Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

THỰC TRẠNG VỀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG BIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 26 trang )

TÀI NGUYÊN BIỂN VÀ VEN BIỂN
NHÓM 5:
Lê Thị Tú Anh

1.
2.

Võ Quốc Bảo

Nguyễn Nguyên Thanh Hải

3.

4.

Dương Thị Thúy Hằng

5.

Nguyễn Thị Thùy Như
6.
7.

8.

Lê Quang Phong
Hồ Cẩm Thúy

Phan Hoàng Uyên Trang

I. KHÁI NIỆM


1. Vùng biển
Vùng biển là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương,
hoặc là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương
một cách tự nhiên như biển Caspi, biển Chết.
Tài nguyên biển là 1 bộ phận của tài nguyên thiên nhiên, hình thành và
phân bố trong khối nước biển (và đại dương), trên bề mặt đáy biển và trong
lòng đất dưới đáy biển.




Tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh
vật.
Tài nguyên sinh vật bao gồm đa dạng sinh học biển, nguồn lợi hải sản
và tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản mặn lợ.
Nhóm tài nguyên phi sinh vật bao gồm các phụ nhóm và dạng tài
nguyên sau: dầu khí, sa khoáng biển, vật liệu xây dựng, photphorit, kết
hạch sắt – mangan, bùn khoáng, các khoáng sản khác, năng lượng biển,
tiềm năng phát triển du lịch biển, tiềm năng phát triển cảng – hàng hải
và tiềm năng vị thế. [2]

2. Vùng ven biển


Vùng ven biển là vùng chuyển tiếp giữa biển và lục địa, chịu tác động
của sự tương tác giữa thủy quyển, sinh quyển, thạch quyền và khí quyển, hình
thành nên sự đa dạng tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và giàu khoáng
sản.
II. HIỆN TRẠNG VÙNG BIỂN VÀ VEN BIỂN
1. Thế giới

1.1. Kích thước và độ sâu các biển và đại dương
Kích thước, diện tích, thể tích và độ sâu các biển và đại dương có ý
nghĩa lớn trong việc tạo thành khí hậu của các lục địa tiếp cận. Nước biển và
đại dương dự trữ lượng nhiệt lớn trong mùa hạ và tỏa dần vào khí quyển trong
mùa đông.
Sự phân bố biển và đại dương trên trái đất rất không đều. Ở Bắc bán
cầu, đại dương chiếm 60.7%, lục địa là 39.3%. Ở Nam bán cầu, biển chiếm
80.9%, lục địa 19.1%. Do sự phân bố không đều này mà có sự phân chia bán
cầu lục địa và bán cầu đại dương.
-

Bán cầu lục địa với 52.7% diện tích là lục địa gồm châu Á, Âu, Phi,
Bắc Mỹ và phần lớn Nam Mỹ.
Bán cầu đại dương với 90.5% bề mặt phủ nước, cực ở phía đông nam
New zealand, và đất liền chỉ có châu Úc, châu Nam Cực và một phần
nhỏ Nam Mỹ.

Đại
dương
Thái
Bình
Dương
Đại Tây
Dương
Ấn Độ
Dương
Bắc
Băng
Dương
Tổng

cộng

Diện tích
kể
cả %
đại
biển
dương
(triệu
thế giới
2
km )

Thể tích
kể cả biển
(ngàn
km2)

Độ sâu
Độ sâu
trung
cực đại
bình
(m)
(m)

176.679

50


723.699

4.028

11.034

93.363

25

334.699

3.926

8.345

74.917

21

291.945

3.897

8.047

13.100

4


16.980

1.025

5.449

361.059

100

1.370.323 12.876

11.034


1.2. Các vùng sinh thái của biển và đại dương:
Theo đặc tính sinh thái và giá trị sử dụng chia biển và đại dương theo
các vùng sinh thái gồm: vùng đáy và vùng có tầng nước.
-

Men theo thềm đáy, biển gồm vùng nước thềm lục địa (0 – 200m) tiếp
đến dốc lục địa (200 – 3.000m) và đáy đại dương ( > 3000m).
Theo tầng nước có sự phân chia:
+ Tầng nước bề mặt: có độ sâu 200m.
+ Vùng gần bờ: là vùng nước có giới hạn từ ven bờ ra tới mặt
phẳng thẳng đứng với mép thềm lục địa.
+ Vùng khơi đại dương.

