Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Ngày nay, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 và đã đạt được nhiều thành tựu
vượt bậc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa công học công nghệ. Tuy nhiên nạn
nghèo đói vẫn tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia như Viện Nam nói riêng và đối với nền văn minh nhân loại nói chung. Chính vì
vậy mà nghèo đói và chống nghèo đói luôn là trọng tâm hàng đầu của các quốc gia.
Ở Việt Nam, sau hơn 80 năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm chiến tranh đã làm
cho cơ sở hiện tại của nước ta bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế trở nên kiệt quệ, sản
xuất nông nghiệp lạc hậu đình đốn, sản xuất công nghiệp nhỏ bé, manh mún chưa
phát triển. Theo kết quả điều tra 1992, tỉ lệ dân số có mức sống giàu, khá là 9,3%,
trung bình 4,5%, nghèo 45,7%. Để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân đồng thời phát triển kinh tế và ổn định xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã
tiến hành thực hiện các chủ trương, chính sách để khôi phục và phát triển đất nước
trong đó chính sách xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách tiêu biểu
góp phần phát triển đất nước.
Nghệ An là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có tốc độ phát triển kinh tế vào
loại trung bình của cả nước. Trong bối cảnh chung của công cuộc đổi mới của cả
nước, Nghệ An cũng đã thu được những kết quả to lớn trong kinh tế cũng như xã
hội, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó, một bộ phận
không nhỏ dân cư vẫn phải sống trong tình trạng nghèo đói, đặc biệt là đồng bào
các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.
Và hiện nay tỉnh Nghệ An đang đặt ra mục tiêu đến 2020 Nghệ An sẽ là một
trong những tĩnh khá nhất Bắc miền trung, chính vì vậy nghèo vẫn còn là một
thách thức lớn của tỉnh Nghệ An, khi tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao và khoảng cách
giàu nghèo vẫn đang ngày càng rộng ra. Cho nên em chọn đề tài : “ Chương trình
xóa đói giảm nghèo ở Nghệ An” làm đề tài nghiêm cứu cho mình từ đó đi tìm
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm từng bước xoá đói giảm nghèo cho tỉnh
Nghệ An, và góp công vào xây dựng “Chính sách công” ngày càng hiệu quả hơn
.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu đánh giá chính sách xóa đói ở tỉnh Nghệ An nói riêng và cả nước
nói chung. Chính sách công ở Việt Nam trong các giai đoạn và hiện nay để góp
phần cung cấp kiến thức cho sinh viên học tập, xây dựng củng cố bộ môn Chính
sách công cho ngành Chính trị học Việt Nam. Ngoài ra tìm hiểu thêm tình hình
nghèo đói ở tỉnh Nghệ An và cả nước, kiến nghị Đảng nhà nước có những chính
sách kịp thời hợp lý để xây dựng đưa đất nước ngày càng phát triển hơn.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu
Chính sách xóa đói giảm nghèo nói chung và Nghệ An nói riêng
- Phạm vi nghiên cứu.
Địa bàn tỉnh Nghệ An
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu và thực địa.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều cơ
quan ban ngành, nhiều nguồn khác nhau. Tư viện trường Đại học Vinh, Cục thống
kê Nghệ An, Sở lao động thương binh và Xã hội tỉnh Nghệ An.
- Phương pháp thống kê toán học.
Trên cơ sở các số liệu thu thập được, tôi sử dụng phương pháp thống kê toán
học để tính các thông số cần thiết phục vụ nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
Dựa trên những số liệu, tài liệu thu thập được tôi tiến hành so sánh, phân
tích, tổng hợp theo yêu cầu của đề tài về không gian và thời gian để tìm ra sự khác
biệt giữa hiện tượng này và hiện tượng khác. Từ đó đưa ra những nhận định, đánh
giá có tính chất tổng hợp, khái quát về vấn đề nghiên cứu.
- Một số phương pháp hiện đại.
Trong luận văn có sử dụng một số bản đồ, biểu đồ để minh hoạ cho nội dung
nghiên cứu. Do đó tôi đã sử dụng các phần mềm khác nhau để thành lập bản đồ,
biểu đổ như Mapinfo, Excel
1.4.
kết cấu đề tài.
Phần 1. Mở đầu
Phần 2. Nội dung
- Chương 1.
- Chương 2.
- Chương 3.
Phần 3. Kết luận
Phần 4. Tài liệu tham khảo
Phần 2. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUÂN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
Khái niệm về chính sách.
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm
để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường.
Khái niệm chính sách công.
Chính sách công bắt nguồn từ những quyết định của nhà nước được dùng để
giải quyết vấn đề chung vì lợi ích của cộng đồng.
Quan niệm Đói nghèo.
Nghèo là sự thiếu thốn cả về vật chất và phi vật chất, có cuộc sống thấp nhà
ở tạm bợ, thiếu tiện nghi sinh họat trong gia đình, không có vốn để sản xuất, thiếu
ăn vài tháng trong năm, con em không được đến truờng, số ít có học thì không có
điều kiện học lên cao, có bệnh không được đến bác sĩ, không tiếp cận với thông tin,
không có thời gian và điều kiện để vui chơi giải trí và chủ yếu là dành thời gian để
đi làm thêm kiếm tiền, ít hoặc không được hưởng quyền lợi, thiếu tham gia vào
phong trào địa phương.
Khái niệm xóa đói giảm nghèo.
Là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước và xã hội hay của chính
những đối tượng thuộc nghèo đói nhằm tạo điều kiện để họ tăng thu nhập, thoát
khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu trên cở sở chuẩn
nghèo được quy định theo từng địa phương, khu vự, quốc gia.
Khái niệm chính sách xóa đói giảm nghèo.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội
nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, từ đó
xây dựng một xã hội giàu đẹp.
