn (bình nguyên
Hoa Bắc), còn miền nam có cao nguyên đá vôi mênh mông
bao phủ bởi các ngọn đồi với độ cao tương đối, trong đó dãy
Himalaya có đỉnh cao nhất là ngọn Everest. Phía tây bắc cũng
có các cao nguyên khá cao trong các vùng đất sa mạc khô cằn
như Takla-Makan và sa mạc Gobi ngày càng mở rộng. Do hạn
hán kéo dài và có thể là kỹ thuật canh tác kém nên các cơn
bão cát đã ngày càng phổ biến vào mùa xuân ở Trung Quốc.
Các trận bão cát thổi xuống tận phía nam Trung Quốc, Đài
Loan, và có cả dấu vết ở Bờ Tây Hoa Kỳ.


Biên giới tây nam của Trung Quốc có nhiều núi cao và thung
lũng sâu phân cách với các nước Miến Điện, Lào và Việt Nam.

Khí hậu của Trung Quốc cũng rất đa dạng. Miền bắc có khí
hậu với mùa đông khắc nghiệt kiểu Bắc cực. Miền trung có khí
hậu ôn đới hơn. Miền nam chủ yếu là khí hậu tiểu nhiệt đới.

Vào Đại Cổ Sinh đến đầu Kỷ Than Đá hình thành nên biển,
trong khi vào Đại Trung Sinh và Kỷ Đệ Tam hình thành các
cửa sông và nước ngọt khởi nguồn trên cạn. Các miệng núi
lửa có ở đồng bằng Hoa Bắc. Ở bán đảo Liêu Đông và Sơn
Đông, có các đồng bằng bazan.


Một cảnh đông đúc trên đại lộ Nam Kinh ở Thượng Hải.

Tại Trung Quốc có khoảng hơn một trăm dân tộc, trong
đó đông nhất là người Hán, là dân tộc với sắc thái ngôn
ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt vì thực ra là kết hợp
của nhiều dân tộc khác nhau được coi là cùng chia sẻ
một thứ ngôn ngữ và văn hóa. Trong lịch sử Trung Quốc,
nhiều dân tộc bị các dân tộc xung quanh đồng hóa hoặc
biến mất không để lại dấu tích. Một số dân tộc khác biệt
lọt vào trong vùng sinh sống của dân tộc Hán đã bị Hán
hóa và được coi là người Hán, khiến cho dân tộc này trở
nên đông một cách đáng kể; và trong cộng đồng người
Hán thực ra có nhiều người được coi là người Hán
nhưng có truyền thống văn hóa và đặc điểm ngôn ngữ
khác hẳn. Thêm vào đó trong lịch sử cũng có nhiều sắc

dân vốn là người ngoại quốc đã làm thay đổi văn hóa và
ngôn ngữ của sắc dân Hán như trường hợp người Mãn
Châu bắt đàn ông người Hán phải để tóc đuôi sam. Đôi
khi người ta dùng thuật ngữ dân tộc Trung Hoa ( 中中中中 )
để chỉ người Trung Quốc nói chung.


Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện chính thức
công nhận tổng cộng 56 dân tộc, trong đó người Hán chiếm đa số.
Với số dân hiện nay là 1,3 tỉ người trên tổng số dân toàn thế giới là
6,4 tỉ, Trung Quốc là nơi có xấp xỉ 20% loài người (homo sapiens)
sinh sống.

Vào thời Mao Trạch Đông, tình hình phát triển dân số không được
kiểm soát tốt đã khiến cho số dân Trung Quốc bùng nổ nhanh
chóng và đạt đến con số 1,3 tỉ người hiện nay. Để giải quyết vấn
nạn này, chính phủ CHNDTH đã áp dụng một chính sách kế hoạch
hóa gia đình dưới tên gọi chính sách một con.