Vùng thềm lục địa chiếm khoảng 20% tổng diện tích đại dương nhưng
đã cung cấp cho nhân loại tới 90% tổng sản lượng hải sản. Đây là vùng có sự

sống đa dạng nhất và nguồn lợi sinh vật biển rất giàu có.
Con người khai thác nguồn lợi sinh vật biển trước hết bằng nghề cá.
Trong lịch sử ngày cá thế giới, đặc biệt ở thế kỉ XX cho thấy: tổng sản lượng
đánh bắt cá tăng 64 triệu tấn từ năm 1980 đến năm 1985. Song từ đó đến nay
sản lượng này không tăng được nữa mặc dù khai thác hiện đại hơn, số lượng
lớn hơn.
2. Ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có ưu thế lớn về tiềm năng biển nhiệt đới với
đường bờ biển dài 3.260km: 100.000 vịnh kín và đầm phá, 290.000 hecta bãi
biển, rừng mặn và trên 100 sông ngòi: vùng biển đặc quyền 1 triệu km 2 chứa
đựng những giá trị to lớn về nhiều mặt, trong đó có nguồn tài nguyên sinh vật
biển vô cùng quý giá.
Biển Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, đa dạng về nơi ở và
thành phần loài thủy sinh vật. Những thống kê chưa đầy đủ cho thấy khu hệ
sinh vật vùng biển nông Việt Nam có khoảng 11000 loài. Trong đó có 537
loài thực vật phù du, 657 loài động vật phù du, 6377 loài động vật đáy cỡ lớn
(2500 loài thân mềm, 1500 loài tôm, cua…), 2308 loài cá (có 455 loài cá
vàng, san hô), 21 loài bò sát, 12 loài thú. Ngoài ra, phải kể đến trên 200 loài
chim trú đông đến sinh sống theo mùa hằng năm.
Tổng trữ lượng cá biển Việt Nam ước tính trên 2,7 triệu tấn với khả
năng khai thác trên 1,2 tấn/năm. Trữ lượng thân mềm có: 64 – 67000 tấn mực,
57 – 70000 tấn tôm. Hiện nay mức khai thác đạt 80 vạn tấn/năm. Con số này
dưới mức cho phép nhưng lại tập trung ở vùng ven bờ nên tại một số khu vực


sản lượng khai thác đã giảm rõ rệt. Nhiều loài trở nên hiếm và đe dọa bị tuyệt
chủng. Về nuôi trồng thủy sản đang được đẩy mạnh ở Việt Nam, đặc biệt
vùng ven biển, xuất khẩu hải sản mang lại một nguồn ngoại tệ không nhỏ cho
đất nước hằng năm.
III. VAI TRÒ


1. Tích cực:
Ở nước ta, cứ 100 km2 đất liền thì có 1 km chiều dài đường bờ biển, gấp 6 lần
giá trị trung bình của thế giới và cứ cách khoảng 20 km có một cửa sông lớn.
Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260 km (không kể bờ các đảo) và có khoảng trên
2.773 đảo lớn, nhỏ phân bố chủ yếu ở vùng biển ven bờ với tổng diện tích
1.700 km2 , trong đó có 23 đảo có diện tích trên 10 km2 , 82 đảo có diện tích
trên 1 km2 . Điều đó đã tạo ra cho nước ta lợi thế “mặt tiền hướng biển”,
thuận lợi cho giao thương quốc tế, nhưng cũng xung yếu về mặt an ninh, quốc
phòng. Tiềm năng tài nguyên vùng bờ biển Việt Nam rất đáng kể và có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
1.1. Vùng bờ là một đới tương tác
Vùng bờ biển, gọi tắt là vùng bờ, là mảng không gian nằm chuyển tiếp
giữa lục địa và biển, luôn chịu tác động tương tác giữa quá trình lục địa (chủ
yếu là sông) và biển (chủ yếu là sóng, dòng chảy và thuỷ triều), giữa các hệ
thống tự nhiên (natural system) và hệ nhân văn (tâm điểm là hoạt động của
con người), giữa các ngành và những người sử dụng tài nguyên vùng bờ (hoặc
tài nguyên bờ - coastal resources) theo cả cấu trúc dọc (trung ương xuống địa
phương) và cấu trúc ngang (các bên liên quan trên cùng địa bàn), giữa cộng
đồng dân địa phương với các thành phần kinh tế khác. Vì thế, vùng bờ còn
được gọi là đới tương tác, và các hệ sinh thái trong vùng này tồn tại và phát
triển thông qua các mối liên kết sinh thái chặt chẽ. Thế nhưng trong thực tiễn
quản lý vùng bờ, người ta (các nhà quản lý và người dân) thường rất ít để ý
đến mối quan hệ bản chất này.

1.2

. Tiềm năng và lợi thế vùng biển Việt Nam

Về nguồn lợi hải sản và tính đa dạng sinh học: trên vùng biển Việt Nam đã

phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh
thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.