1.1.2 Tính thực tế của chương trình xóa đói giảm nghèo.
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoà
giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết
tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc
sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội trong các thời kỳ nhà nước
đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình
xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn
thuần, mà nó còn là vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo
thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh
tế là điều kiện kiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì vậy, phải
tiến hành thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng
cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá,
phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại
chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem như là một giải pháp hữu
hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông
thôn nước ta hiện nay.
1.1.3 Vai trò của chương trình xóa đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nó là lẽ sống,
khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân, dân tộc Việt Nam để Việt
Nam thật sự trở thành một nước: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Vì vậy vai trò của chương trình xóa đói giảm nghèo đóng mộ vai trò hết sứ
quan trọng đối với toàn thể dân tộc Việt Nam cũng như quá trình xây dựng đổi mới
đât nước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- Thứ nhất về kinh tế: Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giửa thành thị với nông
thông, giửa miền núi với miền đồng bằng và khoảng cách với các nước trên thế
giới. Tạo tiền đề động lực cho nên kinh tế phát triển thoát dân khỏi sự lạc hậu
về kinh tế xây dựng một nền kinh tế tiên tiến có tính cạnh tranh cao. Cân bằng
khoảng cách thu nhập giửa các vùng miền đối với nhau.
- Về chính trị: Tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng và nhà nước, xây dựng một xã hội ổn định đẩy lùi các âm mưu chống phá,
phá hoại thù đich. Góp phần nâng cao vị thế tiếng nói của Việt Nam trên trường
Quốc tế.
- Về văn hóa : Việt Nam đang tập trung phát triển nền văn hoá truyền thống đậm
đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện mục tiêu phát triển văn hoá, cần xác định rằng:
đói nghèo là một trong những nguy cơ tiềm ẩn kéo theo các vấn đề văn hoá xã
hội và sự kìm hãm xã hội, nó ăn sâu vào tiềm thức của từng hộ gia đình, từng
người trong cuộc sống sinh hoạt văn hoá. Ở một trình độ văn hoá thấp, đói
nghèo luôn là nỗi ám ảnh tư tưởng con người sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội, làm
thay đổi nhân cách con người đi vào lối sống buông thả, tự ti sùng bái những tư
tưởng lạc hậu, mông lung dẫn đến đẩy lùi văn minh xã hội, phát triển văn hoá
và nhân cách con người.
Chính vì vậy, đầy nhanh công tác XĐGN là một yếu tố quan trọng nâng cao đời
sống người dân, làm cho nền văn hoá phát triển cùng nhịp độ tăng trưởng kinh
tế trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Để nâng cao đời sống tinh thần cũng như
vật chất để bảo tồn lưu giữ những truyền thống văn hóa dân tộc, xây dựng một
xã hội ổn đinh văn minh.
- Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội.
Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng không những đối
với sự phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội. Để làm nổi bật những cản trở của nghèo đói đối với sự phát triển xã hội các
nhà kinh tế đưa ra lý thuyết về cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói:
Biểu1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói
-
Nghèo đói
`
Bệnh tật
Gia tăng dân số
Ô nhiễm môi
Tệ nạn xã hội
Suy dinh dưỡng
Thất học
Như vậy, từ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói lại kéo theo cái vòng luẩn
quẩn khác của sự phát triển của một quốc gia, của một vùng. Vì vậy muốn cho đất
nước, vùng phát triển chúng ta phải phá vỡ các mắt xích cơ bản như hạn chế gia
tăng dân số, nâng cao sức khoẻ và dinh dưỡng của người dân, hạn chế sự thất học,
nâng cao trình độ dân trí. Để đảm bảo phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn đó thì
chúng ta phải tháo gỡ từng mắt xích cụ thể chứ không làm chung chung ồ ạt được.
1.1.4 Các nhóm chương trình xóa đói giảm nghèo
Nhóm chính sách xóa đói giảm nghèo toàn diện: Đó là các chính sách tổng hợp,
nhằm mục tiêu cải thiện toàn diện các khía cạnh đời sống của các hộ nghèo, bao
gồm các dự án tiếp cận dịch vụ, kết cấu hạ tầng; hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy sản xuất
hàng hóa và liên kết thị trường, đào tạo nghề, tạo điều kiện phát triển các mặt của
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào (Chương trình 135, Chương trình
30a; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo...)
Nhóm các chính sách có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp nâng cao đời sống
nhân dân mang tầm quốc gia. Các chính sách này với các chủ trương tiếp cận theo
mục tiêu, tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể, thiết thực đặt ra từ thực tế đời sống
kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (chương trình mục tiêu quốc gia về
nước sạch; giáo dục đào tạo, giải quyết việc làm; dân số, kế hoạch hóa gia đình;
chương trình xây dựng nông thôn mới...).
Các chính sách theo vùng. Đó là các chính sách có trọng tâm hỗ trợ cho một số
vùng nhất định như: Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các xã biên
giới Việt Nam - Lào - Căm-pu-chia, vùng Tây Bắc; Giải quyết đất ở, đất canh tác
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nam Bộ; Giao rừng và bảo vệ rừng cho đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Thanh Hóa - Nghệ An...
Chính sách giảm nghèo tiếp cận theo ngành. Chính sách này tập trung hỗ trợ theo
từng lĩnh vực cụ thể như giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, nước
sạch, trồng rừng…
Các chính sách tiếp cận đặc trưng cho nhóm nghèo, đồng bào dân tộc thiểu
số như chính sách hỗ trợ một số dân tộc đặc biệt khó khăn; những dân tộc đặc biệt
ít người...