Người Hán nói các thứ tiếng mà các nhà ngôn ngữ học hiện đại coi
là những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, tuy nhiên tại Trung Quốc
nhiều người coi đấy là những "thổ ngữ" hay "ngôn ngữ địa phương"
(topolect) cùng trong tiếng Trung Quốc. Tuy có nhiều ngôn ngữ nói
khác nhau nhưng kể từ đầu thế kỷ 20, người Trung Quốc bắt đầu
dùng chung một chuẩn viết là "Bạch thoại" được dựa chủ yếu trên
văn phạm và từ vựng của Phổ thông thoại là ngôn ngữ nói được
dùng làm chuẩn. Ngoài ra từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung
Quốc dùng một chuẩn viết chung là Cổ văn. Ngày nay Cổ văn
không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên trong chương
trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung Quốc

bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Không như
Phổ thông thoại, các ngôn ngữ nói khác chỉ được nói mà không có
cách viết;


Tại Trung Quốc, đa phần dân chúng là vô thần, số còn lại theo
những tôn giáo chính sau với tỉ lệ chỉ mang tính ước lượng có
thể không chính xác:

Lão giáo: xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và khó phân
ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm
rõ số người theo.

Phật giáo: khoảng 8%, bắt đầu du nhập vào Trung Quốc khoảng
từ thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Số người theo chủ yếu là Đại
thừa, còn Tiểu thừa thì không đáng kể. Ngoài ra, còn có những
người theo Phật giáo Tây Tạng, chủ yếu tại Tây Tạng và Nội
Mông Cổ.

Cơ Đốc giáo: khoảng 1 đến 4% tùy nguồn, một số nhánh của
đạo này được truyền rải rác vào Trung Quốc thành nhiều đợt bắt
đầu từ thế kỷ thứ 8. Ngoài ra còn có những người Trung Quốc
gốc Nga ở phía bắc và tây bắc Trung Quốc theo Chính Thống
giáo với số lượng tương đối nhỏ.

Nho giáo: không rõ số người theo, đây là tôn giáo xuất phát từ
Khổng Tử mà các triều đại Trung Quốc cố gắng truyền bá theo
chiều hướng có lợi cho chính quyền, tuy nhiên theo nhiều học
giả thì bản chất của nó không phải như vậy.


Phong cảnh non nước ở khu tự trị dân tộc Choang -
Phong cảnh non nước ở khu tự trị dân tộc Choang -
Quảng Tây
Quảng Tây

Kênh đào Linh Cừ nối hai hệ thống sông Trường Giang
Kênh đào Linh Cừ nối hai hệ thống sông Trường Giang
và Chu Giang
và Chu Giang

Cảnh đẹp về đêm của Quảng Châu-Trung Quốc
Cảnh đẹp về đêm của Quảng Châu-Trung Quốc


Thiên Sơn:

Thiên Sơn là một dãy núi nằm ở khu vực Trung Á, về phía
bắc và phía tây của sa mạc Taklamakan trong khu vực
biên giới của Kazakhstan, Kyrgyzstan và khu tự trị Tân
Cương Duy Ngô Nhĩ ở phía tây bắc Trung Quốc. Về phía
nam, nó nối liền với dãy núi Pamir.

Tên gọi Thiên Sơn được sử dụng rộng rãi hiện nay là sự
phiên âm sang tiếng Trung của tên gọi trong tiếng Duy Ngô
Nhĩ Tengri Tagh (dãy núi thần linh).

Đỉnh cao nhất của dãy núi Thiên Sơn là đỉnh Pobeda với
độ cao 7.439 m (24.408 ft), và là đỉnh cao nhất ở
Kyrgyzstan và nó nằm trên biên giới với Trung Quốc. Đỉnh
cao thứ hai của Thiên Sơn là đỉnh Khan Tengri (thần linh

hồn), có độ cao 7.010 m, nằm trên biên giới Kazakhstan-
Kyrgyzstan. Hai đỉnh núi này được phân loại là hai đỉnh
cao trên 7.000 m nằm cao nhất về phía bắc của thế giới.

Một số hình ảnh
Một số hình ảnh

×