Ngoài ra, còn phát hiện khoảng 1.300 loài trên các hải đảo.
Đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái đã cung cấp nguồn lợi hải sản to lớn
cho nền kinh tế. Năm 2015, sản lượng thủy sản khai thác của cả nước đạt trên
3 triệu tấn; trong 7 tháng đầu năm 2016, con số này đã đạt trên 1,8 triệu tấn.
Ngoài ra, vùng biển nước ta còn có các loại động vật quý khác như đồi mồi,
rắn biển, chim biển, thú biển. Hải sản ở vùng biển nước ta là nguồn lợi hết sức
quan trọng, không chỉ cung cấp thực phẩm, nguồn dinh dưỡng hàng ngày cho
nhân dân (chiếm 50% lượng đạm động vật trong thành phần dinh dưỡng), mà
còn tạo nguồn xuất khẩu lớn.
Dọc ven biển còn có hơn 20 hệ sinh thái, trong đó có ba hệ sinh thái
đặc trưng là rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển, với khoảng 800.000
ha bãi triều và các vũng vịnh, đầm phá ven bờ rất thuận lợi để nuôi trồng các
loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao.
Các hệ sinh thái còn là nguồn vốn thiên nhiên quý giá và là yếu tố hạ
tầng cơ sở quan trọng ở vùng bờ và đối với phát triển bền vững vùng bờ.
Về khoáng sản: biển Việt Nam có khoảng 35 loại hình khoáng sản có
quy mô trữ lượng khai thác khác nhau. Trong đó, dầu khí là tài nguyên lớn
nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Ngành dầu khí Việt
Nam đã đạt mốc khai thác 100 triệu tấn dầu thô năm 2011; mốc 200 triệu tấn
dầu thô năm 2012. Năm 2013, xuất khẩu dầu thô đạt mốc 300 triệu tấn. Hiện
đang nghiên cứu và khai thác với các mỏ như Bạch Hổ, Đại Hùng, Rạng
Đông... Theo định hướng của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đến năm 2010
có khả năng khai thác khoảng 28 triệu dầu khí quy đổi/năm. Đây là nguồn tài
nguyên quý báu, sinh lợi mạnh cho nền kinh tế Việt Nam.
Dọc ven biển đã phát hiện được các sa khoáng, khoáng vật nặng của các
nguyên tố hiếm quí như titan (sản lượng khai thác 220.000 tấn/năm), ziacon

(1.500 tấn/ năm) và xeri, và 60.000 ha đồng muối biển. Gần đây, đã phát hiện
một số mỏ cát dưới đáy biển ven bờ với trữ lượng trên 100 tỷ tấn. Cát thuỷ
tinh nổi tiếng là mỏ Vân Hải (trữ lượng 7 tỷ tấn), Vĩnh Thực (20.000 tấn) và
một dải cát thạch anh ngầm dưới đáy biển ven bờ Quảng Ninh (gần 9 tỷ tấn).
Ngoài ra, biển Việt Nam còn có tiềm năng băng cháy-loại hình tài
nguyên mới của thế giới; vùng ven biển còn chứa đựng tiềm năng to lớn về
quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất
hiếm…


Về tiềm năng phát triển du lịch biển: Dọc bờ biển nước ta có trên 100 địa
điểm có thể xây dựng cảng, có nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc
tế. Nhiều đảo có tiềm năng phát triển kinh tế cao với tư cách là các khu hậu
cần cho khai thác biển xa. Với 125 bãi biển lớn nhỏ, nắng ấm quanh năm,
không khí trong lành với nhiều cảnh quan đẹp... là điều kiện lý tưởng để xây
dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp. Trong đó bãi biển Đà
Nẵng đã được tạp chí Forbes bầu chọn là 1 trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành
tinh. Việt Nam cũng là 1 trong 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới là
Vịnh Hạ Long, Vịnh Nha Trang. Bên cạnh đó, đảo và vùng ven biển tập trung
nhiều di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, các khu bảo tồn
thiên nhiên; nhiều di tích văn hóa-lịch sử; các lễ hội dân gian của cư dân miền
biển; tín ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến biển… Với lợi thế này,
ngành du lịch biển Việt Nam hàng năm thu hút khoảng 15 triệu lượt khách,
trong đó có 3 triệu khách quốc tế, đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm.
Năng lượng từ biển
Ở ven bờ Việt Nam, gió và mặt trời được xem là các nguồn tài nguyên
(mặt lợi ích) của nước ta, đặc biệt trong việc phát triển năng lượng gió ở vùng
ven biển và trên các đảo. Ngoài năng lượng gió biển, năng lượng mặt trời,
nước ta còn có tiềm năng về năng lượng biển (sóng, dòng chẩy và thủy triều) một nguồn năng lượng sạch tái tạo trong tương lai. Là một vùng biển hở, chịu
tác động mạnh mẽ của gió mùa, kéo theo là hai mùa sóng và dòng chẩy mạnh

theo hướng đông bắc và đông nam, nên khả năng tận dụng năng lượng sóng
biển và dòng chẩy biển là rất quan trọng về lâu dài, đặc biệt ở khu vực ven
biển miền Trung. Các dạng năng lượng thủy triều tiềm năng ở nước ta cần chú
ý khai thác là: năng lượng thủy triều ở khu vực ven bờ Quảng Ninh - Hải
Phòng, nhưng ở quy mô nhỏ vì biên độ thủy triều chỉ khoảng 4 - 5m. Phát
triển năng lượng biển là hướng ưu tiên để giảm thiểu tác động của biến đổi
khí hậu toàn cầu.