Các nhóm chính sách trên thông qua các dự án, các chương trình nhằm tạo điều
kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các
dân tộc thiểu số, đưa vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát
triển; tạo điều kiện cho hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội và hoạt động
nâng cao nhận thức, năng lực giảm nghèo.
1.1.5 Nội dung và mục tiêu của chương trình xóa đói giảm nghèo.
• Nội dung
Chương trình phát triển nông thôn, thủy lợi, giao thông. Chương trình về
thủy lợi, giao thông Đây là chương trình đầu tiên và kéo dài thời gian nhất cho đến
nay nó vẫn được tiếp tục. đa số người nghèo tập trung nhất ở những vùng sâu vùng
xa mà chính những nơi này giao thông thủy lợi lại rất yếu kém do đó Nhà nước ta
đã có chủ trương hỗ trợ cho những khu vực này với khẩu hiệu Nhà nước và nhân
dân cùng làm. Việc phát triển giao thông và thủy lợi sẽ tạo đà cho sự hòa nhập giữa
miền ngược và miền xuôi, thúc đẩy kinh tế miền núi phát triển, tăng năng suất lao
động góp phần bình ổn lương thực trong vùng.
Chương trình định canh định cư : Đây là một chương trình đặc biệt có ý
nghĩa trong việc phát triển kinh tế miền núi theo hướng chuyển dịch cơ cấu giống
cây trồng mới và sản xuất hàng hóa tập trung. Nó được hiểu là một chương trình
bao gồm nhiều công việc, dự án triển khai trên diện rộng, chủ yếu tập trung vào
các khâu khuyến nông, khuyến lâm, khoa học kỹ thuật vật tư sản xuất tín dụng
nông thôn.
Chương trình giải quyết việc làm :Trên cơ sở nghị quyết số 120/HĐBT ngày
11- 4-1992 một chương trình có tầm quan trọng tác động tới việc xóa đói giảm
nghèo đó là chương trình xúc tiến việc làm, chương trình ra đời nhằm giải quyết
gánh nặng nhân lực trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
theo yêu cầu đổi mới, cung cấp tín dụng, bồi thường, trọ cấp cho người ra khỏi
biên chế nhà nước để tự tạo việc làm, buôn bán nhỏ và các hoạt động kinh tế phù
hợp với kinh tế thị trường.
Chương trình tín dụng : Nhà nước có chủ trương thực hiện các khoản tín
dụng cho vay mở rộng tới hộ nông dân, và theo quyết định số 525/TTg ngày 31- 81995 của Thủ Tướng Chính Phủ cho phép thành lập ngân hàng phuc vụ người
nghèo để giúp người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, góp
phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo có
chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước, tiếp nhận cá nguồn vốn của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn
khác Nhà nước cho phép được lập quỹ cho người nghèo vay thực hiện chương
trình của Chính Phủ đối với người nghèo.
Hoạt động của ngân hàng người nghèo vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo,
không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp
chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện việc cho vay vốn trực tiếp sản
xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn, và theo lãi suất quy định. Ngân
hàng phục vụ người nghèo được xét miễn thuế doanh thu và thuế lợi tức để giảm
lãi suất cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro theo quy chế tài chính của bộ tài
chính. Sau 7 năm hoạt động ngày 4-10-2002 Chính phủ đã ban hành nghị định
78/2002/NĐ- CP về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác
trong đó ghi rõ thành lập ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện tín dụng ưu đãi
đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại ngân
hàng người nghèo đưa ngân hàng người nghèo trở thành một ngân hàng hoàn chỉnh
giúp cho việc thực hiện các chức năng của mình hiệu quả hơn.
Chương trình giáo dục với mục tiêu xóa đói giảm nghèo: Có thể gói gọn
chương trình giáo dục trong khuôn khổ đóng góp hoặc tác động vào các việc xóa
đói giảm nghèo gồm:
- Chương trình nâng cao chất lượng phổ thông các cấp
- Chương trình củng cố và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục tiểu
học
- Chương trình tăng cường đẩy mạnh giáo dục phi chính thức
- Chương trình cải tiến hệ thống dậy nghề đáp ứng nhu cầu thị trường
- Chương trình 7 của Bộ giáo dục và đào tạo về hệ thống trường phổ thông
dân tộc nội trú.
Chương trình y tế : Chương trình y tế chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
nói chung vốn có thâm niên từ trước rất lâu so với chương trình xóa đói giảm
nghèo.
Trong chương trình chung lại có chương trình bảo về bà mẹ trẻ em, đó là hai
đối tượng dễ bị tổn thương và rủi ro trong cuộc sống xã hội và gia đình. Những
chương trình hoạt động chính trong khuôn khổ xóa đói giảm nghèo bao gồm
chương trình phòng chống bệnh bướu cổ, phòng chống bệnh sốt rét, nước sạch cho
sinh hoạt nông thôn, tiêm chủng mở rộng, xóa xã trắng về y tế. Những chương
trình này nhằm cải thiện và nâng cao khả năng đề kháng đối với bện tật, chữa trị và
phòng ngừa bệnh dịch hay xảy ra ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chương trình quốc gia số 06/CP : Chương trình quốc gia số 06/CP là
chương trình về phòng chống và kiểm soát ma túy theo nghị quyết số 06/CP của
Chính phủ ra ngày 29-01-1993. Chương trình này được triển khai nhằm mục tiêu
phòng và kiểm soát ma túy mang ý nghĩa chính trị xã hội và quốc tế rộng lớn. Song
quá trình thực hiện nó lại có ý nghĩa rất lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vận
động đồng bào dân tộc từ bỏ trồng cây thuốc phiện và thay thé cây trồng vật nuôi,
để bù đắp sự hụt hẫng từ việc mất nguồn thu từ cây thuốc phiện.
Chương trình bảo vệ môi trường : Chương trình bảo vệ mội trường mà nước
ta triển khai nhằm mục tiêu nâng cao kiến thức, tập huấn kỹ thuật cho đồng bào
miền núi. Những yêu cầu, biện pháp bảo vệ môi trường dễ hiểu, thiết thực đối với
họ. Đồng thời có các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật để họ có thể
thâm canh tăng năng suất lao động trên đất nông nghiệp hiện có và quan trọng hơn
là không mở rộng diện tích canh tác khi dân số tăng hoặc do thiếu đất bằng cách
chuyển đất rừng làm nương rẫy. Tuy trọng tâm của những chương trình được triển
khai là tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo giải quyết những bức xúc của người
nghèo nhưng không cho phép xâm hại phá vỡ tính ổn định của tự nhiên. Nói cách
khác xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường là hai mặt của một quá trình cải
thiện tính bền vững của môi trường sống, có giá trị bền với đồng bào các dân tộc
thiểu số.
• Mục tiêu
Cho các đối tượng thuộc diện nghèo đói ở nước ta, giảm bớt khoảng cách
nghèo đói trong xã hội từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân, từ đó nhằm mục tiêu tổng quát xây dựng một dất nước dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Năm 2015 giải quyết cơ bản về vấn đề
sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống dân cư ở các huyện nghèo gấp 5
đến 6 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội,
phát triển dịch vụ và công nghiệp.
Chương 2. THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
NÓI CHUNG VÀ CỦA NGHỆ AN NÓI RIÊNG
2.1. THỰC TRẠNG CHƯƠNG TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở VIỆT NAM.
2.1.1. Thành tựu.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đi đôi với tăng
trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội
trong quá trình phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước, hạn chế tốc độ gia
tăng khoảng cách giàu, nghèo. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm vừa qua,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác xóa đói, giảm
nghèo. Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, số liệu điều tra hộ gia đình năm
2006 khẳng định xu hướng giảm nghèo ở Việt Nam đang tiếp tục diễn ra, với tỷ lệ
hộ gia đình sống dưới ngưỡng nghèo chỉ còn 16%, so với 28,9% năm 2002, và
58,1% năm 1993. Dựa vào thước đo theo chi phí cho một rổ hàng hóa như đã đề
cập ở trên, theo ước tính, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm nghèo cho
hơn 42% dân số, tương đương với 35 triệu người.
Tuy nhiên, tiến bộ đạt được trong xóa đói, giảm nghèo là không đồng đều.
Tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn nhiều so với mức nghèo của
các nhóm người Kinh và Hoa. Số liệu cho thấy, hầu hết những người nghèo đều
sống ở các vùng nông thôn, với tỷ lệ nghèo đang tiếp tục giảm. Điều này trái
ngược với mức nghèo hầu như vẫn giữ nguyên ở thành thị. Về tỷ lệ người nghèo
thành thị không giảm, có nhiều nguyên nhân có thể giải thích hiện tượng này. Đó là
do giá cả ngày càng tăng cao ở khu vực thành thị. Sự bùng nổ giá bất động sản làm
tăng chi phí bán lẻ và các dịch vụ khác trong thành phố. Giá cả leo thang ở khu vực
thành thị có thể dẫn đến mức sống thấp hơn cho những người mà thu nhập của họ
không tăng theo một cách tương ứng. Ngoài ra, giá cả tăng có thể khiến cho những
người cận nghèo bị tái nghèo.
Sự kết hợp giữa tốc độ giảm nghèo nhanh ở những vùng nghèo hơn của Việt
Nam và giảm nghèo chậm hơn ở các tỉnh giầu hơn đã giúp thu hẹp khoảng cách
giữa các vùng. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh chóng ở những
vùng mà tỷ lệ ban đầu là cao nhất. Bức tranh nghèo giữa các tỉnh cũng tương tự
như giữa các vùng. Vẫn còn những khoảng cách lớn những tỉnh giàu nhất và tỉnh
nghèo nhất. Tuy nhiên, ngay cả ở những vùng cao nguyên nghèo nhất, một số tỉnh
cũng đang giảm nghèo tốt hơn và bắt đầu theo kịp các tỉnh giàu hơn ở vùng đồng
bằng. Điều đó là do đối với các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Chính phủ đã có những chính sách ưu tiên như Chương trình 135, ổn định dân di
cư tự do, chính sách trợ giá, trợ cước, Chương trình 173, Chương trình 186...
Những chính sách đó đã giúp người nghèo, người dân tộc xóa đói, giảm nghèo,
lĩnh hội được các thành quả của quá trình phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng. Tuy chưa theo kịp tốc độ của vùng đồng bằng, vùng đô
thị, song đời sống của người dân nơi đây đã có những thay đổi tích cực, kết cấu hạ
tầng phát triển, thị trường hàng hóa đã bắt đầu hình thành, dần dần thay thế nền
kinh tế tự cung, tự cấp trước đây.
2.1.2 Hạn chế.
Thành tựu về xóa đói giảm nghèo trong những năm qua là không thể phủ
nhận. Tuy nhiên, những hạn chế và bất cập trong tiến trình này là không nhỏ, thể
hiện ở sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn giữa các vùng, các tầng lớp xã hội. Tỷ lệ
hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao gấp 4-5 lần so với mức bình quân của cả
nước. Đa số người nghèo ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản. Bên
cạnh đó, những thành tựu xóa đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững,
nguy cơ tái nghèo còn cao. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những
rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường
ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp...) cũng vẫn rất lớn. Hệ
thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80%
người nghèo làm việc trong nông nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao.
Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập
không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo.
Ngoài ra, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường.
Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã
hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn.