Phát triển công nghiệp: phát triển các khu công nghiệp gần các khu vực
cảng biển và hệ thống quốc lộ là nguyên lý để khai thác tổng hợp các điều
kiện thuận lợi trong quá trình đầu vào và đầu ra của sản xuất công nghiệp. Do
đó vùng ven biển cũng thường có các khu công nghiệp lớn, đặc biệt là công
nghiệp lọc hoá dầu như khu công nghiệp Dung Quất, khu công nghiệp Hoà
Hiệp, khu công nghiệp Vũng Áng, khu công nghiệp Liên Chiểu, khu công
nghiệp Đình Vũ... Ngoài ra điều kiện tự nhiên vùng ven biển một số vùng là
mỏ cát thiên nhiên quý báu cho công nghiệp thuỷ tinh như vùng Cam Ranh,


Khánh Hoà.
Vị trí địa quốc phòng: biển có nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước. Các khu vực đảo và bán
đảo như quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, vùng bán đảo Cam Ranh, bán đảo
Sơn Trà... là những khu vực tiền tiêu của đất nước. Vị trí địa lý của Việt Nam
có ý nghĩa địa quốc phòng rất lớn, một nửa đất nước gắn với phần lục địa, một
nửa hướng biển Thái Bình Dương, hàng nghìn năm đã là đối tượng của các
nước lớn muốn thôn tính nước ta. Do đó vấn đề khai thác xây dựng phát triển
đô thị vùng ven biển luôn luôn phải quan tâm chặt chẽ đến vấn đề an ninh
quốc phòng.
Giao lưu kinh tế: Một lợi thế quan trọng khác là vùng biển Việt Nam thuộc
Biển Đông - một trong những con đường giao thương hàng hải quốc tế nhộn

nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Bờ biển
mở ra cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam nên rất thuận lợi cho việc giao lưu
thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế biển. Theo báo cáo của Tổng cục Biển
và Hải đảo Việt Nam, bờ biển nước ta có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển
nước sâu và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận
chuyển đạt 50 triệu tấn/năm. Đến nay, Việt Nam đã ký hiệp định hàng hải
thương mại với 26 quốc gia. Việt Nam đã phát triển được 30 cảng biển với
166 bến cảng, 350 cầu cảng với tổng chiều dài khoảng 45.000m; xây dựng 18
khu kinh tế ven biển
Đô thị hóa
Vùng ven bờ là nơi tập trung cao sự định cư của con người và là
nơi thích hợp cho sự đô thị hoá. Hầu hết các thành phố lớn của các nước
vùng Đông Nam Á, cũng như các nước khác trên thế giới nằm ở vùng
ven bờ.
Vùng ven bờ là sẽ tâm điểm cho sự phát triển trong tương lai trong vòng
50 năm tới với sự gia tăng dân số và mở rộng các ngành công nghiệp.
Kết luận: Có thể thấy, từ bao đời nay biển đảo không những cung cấp nguồn
thức ăn cho cư dân trong nước, mà còn là điều kiện đặc biệt cần thiết để Việt
Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như thuỷ sản, dầu khí, giao
thông hàng hải, đóng tầu, du lịch... Hiện tại, kinh tế biển và vùng ven biển có
vai trò vô cùng quan trọng, đóng góp khoảng 50% GDP cả nước.
2. Tiêu cực


- do hoạt động sản xuất, sinh hoạt
- khai thác, đánh bắt, sử dụng không hợp lý và thiếu tính bền vững của con
người
Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế biển đóng góp khoảng 48%
GDP, trong đó các ngành kinh tế biển có đóng góp lớn là dầu khí 64%, đánh
bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%, du lịch

biển khoảng 9%...Song áp lực của sự phát triển ngày càng gia tăng đối với
môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như các giá trị khác của vùng biển
và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay.


Suy giảm tài nguyên sinh học:
- Theo đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, sự suy giảm
chất lượng môi trường biển làm cho môi trường sống của các loài sinh vật
biển bị phá hủy, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài sinh vật biển hiện đang
giảm về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh
quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển
đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài trong số này hiện vẫn đang là
đối tượng khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả hình thức tận diệt
bằng hóa chất và chất nổ. Sự suy giảm đa dạng sinh học kéo theo sự suy giảm
số lượng loài sinh vật có giá trị kinh tế.

- Do nguồn lợi hải sản đang bị khai thác theo chiều hướng không bền
vững, nên ngày càng bị cạn kiệt dần về số lượng và suy giảm cả về chất
lượng. Kích thước trung bình của cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể.


- Nguyên nhân chính yếu là do sự khai thác không hợp lý: do sự gia
tăng trong xuất khẩu thủy sản, dẫn đến sản lượng đánh bắt hàng năm vượt quá
nguồn dự trữ có sẵn. Mặt khác các biện pháp đánh bắt bất hợp pháp và mang
tính hủy diệt như sử dụng chất nổ, xyanua, xung điện, mắt lưới nhỏ...vẫn chưa
được kiểm soát chặt chẽ, không chỉ làm suy giảm các tài nguyên biển, mà còn
gây tổn hại cho môi trường sống của các loài hải sản. Đó là chưa kể đến ảnh
hưởng của dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nguồn nước
tích tụ qua lại các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, mà các loài thủy hải sản
được coi là một trong những mắt xích cuối.