Theo Báo cáo của Dự án VIE, công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam sẽ
còn gặp nhiều khó khăn do nguồn lực xóa đói, giảm nghèo hạn chế; số lượng cán
bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo còn thiếu, yếu về năng lực. Bên cạnh đó, cơ
chế xác định hộ nghèo chưa được thực hiện thống nhất ở các địa phương và chất
lượng giám sát theo dõi báo cáo về xóa đói, giảm nghèo chưa cao... Một số nguyên
nhân cụ thể dẫn đến những bất cập trong công tác xóa đói, giảm nghèo có thể lý
giải như sau:
Thứ nhất, nguồn kinh phí do trung ương bố trí còn rất hạn chế, chưa
đáp ứng được mục tiêu đề ra. Với nguồn kinh phí hằng năm bố trí cho xóa đói,
giảm nghèo khoảng 600 - 700 tỉ đồng (bình quân khoảng 100.000 đ/người) khó có
thể giúp người nghèo thoát nghèo trong thời gian ngắn. Trong điều kiện nguồn
kinh phí hỗ trợ từ trung ương còn hạn hẹp thì nguồn huy động tại chỗ đóng vai trò
hết sức quan trọng. Song, nhiều tỉnh gặp khó khăn, không chủ động được việc huy
động nguồn lực tại chỗ do không biết chính xác nguồn kinh phí được hỗ trợ từ
trung ương là bao nhiêu và thông thường tiêu chí phân bổ kinh phí không được
thông tin rõ ràng.
Thứ hai, một số chính sách hỗ trợ chưa thật sự phù hợp với người
nghèo ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình. Ví dụ, như chính sách hỗ trợ
khám chữa bệnh cho người nghèo là rất có ý nghĩa, song mức hỗ trợ tối đa tại trạm
y tế xã là 10.000 đ/lần khám chữa bệnh, tuyến huyện là 147.000 đ/lần khám chữa
bệnh là quá thấp (trong khi các chi phí đi lại, thuốc thang mà người bệnh tự chi trả
có thể cao hơn nhiều). Các thủ tục rườm rà khi vay vốn kết hợp với đội ngũ cán bộ
tín dụng tại cơ sở thiếu trầm trọng là những lý do khiến người nghèo khó tiếp cận
được dịch vụ này. Hệ thống cơ chế, chính sách mang tính bao cấp kéo dài phần nào
đã tạo ra tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng của
một bộ phận người nghèo, xã nghèo cũng ảnh hưởng đến tính bền vững của công
cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba, hệ thống theo dõi, giám sát chương trình chưa được tổ chức một
cách có hệ thống và đồng bộ. Thông thường công tác sơ kết, tổng kết chương trình
chủ yếu dựa trên báo cáo của các bộ và các tỉnh gửi về, song tình trạng một số chỉ
tiêu trong báo cáo không có số liệu hoặc không gửi báo cáo về vẫn xảy ra thường
xuyên. Trong khi đó, các chỉ tiêu được sử dụng để báo cáo, nhìn chung mang tính
liệt kê, chưa phân biệt rõ giữa chỉ tiêu đầu vào, đầu ra và vai trò tác động. Điều này
đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác theo dõi, đánh giá chính xác hiệu quả và
tác động của chương trình.
Thứ tư, thiếu đội ngũ cán bộ xóa đói, giảm nghèo có đủ năng lực để thực
hiện chương trình. Hiện nay, phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói, giảm
nghèo ở xã vẫn kiêm nhiệm, trong khi chủ yếu các hoạt động của chương trình
được triển khai tại xã. Chưa được đào tạo có hệ thống, khối lượng công việc nhiều
là những lý do khiến họ khó thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Năng lực chuyên
môn của cán bộ cấp huyện, xã còn yếu, nhiều cán bộ làm công tác xóa đói giảm
nghèo chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.
Hơn nữa công tác xóa đói, giảm
nghèo đòi hỏi cán bộ ngoài chuyên môn nghiệp vụ còn phải nhiệt tình, nhạy bén,
sáng tạo để nắm chắc tình hình đói nghèo trên địa bàn.
2.2. THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở NGHỆ AN
2.2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu.
Nghệ An là tỉnh lớn thuộc vùng Bắc Trung Bộ, trải dài theo hướng Tây BắcĐông Nam. Lãnh thổ của Nghệ An nằm trong toạ độ từ 18 o35’ đến 20o00’10” vĩ độ
Bắc và từ 103o50’25” đến 105o45’30” kinh độ Đông. Về phía Bắc, Nghệ An giáp
tỉnh Thanh Hoá; phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây chung biên giới với
CHDCND Lào thuộc phạm vi 3 tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlikhămxay và Hủa Phăn;
phía Đông trông ra biển Đông với chiều dài đường bờ biển khoảng 82km.
Nghệ An hiện nay gồm 17 huyện, thị trấn, 1 thành phố, 1 thị xã. Toàn tỉnh có
diện tích tự nhiên là 16.487,29km2 chiếm khoảng 5% diện tích cả nước và với số
dân là 3.030.946 người (2005), chiếm khoảng 3,6% dân số Việt Nam.
Bảng 2.2.1.: Một số chỉ số về tỉnh Nghệ An năm 2005.
Tổng số
TP. Vinh
TX. Cửa Lò
Diện tích
Dân số
Mật độ dân số
Tổng số xã,
(km2)
16.487,29
63,99
28,12
(người)
3.030.946
239.108
49.463
(người/ km2)
184
3.733
1.758
phường, thị trấn
473
20
7
Diễn Châu
Yên Thành
Quỳnh Lưu
Nghi Lộc
Hưng Nguyên
Nam Đàn
Đô Lương
Thanh
304,92
546,88
60,06
379,09
163,99
293,90
354,33
1.127,63
291.639
270.723
365.297
219.715
121.957
158.498
196.063
234.406
956
495
6.064
578
744
541
555
208
39
37
43
34
23
24
32
38
Chương
Anh Sơn
Nghĩa Đàn
Tân Kỳ
Quỳ Châu
Quỳ Hợp
Quế Phong
Con Cuông
Tương Dương
Kỳ Sơn
597,47
737,67
725,57
1.073,80
941,73
1.895,43
1.744,51
2.806,36
2.094,84
111.522
191.990
136.272
53.058
121.804
61.007
67.601
75.761
65.064
187
260
187
49
130
32
39
27
31
20
32
22
12
21
14
13
21
21
2.2.2 Tình hình nghèo đói ở Nghệ An
a. Thu nhập và chi tiêu.
• Thu nhập.
Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các
thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định, bao gồm thu từ tiền
công tiền lương, thu từ sản xuất nông- lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ chi phí sản xuất
và thuế sản xuất), thuỷ sản được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiết kiệm,
bán tài sản, vay thuần tuý, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được).
Thu nhập là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kỹ thuật- xã
hội cũng như xác định và đánh giá mức sống dân cư vì nó là tiền đề cho việc bảo
đảm các nhu cầu của con người, từ đó nâng cao mức sống, giảm tình trạng nghèo
đói. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế cả nước,
kinh tế của Nghệ An cũng đã có sự phát triển không ngừng. Làm cho thu nhập của
người dân được cải thiện đáng kể. Tuy vậy, so với cả nước thì thu nhập của Nghệ
An vẫn còn thấp và phân phối không đều trong các nhóm dân cư, các khu vực khác
nhau của tỉnh.
Thông qua các cuộc điều tra, khảo sát về mức sống dân của tỉnh thì thu
nhập bình quân một nhân khẩu trong một tháng tăng dần qua các năm ở tất cả các
vùng, các nhóm dân cư trong tỉnh. Năm 2001 thu nhập bình quân đầu người của
Nghệ An đạt 3,01 triệu đồng/ người/ năm. Đến năm 2005 tăng lên 5,58 triệu đồng/
người/ năm, gấp hơn gần 2 lần bình quân thu nhập của Nghệ An.
Bảng 2.2.2.: Thu nhập bình quân đầu người của cả nước
và Nghệ An thời kì 2001 – 2005.
Đơn vị: Triệu đồng/ người.
Nghệ An
Cả nước
2001
3,01
4,27
2002
3,54
4,27
2005
5,58
10,08
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Cục thống kê Nghệ An
Thu nhập ngày càng tăng, cuộc sống của người dân ngày càng được cải
thiện. Nhưng so với cả nước thì mức thu nhập này còn thấp. Năm 2005 thu nhập
bình quân đầu người của Nghệ An là 5,58 triêu đồng/ người/ năm trong khi của cả
nước là 10,08 triệu đồng/ người/ năm (tức là gấp gần 2 lần).
Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng thu nhập của cả nước cao hơn so với Nghệ An.
Chứng tỏ tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nghệ An chậm so với cả nước.
Thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh tăng dần qua các năm nhưng lại
không đồng đều ở các khu vực khác nhau và tốc độ tăng thu nhập cũng có sự khác
nhau giữa các vùng.
Bảng 2.2.2.: Thu nhập bình quân/ người/ tháng chia theo
thành thị và nông thôn thời kì 2000 – 2004.
Đơn vị tính: Nghìn đồng/ người/ tháng.
Toàn tỉnh
Thành thị
Nông thôn
2000
201,61
480,50
167,10
2004
3233,79
702,74
275,22
2004/2000 (%)
169,6
146,2
164,7
Nguồn: Cục thống kê Nghệ An.
Thu nhập bình quân đầu người của khu vực thành thị luôn cao hơn nhiều so
với khu vực nông thôn và so với toàn tỉnh.
Năm 2004 thu nhập bình quân của khu vực nông thôn là 275,22 nghìn đồng/
người/ tháng, của toàn tỉnh là 323,79 nghìn đồng/ người/ tháng, trong khi đó khu
vực thành thị lên tới 702,74 nghìn đồng/ người/ tháng (gấp 2,55 lần khu vực nông
thôn và 2,17 lần toàn tỉnh. Rõ ràng sự phân phối thu nhập nông thôn có sự chênh
lệch rất lớn giữa thành thị và nông thôn. Điều đó được giải thích ở nông thôn hầu
hết người dân sống bằng nghề nông, nên thu nhập rất thấp, đặc biệt ở các huyện
miền núi, nơi có nhiều dân tộc ít người cư trú họ chủ yếu canh tác theo lối cổ
truyền (phát rừng làm nương rẫy), phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên nên mức độ rủi
ro rất cao.
Nếu như xét theo phân phối trong thu nhập thì khu vực thành thị luôn có
mức thu nhập cao hơn so với khu vực nông thôn và cao hơn mức trung bình chung
của cả tỉnh, và theo xu hướng chung thì tốc độ tăng thu nhập của khu vực thành thị
càng cao hơn. Tuy nhiên, với Nghệ An thì ngược lại, khu vực nông thôn có tốc độ
tăng thu nhập nhanh hơn so với khu vực thành thị. Nếu như trong 2 năm từ 2002 –
2004 thu nhập bình quân của khu vực thành thị chỉ tăng có 46,25% thì khu vực
nông thôn tăng tới 64,70%. Như vậy, ta có thể thấy sự chênh lệch khá rõ rệt, điều
này chứng tỏ cuộc sống của người dân nông thôn đang ngày càng được nâng cao,
các chương trình Xoá đói giảm nghèo ở nông thôn đang đem lại những kết quả khả
quan.