- Giá trị về độ phủ của rạn san hô và độ đa dạng loài cũng có chiều
hướng suy giảm trong những năm gần đây. Một số loài thủy sản quan trọng
sống ở rạn đang suy giảm trầm trọng, như tôm Bác sỹ, tôm Hùm, Hải sâm, cá
Bướm, cá Thiên thần, cá Đuôi gai...Mật độ nhóm cá kích thước lớn có giá trị
thương mại cao đang giảm một cách trầm trọng.
- Tương tự như đối với rạn san hô, thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp
dần do tai biến thiên nhiên, lấn biển để xây dựng ao nuôi thủy sản, các công
trình ven biển và do ô nhiễm. Các điểm ‘nóng” về suy giảm thảm cỏ biển là
Vịnh Hạ Long, đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đảo Phú Quốc đồng thời, diện
tích rừng ngập mặn suy giảm một cách rõ rệt, từ 408.500ha vào năm 1943,
đến năm 2000 chỉ còn 155.290ha.



Thảm cỏ biển và rạn san hô ở Việt Nam
Cùng với đó là tràn dầu; chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, các khu
công nghiệp và đô thị, các khu nuôi trồng thủy sản ven biển và các vùng sản
xuất nông nghiệp đã khiến nước biển của một số khu vực có biểu hiện bị axit
hóa do độ pH trong nước biển tầng mặt biến đổi. Hiện tượng thủy triều đỏ
xuất hiện tại vùng biển Nam Trung Bộ, đặc biệt, tại Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi trồng tại vùng này. Chất
lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của loài bị phá
hủy, gây tổn thất lớn về đa dạng vùng bờ.


Hoạt động sản xuất của con người gây
ô nhiễm biển.




Thủy triều đỏ ở cửa biển thị xã Hoàng
Mai, Nghệ An.

Gia tăng về tần suất và mức độ ảnh hưởng của thiên tai bão lũ do biến đổi khí
hậu cũng đe dọa tài nguyên vùng biển.

Hiện nay, vùng biển và vùng ven biển trên thế giới cũng như ở VN
đang chịu rất nhiều áp lực, đặc biệt là vùng ven biển. Đây là vùng bị tác động
rất lớn bởi con người. Con người đã tác động đến cấu trúc cũng như nguồn tài
nguyên ở vùng ven biển. Những tác động của con người đến vùng ven bờ có
thể kể đến các quá trình như: Đô thị hóa, nông nghiệp vùng ven biển, du lịch
– giải trí, nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản – dầu khí…
a. Hoạt động của các khu dân cư đô thị, các khu công nghiệp ven
biển

Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối
sống thành thị trên lãnh thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục
vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời mở ra những cơ hội đầu
tư lớn mạnh về mọi phương diện cho các thành phần kinh tế.
Các vùng ven biển là nơi sinh sống thuận lợi của con người từ thời tiền
sử. Vùng ven biển thuận lợi vì một loạt lý do, trong đó có sự điều hoà ảnh
hưởng đại dương đến các điều kiện khí hậu khác nghiệt; gần với vùng đất


nông nghiệp màu mỡ, dễ dàng tiếp cận với tài nguyên sinh vật biển và dễ
dàng vận chuyển bằng đường thuỷ. Kết quả là khoảng 70% các thành phố lớn
trên thế giới có dân số trên 2,5 triệu dân nằm dọc theo bờ biển. Sự gia tăng
dân số vùng ven biển đang vượt quá tốc độ gia tăng dân số toàn cầu do hậu
quả của sự di cư ra vùng ven biển. Sự di cư này đặc biệt lớn ở các nước đang
phát triển nơi mà sự chuyển dịch ra các trung tâm đô thị ven biển có liên quan

tới sự tìm kiếm việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ khác.
Đô thị hoá có những tác động sâu sắc đến các nguồn tài nguyên ven biển.
Có thể là từ việc ô nhiễm vùng nước ven bờ do ảnh hưởng của nước chảy tràn
bề mặt và nước thải, suy thoái các bãi biển và các môi trường tự nhiên khác
do sử dụng không đúng hay quá mức; giảm thiểu diện tích các vùng đất cỏ
hoang bụi rậm ven bờ, các vùng đất ngập nước, suy thoái nơi ở. Khi các vùng
định cư đô thị được thành lập, thường ít có các nghiên cứu về các tác động
của đô thị đến môi trường xung quanh. Kết quả là nước chảy tràn bề mặt và
các hệ thống chất thải thải trực tiếp vào sông và các nguồn nước mà không
chú ý đến ảnh hưởng của các chất thải này đến chất lượng nguồn nước nhận.
Thêm vào đấy, nhiều khu vực tập trung dân số xung quanh khai thác quá mức
các hoạt động giải trí.


Khi tốc độ đô thị hóa tăng thì dân số tập trung cao và để phục vụ nhu cầu
của con người, công nghiệp phát triển để đáp ứng việc làm và các nhu cầu
khác. Với sự đô thị hóa này nó gây ra áp lực trong quản lý, từ đó nảy sinh
những vấn đề ảnh hưởng đến môi trường như sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp với số lượng nhỏ nên không có các biện pháp xử lý nước thải,
chất thải rắn,... Hệ sinh thải thủy vực bị ô nhiễm mạnh, ô nhiễm đại dương, bờ
biển và sông hiện nay là mối quan tâm của con người.