Bảng 2.2.2: GDP và GDP/ người của tỉnh Nghệ An phân theo
khu vực và theo huyện năm 2005.
Khu vực
GDP (triệu
GDP/ người (nghìn
Toàn tỉnh
Khu vực đồng
đồng)
16936067
11550030
đồng)
5588
6036
Tp. Vinh
TX. Cửa Lò
Diễn Châu
Yên Thành
Quỳnh Lưu
Nghi Lộc
Hưng Nguyên
Nam Đàn
Đô Lương
Khu vực miền núi
Thanh Chương
Anh Sơn
Nghĩa Đàn
Tân Kỳ
Quỳ Châu
Quỳ Hợp
Quế Phong
Con Cuông
Tương Dương
Kỳ Sơn
3350366
612013
1295622
943391
2356995
886496
541795
751920
811432
5386037
917460
539081
798514
633850
218849
927197
205031
307419
290074
207411
14011
12373
4442
3484
6452
4034
4442
4744
4138
4819
3914
4833
4159
4651
4124
7612
3360
4547
3828
3187
bằng
Nguồn: Tính toán từ số liệu niên giám thống kê Nghệ An năm 2005.
Qua bảng số liệu ta thấy GDP và GDP/ người có sự phân hoá rất lớn. Khu
vực đồng bằng với những lợi thế về tự nhiên, cũng như kinh tế - xã hội do đó có
mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn khu vực miền núi và trung bình chung
của toàn tỉnh. Trong đó nổi lên các huyện thành có thu nhập cao như: thành phố Vinh,
TX. Cửa Lò, Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Hưng Nguyên…
Thành phố Vinh có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế- xã
hội (là trung tâm kinh tế- chính trị- văn hoá – khoa học- kỹ thuật – đầu mối giao
thông quan trọng của khu vực Bắc Trung Bộ nói chung và Nghệ An nói riêng) nên
có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất. Tương tự Thị xã Cửa Lò là Thị xã
du lịch phát triển, một số huyện ven biển có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế nên có mức thu nhập cao.
Trong khi đó các huyện miền núi, do điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế- xã
hội gặp nhiều khó khăn nên thu nhập bình quân đầu người thấp (trừ Quỳ Hợp), các
huyện có mức thu nhập thấp như Thanh Chương, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ
Sơn. Trong đó thấp nhất là Kỳ Sơn với mức thu nhập bình quân đầu người là 3187
nghìn đồng/ người (năm 2005).
Như vậy, có thể thấy dù có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, cải thiện cuộc
sống, xoá đói giảm nghèo cho người dân. Nhưng thực tế phần lớn người dân ở khu
vực miền núi vẫn phải sống trong những điều kiện hết sức khó khăn.
Tuy vậy, ở đây ta cũng thấy có một ngoại lệ. Đó là huyện Quỳ Hợp. Thu
nhập bình quân đầu người của Quỳ Hợp năm 2005 đạt 7612 nghìn đồng/ người,
đây là mức thu nhập cao so với bình quân chung của cả tỉnh cao hơn cả một số
huyện đồng bằng, mức thu nhập bình quân đầu người của Quỳ Hợp đứng thứ 3
toàn tỉnh, chỉ sau thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò. Điều này được lí giải đây là
huyện có nhiều các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hoạt động có hiệu quả, bên
cạnh đó các hoạt động dịch vụ càng khó phát triển, hơn nữa đây là vùng tập trung
các trang trại, nông trường sản xuất cây công nghiệp cho năng suất và hiệu quả
kinh tế cao. Do đó thu nhập bình quân đầu người của người dân cao.
Bên cạnh sự phân hoá về thu nhập giữa các khu vực, thì giữa các nhóm dân
cư cũng có sự chênh lệch nhất định.
Bảng 2.2.2: Thu nhập bình quân/ người/ tháng của Nghệ An
phân theo nhóm thu nhập năm 2002.
Đơn vị tính: Nghìn đồng/ người/ tháng
Chung
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
236,45
89,22
131,67
178,51
253,0
530,11
Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2001
Qua bảng số liệu ta thấy sự chênh lệch rất rõ trong thu nhập của 5 nhóm dân
cư. Năm 2002 thu nhập của nhóm những người nghèo nhất (nhóm 1) là 89,22
nghìn đồng/ người/ tháng, thì thu nhập của nhóm 5, nhóm những người giàu nhất
là 530,11 nghìn đồng/ người/ tháng. Chênh lệch giữa 2 nhóm lên tới 5,94 lần. Như
vậy chênh lệch thu nhập giữa nhóm 1 và nhóm 5 của Nghệ An thấp hơn mức bình
quân của cả nước (8,11 lần) nhưng lại cao hơn bình quân của khu vực Bắc Trung
Bộ (5,83 lần).
Trong tổng thu nhập của hộ dân cư ở Nghệ An thì tỉ lệ đóng góp của các
nguồn thu có sự khác nhau. Là một tỉnh mà hoạt động kinh tế chủ yếu vẫn là nông
nghiệp nên thu nhập từ nông-lâm- thuỷ sản vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng thu nhập
của toàn bộ dân cư.
Biểu đồ: Cơ cấu thu nhập của hộ dân cư tỉnh Nghệ An năm 2002.
Chú giải:
……….
Tiền lương, tiền công
………….
20,57%
16%
N – L- TS
………….
……….
16,32%
Phi N – L- TS
41,75%
.. . .
. . ..
Thu khác
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002
Thu từ nông- lâm- thuỷ sản chiếm tới 41,75% trong tổng thu nhập của hộ
dân cư Nghệ An, do tỉ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của Nghệ An
chiếm tới 34,2%. Trong khi đó đóng góp của phi nông nghiệp trong tổng thu nhập
của hộ dân cư chỉ chiếm 16,32%. Điều này chứng tỏ các hoạt động phi nông
nghiệp vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng đủ nhu cầu người dân và nhu cầu phát triển
của tỉnh cũng như chưa phát huy hết thế mạnh của mình.