(Nước thải công nghiệp là nguyên nhân khiến 'biển chết dần', hàng trăm khu
công nghiệp ở nước ta hiện chưa có hệ thống xử lý nước thải nên nước bẩn
đang ngày ngày xả thẳng ra biển)
Quá trình xây dựng nhà ở, công trình ven bờ đã gây ra lắng đọng trầm
tích, bùn cát làm kìm hãm sự phát triển của san hô, cỏ biển.
Quá trình đô thị hóa làm nhiều ao hồ bị san lấp, nhiều sông mương bị thu
hẹp, đây là nguyên nhân làm giảm khả năng chứa, giảm dòng chảy từ sông đổ

ra biển làm mất cân bằng hệ sinh thái sông và cửa sông
Do tăng nhanh dân số, cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp,
đô thị,... đòi hỏi phải gia tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chất đốt,
nguyên vật liệu xây dựng, nơi ở,... vì vậy nhiều nơi đã phá hủy rừng ngập mặn
để lấy đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xây dựng thành phố
mới, bến cảng,... Hậu quả là thu hẹp diện tích rừng ngập mặn nhanh chóng, tài
nguyên lâm, thủy sản cạn kiệt dần, nạn xói lở bờ sông, bờ biển tăng làm cho
môi trường ngày càng xấu đi.

(Quá trình đô thị hoá và phát triển công nghiệp đã khiến nhiều diện tích rừng
ngập mặn của TP Hạ Long bị tàn phá, ảnh hưởng xấu tới môi trường biển)
b. Nông nghiệp vùng ven biển


Nông nghiệp vùng ven bờ thường có những lợi ích từ các điều kiện môi
trường thuận lợi, từ các vùng đất tốt và sự giao thông liên lạc của biển cũng
như từ sự phát triển của công nghiệp và du lịch ven bờ. Tuy nhiên, nông
nghiệp ven bờ cũng phải chịu áp lực liên quan đến trạng thái ở gần với biển
bao gồm nguy cơ của việc mặn hoá không khí và nước; chất lượng nước kém
và không an toàn xuất phát từ các hoạt động ở vùng thượng lưu; sự cạnh tranh
gay gắt về đất ở vùng ven bờ.
Tác động tiêu cực của nông nghiệp đối với các lĩnh vực khác bao gồm:
việc làm ô nhiễm nghề cá thông qua các hoá chất dùng trong nông nghiệp và
làm nghẽn bùn đối với các rạn san hô và các cảng do việc xói mòn đất. Mất
nơi ở và suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ cũng có thể xảy ra.

(Phun hóa chất trong nông nghiệp gây ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản
vùng ven biển)



Tôm chết do hóa chất từ nông nghiệp


Nuôi trồng thủy sản

Vùng ven bờ là nơi thích hợp cho việc nuôi trồng các loài thuỷ sản biển
cũng như các loài nước ngọt. Việc nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa lớn trong
việc cung cấp protein và giảm thiểu đói nghèo cho người dân sống vùng ven
bờ. Tuy nhiên hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng đem lại nhiều tác hại về
mặt môi trường ở đây.
Trước hết hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cạnh tranh về không gian với
các lĩnh vực khác như du lịch, giải trí và nông nghiệp,... Để có thể phát triển,
nuôi trồng thuỷ sản cần phải có nước sạch, không có các sinh vật lạ du nhập;
xây dựng cơ sở hạ tầng, như xây dựng nhà cửa, kho hàng, đường sá,... Các
vùng đất thấp ven bờ như rừng ngập mặn, đất nông nghiệp, các bãi triều đã bị
chuyển đổi thành các ao nuôi tôm.
Tác động rõ ràng nhất và được quan tâm nhiều nhất là rừng ngập mặn đã
bị biến đổi thành các ao nuôi. Sự suy thoái rừng ngập mặn cùng với sự phát
triển của nuôi tôm xảy ra ở Châu Á, Trung Mỹ. Có khoảng 1-1,5 triệu ha rừng
ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm trên phạm vi toàn thế giới,


trong đó, riêng ở Châu Á, đã có hơn 500.000 ha rừng ngập mặn đã bị chuyển
đổi thành ao nuôi tôm nước lợ.
Trong quá trình hoạt động, nuôi trồng thuỷ sản tạo ra các tác động tiêu
cực đối với môi trường như việc dư thừa thức ăn nhân tạo trong quá trình
nuôi, làm thay đổi cấu trúc chuỗi thức ăn tự nhiên của môi trường; làm thay
đổi cấu trúc quần xã động vật đáy do một số nhóm ưa các thức ăn dư thừa này
hơn một số nhóm khác; thêm vào đấy, một số nhóm sinh vật đáy sống cố định
có thể bị chết do hàm lượng oxygen trong tầng đáy bị suy giảm do quá trình

phân huỷ của vi sinh vật.

c. Du lịch và giải trí
Du lịch ở những vùng ven bờ đang là nguồn thu nhập cao cho các nước
có vùng ven bờ. Tại đây, người ta sẽ được thưởng thức những phong cảnh đẹp
ở những vùng cửa sông ven biển, những bãi biển tuyệt vời, các đảo đá với đầy
hang động, bờ cát mịn, vùng đầm phá, rừng ngập mặn, các rạn san hô,... Vùng
ven bờ là điều kiện lý tưởng để phát triển tiềm năng du lịch, nghĩ mát và điều
dưỡng. Đi cùng theo các hoạt động dịch vụ phục vụ cho du lịch giải trí như là
bơi thuyền thưởng ngoạn, lặn, lướt sóng, câu cá tắm biển, ngắm san hô,... Tuy
nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại, thì du lịch giải trí đang gây ra những
tác động ảnh hưởng đến môi trường ven bờ. Các hoạt động của con người
trong lĩnh vực này đã góp phần làm cho môi trường ven bờ bị suy thoái. Các
tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường vùng ven bờ có thể kể là:
Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức
đặc sản biển cho du khách. Trong những năm gần đây, năng suất đánh bắt một
số nghề bị giảm sút nghiêm trọng (nhất là các nghề hoạt động ven bờ có độ
sâu dưới 30 m), sản lượng khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng
thành chiếm khá cao, đặc biệt một số tôm cá, nhuyễn thể, các sinh vật quý
hiếm. Việc phá hủy san hô thông qua sử dụng thuốc nổ và lấy san hô làm cạn
kiệt nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ.


(nhiều người khai thác san hô một cách bừa bãi, gây mất cân bằng hệ sinh
thái biển)

(nhiều người lại dùng tới các phương pháp nguy hiểm như nổ mìn, sử dụng
xung điện... để đánh bắt cá)
- Buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phục vụ khác du lịch: đây là
nguyên nhân dẫn đến cạn kiệt một số loài san hô, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi.

Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển ở một số trung tâm du lịch kéo theo
việc đánh bắt cá quá mức trên các rạn san hô. Sự khai thác quá mức và không
hợp lý ở vùng biển ven bờ đang là mối đe dọa lớn cho nhiều loài sinh vật


biển, đó cũng là nguyên nhân làm mất cân bằng tự nhiên của các quần xã ven
bờ.
- Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch giải trí
đã tạo nên sự bùng nổ về du lịch với việc xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà
nghỉ, cửa hàng ăn uống và các bãi biển nhân tạo dọc bờ biển đã được cảnh
báo là mối đe dọa lớn nhất đối với môi trường ven biển thế giới. Các diện tích
đất hay mặt nước vùng ven bờ sẽ được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm
giảm dần diện tích đất và mặt nước. Hiện tại các rừng đước che phủ trên 16
triệu ha ven bờ biển, song diện tích đang thu hẹp hàng năm với tốc độ 2%.
Chỉ trong mấy thập kỷ cuối cùng lại đây, hoạt động đánh bắt và nuôi hải sản
của con người (phục vụ cho nhu cầu hàng ngày và du lịch, giải trí,...) đã phá
hủy và làm thay đổi tới 50% diện tích các rừng đước trên thế giới.
- Môi trường ven bờ cũng đang chịu sự tác động của những nguồn ô
nhiễm từ đất liền do chất thải sinh hoạt của du khách vãng lai: các chất thải
này có nguy cơ làm thay đổi chất lượng nước, các hệ sinh thái vùng ven bờ.
Từ đó dẫn đến mất đa dạng sinh học do ô nhiễm và phá hủy môi trường sống.

(Biển Cồn Vành (thuộc xã Nam Phú, Tiền Hải, Thái Bình) thu hút hàng vạn
người đổ về trong dịp nghỉ lễ 30/4 - 1/5. Nhiều khách vô ý thức xả rác bữa
bãi khiến bãi biển ngập đầy rác)
- Nước thải từ các nhà hàng và khách sạn chưa được xử lý đầy đủ gây
thêm tình trạng ô nhiễm vùng ven bờ cũng như làm ô nhiễm nguồn nước dùng
cho sinh hoạt, là nguyên nhân gây bệnh và làm chết các nhiều loài động vật
nước.