• Chi tiêu.
Nếu như thu nhập là chỉ tiêu cơ sở để đánh giá đói nghèo thì chi tiêu và cân
đối thu chi sẽ làm rõ thêm sự phân hoá nghèo đói của dân cư. Thu nhập và chi tiêu
là hai chỉ số có quan hệ chặt chẽ trong đó mức thu nhập tác động trực tiếp tới mức
chi hay nói cách khác là khả năng chi tiêu và cơ cấu chi tiêu.
Tính chung trong toàn tỉnh thì cùng với sự gia tăng của nền kinh tế dẫn đến
sự gia tăng trong thu nhập bình quân là tổng chi tiêu cũng tăng lên rõ rệt biểu hiện
sự nâng lên và cải thiện đáng kể mức sống dân cư. Tuy nhiên mức chi tiêu cũng
không đồng đều mà có sự phân hoá giữa các nhóm dân cư.
Bảng 2.2.2: Chi tiêu cho đời sống bình quân một nhân khẩu
1 tháng chia theo 5 nhóm thu nhập của Nghệ An,
Bắc Trung Bộ và cả nước năm 2002 (giá hiện hành).
Đơn vị tính: 1000 đồng.
Cả nước
Bắc Trung Bộ
Nghệ An
Chung
269,13
192,77
189,14
Nhóm 1
123,30
108,25
104,86
Nhóm 2
169,74
137,13
137,65
Nhóm 3
213,71
163,68
158,04
Nhóm 4
290,32
210,27
216,29
Nhóm 5
548,53
344,72
329,11
Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002.
Biểu đồ: Chi tiêu cho đời sống bình quân một nhân khẩu
1 tháng chia theo 5 nhóm thu nhập của Nghệ An,
Bắc Trung Bộ và cả nước năm 2002.
Nhóm I- Những hộ nghèo nhất luôn là nhóm có mức chi tiêu thấp nhất
(104,86 nghìn đồng/ người/ tháng) trong khi đó nhóm V có mức chi tiêu tới 329,11
nghìn đồng/ người/ tháng, chênh lệch giữa 2 nhóm là 3,14 lần. Điều này cũng dễ
hiểu, bởi vì những hộ thuộc nhóm I có thu nhập thấp hơn, nên chi tiêu cũng thấp
hơn, ngược lại những hộ thuộc nhóm V thu nhập cao hơn do đó chi tiêu nhiều hơn.
Trong cơ cấu chi tiêu của Nghệ An thì chi tiêu cho ăn uống, hút vẫn chiếm tỉ
lệ cao nhất. Như vậy có thể nói mức sống dân ở Nghệ An vẫn còn thấp.
Bảng 2.2.2: Chi tiêu cho đời sống bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng chia
theo tính chất chi của Nghệ An năm 2002 (giá hiện hành).
Tổng chi
Ngàn đồng
%
189,14
100
Chi ăn, uống
Chi khác
Ngàn đồng
%
Ngàn đồng
%
102,84
54,38
86,30
45,62
Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002.
Chi cho ăn uống của Nghệ An năm 2002 là 102,84 ngàn đồng/ người/ tháng
chiếm 54,38% tổng chi, còn chi khác chỉ là 86,30 ngàn đồng/người/ tháng. Do Nghệ
An vẫn còn là tỉnh nghèo nên chi tiêu cho ăn uống vẫn còn cao.
Tóm lại mức thu nhập và chi tiêu là hai chi tiêu quan trọng trong việc nhận
biết mức sống của người dân. Nó thể hiện trình độ phát triển kinh tế của các vùng,
các nhóm dân cư. Sự phân hoá về thu nhập và chi tiêu thể hiện sự phân hoá giàu
nghèo. Tuy nhiên, sự phân hoá giàu nghèo không chỉ thể hiện ở mức thu nhập hay
chi tiêu mà cơ cấu chi tiêu cũng thể hiện rất rõ mức sống của dân cư. Khi còn
nghèo thì chi tiêu chủ yếu của dân cư là cho lương thực, thực phẩm. Còn khi có
điều kiện thì mức chi cho nhu cầu ngoài lương thực, thực phẩm sẽ ngày càng nâng
lên trong tổng chi tiêu.
2.2.3. Tình hình thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Nghệ An.
2.2.3.1 Thành tựu
Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chung của toàn thể các cấp Uỷ Đảng, các tổ
chức đoàn thể và toàn dân. Trong những năm qua Nghệ An đã huy động được mọi
nguồn lực trong chiến dịch xoá đói giảm nghèo và đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Công tác xoá đói giảm nghèo cho dân cư được thực hiện thông qua các dự
án của Chính phủ và của tỉnh Nghệ An như :
a. Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo.
Trong số 473 xã, phường, thị trấn của Nghệ An thì có tới 80 xã đặc biệt khó
khăn nằm trong chương trình 135 của Chính phủ. Nhằm giúp các xã này có điều
kiện thoát nghèo, với sự giúp đỡ của Chính phủ, chính quyền Tỉnh cùng với địa
phương đã xây dựng các công trình thiết yếu tại các xã đặc biệt khó khăn, tạo cơ
hội phát triển kinh tế xã hội giúp cho quá trình xoá đói giảm nghèo của người dân
được rút ngắn đi.
Từ năm 1996- 2005, toàn tỉnh đã đầu tư 338,267 tỷ đồng, xây dựng 768
công trình, trong đó: trường học 327 công trình, giao thông 119 công trình, điện 99
công trình, thuỷ lợi 99 công trình, nước sinh hoạt 112 công trình, nhà văn hoá đa