- Chất thải từ các tàu thuyền du lịch, gồm cả máy dầu, tiếng ồn của
động cơ sẽ trực tiếp làm ô nhiễm các thủy vực, môi trường biển. Neo đậu tàu
thuyền không đúng nơi quy định cũng phá hủy nhiều rạn san hô có giá trị.
e. Khai thác khoáng sản và dầu khí
Khoáng sản là vật liệu của vỏ trái đất, được hình thành từ quá trình tự
nhiên mà con người có thể khai thác, sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp
cho các nhu cầu của cuộc sống. Việc khai thác sử dụng sử dụng tài nguyên
khoáng sản đã thúc đẩy sự phát triển của các nền văn minh nhân loại, đem lại
sự thịnh vượng cho nhiều lãnh thổ. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên cũng
gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của
các ngành kinh tế khác. Môi trường vùng ven bờ là thành phần chịu nhiều ảnh
hưởng nghiêm trọng nhất của việc khai thác khoáng sản đặc biệt là các sự cố
do khai thác dầu đem lại.
Những tác động của việc khai thác khoáng sản đến môi trường vùng
ven bờ có thể kể như sau:
Các hợp chất khí CO2, SO2, CO, bụi,... được sinh ra do các công đoạn
nổ mìn, các phương tiện vận chuyển là rât lớn. Các khí này sẽ tạo nên mưa
axít làm ảnh hưởng đến môi trường nước, sinh vật.
Hoạt động chảy tràn đem các chất ô nhiễm trên mặt đất và một số lượng
lớn các vật liệu trầm tích vào vùng nước mặt làm suy thoái chất lượng nguồn
nước, các chất ô nhiễm theo nước chảy tràn mang theo xăng dầu, nước làm
lạnh máy,... của các phương tiện thi công, các hóa chất liên quan đến chất nổ
và các chất thải sinh hoạt khác làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt.
Các hoạt động khai khoáng và nấu chảy kim loại đã tạo ra một lượng bùn
lớn Sự quản lý các phế phẩm và các tồn dư khác từ khai khoáng có thể dẫn tới
một loạt các vấn đề ở vùng hạ lưu ven biển do những thay đổi về nơi cư trú,
chất lắng đọng và hoá chất.
Việc khai thác nước ngầm ở vùng ven biển đã gây ra một số vấn đề
nghiêm trọng và dài hạn, đặc biệt trong điều kiện nước biển dâng lên thể hiện

qua việc xâm nhập mặn ở vùng cửa sông và nhiễm mặn nước ngầm.
Khai thác cát sạn ở vùng ven bờ một cách bất hợp lý đã ảnh hưởng đến
các hệ sinh thái vùng bờ
Những tác động của việc khai thác dầu mỏ đến môi trường vùng ven bờ
là:


Hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo như dầu khí các
các loại khoáng sản khác ở vùng biển thường tạo ra những thay đổi về đặc
tính trầm tích, phá huỷ các quần xã sinh vật đáy; việc xây dựng các giàn
khoan ngoài khơi thường xung đột với các mục đích khác trong khu vực đặc
biệt là đánh cá và hàng hải.
Tác động tiêu cực của việc khai thác dầu mỏ và khí đốt đã được minh
chứng ở các vùng nước nội địa và ven bờ. Các tác động này có thể là những
thảm hoạ từ việc tràn dầu, việc thải các chất dầu mỏ từ việc sản xuất và các
hoạt động vận chuyển.

(Tràn dầu tại Vịnh Mexico năm 2010)


(Tràn dầu tại Vịnh Mexico năm 2010)



(Các sinh vật bị ảnh hưởng do sự cố tràn dầu)


IV. ĐỀ XUẤT VÀ BIỆN PHÁP
Biện pháp bảo vệ môi trường cũng như tài nguyên vùng biển:
- Tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý để khai thác hợp lý tài

nguyên và bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững biển.
- Hoàn thiện khung thể chế quản lý biển.
- Khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng và
tăng cường kiểm soát, ngăn ngừa các nguồn ô nhiễm biển.
- Xây dựng các khu bảo tồn biển.
- Quản lý dựa vào cộng đồng/ Mô hình đồng quản lý:
- Chú trọng các giải pháp bảo đảm sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư
ven biển.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, thảm họa, chống xói lở bờ
biển, bảo vệ dân cư, ứng phó với BĐKH.
- Tăng cường xây dựng, quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên môi
trường biển.
- Tăng cường giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực biển phục công tác
điều tra, nghiên cứu và quản lý tài nguyên, môi trường biển.
- Nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư về biển để khai thác, sử dụng hợp lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển.
- Không xả rác, xả nước thải ra sông và biển khi chưa được xử lý.
- Nghiêm ngặt trong giao thông thủy, tránh tai nạn và tràn dầu.
- Tăng cường bảo vệ các mỏ dầu khí trên biển.
- Khai thác thủy hải sản hợp lý.


- Khai thác du lịch biển đảo hợp lý.
- Có những chính sách, điều lệ bảo vệ biển đảo.
- Vận động mọi người có ý thức bảo vệ môi trường biển.
- Điều tra, đánh giá tiềm năng sinh vật tại các vùng biển sâu. Đầu tư để
chuyển hướng khai thác hải sản từ vùng biển ven bờ sang vùng nước sâu xa bờ.
- Bảo vệ rừng ngập mặn hiện có, đồng thời đẩy mạnh các chương trình trồng
rừng ngập mặn.

- Bảo vệ rạn san hô ngầm ven biển và cấm khai thác san hô dưới mọi hình
thức.
- Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
- Phòng chống ô nhiễm biển bởi các yếu tố hoá học, đặc biệt là dầu mỏ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

GS. TSKH Trương Quang Học, Việt Nam - Thiên nhiên, môi trường và
phát triển bền vững, NXB Khoa học Kĩ thuật, 2012.


×